Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về giải phóng phụ nữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914.03 KB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------o0o-----------

LÊ NGỌC DŨNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ GIẢI PHĨNG PHỤ NỮ

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------o0o-----------

LÊ NGỌC DŨNG

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ GIẢI PHĨNG PHỤ NỮ
Chun ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:
PGS,TS. LÊ TRỌNG ÂN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2010




LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của PGS,TS. Lê Trọng Ân. Các số liệu, kết quả nêu
ra trong luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Tác giả

Lê Ngọc Dũng


Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài ......................................................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn........................................................................10
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn...................................11
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn............................................................................11
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ............................................................12
7. Kết cấu của luận văn...............................................................................................12
BỐI CẢNH LỊCH SỬ – XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ GIẢI PHĨNG PHỤ NỮ............................................................................13
1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẦU
THẾ KỶ XX ..........................................................................................................13
1.1.1. Bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.........................................13
1.1.2. Bối cảnh lịch sử – xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ...16
1.2. NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHĨNG PHỤ
NỮ .........................................................................................................................18

1.2.1. Chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa Việt Nam ............................18
1.2.2. Tinh hoa văn hóa thế giới đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ .....................22
1.2.3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải phóng phụ nữ........................30
1.2.4. Nhân cách và phẩm chất đặc biệt của Hồ Chí Minh...................................39
Chương 2 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHĨNG
PHỤ NỮ VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN ĐỂ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ ..............48
2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ TRONG TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH .............................................................................................................48
2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò và phẩm chất của phụ nữ Việt Nam trong
lịch sử dân tộc.....................................................................................................48
2.1.2. Giải phóng phụ nữ là xóa bỏ bất bình đẳng đối với phụ nữ về kinh tế...............55
2.1.3. Giải phóng phụ nữ là xóa bỏ bất bình đẳng đối với phụ nữ về chính trị......59
2.1.4. Giải phóng phụ nữ là xóa bỏ bất bình đẳng đối với phụ nữ về văn hóa – xã
hội ......................................................................................................................63
2.2.1. Giải phóng phụ nữ phải gắn liền với cách mạng giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người và xã hội theo lập trường vô sản .................69
2.2.2. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ................................................76
2.2.3. Giải phóng phụ nữ là nhiệm vụ của tồn xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng
thông qua tổ chức hội..........................................................................................83
2.2.4. Giải phóng phụ nữ cũng là cuộc cách mạng của bản thân phụ nữ ..........85
2.3.1. Ưu thế của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội .........................88
2.3.2. Thực trạng của việc phát huy sức mạnh của phụ nữ trong hơn hai mươi năm
đổi mới ...............................................................................................................96
2.3.3. Một số giải pháp nhằm phát huy sức mạnh của phụ nữ Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay .................................................... 104
KẾT LUẬN.............................................................................................................. 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 122


1


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của Đảng và của dân tộc
Việt Nam, nhà tư tưởng lớn của thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách
mạng Việt Nam mà cốt lõi là: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người và xã hội. Mục đích và nội dung cách mạng của Bác Hồ
bắt đầu từ con người, vì con người và về phục vụ con người. Cách mạng là
sự nghiệp của quần chúng, trong đó phụ nữ là một lực lượng vô cùng quan
trọng. Dẫn lời của C.Mác, Người viết: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng
muốn sửa sang xã hội mà khơng có phụ nữ giúp vào, thì chắc khơng làm
nổi. Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái, thì biết xã hội tiến bộ
như thế nào”.
Khẳng định phụ nữ là một nửa xã hội, Hồ Chí Minh khơng chỉ nhìn
nhận một cách đơn thuần về số lượng, về tỷ lệ của giới nữ trong cơ cấu dân
số, mà Người cịn nói đến vị trí, vai trị của giới nữ với tư cách là một bộ
phận không thể tách rời, trong thể thống nhất với “nửa bên kia” để hợp
thành nhân loại. Hồ Chí Minh coi vai trị của phụ nữ trong việc cải tạo xã
hội và chất lượng cuộc sống của họ là tấm gương phản chiếu trình độ văn
minh của nhân loại. Người viết: “Non sơng gấm vóc Việt Nam do phụ nữ
ta, trẻ cũng như già, ra sức thêu dệt mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”… [23, tr.28].
Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước hết sức vẻ vang và hào
hùng của dân tộc Việt Nam là một minh chứng thiết thực nhất khẳng định
vai trò của người phụ nữ. Họ đã tham gia vào công cuộc đấu tranh vì hịa
bình, độc lập dân tộc. Họ đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức, tinh
thần và những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam… Tuy nhiên,



