Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Sự vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân tộc của Đảng cộng sản Việt Nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.05 KB, 11 trang )

Sự vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân
tộc của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đặt vấn đề
Việt Nam là nước đa dân tộc, vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn
được Ðảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, với quan điểm nhất quán, xuyên suốt
là các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Nước ta có 53 dân tộc thiểu số (DTTS) với khoảng hơn 14 triệu người
(chiếm 14,7% dân số cả nước), cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548
huyện, 5266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới. Địa bàn cư trú
chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây duyên hải Miền Trung.
Trong 53 DTTS có 5 dân tộc trên 1 triệu người, 16 dân tộc dưới 10.000 người,
trong đó có 5 dân tộc dưới 1.000 người (1).
Miền núi là địa bàn rộng lớn, chiếm 3/4 diện tích tự nhiên của nước ta, là nơi
sinh sống lâu đời của phần lớn các DTTS, có tiềm lực kinh tế to lớn, có nguồn tài
nguyên phong phú, đa dạng, bao gồm đất, rừng, sinh vật, thủy năng, khống sản,
cây cơng nghiệp,... với địa thế cao, dốc và thảm thực vật lớn, miền núi đóng vai trị
quyết định đối với mơi trường sinh thái của cả nước. Nằm dọc biên cương phía bắc
và phía tây Tổ quốc, miền núi lại có nhiều cửa ngõ thông thương giữa nước ta với
thế giới và các nước trong khu vực cho nên có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc
phịng, an ninh và đối ngoại.
Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng – an
ninh, Đảng và Nhà nước ta đã xác định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi
(DTTS&MN) là khu vực trọng yếu, giữ vị trí chiến lược quan trọng của đất nước

1


1. Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc
Cùng với vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc luôn luôn là một nội dung quan
trọng có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải quyết vấn đề dân


tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định, phát triển hay
khủng hoảng, tan rã của một quốc gia dân tộc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề dân tộc là một bộ phận
của những vấn đề chung về cách mạng vơ sản và chun chính vơ sản. Do đó, giải
quyết vấn đề dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản và trên cơ sở của cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh rằng, khi xem xét và
giải quyết vấn để dân tộc phải đáp ứng vững trên lập trường giai cấp cơng nhân.
Điều đó cũng có nghĩa là việc xem xét và giải quyết vấn đề dân tộc phải trên cơ sở
và vì lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc.
Giải quyết vấn để dân tộc thực chất là xác lập quan hệ cơng bằng, bình đẳng
giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa các quốc gia dân tộc trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Trên cơ sở tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về vấn đề dân tộc và giai cấp,
cùng với sự phân tích hai xu hướng của vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đã nêu ra
"Cương lĩnh dân tộc" với ba nội dung cơ bản: các dân tộc hồn tồn bình đẳng; các
dân tộc được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây được coi
là cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin là một bộ phận không thê
tách rời trong cương lĩnh cách mạng của giai câp công nhân; là tuyên ngôn về vấn
đề dân tộc của đảng cộng sản trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp và giải quyết đúng đắn mối quan hệ dân tộc. Cương lĩnh đã trở
thành cơ sở lý luận cho chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc của các đảng
cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Các dân tộc hồn tồn bình đẳng
Quyền bình đẳng giữa các dân tộc là quyền thiêng liêng của dân tộc. Tất cả
các dân tộc, dù đông người hay ít người, có trình độ phát triển cao hay thấp đều có
quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, khơng có đặc quyền đặc lợi về kinh tế, chính trị,
văn hóa, ngơn ngữ cho bất cứ dân tộc nào.
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế, trong đó việc khắc

phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc do lịch
sử để lại có ý nghĩa cơ bản.
2


Trong quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn liền
với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước
lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước lạc
hậu, chậm phát triển về kinh tế. Mọi quốc gia đều bình đẳng trong quan hệ quốc tế.
- Các dân tộc được quyền tự quyết
Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền tự quyết
định con đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình. Quyền dân
tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc
lập (vì lợi ích của các dân tộc, chứ khơng phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm
người nào) và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình
đẳng.
Khi xem xét giải quyết quyền tự quyết của dân tộc, cần đứng vững trên lập
trường của giai cấp công nhân: ủng hộ các phong trào dân tộc tiến bộ, kiên quyết
đấu tranh chống lại những mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài
để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ dân tộc.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc
Đây là tư tưởng, nội dung cơ bản trong "Cương lĩnh dân tộc" của V.I.Lênin.
Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, phong trào
cơng nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải
phóng giai cấp.
Đồn kết giai cấp cơng nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp
giải phóng dân lộc. Nó có vai trị quyết định đến việc xem xét, thực hiện quyền
bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết. Đồng thời, đây cũng là yếu tố tạo nên
sức mạnh bảo đảm cho thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.

