Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Nghiên cứu các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng áp dụng cho công ty cổ phần licogi 13

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.06 KB, 130 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT

NGUYỄN THỊ QUỲNH

NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC
CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG
ÁP DỤNG CHO CÔNG TY CỔ PHẦN LICOGI 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT

NGUYỄN THỊ QUỲNH

NGHIÊN CỨU CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỨC
CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY DỰNG
ÁP DỤNG CHO CÔNG TY CỔ PHẦN LICOGI 13

Chuyên ngành: Kinh tế công nghiệp
Mã số: 60.31.09

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐẶNG VĂN DỰA

HÀ NỘI – 2013




1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua q trình đổi mới chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan
niêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa buộc các
doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh hết sức gay gắt. Sự thay đổi cơ chế này
đã làm cho không ít doanh nghiệp gặp khó khăn, lúng túng trong sản xuất và kinh
doanh, tuy nhiên, có khơng ít doanh nghiệp đã tìm được những hướng đi đúng đắn,
kịp thời đề ra những giải pháp thích hợp nhằm tháo gỡ khó khăn, tạo lập và phát
huy thế mạnh của mình, nhờ đó đã đạt được hiệu quả kinh doanh cao, đứng vững và
không ngừng phát triển.
Xây dựng cơ bản là một lĩnh vực công nghiệp đặc thù. Khác với các lĩnh vực
khác, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng chủ yếu diễn ra thơng qua hình
thức đấu thầu do các chủ đầu tư tổ chức. Trên thế giới hình thức đấu thầu xây dựng
đã được áp dụng từ lâu, ở nước ta, từ khi nhà nước ban hành “Quy chế đấu thầu”,
thì đấu thầu xây dựng mới thực sự trở thành một lĩnh vực cạnh tranh hết sức gay gắt
giữa các doanh nghiệp xây dựng. Mặt khác, trong những năm gần đây, đã xuất hiện
nhiều dự án xây dựng có quy mô lớn, sử dụng vốn ngân sách hoặc vốn vay của các
tổ chức tín dụng nước ngồi địi hỏi phải tổ chức đấu thầu xây dựng trên cơ sở cạnh
tranh. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
luôn giành được sự quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp xây dựng.
Công ty Cổ phần Licogi 13 là một doanh nghiệp hoạt động chính trong lĩnh
vực xây dựng, có quy mơ lớn trên địa bàn Hà Nội. Trong những năm vừa qua, Cơng
ty đã có những nỗ lực trên nhiều mặt nhằm nâng cao sức cạnh tranh, phát triển sản
xuất và đã giành được nhiều thành tựu hết sức quan trọng, trở thành một trong
những doanh nghiệp xây dựng mạnh trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu đạt đã giành được, Cơng ty vẫn cịn những tồn tại, hạn chế

nhất định, đặc biệt trong lĩnh vực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng, đó là, những
khó khăn về tài chính, khoa học cơng nghệ, nhân lực, kinh nghiệm đấu thầu…, đây
là một trở ngại lớn có ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài và bền vững của Công ty.


2

Trong bối cảnh hiện nay, trước sự lớn mạnh của các doanh nghiệp xây dựng
trong nước, sự xuất hiện của những cơng ty xây dựng lớn của nước ngồi, sự phát
triển của khoa học và công nghệ xây dựng… cho thấy rằng cạnh tranh đấu thầu xây
dựng giữa các doanh nghiệp xây dựng diễn ra rất gay gắt. Vì vậy vấn đề nâng cao
sức cạnh tranh đấu thầu có một vai trị hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối
với sự thành công và phát triển của các doanh nghiệp xây dựng nói chung và Cơng
ty Cổ phần Licogi 13 nói riêng.
Xuất phát từ nhận thức trên, tơi đã chọn vấn đề “ Nghiên cứu các giải pháp
nâng cao sức cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng, áp dụng cho Công ty Cổ phần
Licogi 13” làm luận văn tốt nghiệp cao học với hy vọng mởi rộng khả năng hiểu
biết của mình và mong muốn góp một phần nhỏ bé vào sự phát triển của Công ty.
2. Mục đích của luận văn:
- Trình bày một cách có hệ thống, qua đó làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản
của cạnh tranh đấu thầu trong lĩnh vực xây dựng.
- Đánh giá thực trạng, khả năng cạnh tranh đấu thầu xây dựng, qua đó tìm ra
những ưu thế, thành tựu và những tồn tại trong công tác đấu thầu xây dựng của
Công ty Cổ phần Licogi 13.
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao sức cạnh tranh đấu
thầu xây dựng của Công ty Cổ phần 13.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu năng lực cạnh tranh trong đấu
thầu xây dựng của Công ty Cổ phần Licogi 13.
- Phạm vi nghiên cứu: Vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu

xây dựng của Công ty Cổ phần Licogi 13.
- Về mặt thời gian, luận văn khảo sát hoạt động kinh doanh và đánh giá tình
hình cạnh tranh của Công ty Cổ phần Licogi 13 (giai đoạn 2007 – 2011) và đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty trong thời gian
tới.
4. Phương pháp nghiên cứu:


3

- Về mặt lý luận: Vận dụng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về
phát triển Ngành Xây dựng, các văn bản pháp quy về đấu thầu, về quản lý đầu tư và
xây dựng, lý luận của các mơn kinh tế chun ngành như: Phân tích kinh tế hoạt
động sản xuất kinh doanh, kinh tế xây dựng…
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra, thống kê, phân tích tổng
hợp, tham khảo ý kiến chuyên gia….
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Đề tài luận văn đã hệ thống hóa và góp phần làm sáng tỏ
lý luận về cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng.
- Ý nghĩa thực tiễn:
Đề tài luận văn đã đánh giá được thực trạng công tác đấu thầu và khả năng
cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng của Công ty Cổ phần Licogi 13, chỉ ra được
những điểm mạnh, điểm yếu của Công ty giúp các nhà quản lý Công ty nắm rõ thực
trạng hoạt động của mình.
Những giải pháp mà đề tài đưa ra là tài liệu tham khảo có giá trị với các nhà
quản lý doanh nghiệp xây dựng nói chung và đối với công tác đấu thầu của Công ty
cổ phần Licogi 13 nói riêng. Ngồi ra cịn là tài liệu tham khảo cho những người
quan tâm khác.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:

- Chương 1: Tổng quan về cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp xây
dựng.
- Chương 2: Thực trạng công tác đấu thầu và khả năng cạnh tranh trong đấu
thầu xây dựng của Công ty Cổ phần Licogi 13.
- Chương 3: Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu
thầu xây dựng của Công ty Cổ phần Licogi 13.


