Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

SKKN kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn dạy học phần lịch sử việt nam chương trình lớp 12 THPT theo định hướng dạy học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.13 MB, 36 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài:
KINH NGHIỆM VẬN DỤNG KIẾN THỨC LIÊN MÔN
DẠY HỌC PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM CHƯƠNG TRÌNH LỚP 12
THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC PHÁT TRIỂN PHẨM CHẤT,
NĂNG LỰC HỌC SINH

Năm 2021


KÍ HIỆU VIẾT TẮT
Chữ viết thường
Phương pháp dạy học
và kiểm tra đánh giá
Giáo viên
Học sinh
Trung học phổ thông
Sách giáo khoa
Thực nghiệm
Đối chứng
Giáo dục và Đào tạo

Viết tắt
PPDH và KTĐG
GV
HS
THPT
SGK
TN


ĐC
GD & ĐT


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Các bước thực hiện đề tài
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở vấn đề nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận
1.2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu
2. Một số kinh nghiệm hướng dẫn HS vận dụng kiến thức liên mơn học
phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 THPT theo định hướng dạy
học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh

Trang
1
2
2
2
3
3
4

5
2. 1. Dự kiến phạm vi kiến thức liên mơn có thể vận dụng
5

2.2. Vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy học phần Lịch sử Việt
Nam chương trình 12 cho học sinh ở trường THPT Hoàng Mai bằng
cách phối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt
trong giờ dạy học
13
2.3. Đảm bảo các nguyên tắc cơ bản khi dạy học học phần Lịch sử Việt
Nam chương trình 12
2.4. Năng lực nghệ thuật của giáo viên
3. Thực nghiệm
C. KẾT LUẬN
1. Đóng góp của đề tài
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

17
18
19
31
31


A. MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Lịch sử Việt Nam là một trong những nội dung chủ yếu của bộ mơn Lịch sử
ở bậc trung học phổ thơng, có giá trị lớn lao trong việc giúp các em hiểu được sự
phát triển của tiến trình Lịch sử nước nhà, đồng thời kết hợp cùng với các bộ
môn khác trong nhà trường để giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm đúng đắn
cho học sinh, giúp các em phát triển các năng lực và phẩm chất tồn diện. Đó
cũng là mục tiêu của Chương trình giáo dục phổ thơng mới năm 2018. Từ đó,
góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông theo Nghị quyết

số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn
bản, tồn diện giáo dục và đào tạo. Đó là “Giáo dục con người Việt Nam phát
triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân” và “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục,
đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”.
Tuy nhiên, phần Lịch sử Việt Nam với những bài học viết về thời gian quá khứ
cách các em một khoảng thời gian khá xa, nên khi dạy học nội dung này, giáo
viên gặp rất nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất và cũng là vấn đề trăn trở của
ngành giáo dục, của mỗi giáo viên tâm huyết với nghề, đó là vấn đề phương
pháp giảng dạy.
Trong khi phương pháp truyền thống đang dần mất đi vị thế của mình thì
cũng là lúc nhiều phương pháp mới được ra đời với mong muốn đem lại những
màu sắc tươi mới hơn cho việc dạy và học bộ mơn Lịch sử. Những năm gần đây,
giáo viên có nhiều điều kiện để làm quen và ứng dụng phương pháp tích cực
mới, trong đó có phương pháp dạy học vận dụng kiến thức liên môn. Thực tiễn
đã chứng tỏ rằng, hướng đi này trong giáo dục và dạy học sẽ giúp học sinh phát
triển năng lực giải quyết những vấn đề phức tạp và làm cho việc học tập trở nên
có ý nghĩa hơn so với việc các mơn học, các mặt giáo dục được thực hiện riêng
lẻ. Qua thực tế giảng dạy ở trường phổ thông, tôi nhận thấy việc vận dụng kiến
thức liên môn giữa Lịch sử với kiến thức các môn học khác làm cho hiệu quả
của việc dạy học Lịch sử Việt Nam nói riêng và bộ mơn Lịch sử nói chung được
nâng cao.
Hiện nay, trong các tài liệu tham khảo, đã có nhiều tác giả đã đề cập đến việc
dạy học tích hợp, nhưng chưa có nhiều tài liệu hướng dẫn giáo viên thực hiện vận
dụng kiến thức liên môn vào dạy học Lịch sử (phần Lịch sử Việt Nam) lớp 12.
Qua thực tế giảng dạy tại trường THPT, tơi đã thử nghiệm có hiệu quả những
phương pháp nhằm vận dụng kiến thức liên môn trong dạy học Lịch sử Việt Nam
cho học sinh có hiệu quả. Từ thực tiễn đó tơi đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm
và xin được trình bày đề tài: “Kinh nghiệm vận dụng kiến thức liên môn dạy học
phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 THPT theo định hướng dạy học phát

triển phẩm chất, năng lực học sinh”.
2.Mục đích và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Xác định thực tế giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12
cho học sinh trường THPT Hoàng Mai, Nghệ An.