2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta dựa trên cơ sở lý luận chủ
nghĩa Mác- Lênin và vận dụng vào thực tiễn đất nước
Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng lý luận
cơ bản để Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc. Vấn
đề dân tộc cũng được xem như vấn đề có vị trí chiến lược.Trong từng giai đoạn
cách mạng, vấn đề này được nhận thức và giải quyết theo từng quan điểm cụ thể,
phù hợp với tình hình thực tiễn.
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước ta dựa trên quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về những đặc trưng cơ bản của dân tộc để làm cơ sở lý luận cho việc xây
dựng chính sách dân tộc. Theo đó, dân tộc được hiểu là sản phẩm của một q
trình phát triển lâu dài của xã hội lồi người. Dân tộc là cộng đồng người gắn liền
với xã hội có Nhà nước, có giai cấp. Là một khái niệm đa nghĩa, tuy nhiên xét về
3


cơ bản, dân tộc được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng, dân tộc – quốc gia
(nation) là chỉ một cộng đồng chính trị - xã hội rộng lớn, gồm nhiều cộng đồng tộc
người, được chỉ đạo bởi một Nhà nước, thiết lập trên một lãnh thổ nhất định[1].
Cộng đồng người cùng một ngơn ngữ, văn hố, sắc tộc, nguồn gốc hoặc lịch sử và
gắn liền với một quốc gia cụ thể nên cịn gọi là quốc dân. Ví dụ: dân tộc Việt Nam,
dân tộc Lào…Theo nghĩa hẹp, dân tộc (ethnic) là cộng đồng mang tính tộc người,
xuất hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi 3
đặc trưng cơ bản là ngôn ngữ, văn hoá và ý thức tự giác về cộng đồng, mang tính
bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử. Ví dụ: dân tộc Thái, dân tộc Khmer, dân tộc
Ê- Đê…
Đồng thời, qua nghiên cứu và vận dụng lý luận về hai xu hướng khách quan
trong sự phát triển của dân tộc và quan hệ dân tộc cũng như Cương lĩnh dân tộc
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã giúp cho Đảng ta có những quan điểm đúng đắn,
phù hợp khi giải quyết các quan hệ dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
Thứ hai, cơng tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ và trách

nhiệm của tồn hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta…Và
vấn đề được đặt ra là chúng ta phải biết quán triệt và vận dụng một cách đúng đắn,
phù hợp những quan điểm, đường lối của Đảng vào từng giai đoạn và hoàn cảnh
lịch sử của từng dân tộc trong cộng đồng 54 dân tộc anh em cùng sinh sống trên
lãnh
thổ
Việt
Nam.
Theo đó, Đảng ta khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn kết, tương
trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường
văn minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam…” Qua các kỳ Đại hội, Đảng ta luôn nhất quán trong chủ trương,
đường lối và giữ vững nguyên tắc thực hiện chính sách dân tộc. Gần đây nhất, tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã nêu rõ “ Đồn kết các dân tộc
có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hồn thiện
các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tơn trọng, đồn kết, giải
quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển…”. Đồng thời,
trên cơ sở thực tiễn về đặc điểm cơ bản của quá trình phát triển tộc người và hình
thành dân tộc - quốc gia ở Việt Nam mà Đảng ta đã lấy làm căn cứ để đề ra những
chính sách dân tộc hiện nay.
Một là, các dân tộc Việt Nam cư trú, sinh sống xen kẽ nhau và có sự chênh
lệch khá lớn về nhiều mặt. Trong 54 dân tộc anh em, dân tộc Kinh lại chiếm đa số
khoảng 86% dân số cả nước và chủ yếu sinh sống tại các thành phố, vùng đồng
bằng, trung du. Trong khi đó, 53 dân tộc cịn lại chỉ chiếm khoảng 14% dân số cả
4


nước và tập trung chủ yếu ở vùng núi, biên giới, hải đảo,.. như: Tây Bắc, Tây
Nguyên và một số tỉnh khu vực duyên hải miền Trung…Hai là, các dân tộc Việt
Nam có truyền thống đồn kết, tương thân tương ái, gắn bó lâu đời trong q trình