4

CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU CỦA DOANH
NGHIỆP XÂY DỰNG
1.1. Tổng quan lý luận về cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
1.1.1. Tổng quan lý luận về cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh
Trong lĩnh vực kinh tế, thuật ngữ “cạnh tranh” được hiểu dưới nhiều góc độ
khác nhau:
Cạnh tranh trong kinh doanh là hoạt động ganh đua giữa những người sản
xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường, bị chi phối bởi quan hệ cung – cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiệu
thụ, thị trường có lợi nhất [10]. Quan niệm này đã xác định rõ các chủ thể của cạnh
tranh là những người sản xuất – kinh doanh, và mục đích của họ nhằm dành được
các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Cạnh tranh là sự đối địch giữa các hãng kinh doanh trên cùng một thị trường
để dành được nhiều khách hàng, do đó có nhiều lợi nhuận hơn cho bản thân, thường
là bằng cách bán theo giá cả thấp nhất hay cung cấp một chất lượng hàng hóa tốt
nhất [9]. Quan niệm này khảng định rõ cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp
hoạt động trên cùng một thị trường nhằm mục đích tối đa hóa lợi nhuận; đồng thời,
nó cũng chỉ ra hai phương thức cạnh tranh cơ bản là hạ thấp giá bán hoặc nâng cao

chất lượng sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp. Quan niệm này trực diện và rõ
ràng hơn quan niệm đầu tiên về cạnh tranh nhưng nó cũng “hẹp” hơn.
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa các chủ thể tham gia
sản xuất – kinh doanh với nhau nhằm dành những điều kiện thuận lợi trong sản xuất
– kinh doanh, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.
Mục tiêu của cạnh tranh là dành lơi ích, lợi nhuận lớn nhất, bảo đảm sự tồn tại và
phát triển của chủ thể tham gia cạnh tranh [4].
Các quan điểm nêu trên tuy khác nhau về cách tiếp cận về phạm vi, nhưng có
thể rút ra một số điểm chung mang tính đặc trưng của phạm trù cạnh tranh như sau:


5

- Cạnh tranh kinh tế mang bản chất của mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể
kinh tế với nhau. Điều này chứng tỏ nói đến cạnh tranh là nói đến một q trình có
sự tham gia của nhiều chủ thể. Nếu chỉ có một chủ thể (độc quyền) thì khơng có
cạnh tranh, nhưng nếu có nhiều chủ thể mà mục tiêu của họ khơng giống nhau thì
cạnh tranh và sức ép cạnh tranh cũng giảm xuống. Do vậy, các chủ thể phải có cùng
mục tiêu thì mới có khả năng xảy ra cạnh tranh. Các doanh nghiệp cạnh tranh vì
mục tiêu lợi nhuận tối đa, vì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp thơng qua duy
trì và gia tăng thị phần, phát triển thị trường. Còn người tiêu dùng thì có mục tiêu
chung là tối đa hóa mức độ thỏa mãn hay sự tiện lợi khi tiêu dùng sản phẩm.
- Các chủ thể cạnh tranh đều đối mặt với những ràng buộc chung cần phải
tuân thủ. Những ràng buộc này có thể là hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế, các
thông lệ kinh doanh trên thị trường, đặc điểm nhu cầu và thị hiếu của khách hàng,…
Tuân thủ những ràng buộc này giúp đảm bảo cạnh tranh mang tính lành mạnh và
đem lại lợi ích phát triển nền kình tế đất nước.
- Phương pháp cạnh tranh rất đa dạng, không dừng lại ở việc bán giá thấp
hay nâng cao chất lượng sản phẩm hay dịch vụ nào đó. Các doanh nghiệp có thể
cạnh tranh bằng sự phong phú chủng loại sản phẩm trong danh mục sản phẩm của

doanh nghiệp nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng, cạnh tranh
bằng các công cụ xúc tiến bán hàng, bằng các dịch vụ khách hàng hồn hảo hơn,…
- Về thời gian và khơng gian, cạnh tranh diễn ra trong khoảng thời gian và
không gian không cố định. Chúng ta không nên quan niệm hẹp và cứng nhắc rằng
cạnh tranh chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp trên cùng một thị trường. Trong môi
trường kinh doanh sơi động và biến đổi nhanh chóng, cạnh tranh khơng chỉ với mục
đích gia tăng thị phần trên thị trường hiện tại mà quan trọng hơn là phát triển các thị
trường mới. Như vậy, tìm kiếm và phát triển thị trường mới cũng là một cách cạnh
tranh. Hơn nữa, nó ngày càng được áp dụng phổ biến trong kinh doanh hiện đại
dưới tác động của công nghệ thông tin và xu thế tồn cầu hóa các hoạt động kinh tế.
Từ những nhận xét trên, có thể đi đến kết luận sau:
“ Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau
tìm mọi biện pháp để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thơng thường là chiếm lĩnh thị


6

trường, dành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất.
Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa
lợi ích, đối với người sản xuất – kinh doanh là lợi nhuận, đối với nguời tiêu dùng là
lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi”.

1.1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Theo C.Mác, cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của sản
xuất hàng hóa, là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh có vai trị
to lớn, là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh
buộc chủ thể sản xuất – kinh doanh phải thường xuyên cải tiến kỹ thuật, áp dụng
công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, nhạy bén,
năng động, tổ chức quản lý có hiệu quả… để dành được ưu thế so với đối thủ cạnh
tranh và đạt được mục đích cạnh tranh của mình. Thực tế cho thấy, ở đâu và khi nào

thiếu cạnh tranh hoặc có biểu hiện độc quyền thì ở đó thường có sự trì trệ, bảo thủ,
kém hiệu quả vì khơng có cơ chế đào thải cái lạc hậu, khuyến khích cái tiến bộ phát
triển.
Bên cạnh vai trị to lớn đó, cạnh tranh cũng có những mặt hạn chế: Cạnh
tranh có thể dẫn đến tình trạng ganh đua quyết liệt, “cá lớn nuốt cá bé”, làm gia tăng
các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh như làm hàng giả, trốn lậu thuế, ăn cắp
bản quyền, mua chuộc, hối lộ, lừa đảo, tung tin thất thiệt phá hoại uy tín của đối
thủ,… vừa vi phạm pháp luật vừa làm xấu đi các quan hệ xã hội. Cạnh tranh chạy
theo lợi nhuận và lợi ích riêng sẽ làm các nguồn tài nguyên bị khai thác cạn kiệt,
môi trường sinh thái bị ô nhiễm, nền kinh tế luôn ở trạng thái bất ổn định vì khủng
hoảng, thất nghiệm, lạm phát, làm gia tăng sự phân hóa giàu – nghèo và những bất
cơng trong xã hội, …
Vấn đề đặt ra không phải là thủ tiêu cạnh tranh mà phải để cạnh tranh diễn ra
trong điều kiện bình đẳng và minh bạch của các chủ thể cạnh tranh, phát huy những
mặt tích cực và hạn chế đến mức tối thiểu những tác động tiêu cực của cạnh tranh.
Đó là trách nhiệm của Nhà nước (thơng qua luật pháp và các công cụ điều tiết vĩ
mô) và của tất cả các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường.