- Trình bày những kinh nghiệm trong việc vận dụng kiến thức liên môn trong
giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 cho học sinh ở trường
THPT Hoàng Mai, Nghệ An.
- Đề xuất một số phương án triển khai có hiệu quả việc vận dụng kiến thức liên
môn trong giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khn khổ cho phép và qua thực tiễn giảng dạy, người viết chỉ nghiên cứu
việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam
chương trình lớp 12 sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 ban cơ bản do Bộ giáo dục và Đào
tạo biên soạn.
3.Các bước thực hiện đề tài
- Khảo sát thực tiễn giảng dạy phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 tại
trường THPT Hoàng Mai: Bằng cách gặp gỡ, trao đổi với giáo viên và cho học sinh
làm bài kiểm tra.
- Phân tích số liệu thu thập được và tổng hợp kết quả điều tra để đưa ra
kết luận về thực trạng vấn đề và tính thiết thực, cần thiết của vấn đề nghiên cứu.
- Đề xuất các kinh nghiệm của bản thân đã đúc rút được trong quá trình giảng
dạy phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 đã có vận dụng kiến thức liên mơn.
- Soạn giáo án tích hợp liên mơn. Từ đó thực nghiệm tại các lớp đã chọn. Sau
khi giảng dạy cho học sinh thì làm bài kiểm tra để đánh giá tính hiệu quả của đề tài.
- Phân tích kết quả sau khi đã tác động. Đưa ra kết luận về tính thiết thực, khả năng
ứng dụng của đề tài nghiên cứu.



B. NỘI DUNG
1. Cơ sở vấn đề nghiên cứu
1.1. Cơ sở lý luận
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định: “Đổi mới căn
bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân
chủ hoá và hội nhập quốc tế” và “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện
nền giáo dục quốc dân. Trong đó có đổi mới phương pháp dạy học và chú trọng
kiến thức liên môn trong trong dạy học”. Như vậy, tích hợp nhiều mơn học khác
nhau trong dạy học là một định hướng lớn của Đảng và nhà nước, là yếu tố quan
trọng để đổi mới toàn diện và căn bản nền giáo dục nước nhà.
Nằm trong lộ trình đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra,
đánh giá ở các trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực của học
sinh trên tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, sau khi Quốc hội thông qua Đề án đổi mới chương trình, SGK
giáo dục phổ thơng, Bộ GD-ĐT tiếp tục chỉ đạo các cơ sở giáo dục tăng cường
bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên sẵn sàng đáp ứng mục tiêu
đổi mới. Trong đó tăng cường năng lực dạy học theo hướng “tích hợp, liên mơn”
là một trong những vấn đề cần ưu tiên.
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng của dạy học
ở trường phổ thơng nói chung và bộ mơn Lịch sử nói riêng. Ngun tắc liên môn
tương đương với từ “Coordination” (Tiếng Anh) – Đây là nguyên tắc dạy học
phối hợp sử dụng nhiều nguồn tri thức của các môn học ở trường phổ thông để
làm sáng tỏ cho một mơn học nào đó mà giáo viên cần cung cấp cụ thể. Dạy học
liên môn có mối liên hệ gần gũi với nguyên tắc dạy học tích hợp hay nói cách
khác liên mơn chính là nguyên tắc tích hợp, được thực hiện ở mức thấp.
Dạy học vận dụng kiến thức liên môn là phương pháp quan trọng góp
phần bổ sung, làm phong phú thêm nội dung bài học, giúp cho học sinh say mê,
hứng thú, giúp các em yêu môn học hơn, tránh cảm thấy Lịch sử là một mơn học

khơ khan, khó học. Đồng thời làm cho các em thấy rõ mối quan hệ giữa các bộ
mơn, hình dung được một cách chân thực, sinh động về môi trường, xã hội, các
quy luật tự nhiên. Việc sử dụng kết hợp các môn học như vậy để bồi dưỡng cho
học sinh các thủ thuật và phương pháp tư duy lơgic sẽ góp phần thực hiện một
trong những yêu cầu quan trọng nhất của lí luận dạy học là xác lập các mối liên
hệ chặt chẽ giữa các bộ môn trong dạy học.
Mặt khác, ngày nay dưới tác dụng mạnh mẽ của sự phát triển khoa học
công nghệ, thông tin liên lạc đã làm cho các lĩnh vực khoa học khác nhau có mối
liên hệ chặt chẽ với nhau. Theo đó, các mơn học vận dụng một phần tri thức của
nhau để làm sáng tỏ cho một môn học cụ thể là điều tất yếu. Trong xu thế ấy,
Lịch sử nói chung, Lịch sử Việt Nam nói riêng cũng khơng thể phát triển hơn
nếu khơng liên hệ và sử dụng tri thức của các lĩnh vực khoa học khác, môn học
khác. Mối liên hệ giữa các môn học ở trường phổ thông xuất phát từ mối liên hệ
chặt chẽ giữa các khoa học, đối với Lịch sử các môn lân cận là Ngữ văn, Địa lý,
Giáo dục cơng dân, Giáo dục Quốc phịng... Các lĩnh vực khoa học này tuy có


đối tượng nghiên cứu khác nhau song trên một mặt nào đó lại cùng chung một
khách thể – xã hội và đời sống con người. Vì vậy khi nghiên cứu và học tập,
kiến thức những môn học này hỗ trợ cho nhau, giúp học sinh nhận thức sâu sắc
về xã hội và đời sống của con người.
Thêm vào đó, các bài học được dạy học trong phần Lịch sử Việt Nam
chương trình lớp 12 nay cũng có những đặc điểm khiến cho việc thực hiện dạy
học bằng cách vận dụng kiến thức liên mơn rất thuận lợi. Ví dụ hiện tượng “văn
- sử - triết bất phân” là một đặc trưng phổ biến, nhiều bài học Lịch sử chứa đựng
nhiều loại kiến thức của các lĩnh vực chính trị xã hội, văn học. Nắm vững đặc
điểm này khi dạy học, giáo viên Lịch sử không thể không vận dụng kiến thức
liên môn Giáo dục công dân và Ngữ văn để giảng dạy học phần Lịch sử Việt
Nam chương trình lớp 12. Đặc biệt, Lịch sử Việt Nam nói riêng, mơn Lịch sử
nói chung trước hết là một mơn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên

tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho
học sinh. Đặc điểm này khiến cho việc vận dụng kiến thức liên môn giữa Lịch
sử và Giáo dục công dân trở nên thuận lợi hơn bao giờ hết. Kiến thức liên mơn
sẽ hình thành nhân cách tồn diện cho các em. Mơn Lịch sử cịn là một mơn học
thuộc nhóm cơng cụ. Điều đó nói lên mối quan hệ giữa môn Lịch sử và các môn
khác. Học tốt mơn Lịch sử sẽ có tác động tích cực đến kết quả học tập các môn
khác và các mơn khác cũng góp phần giúp học tốt mơn Lịch sử.
Việc vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy cũng có cơ sở từ u
cầu phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Ở lứa tuổi học sinh THPT, năng
lực nhận thức đã phát triển cao, sự trưởng thành và tính tích cực về mặt xã hội
đã tăng rõ rệt, nhu cầu giao lưu đã mở rộng nhiều, “nhu cầu về tinh thần đã bộc
lộ rõ rệt, hứng thú đối với các vấn đề thế giới quan và đạo đức đã thể hiện mạnh
mẽ”. Vì vậy, khả năng và nhu cầu tìm hiểu kiến thức của học sinh THPT là rất
lớn.
Về phương diện tâm lý, học sinh tiếp nhận tốt kiến thức mới khi biết dựa
vào kiến thức đã học không chỉ của một bộ môn này mà cịn của nhiều bộ mơn
khác mang tính chất hỗ trợ cho nhận thức, làm cho giờ học hấp dẫn, sinh động,
các em chú ý học tập hơn. Vì vậy, vấn đề quan trọng của dạy học liên môn là
mỗi kiến thức được truyền thụ đến với học sinh bằng một hoạt động “liên kết
giữa các kiến thức”.
1.2. Cơ sở thực tiễn và thực trạng vấn đề nghiên cứu
Dạy học liên môn là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học
nói chung và dạy học bộ mơn Lịch sử nói riêng, đây được coi là một trong
những quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh,
đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục.
Bộ GD&ĐT đã đưa vấn đề vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy kiến
thức ở trường phổ thông.Tuy nhiên đây là một hình thức dạy học mới, giáo viên
chưa được tiếp xúc nhiều và chưa có kinh nghiệm giảng dạy. Vì vậy việc vận
dụng kiến thức liên mơn trong giảng dạy các bộ mơn cịn gặp nhiều khó khăn,
lúng túng.

Mơn Lịch sử là bộ mơn có vai trị quan trọng, qua đó học sinh có thể hiểu
biết về Lịch sử dân tộc và thế giới, từ đó hồn thiện và phát triển nhân cách con


người. Tuy nhiên, thực trạng của việc dạy và học Lịch sử trong nhà trường phổ
thơng hiện cịn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng Lịch sử rất khô
khan với nhiều sự kiện Lịch sử nặng về chiến tranh cách mạng, ít đề cập đến
Lịch sử văn hóa, nghệ thuật, chưa xen kẽ với văn học, khoa học...nên chưa tạo
được sự hứng thú học sử đối với học sinh. Học sinh cịn hiểu một cách rời rạc,
khơng nắm được mối quan hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống
xã hội, về kiến thức liên môn.
Yêu cầu hiểu biết lịch sử, nhu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai đặt
cho giáo viên Lịch sử nhiệm vụ: làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy và học
lịch sử, kích thích sự hứng thú học sử cho học sinh, rèn luyện cho học sinh khả
năng tự học, tự tìm tịi, làm thế nào để đặt kiến thức môn Lịch sử trong mối liên
hệ với các kiến thức khác. Để hoàn thành nhiệm vụ này địi hỏi giáo viên dạy
Lịch sử khơng chỉ có kiến thức vững vàng về bộ môn Lịch sử mà cịn phải có
những hiểu biết vững chắc về các bộ môn Địa lý, Văn học, Nghệ thuật, Khoa
học,...Muốn vậy, giáo viên phải có sự tìm tịi, học hỏi ở tài liệu, sách báo và học
hỏi ở đồng nghiệp để nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ. Sử dụng các
phương pháp dạy học phải linh hoạt, khéo léo, phù hợp với các nội dung kiến
thức liên môn giữa Lịch sử với các môn học khác để vận dụng vào bài giảng
Lịch sử làm bài giảng thêm phong phú và hấp dẫn.
2. Một số kinh nghiệm hướng dẫn HS vận dụng kiến thức liên môn học
phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 THPT theo định hướng dạy
học phát triển phẩm chất, năng lực học sinh
2.1. Dự kiến phạm vi kiến thức liên mơn có thể vận dụng
2.1.1. Tích hợp với mơn Ngữ Văn
Văn học và Lịch sử có mối liên hệ mật thiết với nhau, kiến thức môn này
sẽ hỗ trợ cho môn kia, văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu Lịch sử mà nhờ