đấu tranh dựng nước và giữ nước. Những người anh hùng dân tộc như anh hùng
Núp (dân tộc Ba Na) trong kháng chiến chống Pháp, đồng bào dân tộc Pa Cô anh
dũng trong kháng chiến chống Mỹ,..đó là những tấm gương tiêu biểu của đồng bào
dân tộc thiểu số góp phần vào thành công chung của cách mạng nước nhà. Ba
là, các dân tộc Việt Nam đều có một bản sắc riêng tạo nên sự thống nhất trong đa
dạng của văn hóa Việt Nam. Trong đó, thì bản sắc văn hóa của các dân tộc chính là
yếu tố cốt lõi tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam nói chung. Bốn là, xuất phát từ
những vấn đề thực tiễn đã và đang đặt ra hiện nay cũng chính là cơ sở quan trọng
để đề ra những chính sách dân tộc đúng đắn, phù hợp. Có thể thấy, vừa qua, một số
vụ bạo loạn xảy ra ở Tây Nguyên, Tây Bắc do các thế lực thù địch cơng kích, lợi
dụng những sơ hở, thiếu sót của ta trong thực hiện các chính sách dân tộc, tơn giáo
nhằm âm mưu chia rẽ, phá hoại chính sách đồn kết dân tộc của ta. Điều nay, địi
hỏi Đảng, Nhà nước cũng như các cấp, các ngành cần có những giải pháp mềm
mỏng, phù hợp để thực hiện các chính sách dân tộc hiện nay cũng như trong giai
đoạn tiếp theo.
3.Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới
Từ Đại hội Đảng lần thứ VI, sau hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn: quốc phòng, an ninh được đảm bảo, đất nước được
giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
và chế độ xã hội chủ nghĩa, cơ bản giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã
hội. Trong đó, quan trọng nhất chính là Việt Nam đã thực hiện hiệu quả việc chống
“âm mưu diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ; vơ hiệu hóa hoạt động của các thế
lực thù địch trong và ngoài nước, đã lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân
quyền để gây mất ổn định đất nước ta. Qua đó cho thấy, Đảng ta đã đề ra những
đường lối, chủ trương đúng đắn trong việc thực hiện chính sách dân tộc ở nước ta
trong những năm qua. Trong đó, cơ bản giải quyết tốt quan hệ dân tộc, củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo đúng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại.
Chính sách dân tộc ở nước ta chính là việc cụ thể hóa những quan điểm,
đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc, tác động trực tiếp đến việc giải quyết mối

quan hệ dân tộc, xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc dựa vào những nguyên
tắc cơ bản, như: bình đẳng, đồn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc
và giúp nhau cùng phát triển. Về mục tiêu, chính sách dân tộc khai thác mọi tiềm
năng và thế mạnh của các dân tộc và của cả đất nước, từng bước khắc phục và xóa
5


bỏ khoảng cách chênh lệch vùng miền, xóa đói giảm nghèo, thực hiện sự nghiệp
“dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân chủ, văn minh”.
Nhìn chung, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chính sách dân tộc của nước ta
tập trung vào những vấn đề cơ bản: Thứ nhất là chính sách về phát triển kinh tế
vùng các dân tộc thiểu số, nhằm phát huy tiềm năng và thế mạnh của vùng đồng
bào các dân tộc, gắn với kế hoạch phát triển chung của cả nước, đưa vùng đồng
bào dân tộc thiểu số phát triển cùng với mặt bằng chung, tiến tới hiện đại hóa, cơng
nghiệp hóa đất nước; Thứ hai, chính sách dân tộc tập trung vào thực hiện các chính
sách xã hội, đó là những vấn đề giáo dục - đào tạo, văn hóa, y tế, an sinh xã hội,…
nhằm nâng cao trình độ tri thức, chăm sóc sức khỏe, cải thiện các mặt đời sống,
giúp đồng bào các dân tộc thiểu số từng bước vượt khó, thốt nghèo, phát triển
bình đẳng so với mặt bằng chung cả nước; Thứ ba, chính sách về an ninh, quốc
phịng nhằm củng cố các địa bàn chiến lược, xây dựng thế trận quốc phịng tồn
dân, giữ vững trật tự an tồn xã hội và ổn định chính trị.
4. Những thành tựu về việc xây dựng và thực hiện chính sách dân tộc ở nước
ta hiện nay
Về việc xây dựng chính sách dân tộc, qua các nhiệm kỳ Quốc hội từ khóa X
đến nay, Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật có những nội dung liên quan đến dân
tộc thiểu số. Tính đến nay, Quốc hội đã ban hành hơn 100 luật, hơn 30 nghị quyết
có nội dung, chính sách liên quan đến lĩnh vực dân tộc thiểu số, miền núi và
vùng đặc biệt khó khăn. Ngồi ra, Chính phủ cũng đã ban hành hàng trăm văn bản
về tất cả các khía cạnh của đời sống liên quan đến chính sách dân tộc. Nội dung
các văn bản ngày càng đi vào đời sống và phù hợp với tình hình thực tiễn của từng