1.1.1.3. Phân loại cạnh tranh


7

Tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau. Nên có nhiều
cách phân loại cạnh tranh khác nhau:
- Căn cứ vào loại thị trường, bao gồm: Cạnh tranh trên các thị trường yếu tố
đầu vào nhằm dành được các nguồn lực sản xuất chất lượng tốt nhất với chi phí thấp
nhất; cạnh tranh trên thị trường sản phẩm, dịch vụ nhằm chiếm lĩnh thị trường, tăng
thị phần, dành lấy khách hàng và đơn đặt hàng. Theo cách phân loại này nhằm giúp
cho doanh nghiệp xác định mục tiêu cạnh tranh trên thị trường các yếu tố đầu vào

hay đầu ra phục vụ cho chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình.
- Căn cứ vào phương thức cạnh tranh, gồm có: Cạnh tranh bằng giá cả và
cạnh tranh phi giá (cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng, dịch
vụ khách hàng, cạnh tranh bằng thủ đoạn kinh tế và phi kinh tế…). Theo cách phân
loại này nhằm giúp doanh nghiệp lựa chọn các phương thức cạnh tranh với các
doanh nghiệp khác nhằm thực hiện được mục tiêu cạnh tranh trong chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp mình.
- Căn cứ vào loại chủ thể tham gia cạnh tranh, gồm có: Cạnh tranh giữa
người mua và người bán, cạnh tranh giữa những người bán với nhau và cạnh tranh
giữa những người mua với nhau. Từ đó giúp doanh nghiệp xác định được đối thủ
cạnh tranh để có phương thức cạnh tranh khác nhau nhằm đảm bảo mục tiêu cạnh
tranh.
- Theo phạm vi cạnh tranh, gồm có: Cạnh tranh trong nội bộ ngành; cạnh
tranh giữa các ngành; cạnh tranh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và cạnh tranh
quốc tế. Từ đó giúp doanh nghiệp xác định phạm vi cạnh tranh, có chiến lược cạnh
tranh phù hợp với năng lực hiện có của doanh nghiệp mình hoặc có các chính sách
phù hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường mới.
- Theo cấp độ cạnh tranh, gồm có: Cạnh tranh giữa các quốc gia, cạnh tranh
giữa các ngành, giữa các doanh nghiệp và cạnh tranh sản phẩm. Giữa các cấp độ
cạnh tranh đó có mối liên hệ tương hỗ với nhau và suy cho cùng vẫn là cạnh tranh
sản phẩm. Thông qua cung cấp sản phẩm, dịch vụ mà chủ thể là doanh nghiệp,
ngành, nhà nước mong dành thắng lợi trong cạnh tranh, đạt được mục tiêu của
mình.


8

1.1.2. Tổng quan lý luận về đấu thầu xây dựng
1.1.2.1. Bản chất của đấu thầu xây dựng
Thuật ngữ “đấu thầu” đã xuất hiện trong xã hội từ xa xưa. Theo Từ điển

tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, xuất bản năm 1998) thì đấu thầu được giải thích là
việc “đọ cơng khai, ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được giao cho
làm hoặc được bán hàng (một phương thức giao làm cơng trình hoặc mua hàng)”.
Như vậy, bản chất của việc đấu thầu đã được xã hội thừa nhận như là một sự ganh
đua (cạnh tranh) để được thực hiện một việc nào đó, một yêu cầu nào đó.
Từ khi đất nước ta tiến hành cơng cuộc đổi mới, nền kinh tế đã mở cửa với
thế giới thì bắt đầu xuất hiện khái niệm “đấu thầu”. Theo định nghĩa về thuật ngữ
“đấu thầu” trong Luật Đấu thầu của Việt Nam thì đó là q trình lựa chọn nhà thầu
đáp ứng yêu cầu của bên mời thầu để thực hiện các gói thầu thuộc các dự án sử
dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát triển, mua sắm tài sản
nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị xã hội…, của doanh nghiệp nhà nước, trên cơ sở đảm bảo tính cạnh
tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế [6].
Đứng trên phương diện của chủ đầu tư (CĐT), của nhà thầu, của nhà nước,
có thể hiểu đấu thầu như sau:
- Trên phương diện của CĐT: Đấu thầu là một phương thức quản lý trong
hoạt động xây dựng nhằm lựa chọn người nhận thầu đáp ứng yêu cầu kinh tế – kỹ
thuật đặt ra cho việc xây dựng cơng trình.
- Trên phương diện của nhà thầu: Đấu thầu là một hình thức cạnh tranh
trong sản xuất kinh doanh mà thông qua đó nhà thầu giành cơ hội nhận được gói
thầu khảo sát, thiết kế, cung cấp máy móc thiết bị và thi cơng xây lắp cơng trình
nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh của Doanh nghiệp.
- Trên phương diện quản lý nhà nước: Đấu thầu là một phương thức quản
lý thực hiện dự án đầu tư mà thơng qua đó lựa chọn được nhà thầu đáp ứng được
các yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu.
Từ những tiếp cận trên có thể rút ra khái niệm chung sau đâu: Đấu thầu xây
dựng là cuộc cạnh tranh công khai, công bằng, minh bạch giữa các nhà thầu với


9


cùng một điều kiện để nhằm dành được các gói thầu xây dựng, thỏa mãn mục tiêu
định trước của nhà thầu, đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư.
Như vậy, bản chất của đấu thầu nói chung và đấu thầu xây dựng nói riêng là
kích thích và đảm bảo sự cạnh tranh đúng pháp luật nhằm khắc chế những tiêu cực
để việc mua bán sản phẩm đáp ứng được những mong muốn hợp pháp của những
người mua trên thị trường, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước và an sinh xã
hội.
Có thể nói đấu thầu xây dựng là cuộc cạnh tranh công khai, công bằng giữa
các nhà thầu với cùng một điều kiện nhằm dành được quyền nhận thầu các gói thầu
thi cơng xây dựng trên cơ sở đáp ứng các yêu cầu của bên mời thầu.
Đối với các nhà thầu nói chung và nhà thầu là doanh nghiệp xây dựng nói
riêng khi tham gia dự thầu thì mục tiêu chính là phải thắng thầu với hiệu quả tối ưu.
Còn đối với chủ đầu tư hay nhà nước là lựa chọn nhà thầu đáp ứng đầy đủ các yêu
cầu của hồ sơ mời thầu (HSMT) với chi phí là thấp nhất.
Hiện nay, theo Luật Đấu Thầu thì việc lựa chọn nhà thầu xây dựng chủ yếu
thông qua đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế và chỉ định thầu.