2

bản thân người phụ nữ phải chịu nhiều áp bức, bất công của bọn quan lại
phong kiến, thực dân. Họ phải gánh chịu những nỗi khổ về tinh thần và thể
xác, chịu áp bức về kinh tế, chính trị và là nạn nhân của sự đói nghèo, lạc
hậu, dốt nát. Dưới chế độ phong kiến, sự bất công càng đè nặng lên người
phụ nữ. Họ bị phân biệt đối xử giữa nam và nữ do ảnh hưởng của Nho giáo
“Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vơ”. Họ khơng có quyền lợi cũng như
ảnh hưởng nào đối với gia đình và xã hội.
Là lãnh tụ của Đảng và của dân tộc, Hồ Chí Minh đã đồng cảm sâu
sắc với nỗi thống khổ của người phụ nữ các nước thuộc địa nói chung và
người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Trong hệ thống lý luận của Hồ Chí
Minh có rất nhiều bài viết, bài báo, bài nói của Người về phụ nữ và sự cần
thiết phải giải phóng phụ nữ. Những tư tưởng ấy của Người khơng chỉ có
giá trị lý luận sâu sắc mà cịn có giá trị thực tiễn thiết thực. Tư tưởng của
Người đã trở thành nền tảng, cơ sở để Đảng và Nhà nước ta vận dụng đề ra
đường lối, chính sách cho việc đấu tranh giải phóng phụ nữ.
Gần một thế kỷ trơi qua, đặc biệt là từ khi có Đảng và Bác Hồ lãnh
đạo cách mạng, phong trào giải phóng phụ nữ ở Việt Nam đã có những
đóng góp vơ cùng to lớn cho quốc gia, dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh
chống thực dân, đế quốc trước đây, cũng như xây dựng và phát triển đất
nước hôm nay. Phụ nữ Việt Nam là niềm tự hào của cả dân tộc, đã góp
phần to lớn làm rạng danh đất nước.
Tuy nhiên, phong trào giải phóng phụ nữ hiện nay vẫn phải được
tiếp tục, vẫn còn là một “cuộc cách mạng to và khó” vì những tồn tại và
bất cập của nó: trong xã hội vẫn còn những định kiến giới, tư tưởng trọng
nam khinh nữ như; thích sinh con trai hơn con gái; cha mẹ muốn để lại tài
sản cho con trai nhiều hơn; nhiều người quan niệm việc kiếm tiền, xây
nhà cửa, quan hệ xã hội… là của nam giới. Vì vậy, ngay từ khi còn ở với



3

cha mẹ và sau khi lấy chồng, phụ nữ thường ít có thời gian để học tập,
nghỉ ngơi, giải trí, tham gia các hoạt động xã hội như nam giới; cơ hội
tiếp cận giáo dục của trẻ em gái và phụ nữ dân tộc thiểu số ở vùng sâu,
vùng xa, vùng núi cao cịn nhiều khó khăn, trở ngại so với trẻ em trai và
nam giới ở cùng địa bàn đó, bởi nhiều trường hợp trẻ em gái phải lao
động giúp đỡ gia đình, khơng có điều kiện đi học xa nhà, ở nội trú, nhiều
trường hợp khác theo phong tục phải lấy chồng sớm…
Hiện nay, khơng ít cán bộ các cấp, ngành, cơ quan, đơn vị chưa
nhận thức đúng vị trí, vai trị của phụ nữ, có tư tưởng coi thường, chưa
quan tâm bố trí, đào tạo và sử dụng cán bộ nữ, thậm chí gây khó khăn
trở ngại sự tiến bộ của phụ nữ; trong sản xuất nông nghiệp hoặc thương
mại dịch vụ, phụ nữ ít có cơ hội tham gia tập huấn, nâng cao trình độ
chun mơn, tay nghề nên phần lớn phụ nữ chỉ được làm các công việc
giản đơn, thiếu ổn định, thu nhập thấp... Mặt khác, tình trạng bạo lực,
ngược đãi phụ nữ trong gia đình cịn khá phổ biến ở cả đơ thị và nơng
thơn, trong tất cả các nhóm xã hội; vấn đề môi giới kết hôn bất hợp pháp
diễn biến phức tạp; một bộ phận phụ nữ nhất là trong giới trẻ ăn chơi xa
đọa, nghiện ngập, buôn bán ma túy, phạm pháp ngày càng gia tăng;
trong thực thi pháp luật, nhiều trường hợp chưa được quan tâm xem xét
xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới theo
quy định của pháp luật hành chính và hình sự… đang là nỗi bức xúc đối
với cơng tác quản lý và dư luận xã hội.
Trước những tồn tại và bất cập trên, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí
Minh về giải phóng phụ nữ có ý nghĩa khoa học và thực tiễn cấp bách, góp
phần thực thi có hiệu quả đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhằm
giải phóng triệt để người phụ nữ, xây dựng xã hội bình đẳng về giới trong tình
hình mới.



4

Trên tinh thần và ý nghĩa đó, tác giả chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về giải phóng phụ nư” cho đề tài luận văn thạc sĩ triết học của
mình. Sự lựa chọn này cũng là biểu hiện cụ thể của bản thân trong việc
thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” do Bộ chính trị phát động.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ là một bộ phận quan
trọng trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng,
đồng thời là cơ sở lý luận định hướng cho việc hoạch định chủ trương,
chiến lược giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta.
Nhận thức sâu sắc giá trị khoa học và thực tiễn của tư tưởng Hồ
Chí Minh về giải phóng phụ nữ, những năm qua, đội ngũ các nhà khoa
học, nhà nghiên cứu đã thực hiện nhiều cơng trình nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ. Cho đến nay đã có nhiều cơng trình
khoa học được cơng bố, nhiều bài viết đăng trên các báo, tạp chí đã đề
cập đến tư tưởng của Người về giải phóng phụ nữ. Trong đó, có thể kể
đến các cơng trình tiêu biểu như:
Hồ Chủ tịch với vấn đề phụ nữ, được Nxb. Phụ nữ giới thiệu nhân
dịp kỷ niệm sinh nhật Hồ Chủ tịch 70 tuổi. Cơng trình gồm một số bức
thư Bác gửi phụ nữ nhân dịp 8-3; một số ý kiến Bác phát biểu trong các
Hội nghị và một số bài báo Bác viết qua các thời kỳ… Tác phẩm làm
toát lên niềm tin tưởng vững chắc vào khả năng của phụ nữ, đường lối
cơng tác phụ nữ và trách nhiệm giải phóng phụ nữ, trên cơ sở đó hồn

thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp nói chung.