dân tộc và tình hình chung của đất nước. Điều này cho thấy rằng, Đảng và Nhà
nước đã thực sự quan tâm đối với công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất
nước nói chung và vùng dân tộc thiểu số nói riêng. Những chính sách dân tộc được
ban hành đều đưa ra những giải pháp cụ thể để thực thi một cách hiệu quả. Trong
quá trình thực thi, đều tiến hành tổng kết, sơ kết, rút kinh nghiệm và đi kèm các
biện pháp tuyên truyền, phổ biến một cách công khai, minh bạch đến mọi tầng lớp
Nhân dân và đề cao vai trò dân chủ trong thực hiện chính sách dân tộc.
Nói về những thành tựu trong thực hiện chính sách dân tộc, có thể khẳng
định, ở nước ta hiện nay, tất cả mọi công dân khơng phân biệt dân tộc, tơn giáo, tín
ngưỡng, giới tính,…đều bình đẳng về chính trị, pháp luật và mọi lĩnh vực trong đời
sống xã hội. Khối đại đoàn kết dân tộc được giữ vững, sự gắn kết giữa 54 dân tộc
ngày càng được củng cố, tăng cường trên cơ sở tơn trọng, đồn kết, giúp đỡ nhau
cùng phát triển, chung tay xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Công tác dân tộc thời gian qua đã góp phần tích cực trong việc thay đổi diện mạo
6


vùng nông thôn, miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, quyền bình đẳng
giữa các dân tộc ngày càng được thể chế hóa, đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào ngày càng được nâng lên rõ rệt. Theo số liệu từ Cục thống kê 2010 2015, chỉ tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo của các địa phương vùng dân tộc thiểu số và
miền núi đều đạt và vượt, bình quân từ 3 - 4%/năm. Trong Hội nghị tổng kết 10
năm thực hiện 8 mục tiêu thiên niên kỷ (2010), Liên hợp quốc đã đánh giá Việt
Nam là một trong những nước thành công nhất trong việc xóa đói, giảm nghèo.
Khơng những cơng tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả khả quan mà
đối với công tác giáo dục dân trí của đồng bào các dân tộc cũng được cải thiện.
Hiện nay, vùng đồng bào dân tộc và miền núi đã phổ cập giáo dục tiểu học và trung
học cơ sở theo độ tuổi và cơ bản xóa mù chữ. Đời sống văn hóa của các dân tộc
được giữ gìn và phát huy, mạng lưới thơng tin, truyền thông rộng khắp và giúp cho
đồng bào dân tộc tiếp cận được chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước. Các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy,