1.1.2.2. Các hình thức đấu thầu xây dựng cơ bản
Theo Luật Đấu thầu số 61/2005 của Việt Nam việc lựa chọn nhà thầu có thể
được thực hiện theo ba hình thức chủ yếu sau đây:
- Đấu thầu rộng rãi:
Đấu thầu rộng rãi là hình thức khơng hạn chế số lượng nhà thầu tham gia.
Bên mời thầu phải thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng và
ghi rõ các điều kiện, thời gian dự thầu. Đối với những gói thầu lớn, phức tạp về
cơng nghệ bên mời thầu phải tiến hành sơ tuyển để lựa chọn nhà thầu có đủ tư các
và năng lực tham gia dự đấu thầu.
Hình thức đấu thầu nay được khuyến khích áp dụng nhằm đạt tính cạnh tranh
cao trên cơ sở tham gia của nhiều nhà thầu. Tuy nhiên, hình thức này được áp dụng
cho các cơng trình thơng dụng khơng có yêu cầu đặc biệt về kĩ thuật, mĩ thuật cũng

như khơng cần bí mật và tuỳ theo từng dự án cụ thể trong phạm vi một địa phương,
một vùng, toàn quốc và quốc tế .


10

- Đấu thầu hạn chế:
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà
thầu (tối thiểu là 5) có đủ năng lực tham gia. Danh sách nhà thầu tham dự phải được
người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp nhận. Hình thức này chỉ được
xem xét áp dụng khi có một trong các điều kịên sau :
+ Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của đấu thầu.
+ Các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải tiến hành đấu thầu hạn chế.
+ Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế.
+ Do yêu cầu về tiến độ thực hiện dự án được người có thẩm quyền quyết
định đầu tư chấp thuận.
- Chỉ định thầu:
Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói
thầu để thương thảo hợp đồng.
Để thực hiện đấu thầu, chủ đầu tư có thể áp dụng các phương thức chủ yếu
sau :
+ Đấu thầu một túi hồ sơ:
Đấu thầu một túi hồ sơ là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu trong
một túi hồ sơ. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng hoá
và xây lắp.
+ Đấu thầu hai túi hồ sơ:
Đấu thầu hai túi hồ sơ là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất kĩ thật và đề
xuất về giá trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm.Túi hồ sơ đề xuất kĩ
thuật sẽ được xem xét trước để đánh giá. Các nhà thầu đạt số điểm kĩ thuật từ 70%
trở lên sẽ được mở tiếp túi hồ sơ đề suất về giá để đánh giá trường hợp nhà thầu

không đáp ứng được các yêu cầu về tài chính và các điều kiện của hợp đồng, bên
mời thầu phải xin ý kiến của người có thẩm quyền quyết định đầu tư, nếu được chấp
thuận mới được xem xét thay đổi giá. Phương thức này chỉ được áp dụng đối với
đấu thầu tuyển chọn tư vấn.
+ Đấu thầu hai giai đoạn :


11

Phương thức này áp dụng cho những dự án lớn, phức tạp về công nghệ và kĩ
thuật hoặc dự án thuộc dạng chìa khố trao tay.Trong q trình xem xét, chủ đầu tư
có điều kiện hồn thiện u cầu về mặt công nghệ, kĩ thuật và các điều kiện của hồ
sơ mời thầu.
Phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau :
- Các gói thầu mua sắm hàng hố và xây lắp có giá từ 500 tỉ đồng trở lên .
- Các gói thầu mua sắm hàng hố có tính chất lựa chọn cơng nghệ thiết bị
tồn bộ, phức tạp về cơng gnhệ và kĩ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp :
- Dự án thực hiện theo hợp đồng chìa khố trao tay .
Q trình thực hiện phương thức này như sau :
Giai đoạn thứ nhất: Các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu sơ bộ gồm đề xuất về kĩ
thuật và phương án tài chính sơ bộ (chưa có gía) để bên mời thầu xem xét và thảo
luận cụ thể với từng nhà thầu nhằm thống nhất yêu cầu và tiêu chuẩn kĩ thuật để nhà
thầu chuẩn bị nộp hồ sơ dự thầu chính thức của mình
Giai đoạn thứ hai :Bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn
thứ nhất nộp hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kĩ thuật đã được bổ xung hoàn
chỉnh trên cùng một mặt bằng kĩ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội
dung về tiến độ thực hiện, điều kiện hợp đồng, giá dự thầu.

1.1.2.3. Nguyên tắc đấu thầu xây dựng
- Cơng bằng: Mọi nhà thầu đều có quyền bình đẳng như nhau tạo điều kiện

đảm bảo cạnh tranh bình đẳng .
- Bí mật: Mức giá dự kiến của chủ đầu tư, các ý kiến trao đổi của các nhà
thầu với chủ đầu tư trong quá trình chuẩn bị hồ sơ dự thầu ... phải được đảm bảo bí
mật tuyệt đối .
- Cơng khai: Trừ những cơng trình đặc biệt thuộc bí mật quốc gia. Ngun
tắc cơng khai phải được quán triệt trong cả giai đoạn gọi thầu và giai đoạn mở thầu .
- Có năng lực :chủ đầu tư và các nhà thầu phải có năng lực kinh tế kĩ thuật
thực hiện những điều đã cam kết .
- Pháp lý: Các bên phải tuân theo những quy định của nhà nước về đấu thầu

1.1.2.4. Vai trò của đấu thầu xây dựng


12

Đấu thầu khơng phải là một thủ tục mang tính hình thức mà trên thực tế là
một bước trong quy trình đầu tư phổ biến trong xây dựng cơng trình. Đấu thầu là
“mắt xích” quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả, giảm lãng phí, thất thốt, tiêu
cực đối với các dự án đầu tư xây dựng. Hiệu quả của hình thức này đã được thực tế
khảng định khơng chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Đấu thầu có ý
nghĩa quan trọng khơng chỉ các chủ thể tham gia đấu thầu mà còn mang lại lợi ích
cho nền kinh tế quốc dân [8].
Đối với chủ đầu tư:
- Thông qua đấu thầu, chủ đầu tư sẽ tìm được nhà thầu có khả năng đáp ứng
cao nhất các yêu cầu đề ra của hồ sơ mời thầu. Bởi vì trong đấu thầu diễn ra sự cạnh
tranh gay gắt giữa các nhà thầu, chủ đầu tư chỉ lựa chọn nhà thầu nào đáp ứng được
yêu cầu, có giá dự thầu hợp lý, đảm bảo tiến độ thi công và chất lượng cơng trình.
-Với hình thức đấu thầu, hiệu quả quản lý vốn đầu tư được tăng cường, tình
trạng thất thốt lãng phí vốn đầu tư ở mỗi khâu của các quá trình thực hiện dự án sẽ
được khắc phục và giảm nhiều.