đó học sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng.
Trong khi dạy học phần Lịch sử Việt Nam, người giáo viên đóng vai trị
quan trọng trong việc gợi nhớ lại cho học sinh các sự kiện lịch sử. Tuy nhiên nếu
chỉ dựa vào những kiến thức trong sách giáo khoa thì khó mà có thể tạo dựng lại
được khơng khí lịch sử cần thiết để thu hút các em đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu,
khám phá quá khứ của dân tộc ta cũng như của thế giới. Để khắc phục tình trạng
này, việc vận dụng kiến thức văn học vào dạy Lịch sử sẽ góp phần làm cho bài
giảng trở nên sinh động và hấp dẫn, nâng cao tính tích cực hứng thú học tập cho
học sinh.
Văn học và Lịch sử có liên hệ chặt chẽ với nhau, kiến thức mơn này sẽ hỗ
trợ cho môn kia, Văn học sẽ cung cấp cho ta những tư liệu lịch sử mà nhờ đó
học sinh có thể nhận thức một cách rõ ràng và khắc sâu những kiến thức Lịch
sử. Đối với việc tích hợp kiến thức Văn học vào dạy Lịch sử áp dụng được với
tất cả chương trình Lịch sử ở các khối lớp của bậc THPT bởi vì mỗi giai đoạn
lịch sử, mỗi sự kiện lịch sử đều liên quan đến văn học, đến sự nhận định của các
danh nhân, nhân vật lịch sử trong nước.
Ví dụ:
Trong khi dạy bài 18 “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp (1946-1950) tác giả sử dụng một số tác phẩm văn học để


làm sáng tỏ thêm sự kiện Lịch sử như: khi nói về nạn đói cuối năm 1944 đầu
năm 1945, giáo viên có thể tìm thấy trong tác phẩm “Vợ Nhặt” –Kim Lân (trong
sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 12) để thấy cảnh người chết đói “người chết như
ngả rạ”, hình ảnh đàn quạ đen đậu trên cây gạo đầu làng chờ để mổ xác người
chết, hay vì cái đói mà Thị phải nhắm mắt mà lấy chồng-anh cu Tràng,...để khắc
họa nạn đói.
Đồng thời, Trong bài này, tác giả sử dụng tác phẩm “Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến” của chủ tịch Hồ Chí Minh
Khơng! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất

định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kì đàn ơng, đàn bà, bất kì người già, người trẻ không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ ai là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để
cứu Tổ Quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, khơng có gươm thì
dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu
nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hi sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất
nước. Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh,
thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi mn năm!
Việc sử dụng tác phẩm “Lời kêu gọi tồn quốc kháng chiến” của chủ tịch
Hồ Chí Minh và tác phẩm “ Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí
Trường Chinh. Sử dụng 2 tác phẩm này để làm rõ sự kiện ngày toàn quốc ta tiến
hành kháng chiến chống thực dân Pháp và giải thích về đường lối kháng chiến
chống Pháp, Đảng và chính phủ ta sử dụng đường lối chiến tranh nhân dân, cuộc
kháng chiến toàn dân, tồn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng
hộ quốc tế.
Khi giáo viên dạy về chiến thắng Điện Biên Phủ có thể mượn đoạn thơ
trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên” của Tố Hữu:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan khơng núng
Chí khơng mịn!

Những đồng chí thân chơn làm giá súng
Đầu bịt lỗ châu mai
Băng mình qua núi thép gai
Ào ào vũ báo,
Những đồng chí chèn lưng cứu pháo
Nát thân,nhắm mắt, cịn ơm...


Những bàn tay xẻ núi lăn bom
Nhất định mở đường cho xe ta lên chiến trường tiếp viện
Và những chị, những anh ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây gió lớn mưa to
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lơ, anh hị chị hát
Dù bom đạn xương tan, thịt nạt
Khơng sờn lịng, khơng tiếc tuổi xanh...
Hỡi các chị, các anh trên chiến trường ngã xuống
Máu của anh chị, của chúng ta
Không uổng!
Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam
Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam
Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng...
( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên-Tỗ Hữu)
Không chỉ mô tả về khí thế của chiến dịch mà cịn hướng cho học sinh đi
tìm hiểu nguyên nhân thắng lợi cuộc cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc, ta
thấy rằng các em rất xúc động về những hình ảnh mà mình thu nhận được. Điều
này có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục tinh thần cảm phục của học sinh đối
với công lao của các thế hệ đi trước. Đồng thời cũng góp phần nâng cao ý thức
trách nhiệm bảo vệ quê hương đất nước trong nhận thức các em.
Khi nói về ý nghĩa “Chiến thắng của Điện Biên Phủ” Ta trích câu thơ:

“ Chín năm làm một Biên Biên
Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”
Hay
“ Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”
Nhìn chung có rất nhiều kiến thức để vận dụng văn học trong giảng dạy
bộ mơn Lịch sử. Ta có thể đưa vào bài giảng một câu thơ, một đoạn văn hay
một trích đoạn nhằm giúp học sinh có thể nêu ra một kết luận khái quát cụ thể
hóa một vấn đề hay một sự kiện Lịch sử đã được học.
Như vậy ta thấy rằng: Sử dụng tích hợp kiến thức văn học trong giảng dạy
Lịch sử không những giúp các em nắm vững nhanh chóng, nhớ lâu bài học mà
cịn góp phần củng cố thêm kiến thức văn học, tạo điều kiện cho học sinh hình
thành phương pháp liên hệ trong quá trình học tập của mình.
2.1.2. Tích hợp với mơn Địa Lý
Khơng chỉ có nội dung tích hợp gần gũi với kiến thức với mơn Ngữ văn
mà bộ mơn Lịch sử này cịn có nhiều nội dung liên quan đến kiến thức mơn Địa
lý. Đặc biệt với công tác phải thường xuyên phân tích lược đồ, miêu tả địa danh,
địa điểm.
Để thực hiện công việc này, giáo viên dạy môn Lịch sử trong q trình
giảng dạy cần chú ý có thể tích hợp mơn Địa lí thơng qua những nội dung nào.
Chú ý xem sự kiện lịch sử đó diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định với


các điều kiện cụ thể, trong đó có các điều kiện địa lí đều gắn với những điều
kiện tự nhiên mà con người sinh sống tại những thời điểm nhất định. Thêm vào
đó, trong q trình giảng dạy khi nói đến một khu vực, một quốc gia hay một
trận đánh, một chiến dịch diễn ra ở địa danh nào thì người giáo viên cần phải
cho học sinh biết rõ nơi đó là ở đâu, có địa hình như thế nào:
Khi giáo viên dạy Bài 17: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau
ngày 2-9-1945 đến trước ngày 19-12-1946”, giáo viên phải sử dụng kiến thức
địa lí để khắc họa vĩ tuyến 16 thuộc thành phố Đà Nẵng.