5

Qua những bài báo Bác viết thời kỳ còn hoạt động ở nước ngồi, chứng
tỏ Bác đã thơng cảm sâu sắc nỗi thống khổ của người phụ nữ bản xứ, cụ
thể là phụ nữ Việt Nam. Chính vì thấu hiểu nguồn gốc đau khổ của phụ
nữ, đã khiến Bác tích cực tranh đấu vì quyền bình đẳng nam nữ.
Năm 1970, Nxb. Phụ nữ tiếp tục ra mắt tác phẩm Hồ chủ tịch với
vấn đề giải phóng phụ nữ. Nội dung tác phẩm này gồm những văn kiện,
những lời huấn thị và lời phát biểu của Hồ Chủ tịch từ 1925 đến 1969 liên
quan đến vấn đề giải phóng phụ nữ.
Tác phẩm Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam của tác giả
Dương Thoa, Nxb. Phụ nữ, 1982 cũng là ấn phẩm hay lúc bấy giờ. Trong
tác phẩm này, tác giả đề cập đến quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về
con đường giải phóng phụ nữ Việt Nam: Con đường giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp cũng chính là con đường giải phóng phụ nữ. Ngồi ra,
tác giả còn đề cập đến một số vấn đề khác như: Đường lối vận động phụ
nữ của Đảng ta dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Hồ Chí Minh; Nhà nước
chun chính vơ sản và quyền làm chủ của phụ nữ; Đạo đức của người phụ
nữ mới xã hội chủ nghĩa.
Năm 1985, Hội liên hiệp phụ nữ Hà Nội ra mắt tác phẩm Bác Hồ với
phụ nữ Hà Nội, Nxb. Hà Nội. Tác phẩm ca ngợi công lao to lớn của Bác
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ, xây dựng cuộc
sống công bằng và hạnh phúc cho tồn dân. Trong sự nghiệp cao cả đó,
vấn đề giải phóng phụ nữ, chăm sóc đời sống của phụ nữ và trẻ em được
Bác đặc biệt quan tâm.
Tác giả Trần Khuê và Nguyễn Thị Thanh Xuân với tác phẩm Hồ Chí
Minh và một nửa nhân loại, Ban Khoa học Xã hội Thành phố Hồ Chí

Minh, 1990. Trong tác phẩm này, tác giả đề cập đến chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh. Khơng chỉ dừng ở mức cảm thơng, thương xót, vỗ về, an ủi,


6

Hồ Chí Minh đã đưa vào ý thức con người – lồi người nói chung và người
phụ nữ nói riêng cái tinh thần vùng dậy đấu tranh giải phóng chính mình
và giải phóng lồi người. Tất cả những lời kêu gọi, những bài nói chuyện,
những vần thơ… của Người về phụ nữ đều sáng ngời tinh thần nhân văn
cao cả vì mục tiêu giải phóng người phụ nữ.
Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung
tâm nghiên cứu khoa học về phụ nữ thuộc Viện khoa học và xã hội Việt
Nam phối hợp với Bảo tàng phụ nữ thuộc Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
đã cho ra mắt tác phẩm Bác Hồ và sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Đây là
cơng trình gồm nhiều bài nghiên cứu của nhiều tác giả, đề cập đến các vấn
đề sau: Hệ thống quan điểm của Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ
nữ, chủ yếu là quan điểm của Bác trên hai mặt hoạt động của người phụ
nữ: hoạt động sản xuất và lao động trong gia đình; Bác Hồ đã coi việc
giành quyền bình đẳng cho phụ nữ là một mục tiêu của cách mạng Việt
Nam, đồng thời Bác cũng coi lực lượng phụ nữ là một nhân tố thúc đẩy sự
phát triển của cách mạng Việt Nam. Bác Hồ còn chú trọng đến vị trí của
gia đình trong vấn đề xây dựng xã hội mới và vai trị của người phụ nữ
trong gia đình; Quan điểm vận động phụ nữ của Hồ Chủ tịch. Theo Bác,
phụ nữ phải tự đứng lên đấu tranh cho quyền bình đẳng của mình, gắn
quyền lợi của mình với quyền lợi giai cấp. Vì vậy, Bác chú ý đến vấn đề
giác ngộ cho phụ nữ ý thức được vai trị, trách nhiệm của mình trong cơng
cuộc giải phóng dân tộc và giải phóng cá nhân mình.
Một trong những nhà nghiên cứu dành nhiều thời gian và công sức
để nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ là tác giả Lê

Thi – nguyên Viện trưởng Viện Triết học Việt Nam - với cơng trình Chủ
tịch Hồ Chí Minh và con đường đưa phụ nữ Việt Nam đi tới bình đẳng, tự
do, phát triển. Qua tác phẩm, tác giả đã trình bày khá cụ thể tư tưởng giải


7

phóng phụ nữ của Người ở 3 nội dung cơ bản sau: Độc lập dân tộc, chủ
nghĩa xã hội là con đường đưa phụ nữ Việt Nam đi tới bình đẳng, tự do,
phát triển; Phụ nữ là nhân tố phát triển của cách mạng Việt Nam; Tư tưởng
Hồ Chí Minh soi sáng bước phát triển mới của phụ nữ Việt Nam.
Tác giả Trần Đương cũng có tác phẩm khá nổi bật Chủ tịch Hồ Chí
Minh với sự nghiệp giải phóng phụ nư, Nxb. Thông Tấn, 2005. Nội dung
của tác phẩm là những bài nói, bài viết của Bác về chủ đề giải phóng phụ
nữ; Những hồi ký, mẩu chuyện, bài viết thể hiện lịng kính trọng, u q
và biết ơn sâu sắc của phụ nữ Việt Nam và phụ nữ quốc tế đối với Bác;
Biên niên sự kiện gắn với sự nghiệp giải phóng phụ nữ trong cuộc đời hoạt
động cách mạng của Bác.
Tác phẩm Bác Hồ với phụ nữ và thiếu niên, nhi đồng của tác giả
Xuân Thanh, Nxb. Lao động, 2008, giúp người đọc nhận thấy: Bác đánh
giá cao vai trò của thế hệ trẻ đối với vận mệnh quốc gia dân tộc và đặc biệt
quan tâm đến sự phát triển tiến bộ của phụ nữ. Người quan niệm, nữ giới là
một nửa vô cùng quan trọng trong sự phát triển xã hội. Từ tư tưởng ấy,
Người đã có những hoạt động tích cực vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, xác
lập, đảm bảo quyền bình đẳng và chăm lo đến sự tiến bộ của phụ nữ.
Phạm Hoàng Điệp với tác phẩm Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự tiến
bộ của phụ nữ, Nxb. Văn hóa Thơng tin, 2008 thì đưa ra nhận định của
Chủ tịch Hồ Chí Minh về một số vấn đề sau: Vai trò, vị trí và những đóng
góp của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dân tộc; sự quan tâm của Bác đến
việc xác lập, đảm bảo quyền bình đẳng và chăm lo đến sự tiến bộ của phụ