- Đấu thầu giúp chủ đầu tư giải quyết tình trạng phụ thuộc vào một nhà thầu
duy nhất, giúp nâng cao trình độ và năng lực đội ngũ cán bộ kinh tế và kỹ thuật của
chính các chủ đầu tư.
Đối với các nhà thầu:
- Đấu thầu xây dựng tạo mơi trường đảm bảo tính cạnh tranh, cơng bằng,
minh bạch giữa các nhà thầu xây dựng.
- Đấu thầu sẽ phát huy được tính chủ động, năng động trong việc tìm kiếm
các cơ hội tham gia dự thầu và kí kết hợp đồng (khi trúng thầu), tạo cơng ăn việc
làm cho người lao động, phát triển sản xuất, nâng cao lợi nhuận. Cơng việc này địi
hỏi các nhà thầu sẽ phải tích cực tìm kiếm thơng tin liên quan đến dự án, các thông
tin về đối thủ cạnh tranh, gây dựng mối quan hệ với các tổ chức kinh tế trong và
ngồi nước, tìm cách tăng cường uy tín của mình.
- Đấu thầu địi hỏi các nhà thầu khơng ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt
như: Tổ chức quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ, đầu tư nâng cao năng lực máy móc
thiết bị, mở rộng mạng lưới thông tin… Nhờ vậy nhà thầu nâng cao năng lực của


13

mình trong đấu thầu. Đơng thời thơng qua đấu thầu, nhà thầu sẽ tích lũy được nhiều
kinh nghiệm cạnh tranh, tiếp thu được những kiến thức về khoa học và cơng nghệ
tiên tiến hiện đại,có điều kiện để khẳng định mình ở hiện tài và trong tương lai, có
cơ hội cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Vì vậy mà năng lực nhà
thầu ngày càng được nâng cao.
Đối với nhà nước:
- Thông qua đấu thầu, các cơ quan quản lý Nhà nước có đủ thơng tin thực tế
và cơ sở khoa học để đánh giá đúng năng lực thực sự của nhà thầu. Hoạt động đấu
thầu nâng cao hiệu quả sử dụng và tiết kiệm được ngân sách Nhà nước.
- Đấu thầu góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý của nhà nước về đầu
tư và xây dựng, hạn chế và loại trừ tình trạng thất thốt, lãng phí vốn đầu tư và các

hiện tượng tiêu cực khác trong xây dựng cơ bản.

1.1.3. Tổng quan về cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
1.1.3.1. Khái niệm cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng [7]
Từ trước đến nay mặc dù có nhiều tài liệu, văn bản pháp lý thừa nhận có sự
cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng nhưng vẫn chưa có một khái niệm cụ thể nào về
cạnh tranh trong đấu thầu nói chung cũng như trong đấu thầu xây dựng nói riêng.
Tuy nhiên, xét ở góc độ khi tham gia cho từng gói thầu có quan niệm cho rằng:
“Cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là quá trình các nhà thầu đưa ra các giải pháp
về kỹ thuật, tài chính, tiến độ thi cơng và bỏ giá thầu thỏa mãn một cách tối ưu với
yêu cầu của bên mời thầu nhằm đảm bảo thắng đấu xây dựng gói thầu đó”
Từ việc nghiên cứu vấn đề về cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng cùng với
những quy định ràng buộc của các văn bản pháp luật về đấu thầu có thể thấy rằng:
“Cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng là việc của các nhà thầu xây dựng thể hiện
năng lực – kinh nghiệm, các giải pháp về kỹ thuật – chất lượng thi công, tiến độ thi
công và giá dự thầu nhằm thỏa mãn và đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu của
BMT để dành được cơ hội thắng thầu cho một gói thầu cụ thể”.
Quan điểm này cho thấy cạnh tranh của các doanh nghiệp xây dựng trong
đấu thầu xây dựng chính là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp nhằm mục đích
chiến thắng trong các cuộc đấu thầu. Sự ganh đua này bằng các biện pháp kỹ thuật


14

khác nhau nhằm thỏa mãn yêu cầu của chủ đầu tư về kỹ thuật, biện pháp thi cơng,
tài chính, chất lượng cơng trình cũng như các u cầu khác và giá bỏ thầu hợp lý
nhất để chiến thắng các nhà thầu khác trong đấu thầu. Tuy nhiên khái niệm này chỉ
bó hẹp cạnh tranh trong đấu thầu một gói thầu mà chưa chỉ ra được sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp này trong suốt quá trình sản xuất kinh doanh tham gia nhiều
gói thầu khác và đối thủ cạnh tranh ở mỗi cuộc đấu thầu có thể khác nhau. Việc xác

định chiến lược cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp sẽ khó khăn hơn. Do vậy, khái
niệm cạnh tranh có thể được hiểu theo nghĩa rộng hơn đó là: [3]
“ Cạnh tranh đấu thầu xây dựng là một quá trình tạo dựng và không ngừng
nâng cao năng lực hành nghề, năng lực hoạt động xây dựng của nhà thầu xây dựng
nhằm không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm đạt lợi thế cạnh tranh, để
thắng thầu và dành được quyền thi cơng xây dựng cơng trình”
Để đạt được điều đó các doanh nghiệp ln ln tìm hiểu, thu thập thơng tin
về các chủ đầu tư, về các đối thủ cạnh tranh, về trình độ quản lý, về tình hình phát
triển khoa học cơng nghệ, về tình hình tài chính, giá cả để đưa ra chiến lược cạnh
tranh đúng đắn trong các cuộc đấu thầu. Trong quá trình cạnh tranh doanh nghiệp
nào nắm bắt thông tin sớm nhất sẽ dành được thế chủ động đưa ra biện pháp khác
biệt và phù hợp nhất, sẽ nâng cao được khả năng trúng thầu. Vấn đề quan hệ giữa
doanh nghiệp với chủ đầu tư và các mối quan hệ khác hay tìm kiếm thị trường xây
dựng là nhân tố ảnh hưởng lớn đến kết quả đấu thầu, có thể nói đó giống như cịn
đường tắt của doanh nghiệp để chắc chắn đi đến thắng thầu.