Khi giáo viên dạy bài 18: “Những năm đầu của cuộc kháng chiến toàn
quốc chống thực dân Pháp (1946 -1950)” giáo viên sử dụng các lược đồ, yêu cầu
học sinh chuẩn bị trước ở nhà nội dung và thuyết trình diễn biến các chiến dịch
trên lược đồ.


Trong bài 20: “Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc” (1953-1954) ta sử dụng lực đồ “ Hình thái chiến trường trong Đơng- Xn


1953-1954” yêu cầu hoc sinh chẩn bị trước ở nhà (theo nhóm) nội dung và
thuyết trình diễn biến các chiến dịch trên lược đồ.

Giáo viên sử dụng “ Lược đồ diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ 1954”
khi trình bày cách bố phòng của địch ở cứ điểm Điện Biên Phủ (3 phân khu, 49
cứ điểm...)
Giáo viên yêu cầu học sinh thuyết trình diễn biến các chiến dịch trên lược
đồ (chuẩn bị trước ở nhà nội dung diễn biến)


Sử dụng lược đồ với mục đích khơng chỉ để khắc sâu cho học sinh về vị
trí địa lý, giáo viên sử dụng lược đồ để phục vụ học về âm mưu bố trí, phịng thủ
của địch, diễn biến của chiến dịch, học sinh rất hứng thú học tập và tiếp thu kiến
thức một cách chủ động nhất.
2.1.3. Tích hợp với mơn một số bộ mơn nghệ thuật (Ngồi chương trình
THPT)
*Âm nhạc
Việc tích hợp mơn Lịch sử với Âm nhạc đây là một phương pháp dạy học
hiện đại trong dạy học Lịch sử, giúp học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt.

Giáo viên hướng dẫn học sinh ở nhà tìm một số bài hát như: Ca khúc “
Tiến quân ca” của nhạc sĩ Văn Cao, ca khúc “ Cùng nhau đi Hồng binh” của
nhạc sỹ Hồng Vân, Giải phóng Điện Biên... yêu cầu học sinh hát và nêu nội
dung ý nghĩa của bài hát sau đó giáo viên chốt ý nghĩa giúp học sinh nghe và
nắm bắt được nội dung, ý nghĩa của các bài hát.


Ví dụ: ca khúc “Tiến quân ca”( Quốc ca) của nhạc sỹ Văn Cao trong bài
17 “ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước ngày
19-12-1946.
“ Đồn qn Việt Nam đi Chung lịng cứu quốc Bước chân dồn vang trên
đường gập ghềnh xa, cờ in máu chiến thắng mang hồn nước, súng ngoài xa chen
khúc quân hành ca. Đường vinh quang xây xác quân thù, thắng gian lao cùng
nhau lập chiến khu. Vì nhân dân chiến đấu không ngừng. Tiến mau ra sa trường.
Tiến lên, cùng tiến lên. Nước non Việt Nam ta. Vững bền”
Nhạc sỹ Văn Cao viết bài hát đó trong ngày năm 1944. Ngay từ khi ra đời,
bài hát được coi là bài hát chính thức của Mặt trận Việt Minh. Sau cách mạng
tháng Tám, ca khúc này được chọn làm Quốc ca của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Trong bài 20: “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết
thúc” (1953-1954), cho học sinh tìm hiểu, hát một số bài hát sau yêu cầu học
sinh nêu ý nghĩa,nội dung bài hát sau đó giáo viên chốt ý nghĩa giúp học sinh
nghe và nắm được.
*Nghệ thuật
Tác giả sử dụng tranh ảnh chiến sĩ cảm tử quân ôm bom ba càng đón đánh
xe tăng địch thể hiện tinh thần quyết tâm chiến đấu chống giặc Pháp khi giảng
dạy bài 17 “ Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ sau ngày 2-9-1945 đến trước
ngày 19-12-1946.”

Trong bài 20: “ Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết

thúc (1953-1954)” tác giả sử dụng hình ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp để giới
thiệu bài học.