nhiều di sản văn hóa của đồng bào dân tộc đã được UNESCO cơng nhận (Khơng
gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Ngun).
Bên cạnh đó, những lĩnh vực đời sống xã hội khác cũng được cải thiện và
từng bước được nâng lên, như: công tác y tế ngày càng được cải thiện và đáp ứng
nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc; hệ thống chính trị vùng dân tộc
được củng cố; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số trong
hệ thống chính trị từng bước nâng lên cả về số lượng lẫn chất lượng. Đó là nhờ vào
chính sách “khuyến học, khuyến tài” và chính sách ưu đãi trong lĩnh vực giáo dục
đối với con, em đồng bào dân tộc thiểu số trong thời gian qua đã đem lại nhiều
hiệu quả thiết thực. Về an ninh chính trị và trật tự xã hội tại các vùng dân tộc, vùng
sâu, vùng xa, cơ bản ổn định. Bà con đồng bào dân tộc ngày càng tin tưởng tuyệt
đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước.
5 .Thực hiện chủ trương, chính sách phù hợp, đúng đắn - Kiên quyết phản
bác những luận điểm xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề dân tộc
Với những nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta, công tác xây dựng và thực hiện chính
sách dân tộc đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Qua đó, góp phần quan
trọng củng cố và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ đổi mới. Trong
đó, Đảng ta ln kiên định “thực hiện bình đẳng dân tộc, đoàn kết tương trợ giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ. Chống các âm mưu chi rẽ phá hoại khối đại đoàn kết dân
tộc”.
Thời gian qua, các thế lực thù địch còn lợi dụng các vấn đề nhạy cảm về lịch
sử, đất đai và tập quán sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số cũng như những
khó khăn của một bộ phận người dân tộc miền núi, vùng sâu, vùng xa để vu cáo
7


Nhà nước ta “phân biệt đối xử”,“đàn áp người dân tộc thiểu số”, “ép” người dân
tộc thiểu số theo lối sống” văn minh” của người dân tộc Kinh… Bên cạnh đó,
chúng cịn lợi dụng tình trạng một số cán bộ, đảng viên “tha hóa, biến chất” đã có
những ứng xử không phù hợp với đồng bào dân tộc để gây ra hiềm khích, tạo tâm

lý tiêu cực nhằm để tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, phủ nhận thành tựu mà Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta đã dày công xây dựng.
Đặc biệt, chúng tìm cách kích động, lơi kéo đồng bào dân tộc đòi “quyền dân
tộc tự quyết, tự quản”, địi thành lập Nhà nước riêng, thốt ly khỏi sự quản lý của
Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc như: “Vương quốc Mông” ở Tây
Bắc, “Nhà nước Tin lành Đề-ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Khmer Krom” ở
Tây Nam Bộ,…Thông qua sự bùng nổ và phát triển của không gian mạng, các thế
lực thù địch phát tán, truyền bá các tài liệu, văn bản, những đoạn clip “dàn dựng”
nhằm xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, trong đó có quyền của người dân
tộc thiểu số ở trong nước, nhằm hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế…
Thế nhưng, bằng những biện pháp kiên quyết, đúng đắn, sự quyết tâm cao độ, sự
đoàn kết nhất trí của tồn Đảng, tồn dân ta, đã góp phần đập tan mọi âm mưu chia
rẽ, những quan điểm và luận điệu sai trái của các thế lực thù địch nhằm phá hoại
khối đại đoàn kết dân tộc. Từ những cơ sở thực tiễn đang diễn ra trên đất nước ta,
từ việc thể chế hóa những đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và việc
thống nhất và áp dụng đúng đắn, phù hợp với pháp luật quốc tế về vấn đề dân tộc,
chúng ta đã chứng minh và phản bác lại những quan điểm sai trái nêu trên. Cụ thể,
tại Điều 5 - Hiến pháp 2013, tr.13, quy định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt
Nam. Các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc” và tại Điều 14 – Hiến pháp 2013,
tr.17 cũng khẳng định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng
nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.
Thực tế cho thấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã khơng ngừng đẩy mạnh
cơng tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các dân tộc thiểu
số. Thơng qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và chính sách cụ thể đối
với các vùng, các dân tộc để giúp đồng bào vươn lên thốt nghèo, nâng cao dân trí,
cải thiện chất lượng cuộc sống của làng bản. Hiện nay, tốc độ tăng GDP trung bình

vùng dân tộc thiểu số hàng năm đạt 8 - 11% (6,5%). Chương trình 135 giai đoạn I
đã đầu tư 9.142 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước để xây dựng, duy tu, bảo dưỡng
3.295 cơng trình; hỗ trợ trực tiếp cho 1.512 triệu hộ nghèo, cận nghèo. Tập huấn
8