1.1.3.2. Phân loại cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
Khác với các ngành thông thường khác, các doanh nghiệp gặp gỡ và cạnh
tranh trực tiếp với nhau. Nhưng ở lĩnh vực xây dựng cơng trình, sự cạnh tranh này
là do chủ đầu tư tổ chức, và cũng chính chủ đầu tư quyết định ai thắng, ai bại trong
cuộc cạnh tranh đó. Vì vậy, tham gia đấu thầu là một hình thức cạnh tranh đặc thù
của các doanh nghiệp xây dựng trong điều kiện hiện nay. Có các loại cạnh tranh chủ
yếu trong đấu thầu xây dựng đó là:
- Cạnh tranh giữa người mua với nhau:


15

Sự cạnh tranh này chỉ xảy ra khi có nhiều chủ đầu tư có cơng trình cần xây
dựng mà chỉ có một hoặc ít nhà thầu có khả năng cơng nghệ đặc quyền để xây dựng

cơng trình ấy. Trường hợp này ít xảy ra trong nền kinh tế thị trường nhất là trong
đấu thầu xây dựng.
- Cạnh tranh giữa người bán với nhau:
Đây là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp xây dựng với nhau, và là cuộc
cạnh tranh cam go, quyết liệt và phổ biến nhất. Như vậy mỗi doanh nghiệp xây
dựng cần có một chiến lược cạnh tranh hợp lý để có thể thắng thầu khi tham gia đấu
thầu.
Bên cạnh đó trong đấu thầu, theo nghĩa rộng thì giữa chủ đầu tư là người
mua và Nhà thầu là người bán sản phẩm xây dựng cịn có sự đàm phán với nhau để
nhằm đạt được sự thỏa thuận về chất lượng, tiến độ xây dựng, giá cả... và các nội
dung khác theo hợp đồng được ký kết giữa hai bên để cùng đạt được mục tiêu riêng
của mỗi bên.

1.1.3.3. Các chỉ tiêu cơ bản thể hiện và đánh giá năng lực cạnh tranh trong
đấu thầu xây dựng của doanh nghiệp xây dựng.
Doanh nghiệp xây dựng khi tham gia hoạt động trên thị trường xây dựng
phải thực hiện các hoạt động chính của mình là: Hoạt động tìm kiếm hợp đồng, hoạt
động bàn giao cơng trình và thanh quyết tốn hợp đồng... Để thực hiện được các
hoạt động trên, trước hết doanh nghiệp phải thể hiện được năng lực cạnh tranh của
mình và cũng thể hiện được kết quả của quá trình cạnh tranh theo các tiêu thức sau:
* Các chỉ tiêu thể hiện năng lưc cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng:
Có các chỉ tiêu thể hiện năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp khi tham gia
đấu thầu xây dựng như sau:
- Số lượng gói thầu trúng thầu và giá trị trúng thầu
Chỉ tiêu này thể hiện khái quát tình hình dự thầu và kết quả dự thầu của
doanh nghiệp, qua đó có thể đánh giá được hiệu quả, chất lượng của việc dự thầu
trong năm, quy mô và giá trị hợp đồng của các cơng trình trúng thầu.
- Tỷ lệ thắng thầu trong dự thầu
+ Tính theo số gói thầu dự thầu:



16

T1 =

L
L

tt

 100 (%)

(1-1)

dt

Trong đó:
T1: Là tỷ lệ trúng thầu theo số lần tham gia đấu thầu;
Ltt: Là số gói thầu thắng thầu;
Ldt: Là số gói thầu dự thầu;
Chỉ tiêu này cho biết số lượng các gói thầu trúng thầu trong tổng số gói thầu
mà doanh nghiêp tham gia dự thầu. Tỷ lệ này càng cao càng thể hiện sức cạnh tranh
của doanh nghiệp trong đấu thầu xây dựng càng lớn. Tuy nhiên xét về mặt quy mô
(giá trị) trúng thầu, thì chỉ tiêu trên chưa thể hiện được, bởi vì số gói thầu nhiều
nhưng có thể giá trị trúng thầu thấp. Nên có thể xét chỉ tiêu theo cơng thức sau:
+ Tính theo giá trị gói thầu:
T2 =

G
G


tt

 100 (%)

(1-2)

dt

Trong đó:
T2: Là tỷ lệ trúng thầu theo giá trị gói thầu;
Gtt: Là giá trị của các gói thầu trúng thầu (theo giá của chủ đầu tư);
Gdt: Là giá trị của các gói thầu dự thầu (theo giá của chủ đầu tư).
Chỉ tiêu này cho biết giá trị các gói thầu trúng thầu trong tổng giá trị các gói
thầu dự thầu. Tỷ lệ trúng thầu theo giá trị gói thầu càng cao càng thể hiện năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong đấu thầu xây dựng càng lớn.
* Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh – phương thức cạnh tranh
trong đấu thầu xây dựng
Có nhiều chỉ tiêu khi đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp khi
tham gia đấu thầu xây dựng, nhưng thường dùng các chỉ tiêu chủ yếu sau: [5]
- Về năng lực và kinh nghiệm:
Đây là chỉ tiêu xác định điều kiện đầu tiên đảm bảo nhà thầu được tham gia
cạnh tranh đấu thầu trong mỗi dự án (gói thầu). Chỉ tiêu này thể hiện khả năng hiện
có của mỗi một nhà thầu về tổng thể được thể hiện trên các mặt: Kinh nghiệm, trình


17

độ nhân lực; máy móc thiết bị, khả năng về tài chính với những tiêu chuẩn chung
nhất định tùy theo quy mô, yêu cầu kỹ thuật, tiến độ của từng dự án (gói thầu).