nữ; sự thấu hiểu và cảm thông sâu sắc của Người trước nỗi khổ đau của
người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ xã hội cũ; sự nghiệp giải phóng phụ
nữ vừa là nhiệm vụ, vừa là yêu cầu của cách mạng Việt Nam.


8

Năm 2009, Nxb. Phụ nữ giới thiệu tác phẩm Bác Hồ với sự tiến bộ của
phụ nữ. Tác phẩm giới thiệu những chuyện kể về Bác Hồ với phụ nữ và nêu
lên tư tưởng của Người về giải phóng phụ nữ và sự tiến bộ của phụ nữ.
Bên cạnh những tác phẩm, những cơng trình nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ mang tính chất chun khảo, cịn có
khá nhiều tác phẩm, cơng trình nghiên cứu dù khơng trực tiếp đề cập
đến tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ nhưng cũng tiếp cận
vấn đề phụ nữ, giải phóng phụ nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ… dưới nhiều
góc độ khác nhau, góp phần làm tăng tính cấp thiết và sự cần thiết phải
giải phóng phụ nữ trong từng thời điểm lịch sử cụ thể. Trong số đó có
các tác phẩm, cơng trình tiêu biểu sau:
Tác phẩm Vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1974.
Nội dung tác phẩm nói về vai trị và thân phận ln ln bị khinh rẻ, mất
quyền bình đẳng của người phụ nữ trong xã hội có giai cấp đối kháng. Từ
đó, tác phẩm cho rằng, phụ nữ cần được giải phóng. Ngồi ra, tác phẩm
nhấn mạnh rằng: Từ khi giai cấp công nhân ra đời, vấn đề giải phóng phụ
nữ mới có hướng đúng đắn và con đường giải phóng phụ nữ là xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1976, Nxb. Sự thật, Hà Nội tiếp tục xuất bản tác phẩm Vấn đề
giải phóng phụ nữ. Tác phẩm nói về sự nghiệp giải phóng phụ nữ và con
đường triệt để giải phóng phụ nữ.
Đi đơi với vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, vấn đề
giải phóng phụ nữ đã được đặt ra từ lâu. Tuy nhiên, nhiều cán bộ vẫn chưa

quan niệm đúng đắn và chưa nhận thức được rõ ràng, nên trong công tác
gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến sự phát triển của phong trào phụ nữ
những năm 70 của thế kỷ XX. Trước thực trạng trên và với cương vị Bí
thư thứ nhất của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt


9

Nam), đồng chí Lê Duẩn đã viết tác phẩm Phải đứng trên quan điểm giai
cấp mà nhận xét vấn đề phụ nữ, Nxb. Phụ nữ, 1976. Tác phẩm đề cập đến
vị trí của phong trào phụ nữ; Đường lối vận động phụ nữ căn bản là đường
lối giai cấp; Vấn đề giới tính; Về tư tưởng và phương pháp cơng tác. Đây
là văn kiện quan trọng, có tác dụng củng cố lập trường, nâng cao nhận
thức, xác định quan điểm giai cấp cho cán bộ phụ nữ và là một tài liệu
tham khảo cho các ngành và những người có nhiệt tình với cơng cuộc vận
động phụ nữ. Đây cũng là cuốn sách thể hiện một phần đường lối và sự
quan tâm của Đảng đối với cơng cuộc giải phóng phụ nữ.
Tác giả Dương Thoa với tác phẩm Ba cuộc cách mạng với vấn đề giải
phóng phụ nữ, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976. Tác phẩm này bàn về sự nghiệp
của ba cuộc cách mạng (cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa
học kỹ thuật và cách mạng tư tưởng và văn hóa trong đó cách mạng khoa
học kỹ thuật là then chốt) với vấn đề giải phóng phụ nữ ở nước ta; Vai trò
của phụ nữ Việt Nam trong việc thực hiện ba cuộc cách mạng và vấn đề xây
dựng người phụ nữ xã hội chủ nghĩa. Tác giả cho rằng thực hiện thành công
ba cuộc cách mạng trên là con đường duy nhất để giải phóng hồn tồn phụ
nữ, đi tới sự bình đẳng tồn diện với nam giới, sánh vai ngang hàng cùng
phụ nữ các nước tiên tiến trên thế giới.
Ngoài ra, cần phải kể đến một số tác phẩm khác như:
Người phụ nữ và gia đình Việt Nam hiện nay của Viện khoa học xã hội
– Trung tâm nghiên cứu khoa học về phụ nữ, Nxb. Khoa học xã hội, 1991.

Vấn đề đào tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao địa vị người phụ
nữ Việt Nam hiện nay của Lê Thi, Nxb. Khoa học xã hội, 1991.
Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình của Trung tâm Nghiên cứu
khoa học về gia đình và phụ nữ, Nxb. Khoa học xã hội, 1994.