2.1.4. Tích hợp liên mơn kiến thức mơn giáo dục công dân
Nắm được tiểu sử, chiến công của các anh hùng, liệt sĩ như Tơ Vĩnh Diện,
Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn,... Đặc biệt là đại tướng Võ Nguyên Giáp. Từ đó
giúp học sinh biết trân trọng quá khứ, có ý thức phấn đấu vươn lên, học tập, rèn
luyện, trở thành công dân tốt, để phần nào đền đáp công ơn dựng nước,giữ nước
của thế hệ ơng cha.
Ngồi ra, ở bài 22: “Nhân dân hai miền trực tiếp chiến đấu chống đế quốc
Mĩ xâm lược, nhân dân miền Bắc vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965-1973)”,
giáo viên có thể sử dụng nội dung tình hữu nghị, hợp tác giữa các quốc gia ở
mơn Giáo dục cơng dân để nói về sự liên minh đoàn kết chiến đấu của ba dân
tộc Việt Nam- Lào- Campuchia trong chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh” và “Đơng Dương hóa chiến tranh”
Như vậy, Lịch sử giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn về văn học, như phải
hiểu hoàn cảnh ra đời của tác phẩm đó như thế nào mới hiểu được dụng ý nghệ
thuật cũng như nội dung sâu xa mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì.
Ngược lại, Văn học, Mỹ thuật, Âm nhạc, Địa lí, Giáo dục cơng dân, Quân sự
làm cho các sự kiện, các kiến thức Lịch sử dễ dàng thấm vào tiềm thức của con
người.
Qua đó, có thể thấy sự tích hợp, liên mơn giúp học sinh hiểu biết thêm
nhiều kiến thức, bài dạy trở nên sinh động phong phú hơn, học sinh hào hứng
tiếp thu bài học.
2.2. Vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy học phần Lịch sử
Việt Nam chương trình 12 cho học sinh ở trường THPT Hoàng Mai bằng
cách phối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt trong
giờ dạy học.
Có nhiều biện pháp, hình thức dạy học vận dụng kiến thức liên môn trong

giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình 12 như đàm thoại, phân tích


ngơn ngữ, rèn luyện theo mẫu. Song trong q trình giảng dạy, tôi nhận thấy, các
cách như tổ chức dạy học dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi, tổ chức hoạt
động sắm vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức
dạy học ngồi khơng gian lớp học... tỏ ra có ưu thế và hiệu quả hơn hẳn trong
việc kích thích khả năng suy nghĩ, phát biểu và trình bày của các em, từ đó nâng
cao được tư duy, khả năng tổng hợp kiến thức liên môn của các em. Một giờ
Lịch sử thành cơng chính là hiệu quả của việc sử dụng tổng hợp sáng tạo các
phương pháp dạy học.
2.2.1. Thông qua việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm (dạy học hợp
tác).
Lịch sừ Việt Nam là phần bài học có nhiều ưu thế trong việc thảo luận
nhóm khi giảng dạy. Thơng qua việc học sinh đại diện nhóm trình bày quan
điểm cá nhân để rèn kỹ năng nghe- nói- đọc viết cho các em, cũng như bày tỏ
những hiểu biết cá nhân của mình về Lịch sử dân tộc. Biện pháp này khá thích
hợp với những kiểu bài thực hành làm bài tập, các bài cần trình bày quan điểm.
Khơng một nhà giáo dục nào phủ nhận vai trò, tác dụng của phương pháp này
trong dạy học. Đây là một trong những phương pháp có sự tham gia tích cực của
HS. Thảo luận nhóm là phương tiện học hỏi có tính dân chủ, mọi cá nhân được
tự do bày tỏ quan điểm, tạo thói quen sinh hoạt bình đẳng, biết đón nhận quan
điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân giúp HS rèn luyện kĩ năng giải
quyết các vấn đề khó khăn.
Kinh nghiệm bản thân cho thấy nên chia nhóm trong đó có cả HS giỏi,
khá, trung bình, yếu là tốt nhất. Số lượng HS giỏi, khá, trung bình, yếu giữa các
nhóm phải bằng nhau để đảm bảo cơng bằng. Quy mơ nhóm có thể lớn hoặc nhỏ
tuỳ theo vấn đề thảo luận. Tuy nhiên, nhóm từ 4 - 6 HS là tốt nhất. Quy trình
giảng dạy với thời gian một tiết (45 phút), GV tiến hành tuần tự các bước lên lớp
theo quy định chung. GV nêu chủ đề cần thảo luận, chia nhóm vào thời điểm

thích hợp của tiết học, giao câu hỏi cho các nhóm. Yêu cầu các nhóm thảo luận,
quy định thời gian thảo luận và phân cơng vị trí ngồi thảo luận cho các nhóm.
Các nhóm tiến hành thảo luận. Đại diện nhóm trình bày kết quả thảo luận. Các
nhóm khác lắng nghe, chất vấn, trao đổi bổ sung ý kiến. GV bổ sung nội dung
mà HS trình bày nếu cịn thiếu cho hồn thiện. GV đưa ra định hướng đúng
những vấn đề HS cần nhớ sau khi thảo luận. HS ghi nhớ hoặc ghi chép nội dung
chính của bài học vào vở.
Qua việc dự giờ đồng nghiệp và giảng dạy, bản thân tôi thấy rằng: Thơng
thường, sau khi thảo luận xong, các nhóm thường cử một người thay mặt nhóm
lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm mình và hầu hết đó đều là những HS
khá, giỏi, có kĩ năng trình bày vấn đề khá tốt. Kết quả thảo luận được trình bày
chủ yếu bằng hình thức viết lên giấy khổ lớn dán lên bảng. Đến đây, HS coi như
“xong nhiệm vụ”. Đến phần giáo viên chữa bài của HS, vì tâm lý sợ HS trình
bày rườm rà sẽ “cháy” giáo án, nên GV thường chữa bài của các em thật nhanh.
GV chỉ chú ý xem các em viết được bao nhiêu phần trăm kiến thức và xem nhẹ
cách các em thức trình bày vấn đề trên giấy, bỏ qua cả lỗi chính tả, dùng từ, đặt
câu và sự thiếu hợp lý của bố cục trình bày. Thậm chí, học sinh sẽ khơng có cơ