- Về mặt kỹ thuật chất lượng:
Chỉ tiêu này là tổng hợp của các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng, biện pháp
thi công và tiến độ thi cơng cơng trình.
+ u cầu về kỹ thuật và chất lượng: Đòi hỏi nhà thầu dự thầu phải đưa ra
giải pháp và biện pháp thi công, sử dụng máy móc thiết bị có tính hơp lý và khả thi
(được nêu cụ thể trong HSMT). Trên cơ sở đáp ứng các u cầu về kỹ thuật, chất
lượng cơng trình. Đưa ra sơ đồ tổ chức hiện trường, bố trí nhân lực, các biện pháp
đảm bảo an toàn lao động, vệ sinh môi trường hợp lý.
+ Tiến độ thi công: Là thời gian cần thiết để nhà thầu thi cơng hồn thành
cơng trình. Tiến độ thi cơng phải được bố trí một cách tuần tự khoa học nhằm sử
dụng tối đa nguồn lực sẵn có của nhà thầu và mang tính khả thi cao. Tiến độ thi
công được quy định cụ thể trong HSMT. Nhà thầu cần có sự nghiên cứu địa bàn thi
công, mặt bằng thi công, nguồn gốc vật liệu… qua đó bố trí thi cơng các hạng mục,
các phần việc hợp lý nhằm đưa ra được tổng thời gian thi cơng cơng trình ngắn
nhất. Mức độ đảm bảo tổng tiến độ thi quy định và sự hợp lý về tiến độ hoàn thành
giữa các hạng mục, nhần việc cơng trình có liên quan.
- Về mặt giá dự thầu:
Chỉ tiêu về giá dự thầu là một chỉ tiêu kinh tế, có vai trị quan trọng nhất
trong việc quyết định nhà thầu trúng thầu hay không và ảnh hưởng lớn đến hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp dự thầu.
Các nhà thầu khi xây dựng giá dự thầu đều dựa trên cơ sở khối lượng mời
thầu, định mức xây dựng, bảng giá ca máy, giá vật liệu, chi phí nhân cơng, các chi
phí khác của Doanh nghiệp và các quy định chung của Nhà nước. Nếu tất cả các
nhà thầu đều tính đúng, tính đủ theo chế độ quy định thì sẽ có giá dự thầu giống
nhau (có sai khác phần nào là do kỹ năng tính tốn) và điều này làm mất đi tính
cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng. Vấn đề đặt ra là nhà thầu phải định ra được giá
dự thầu thấp hơn, đây chính là năng lực cạnh tranh về giá của các nhà thầu.


18


Năng lực cạnh tranh về giá của các nhà thầu có thể xác định thơng qua cơng
thức sau:
KG =

Gdt
GA

(1-3)

Trong đó:
KG: Là hệ số cạnh tranh về giá của nhà thầu. Hệ số này càng nhỏ hơn 1
chứng tỏ năng lực cạnh tranh về giá của nhà thầu càng cao.
GA: Là giá dự tốn của gói thầu được theo các quy định chung.
Gdt: Là giá dự thầu của gói thầu do nhà thầu xác định khi tham gia dự thầu.
Trong thực tế việc xây dựng giá dự thầu để có thể trúng thầu là cực kỳ quan
trọng và phức tạp vì nó liên quan đến nhiều yếu tố, bao gồm:
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của khu vực, nơi thực hiện gói thầu như
nguồn vật tư, vật liệu, hệ thống giao thông, điện nước… trong khu vực. Đây là
những yếu tố khá quan trọng trong việc xem xét giá bỏ thầu.
- Đặc điểm yêu cầu của gói thầu: Các tiêu chuẩn kỹ thuật, mức độ cụ thể về
mã hiệu, chủng loại vật tư, qui mơ tính chất của gói thầu… cũng là những yếu tố để
các nhà thầu cân nhắc đưa ra tỷ lệ giảm giá dự thầu hợp lý.
Chỉ tiêu về giá, thực chất là tổng thể của hai tiêu chí trên. Bởi vì năng lực –
kinh nghiệm; trình độ kỹ thuật, chất lượng là những yếu tố có tính quyết định đến
việc đưa ra mức giá dự thầu của từng nhà thầu xây dựng.

1.1.3.4. Các nhân tố cơ bản cấu thành năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây
dựng
a. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp

Bảng 1.1. Các nhân tố thuộc môi trường bên trong doanh nghiệp cấu
thành năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
Các nhân tố bên
trong
1.

Năng

nghiệm

lực,

kinh

Nội dung
- Năng lực kỹ thuật: Số lượng, trình độ cán bộ,
cơng nhân kỹ thuật trực tiếp thực hiện gói thầu và số


19

lượng thiết bị thi cơng sẵn có, khả năng huy động
thiết bị thi cơng để thực hiện gói thầu.
- Năng lực tài chính: Quy mơ về nguồn vốn tự
có và vốn đi vay, khả năng huy động vốn phục vụ
cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả
sử dụng nguồn vốn đó, cơ cấu giữa vốn cố định và
vốn lưu động.
- Kinh nghiệm nhà thầu: Thường được biểu thị
qua số năm về lĩnh vực xây dựng, các gói thầu có quy

mơ, tính chất tương tự đã từng thực hiện.
2. Nhân tố kỹ thuật,
công nghệ thi công

- Số lượng, chủng loại máy móc thiết bị;
- Tính hiện đại, cơng nghệ độc quyền;
- Trình độ tổ chức thi cơng xây dựng.
Khả năng cạnh tranh phụ thuộc vào trình độ
lập HSDT. Tổ chức lập HSDT đòi hỏi phải qua các
bước nghiên cứu HSMT. Cơng việc này địi hỏi sự

3. Trình độ tổ chức lập nghiêm túc tỷ mỉ, hiểu rõ nội dung và yêu cầu của
HSDT

HSMT. Điều tra môi trường đấu thầu, thơng tin về
gói thầu, lập phương án thi cơng, xác định giá dự
thầu. HSDT có thể bị loại ngay từ vịng đầu nếu
HSDT khơng đảm bảo các u cầu của bên mời thầu.
Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp xây
dựng không giống như với hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp thông thường là đưa các sản phẩm

4. Hoạt động Marketing

của mình ra ngồi thị trường để chào bán mà cần phải
tạo ra danh tiếng để khách hàng tìm đến đặt hàng
trước. Vì vậy Marketing tốt sẽ là cầu nối để khách
hàng biết đến danh tiếng, thành tích của doanh
nghiệp mình. Như vậy marketing đã ảnh hưởng đến



20

khả năng trúng thầu của doanh nghiệp hay nói cách
khác là tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của
doanh nghiệp.
Thông qua liên danh, liên kết các doanh nghiệp
xây dựng có thể đáp ứng tồn diện u cầu của một cơng
trình lớn với mức độ phức tạp cao.
5. Khả năng liên danh

Liên kết có thể theo chiều ngang, hoặc liên kết
theo chiều dọc. Việc liên danh liên kết đảm bảo rằng

liên kết

doanh nghiệp có năng lực tổng hợp, tồn diện chiếm ưu
thế trong đấu thầu, là hình thức quan trọng nhằm nâng
cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây dưng.
Với bản chất là quan hệ giữa người mua –
người bán, nên chủ đầu tư – người mua thì ln
muốn mua hàng với giá thấp nhất, còn người bán –
nhà thầu xây dựng thì muốn bán được hàng và bán
với giá cao nhất có thể. Chính vì thế mà giá dự thầu
trở thành nhân tố quan trọng bất nhất trong cạnh
6. Gía dự thầu

tranh về đấu thầu giữa các doanh nghiệp xây dựng.
Có rất nhiều nhà thầu tỏng cuộc cạnh tranh đó có
những kiều kiện tương đồng về kinh nghiệm, tài

chính, năng lực kỹ thuật, tuy nhiên nhà thầu dành
phần thắng chính là là thầu bỏ thầu với giá thấp nhất
trong số đó và đó là mức giá hợp lý.