10

Phụ nữ tham gia lãnh đạo quản lý của Nxb. Chính trị quốc gia,
1997.
Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam của Lê Thi,
Nxb. Phụ nữ, 1998.
Việc làm và đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam
của Nxb. Khoa học xã hội, 1999.
Gia đình Việt Nam và vai trị người phụ nữ trong gia đình hiện nay
của Dương Thị Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, 2004, v.v…
Nhìn chung, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ
nữ đã đạt được những thành công nhất định, gợi mở nhiều hướng tiếp cận; trở
thành những tài liệu quý phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu và phát triển tư
tưởng của Người trong điều kiện mới ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, dưới góc
độ triết học cho đến nay có rất ít cơng trình nghiên cứu về vấn đề này. Do đó,
với tinh thần ham muốn nghiên cứu và tìm hiểu, trên cơ sở tham khảo, kế
thừa thành quả những cơng trình nghiên cứu trước đó, tác giả luận văn mong
muốn góp phần làm rõ hơn những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh
về giải phóng phụ nữ, qua đó nêu lên những giải pháp nhằm góp phần tiến tới
giải phóng hồn tồn người phụ nữ, phát huy sức mạnh của họ phục vụ cho
công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn
Phân tích và làm rõ thêm nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh

về giải phóng phụ nữ – một bộ phận quan trọng hợp thành hệ thống những
quan điểm lý luận toàn diện và sâu sắc của Người về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam. Qua đó, luận văn khẳng định giá trị khoa học và
thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, được thể hiện


11

trong cách mạng giải phóng dân tộc trước đây, cũng như trong sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ
chủ yếu sau:
Thứ nhất, khái lược về bối cảnh lịch sử – xã hội và những tiền đề
của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ.
Thứ hai, phân tích và luận giải những nội dung cơ bản của Hồ Chí
Minh về giải phóng phụ nữ và những điều kiện cơ bản để giải phóng phụ nữ.
Thứ ba, trên cơ sở khẳng định giá trị khoa học và thực tiễn của tư
tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ, luận văn nêu lên một số giải
pháp nhằm phát huy sức mạnh của phụ nữ trong sự nghiệp đổi mới và hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nêu trên, luận văn dựa trên cơ sở
lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngồi ra, luận văn cịn
kết hợp và vận dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp
phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy nạp, so sánh – đối chiếu, lịch sử logic… trong quá trình thực hiện đề tài.
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Giải phóng phụ nữ là một đề tài có nội dung rất rộng và phong phú,
tác giả khơng có ý định và khả năng bàn đến mọi vấn đề. Trong phạm vi

một luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ mong muốn nghiên cứu, góp phần làm rõ
hơn nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ mà
trực tiếp là giải phóng phụ nữ Việt Nam; qua đó khẳng định vai trị quan
trọng của phụ nữ giai đoạn hiện nay, đồng thời đề xuất những giải pháp


12

nhằm tiến tới giải phóng hồn tồn phụ nữ và phát huy sức mạnh của họ
trong tình hình mới.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng của Người về
giải phóng phụ nữ nói riêng có ý nghĩa khoa học và thực tiễn hết sức sâu sắc.
Ý nghĩa khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư
tưởng của Người về giải phóng phụ nữ nói riêng. Đồng thời, khẳng định
giá trị khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm Đảng ta về vấn
đề giải phóng phụ nữ trong quá trình cách mạng Việt Nam là hoàn toàn
đúng đắn.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập,
nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng phụ nữ trong
các trường đại học, cao đẳng. Ngồi ra, luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo phục vụ cho cán bộ làm công tác phụ vận ở các địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 2 chương và 5 tiết.


13


Chương 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ – XÃ HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI PHĨNG PHỤ NỮ

1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM CUỐI THẾ KỶ XIX
ĐẦU THẾ KỶ XX

1.1.1. Bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây đã phát triển ở
trình độ cao và chuyển nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền, tức chủ nghĩa đế quốc. Nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa
phát triển mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là ngun
nhân sâu xa để các nước đế quốc tiến hành các cuộc xâm lược vũ trang ồ ạt
khắp các nước ở Châu Á, Châu Phi, Mỹ La Tinh nhằm thiết lập hệ thống
thuộc địa cho mình. Trong quá trình tranh giành thuộc địa, chu nghĩa đế quốc
đã làm gay gắt thêm và khơng thể điều hịa được mâu thuẫn vốn có của nó,
đồng thời các nước đế quốc cũng cấu kết với nhau để nô dịch các dân tộc nhỏ
yếu khác. Hậu quả là phần lớn các quốc gia ở các khu vực Châu Á, Châu Phi,
Mỹ La Tinh đã trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc của các đế quốc sừng sỏ
như: Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nhật, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha…
Các nước đế quốc xâm chiếm, đặt ách thống trị lên các nước thuộc
địa, tiến hành khai thác, tàn phá mọi tiềm năng kinh tế, phá hủy những
truyền thống vốn có, cũng như trình độ văn minh, làm cho các nước này
phải phụ thuộc vào chủ nghĩa đế quốc. Với hành động này, chủ nghĩa đế
quốc đã làm cho đời sống nhân dân các nước thuộc địa lâm vào cảnh khó
khăn, thiếu thốn đến cùng cực, đặc biệt là phụ nữ. Họ chính là những
người bị bóc lột tàn bạo và bị áp bức dã man nhất. Đây chính là nguyên
nhân làm nảy sinh thêm mâu thuẫn mới và ngày càng trở nên gay gắt, đó là