hội được trình bày quan điểm cá nhân và như vậy sẽ khơng rèn được khả năng
nói, phát biểu của mình.
Để khắc phục tình trạng này, theo tơi, trong phần trình bày của HS, GV
cũng cần phải quy định điểm số cho cả phần viết trình bày sơ đồ, bảng phụ (nếu
có), và cho điểm cả cách thuyết trình của HS. GV cần tạo điều kiện cho tất cả
thành viên trong nhóm được trình bày quan điểm, kể cả những người rụt rè, e
thẹn hay ngại trước đám đông, GV có thể u cầu HS đó đại diện trình bày ý
kiến của nhóm mình. Thậm chí, qua sự quan sát của tôi, nếu thấy học sinh nào
chưa thực sự tập trung, giáo viên có thể u cầu chính em đó đại diện nhóm
trình bày kết quả thảo luận của nhóm.
Về phần trình bày kết quả thảo luận. GV cần khuyến khích các em trình

bày dưới nhiều hình thức như trình bày bằng lời; đóng vai; viết hoặc vẽ lên giấy
khổ lớn; một người thay mặt nhóm trình bày, hoặc một người trình bày một ý
tưởng… Trong quá trình HS trình bày, GV cần tập trung để điều chỉnh và sửa
chữa cho các em để các em hoàn thiện được khả năng nói - viết của mình.
Các nhóm sẽ tiến hành thảo luận (GV có thể gợi ý các khía cạnh của vấn
đề học HS suy nghĩ), trả lời câu hỏi, để giải quyết vấn đề mà GV đưa ra. Thời
gian thảo luận nhóm là 7 phút, thời gian báo cáo trước lớp cho mỗi nhóm là 4
phút. Ở nhiều khía cạnh mà các nhóm trình bày sẽ có phản biện giữa các nhóm
khi có ý kiến trái ngược nhau. GV phải vừa bao quát lớp vừa góp ý để các nhóm
hồn thành nhiệm vụ theo quan điểm của mình.
Sau khi các nhóm báo cáo và phản biện (nếu có) GV phải là người đánh
giá lại, định hướng chọn phương án giải quyết tối ưu nhất cho vấn đề đặt ra. Đáp
án này là trọng tâm của câu hỏi cũng là tâm điểm kiến thức mà HS cần lĩnh hội
ở bài học.
2.2.2. Hình thức vừa chơi vừa học ở lớp
Hình thức dạy học vừa chơi vừa học Lịch sử là dạy học bằng trị chơi,
chơi là hình thức cịn học là mục đích. Đây là hình thức dạy học có khả năng
hấp dẫn, cuốn hút sự tham gia, sự tập trung của HS, đem lại hiệu quả nhất định
bởi “biết mà học khơng bằng vui mà học” (Khổng Tử).
Hình thức dạy học này có thể được áp dụng ở đầu tiết học để tập trung sự
chú ý của HS, từ đó tạo khơng khí sinh động cho lớp học, tạo hứng thú học tập
cho các em, dẫn dắt HS đến với nội dung bài học.
Trị chơi này có thể diễn ra gần cuối tiết để củng cố bài học cho HS đồng
thời GV kiểm tra được mức độ hiểu bài của các em).
Hoặc GV cũng có thể tổ chức trị chơi cho HS vào cuối tiết học để củng
cố lại bài học Lịch sử nhằm khắc sâu kiến thức cho các em.
Có thể kể vào trị chơi học tập nổi bật là trò “sắm vai” các nhân vật lịch
sử. Sắm vai trong dạy học là nhận một vai giao tiếp nào đó nhằm thể hiện sinh
động nội dung học tập. Hình thức học tập sắm vai nhiều khi rất vui nhờ những
chi tiết hài hước, ngộ nghĩnh do HS - “diễn viên bất đắc dĩ” tạo nên. Hình thức

sắm vai đặc biệt phát huy tác dụng trong các giờ học, HS biết thêm được nhiều
kiến thức lịch sử, xã hội xoay xung quanh vấn đề được học tập tại lớp, giúp các
em hứng thú với mơn học và có kiến thức hệ thống, khoa học.


Có thể tiến hành trị chơi sắm vai theo các bước sau: GV nêu chủ đề, phân
vai theo từng nhóm hoặc mỗi cá nhân. Giao tình huống. Trong đó có quy rõ thời
gian chuẩn bị, thời gian thể hiện. Các nhóm thảo luận/cá nhân chuẩn bị đóng
vai. Các nhóm/cá nhân lên đóng vai. Lớp thảo luận, nhận xét. GV kết luận
Qua thời gian triển khai phương pháp này, tôi nhận thấy, nếu áp dụng nó
trong khơng gian lớp học và thời lượng tiết học có hạn thì phương pháp này sẽ ít
có hiệu quả. Nhưng khi sử dụng ở tiết ngoại khóa hoặc tiết hoạt động ngồi giờ
lên lớp lại rất có hiệu quả. Nếu tiến hành trong phạm vi lớp học thì GV cũng cần
khích lệ (nhiều khi phải chỉ định) cả những HS nhút nhát cùng tham gia. Nên có
hố trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trị chơi đóng vai.
2.2.3. Qua hình thức thuyết trình nội dung bài học Lịch sử tại lớp
Thuyết trình là một trong những phương thức hiệu quả giúp HS rèn luyện
kỹ năng nói một cách bài bản. Tuy nhiên, phương pháp này không giống cách
truyền thụ “một chiều” trong phương pháp dạy học truyền thống mà GV đã sử
dụng để dẫn đến thói quen học thuộc lịng - nhớ - đọc trong đại bộ phận HS.
Việc tổ chức cho HS thuyết trình nhằm rèn luyện cho HS có tinh thần tự học một
cách tích cực, biết ăn nói lưu lốt, phát biểu ý kiến một cách tự nhiên, rành
mạch. Trong đó, HS chủ động chuẩn bị bài, trình bày và thảo luận. GV chỉ là
người đóng vai trị hướng dẫn cách thức chuẩn bị, phân cơng trình bày chứ
không trực tiếp tham gia chuẩn bị và trả lời thay học trò. Chỉ đến lúc các em kết
thúc thảo luận, GV mới tổng kết và đưa ra nhận xét, đánh giá, cho điểm. Như
vậy, rõ ràng phương pháp dạy học này đã thực sự biến các em HS trở thành
trung tâm của giờ học.
Để có một buổi thuyết trình thành cơng, theo tơi, GV cần hướng dẫn HS
thực hiện một số việc cần thiết sau: Phân nhóm (Cách phân nhóm như trong