b. Các nhân tố thuộc mơi trường bên ngồi doanh nghiệp
Bảng 1.2: Các nhân tố thuộc mơi trường bên ngồi doanh nghiệp cấu
thành năng lực cạnh tranh trong đấu thầu xây dựng
Các nhân tố bên ngồi
1. Cơ chế chính sách của

Nội dung
Khi tham gia đấu thầu thì chủ đầu tư và các


21

Đảng và Nhà nước về nhà thầu đều thực hiện đúng Luật và các quy định
đấu thầu

của nhà nước về đấu thầu. Đó là hệ thống các văn
bản, quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý đảm bảo
cho hoạt động đấu thầu được thực hiện theo một quy
trình thống nhất, công bằng, minh bạch. Một hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu
thống nhất, ổn định và phù hợp với các văn bản luật
khác có liên quan sẽ tạo ra một mơi trường cạnh
tranh bình đẳng, đạt hiệu quả cao trong công tác đấu
thầu, hạn chế tiêu cực và phát huy tính tích cực trong
cạnh tranh đấu thầu.
Công nghệ được coi là yếu tố quan trọng

trong cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh trong đấu
thầu. Sự tiến bộ khoa học công nghệ là yếu tố ngày
càng quan trọng, nhà thầu nào nắm được công nghệ

2. Yếu tố cơng nghệ

mới thì rõ ràng sẽ chiếm ưu thế trong đấu thầu, đối
với cơng trình địi hỏi cơng nghệ cao thì yếu tố về
giá sẽ khơng cịn quan trọng nữa. Công nghệ là cơ
hội đồng thời là mối đe dọa của doanh nghiệp, cơng
nghệ có chu kỳ sống vì vậy doanh nghiệp cần phải
lường trước được sự thay đổi của công nghệ mới.
Các đối thủ cạnh tranh là nhân tố ảnh hưởng
trực tiếp nhất đến khả năng thắng thầu của doanh
nghiệp. Số lượng cũng như khả năng cạnh tranh của

3. Các đối thủ cạnh các đối thủ quyết định mức độ cạnh tranh trong các
tranh

cuộc đấu thầu.
Để trúng thầu, nhà thầu phải vượt qua được
tất cả các nhà thầu tham dự đấu thầu. Tức là phải
đảm bảo được năng lực vượt trội của mình trước các


22

đối thủ cạnh tranh hiện tại và với các đối thủ cạnh
tranh tiềm ẩn.
Thị trường cạnh tranh là nơi diễn ra sự cạnh

tranh của các doanh nghệp, ở đó có thể xác định ai
có khả năng thắng thầu và ai sẽ bị loại. Mặt khác, thị
trường là cơ sở quan trọng để hình thành nên cơ cấu
4. Thị trường cạnh tranh đấu thầu, nó tác động đến đầu vào và đầu ra của dự
án. Thị trường cũng là nơi để ra mục tiêu và nhu cầu
phục vụ việc thực hiện đấu thầu, ở đó các yếu tố
cung cầu, giá cả lên xuống thất thường ảnh hưởng tới
việc xác định giá dự thầu.
- Chủ đầu tư: Là cơ quan chịu trách nhiệm
hoàn toàn về dự án trước pháp luật. Do vậy, chủ đầu
tư có ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghệp tham gia
đấu thầu. Nếu chủ đầu tư có tinh thần trách nhiệm
cao, có trình độ chun mơn nghiệp vụ tốt thì sẽ tạo
nên việc cạnh tranh lành mạnh trong đấu thầu, ngược
lại sẽ tạo sự quan liêu trong đấu thầu.
- Tổ chức tư vấn:
5. Các bên liên quan

Tư vấn đấu thầu giúp chủ đầu tư làm công tác
đấu thầu bao gồm các công việc như chuẩn bị tài liệu
pháp lý, soạn thảo HSMT, tiếp nhận và quản lý
HSDT, so sánh và xếp hạng các HSDT, tổng hợp tài
liệu về quá trình đánh giá xét chọn nhà thầu và lập
báo cáo xét thầu.
- Các nhà cung cấp:
Đối với thị trường xây dựng, danh tiếng, sự
đảm bảo của nhà cung cấp ảnh hưởng rất lớn đến chủ
đầu tư, do có liên quan trực tiếp đến chất lượng công



23

trình. Các nhà cung ứng kịp thời, đồng bộ và đầy đủ
vật tư cho cơng trình thì sẽ đảm bảo thời gian, chất
lượng thi cơng. Vì vậy, tạo được mối quan hệ tốt với
các nhà cung cấp sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh
trong đấu thầu của doanh nghiệp.

1.1.4. Tổng quan về nhóm các giải pháp nâng cao khả năng thắng thầu của
các nhà thầu
Để nâng cao khả năng thắng thầu của nhà thầu có thể áp dụng nhiều nhóm
giải pháp, được phân theo các cách khác nhau, trong phạm vi nghiên cứu của mình,
đề tài xin được đề cập các nhóm giải pháp chính sau:

1.1.4.1. Giải pháp cơng nghệ thi công
Đây là một trong những giải pháp quan trọng của doanh nghiệp để nâng cao
khả năng thắng thầu. Giải pháp công nghệ thi công là việc doanh nghiệp áp dụng
tiến bộ công nghệ thi công để sản xuất sản phẩm đạt chất lượng tốt nhất, hoặc giá
thành rẻ nhất.
Việc áp dụng công nghệ thi công được thực hiện trên cơ sở chính sách đầu tư
máy móc thiết bị hiện đại, đồng bộ. Giải pháp công nghệ thi công thường mang lại
cho doanh nghiệp ưu thế về giá thành, tiến độ khi tham gia cạnh tranh các cơng
trình phổ thơng hoặc đem lại lợi thế độc quyền khi doanh nghiệp tham gia các cơng
trình lớn, địi hỏi cơng nghệ thi công phải đặc biệt.

1.1.4.2. Giải pháp giá dự thầu
Giá dự thầu ln là tiêu chí hàng đầu để xem xét và lựa chọn nhà thầu, nên
cạnh tranh thông qua giá dự thầu là một trong những giải pháp quan trọng để nâng
cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Giá dự thầu được xây dựng trên cơ sở các chi phí cần thiết để thực hiện gói

thầu được xác định trước khi sản phẩm được hình thành, do đó việc xác định các
khoản mục chi phí cấu thành chỉ mang tính chất ước tính, phụ thuộc vào năng lực
và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.


×