cho 103 ngàn người, dạy nghề cho 720 ngàn người, góp phần giúp con em tìm
kiếm việc làm. Ngân hàng chính sách xã hội đã cho 1,4 triệu hộ vùng có đơng đồng
bào dân tộc thiểu số vay 45.194 tỷ đồng để phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Sau
đó, chương trình 135 giai đoạn 2 nâng tổng số vốn đầu tư là 14.000 tỷ đồng chi từ
Ngân sách cho đồng bào dân tộc. Ngoài ra, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính
sách ưu tiên trên nhiều lĩnh vực cho người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, như: Chính sách ưu tiên trong lĩnh vực giáo dục, chiếu cố tiêu
chuẩn để học sinh dân tộc thiểu số được tham gia học tập ở bậc cao đẳng, đại học
(điểm cộng, chế độ cử tuyển); ưu tiên bằng kéo dài thời gian đào tạo ở cả khâu
chuẩn bị đầu vào lẫn khâu đào tạo chính thức ở bậc đại học, cao đẳng. Trong lĩnh
vực y tế: chế độ phát thẻ Bảo hiểm y tế miễn phí và nhiều chính sách y tế ưu đãi
cho đồng bào các dân tộc … Như vậy, có thể khẳng định rằng, bằng nhiều hình
thức, Đảng và Nhà nước đã thể hiện sự quan tâm, chăm lo cho đời sống bà con
đồng bào các dân tộc.
Do đó, để phản bác lại những quan điểm sai trái, bịa đặt của các thế lực thù
địch, Đảng và Nhà nước ta đã thông qua nhiều kênh thông tin tuyên truyền để
chuyển tải những chủ trương, chính sách, thành tựu đã đạt được trong việc bảo vệ,
phát huy quyền của người dân tộc thiểu số ở nước ta đến mọi tầng lớp nhân dân,
cộng đồng quốc tế và kiều bào ta ở nước ngoài, để có cái nhìn tồn diện, khách
quan và đúng đắn về chính sách dân tộc ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Có thể nói, nghiên cứu và vận dụng một cách sáng tạo học thuyết Mác –
Lênin vào thực tiễn đất nước, tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và
quan hệ dân tộc thể hiện ở hai lĩnh vực: thứ nhất là vấn đề dân tộc ở cấp độ dân tộc
– quốc gia và thứ hai là vấn đề dân tộc ở cấp độ dân tộc – tộc người (một quốc gia

có nhiều dân tộc). Hiện nay, xét ở cấp độ quốc gia có nhiều dân tộc, theo tư tưởng
của chủ tịch Hồ Chí Minh thì việc giải quyết những vấn đề dân tộc chính là việc đề
ra những đường lối, chính sách đúng đắn để xóa bỏ nghèo nàn, xóa bỏ lạc hậu ở
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nâng cao đời sống nhân dân các dân tộc với quan
điểm “thực hiện đồn kết, bình đẳng, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ” và làm
cho “miền núi tiến kịp miền xuôi” và người đồng bào dân tộc được hưởng đầy đủ
những quyền lợi trong mọi mặt đời sống xã hội.
Trong giai đoạn đổi mới hiện nay, đan xen giữa những thời cơ và thách thức,
tiếp tục tiếp thu và kế thừa một cách đầy đủ, sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Đảng và Nhà nước ta, cùng với các cấp, các ngành đã, đang và sẽ tiếp tục
xây dựng và thực hiện những chính sách dân tộc phù hợp, đúng đắn, góp phần giữ
gìn và phát huy sức mạnh của khối đại đồn kết dân tộc, kiên trì độc lập dân tộc
9


gắn liền với chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh./.

10


1.
2.
3.

4.
5.

6.
7.


8.
9.

Tài liệu tham khảo
Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, H.1991.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2016.
Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của
đời sống xã hội, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị
Hà Nội, H.2016.
Lý luận dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị Hà Nội, H.2016.
Những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam, Giáo trình Trung cấp lý luận chính trị - hành chính, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị Hà Nội, H.2016.
Những vấn đề cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị Hà Nội, H.2016.
Trần Quốc Cường (Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Nội chính
Trung ương) , Cơng tác xây dựng, thực thi pháp luật về dân tộc thiểu số, miền núi
tại Tây Nguyên, Trang Thông tin điện tử tổng hợp Ban Nội chính Trung ương.
Lê Thế Cương (Học viện Chính trị CAND), Lại luận điệu xuyên tạc vấn đề
dân tộc, phá hoại khối đại đồn kết tồn dân, Báo điện tử Cơng an nhân dân.
Văn Hiệu, Bộ CHQS tỉnh Bình Phước, Vấn đề dân tộc và âm mưu, thủ đoạn
chống phá của các thế lực thù địch, Báo điện tử Bình Phước.

11




×