14

mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc, thực dân.
Mâu thuẫn này trở thành một trong những mâu thuẫn cơ bản của thời đại
đế quốc chủ nghĩa, trở thành điều kiện khách quan gắn kết phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa với phong trào cách mạng quốc tế.
Do sự phát triển không đồng đều của chủ nghĩa đế quốc nên một số
nước đế quốc phát triển sau muốn chia lại thuộc địa trên bản đồ thế giới.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng của chủ nghĩa đế quốc
và bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918). Cuộc
chiến tranh này đã khoét sâu va làm tăng thêm mâu thuẫn vốn có giữa các
nước tư bản với nhau, làm cho chủ nghĩa đế quốc bộc lộ rõ hơn khâu yếu
nhất của nó và đó là cơ hội cho cuộc cách mạng vô sản nổ ra.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ lịch sử thế giới có nhiều
biến đổi sâu sắc cùng với sự bùng lên mạnh mẽ của các cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Cách mạng ở Nga năm 1905 và
phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á – châu luc đông dân nhất thế giới –
là những minh chứng sống động cho thời kỳ chuyển biến hết sức phức tạp
này. Những mâu thuẫn lớn của thời đại ngày càng trở nên sâu sắc, đã tích
tụ lại tạo thành thời kỳ bão táp cách mạng và chiến tranh chống đế quốc,
thực dân ở những năm đầu thế kỷ XX. Thắng lợi của cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở đầu cho thời kỳ bão táp cách mạng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Bơnsêvích, đứng đầu là V.I.Lênin, giai cấp
công nhân và nhân dân Nga đã làm cuộc cách mạng vĩ đại nhất trong lịch
sử thế giới, lật đổ chế độ bóc lột, giành chính quyền về tay cơng nhân, là
tiền đề giải phóng người phụ nữ khỏi ách thống trị bạo tàn, đồng thời mở
ra cho nhân loại một thời đại mới – thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự kiện Nhà nước Xôviết ra
đời làm nảy sinh mâu thuẫn mới của thời đại – mâu thuẫn giữa chủ nghĩa



15

xã hội và chủ nghĩa đế quốc. Thành công vang dội của Cách mạng Tháng
Mười Nga đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên khắp thế
giới, đặc biệt là ở Châu Á, đã chứng minh một cách hùng hồn rằng học
thuyết Mác – Lênin về chủ nghĩa cộng sản khơng cịn là “bóng ma ám ảnh
châu Âu”, mà đã trở thành hiện thực. Nước Nga lúc bấy giờ trở thành nhà
nước công nông đầu tiên trên thế giới. Nhân dân Nga noi chung và phụ nữ
Nga nói riêng trở thành những người làm chủ đất nước và vận mệnh của
mình.
Từ thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, V.I.Lênin
tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn mới – giai đoạn đế quốc
chủ nghĩa, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể thành cơng ở một số
nước, thậm chí trong một nước tư bản phát triển trung bình. V.I.Lênin
cũng đã nêu lên tư tưởng cơ bản về phong trào cách mạng ở các nước
thuộc địa, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản ở các nước đế quốc và các
nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Năm 1919,
V.I.Lênin thành lập Quốc tế cộng sản – một tổ chức quốc tế của phong trào
cách mạng thế giới – giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát
triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đấu tranh chống chủ
nghĩa tư bản và những trào lưu phi mácxit. Có thể nói sự ra đời của Quốc
tế cộng sản và ảnh hưởng lớn lao của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại
đã cổ vũ và tạo ra những tiền đề, điều kiện cơ bản thúc đẩy các phong trào
yêu nước, phong trào giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người nói chung và phụ nữ nói riêng ở các nước thuộc địa, trong đó có
Việt Nam phát triển mạnh mẽ.



16

1.1.2. Bối cảnh lịch sử – xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX
Từ giữa thế kỷ XIX, triều đình nhà Nguyễn suy tàn, phản động đã
đầu hàng một cách nhục nhã thực dân Pháp xâm lược nước ta, biến nước ta
thành một nước thuộc địa của thực dân Pháp. Xã hội Việt Nam dưới sự cai
trị của thực dân Pháp như trong tình trạng “đen tối khơng có lối ra”. Nhân
dân Việt Nam dưới sự nơ dịch của thực dân Pháp không những mất đi
quyền sống mà còn mất mọi quyền tự do, quyền làm người cơ bản. “Tồn
thể nhân dân đau khổ vì sự bóc lột… thuế má và tạp dịch tăng lên. Ruộng
đất nhiều làng bị bọn địa chủ và chủ đồn điền Pháp chiếm đoạt. Pháp thi
hành chính sách gây nạn đói để làm cho nông dân bần cùng. Giai cấp tư
sản và giai cấp tiểu tư sản Việt Nam bị nghẹt thở vì sự áp bức nặng nề của
tư bản thuộc địa” [69, tr.76]. Chế độ thực dân đã giam hãm con người Việt
Nam trong khuôn khổ chật hẹp đến cùng cực, đặc biệt là người phụ nữ.
Cảnh ngộ của phụ nữ Việt Nam trong gần 100 năm bị thực dân Pháp thống
trị là vô cùng bi đát.
Ngay từ những năm đầu xâm lược Việt Nam, giặc Pháp đã đốt
phá, giết chóc và hãm hiếp, gây biết bao tai họa cho nhân dân và phụ nữ
ta ở khắp nơi… Về tội ác của quân cướp nước đối với phu nữ cũng như
đối với cả dân tộc, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã nói: “Phạt cho đến kẻ
hèn người khó, thân của quay treo, tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà
bắt vật; Kể hàng mấy trăm trời khốn khó, bị khảo bị tù, bị đay, bị giết,
trẻ già nào xiết đếm họ tên”. “Khi bọn thực dân Pháp đến một làng, tất
cả dân chúng chạy trốn cả, chỉ còn 2 cụ già, 1 thiếu nữ, 1 thiếu phụ đang
cho đứa con mới đẻ bú, tay dắt 1 con bé gái lên 8 tuổi. Bọn giặc đã thiêu
sống ông già trên đống củi, đã hãm hiếp hai người phụ nữ và em bé gái,
đã giết cô gái chặt tay lấy chiếc nhẫn, chặt cổ lấy chiếc vòng. Chỉ còn
người đàn bà trốn thốt cịn tất cả đều chết cả!” [41, tr.65].



17

Cấu kết chặt chẽ với bọn phong kiến bán nước và giai cấp địa chủ phản
động, chủ nghĩa đế quốc Pháp đã thi hành những chính sách hết sức tàn bạo.
Chúng chia cắt nước ta làm ba “Kỳ”, chia rẽ dân tộc đa số và thiểu số; chúng
cướp đất, mộ phu để khai thác đồn điền, hầm mỏ… làm cho hàng triệu người
phải rời bỏ quê hương, trở thành nguồn nhân cơng rẻ mạt, để chúng tha hồ bóc
lột, nạo vét đến tận xương tủy. Chúng thực hiện chính sach đàn áp, khủng bố vơ
cùng dã man, kìm hãm ngu dân, đầu độc và ra sức phá hoại những truyền thống,
phong tục tốt đẹp của nhân dân ta. Trong gần 100 năm thống trị đất nước ta, thực
dân Pháp dìm cả dân tộc ta vào cuộc sống nơ lệ, đói nghèo, lạc hậu. Chúng mở
sòng bạc, nhà chứa, tiệm nhảy nhiều hơn trường học, bệnh viện, cấm ngặt sách
báo tiến bộ, nhưng lại cho “tự do” tiêu thụ rượu, thuốc phiện nhằm đánh lạc mục
tiêu chống thực dân Pháp của quần chúng, nhất là các tầng lớp thanh niên.
Trước cảnh nước mất nhà tan, quyền sống bị tước đoạt, nhân phẩm
bị chà đạp, nhiều cuộc khởi nghĩa liên tiếp nổ ra dưới sự lãnh đạo của các
lãnh tụ phong trào như: Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu
Huân…Từ năm 1885 – 1896, phong trào Cần Vương dưới sự lãnh đạo của
các sĩ phu yêu nước chống Pháp đã nhanh chóng phát triển mạnh mẽ và
rộng khắp. Đỉnh cao của phong trào là cuộc khởi nghĩa Hương Khê do
Phan Đình Phùng lãnh đạo. Ngồi ra cịn có phong trào Duy Tân của Phan
Bội Châu, phong trào cải cách dân chủ tư sản do Phan Chu Trinh đề
xướng, cuộc khởi nghĩa của Hồng Hoa Thám,… phong trào nào cũng có
phụ nữ tham gia đông đảo. Tuy nhiên, tất cả các phong trào đó đều thất
bại. Cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam lâm vào
tình thế khó khăn và bế tắc.
Thất bại của các phong trào yêu nước do nhiều nguyên nhân,
nhưng nguyên nhân sâu xa và quan trọng nhất là chưa có đường lối cứu

nước đúng đắn và sáng suốt. Những người lãnh đạo phong trào chưa xác


18

định đúng mục tiêu và chưa tìm được lực lượng cách mạng tiên tiến đủ
sưc tập hợp sức mạnh của dân tộc để chống lại thực dân đế quốc. Vì
vậy, phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam đứng trước
cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối và càng trở nên khó khăn hơn vì
phải chống cả hai kẻ thù đế quốc và phong kiến. Lúc bấy giờ sứ mệnh
lịch sử đặt ra cho cả dân tộc, cho mọi người dân yêu nước Việt Nam là
phải tìm ra con đường cứu nước đúng đắn để cứu nhân dân ta, phụ nữ
Việt Nam ta thoát khỏi ách thống trị của thực dân và tay sai.
Trong bối cảnh “đen tối”, khủng hoảng về đường lối cứu nước ấy,
sự xuất hiện của Hồ Chí Minh như một ngọn đèn soi sáng cho cả dân tộc
Việt Nam đi đến bến bờ độc lập, tự do. Được sinh ra và lớn lên trên quê
hương Nghệ An giàu truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng,
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được sứ mệnh lịch sử trọng đại của dân
tộc. Dù rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối như Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh… nhưng Bác quyết không đi theo con đường
cứu nước của các cụ mà tự chọn cho mình hướng đi riêng. Hồ Chí Minh là
người đầu tiên đề xướng đường lối giải phóng dân tộc kiểu mới hoàn toàn
đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Nhờ có ánh sáng của tư tưởng
Hồ Chí Minh, phụ nữ Việt Nam đã sát cánh cùng dân tộc đứng lên làm
cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người “đã xuất hiện
đúng lúc, đúng yêu cầu của lịch sử với những tư tưởng và ý kiến đúng”
[39, tr.163]. Chính vì vậy mà Người “đã làm ra lịch sử” và trở thành vĩ đại
trong những trang sử vẻ vang của dân tộc và cả hôm nay.
1.2. NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ GIẢI
PHĨNG PHỤ NỮ

1.2.1. Chủ nghĩa u nước và truyền thống văn hóa Việt Nam
Luận giải về những tiền đề của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng


19

phụ nữ thì truyền thống văn hóa Việt Nam với những thành tố hợp thành
đã có những tác động và ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của Người; trong
đó sâu sắc nhất là chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa dân tộc.
Trước hết, về chủ nghĩa yêu nước
Xét một cách tổng qt tồn bộ q trình dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt Nam, nổi bật nhất trong dịng chủ lưu của truyền thống văn
hóa Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước đã được các thế
hệ người Việt Nam hun đúc qua hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường, bất
khuất, tự lực, tự cường, thông minh, sáng tạo, chống giặc ngoại xâm, bảo
vệ dân tộc và bảo tồn nền văn hiến của đất nước.
Việt Nam là một quốc gia được hình thành từ rất sớm, trải qua quá
trình lịch sử đấu tranh lâu dài, đất nước Việt Nam đã trở thành Tổ quốc thiêng
liêng của mỗi người dân Việt Nam. Tinh thần yêu nước đã trở thành đạo lý
sống, niềm tự hào và là một nhân tố đứng đầu trong bảng giá trị tinh thần của
người Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam khơng phải chỉ là một tình
cảm hời hợt, mà là cả một hệ thống tư tưởng rất phong phú, đã phát triển
thành một chủ nghĩa – chủ nghĩa u nước, chủ nghĩa dân tộc chân chính,
thành dịng chủ lưu của tư tưởng Việt Nam, xuyên suốt lịch sử của dân tộc,
đóng một vai trị lịch sử vĩ đại trong bước đường tiến hóa của dân tộc ta.
Chủ nghĩa yêu nước là sức mạnh, là động lực để dân tộc ta đoàn kết
và tập hợp lại, tự khẳng định mình trong các cuộc đấu tranh chống lại mọi
kẻ thù xâm lược, bảo vệ chủ quyền độc lập của dân tộc. Đó là vũ khí tinh
thần chủ yếu của dân tộc ta trong cuộc trường chinh lịch sử của mình, nó
đã được ấp ủ và rèn luyện qua nhiều thế hệ kế tiếp nhau, được kế thừa và

không ngừng phát triển bởi các thế hệ anh hùng dân tộc mà Hồ Chí Minh
là một trong số những đại biểu ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ
XX. Hồ Chí Minh đã xuất sắc kế thừa, phát huy và đưa chủ nghĩa yêu


20

nước truyền thống Việt Nam đến tầm cao mới.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam đã thấm sâu trong tâm khảm, trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Người viết: “Dân ta
có một lịng nồng nàn u nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi,
nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước…
Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà
Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,v.v… Chúng ta
phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu
của một dân tộc anh hùng” [46. tr.171-172].
Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã thúc đẩy Nguyễn Sinh
Cung, sau này là Nguyễn Tất Thành, đi tìm đường cứu nước. Đó cũng là
động lực tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ và hành động cách
mạng của Người trong suốt cả cuộc đời. Người đặt cho mình cái tên
Nguyễn Ái Quốc – Nguyễn yêu nước, để luôn nhắc nhở, cổ vũ bản thân
và cổ vũ quốc dân đồng bào. Đó cũng chính là cơ sở tư tưởng đã dẫn
Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp thu lý luận cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin - chân lý của thời đại, giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người, giải phóng phụ nữ.
Thứ hai, về truyền thống văn hóa dân tộc
Trong bảng giá trị tinh thần và văn hóa truyền thống của dân tộc nói

chung, văn hóa gia đình của người Việt Nam nói riêng, phụ nữ giữ vai trị
rất quan trọng đối với gia đình và xã hội. Vai trò quan trọng ấy của người
phụ nữ được Hồ Chí Minh quan tâm từ rất sớm đặc biệt là những người
phụ nữ trong gia đình Người. Đa số các nhà nghiên cứu đều có thiên


21

hướng cho rằng những truyền thống văn hóa: “Thuận vợ thuận chồng tát
bể Đông cũng cạn”, “Lệnh ông không bằng cồng bà”, “Người chồng trị vì,
người vợ cai quản”, “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” … là những hằng số
văn hóa thể hiện vai trị, vị trí của người phụ nữ khơng dễ gì bị “lấn át”
trong xã hội phong kiến, thực dân. Hơn nữa, truyền thống lịch sử dân tộc
với những tấm gương các anh hùng liệt nữ vì dân, vì nước, vì độc lập dân
tộc là những bằng chứng hùng hồn khơng thể phủ nhận, có sức sống mạnh
mẽ, trường tồn trong tâm thức, tâm hồn dân tộc… Đó là những yếu tố quan
trọng của nền văn hóa dân tộc đã tác động và góp phần hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh đối với các vấn đề về phụ nữ.
Nhà sử học Mỹ, giáo viên trường đại học Phơ-lơ-ri-đa Át-lăng-tích,
Giơ-xơ-phin Sten-sen (Josepphine Stensen) khi tìm hiểu “Vai trị của Hồ
Chí Minh trong lịch sử tiến bộ của phụ nữ” đã khẳng định: Hồ Chí Minh là
một trong số ít các lãnh tụ trên thế giới “thẳng thắn nói về chủ đề phụ nữ”
và đã đi tìm câu trả lời từ “những năm tháng đầu tiên của cuộc đời Người”.
Bà viết: “Mặc dù phải trải qua những vất vả khó khăn dường như người mẹ
của Hồ Chí Minh đã hỗ trợ cho hoạt động của chồng mình, là người người
yêu nước nồng nàn. Người con gái duy nhất của Bà đã bị kết án tù chung
thân ở tuổi 14 do việc mua bán vũ khí. Như vậy, từ thuở thiếu niên của Hồ
Chí Minh, hai người phụ nữ trong gia đình của Người là nạn nhân của
những tai họa và cả hai tai họa đó đều là hậu quả của bất công xã hội đối
với phụ nữ. Chắc chắn là những tai họa này có một ảnh hưởng quan trọng

và lâu dài đối với cuộc đời của Người khi trưởng thành”.
Như vậy, có thể nói truyền thống văn hóa Việt Nam và gia đình lúc
sinh thời mà Người chứng kiến là những lý do sâu xa và trực tiếp của sự
hình thành quan điểm của Người đối với các vấn đề về phụ nữ, đặc biệt là
vấn đề giải phóng phụ nữ – điều mà khơng nhiều lãnh tụ trên thế giới cũng


×