phương pháp thảo luận nhóm đã trình bày). Sau đó, GV hướng dẫn HS về cách
thu thập thơng tin và xây dựng cấu trúc bài thuyết trình. (Xác định rõ ràng chủ
đề của bài thuyết trình; lên sơ thảo dàn ý cho bài thuyết trình (Bài có bao nhiêu
phần, mỗi phần gồm mấy phần nhỏ)); lập dàn ý chi tiết; sắp xếp chỉnh sửa các ý
cho phù hợp với tiến trình bài nói và hợp logic; biên tập lại câu chữ, bỏ các ý
thừa, bổ sung ý thiếu, xem xét cách chuyển ý giữa các nội dung; đọc lại bài lần
nữa, viết một bản tóm tắt gợi ý ngắn gọn để xem trong lúc thuyết trình (để dễ
nhớ lại và tránh việc đọc lại nguyên văn bài thuyết trình). GV cần hướng dẫn HS
các bước chuẩn bị trên để đảm bảo nội dung bài thuyết trình đúng trọng tâm, đầy
đủ và rõ ràng. Trong quá trình hướng dẫn HS thực hiện những bước này, GV đã
phần nào rèn luyện được cho các em cách thức trình bày nói, viết như thế nào.
Chủ đề bài học có thể xoay xung quanh những sự kiện lịch sử, địa danh
Lịch sửmà các em đã được tham quan hoặc tìm hiểu qua sách báo. Các em cũng
có thể bổ sung thêm những hiểu biết về các lĩnh vực khác để làm rõ hơn về kiến
thức Lịch sửmà mình đang trình bày. Bằng cách này, kiến thức tích hợp liên mơn
được vận dụng một cách rõ nét.
GV phải có thang điểm cụ thể cho bài thuyết trình của HS dựa trên ba tiêu
chí: phong cách thuyết trình (sử dụng phi ngơn từ khi thuyết trình có đạt hiệu
quả khơng?), nội dung thuyết trình, phần giao lưu trả lời câu hỏi của các bạn


trong lớp…GV nên có điểm thưởng cho các bạn trong lớp có câu hỏi hay và cho
các bạn có câu trả lời hấp dẫn. GV phải hình thành ở HS tinh thần phê và tự phê
bằng cách yêu cầu cả lớp trước khi đặt câu hỏi cho bạn thuyết trình, đưa ra nhận
xét về những mặt tích cực và hạn chế của bài thuyết trình của các bạn.
Tuy vậy, hình thức dạy học này đòi hỏi GV một bản lĩnh đứng lớp để can
thiệp kịp thời khi những tranh luận đi lệch mục tiêu dạy học.
Để các bài thuyết trình đạt chất lượng tốt, GV cần chỉ cho các em các
cách luyện nói như: tập nói chậm và rõ ràng, tập nói trong thời gian quy định,
lưu ý các em là nói, trình bày cho các bạn hiểu, chứ khơng phải đọc văn bản,

đồng thời với lời nói là các hành động, cử chỉ phi ngơn ngữ, giúp bài thuyết
trình trở nên sinh động, lôi cuốn hơn. GV nên giao nhiệm vụ cho mỗi nhóm
chuẩn bị trước ít nhất 1 tuần. Khuyến khích các em đưa nội dung bài học của
mình vào những tình huống và hồn cảnh giao tiếp cụ thể. Từ đó, hình thức
thuyết trình sẽ được các em vận dụng linh động thông qua các phương tiện như
trình chiếu Powerpoint, xây dựng tình huống giao tiếp, thuyết minh về tranh
ảnh….để làm nổi bật nội dung bài học.
2.2.4. Qua hình thức tổ chức hoạt động ngồi giờ lên lớp
Tổ chức hoạt động ngồi giờ lên lớp có thể “tạo nên chiếc cầu nối, sự liên
kết chặt chẽ giữa tri thức lí thuyết với kĩ năng thực hành; giữa Lịch sử trong nhà
trường với Lịch sửtrong thực tiễn đời sống xã hội… góp phần đa dạng hố các
hình thức tổ chức dạy học, giảm tải chương trình, phát huy tính linh hoạt, sáng
tạo của q trình dạy học, tạo hứng thú cho HS”.
Tham gia hoạt động ngoài giờ lên lớp về Lịch sử, HS có điều kiện sử
dụng lịch sử trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Việc tổ chức hoạt động ngoài giờ
lên lớp cần tuân thủ những nguyên tắc sau: gắn với đời sống; tự nguyện; hấp
dẫn, phù hợp với đối tượng; bổ trợ cho hoạt động dạy học chính khố.
Một hình thức hoạt động ngồi giờ lên lớp có tính chất tập thể trong phạm
vi trường học là tham quan một số di tích lịch sử do tổ chức Đoàn phát động vào
các dịp lễ kỉ niệm lớn trong năm như 20.11, 26.03…kết hợp với thuyết minh
giới thiệu vừa hiệu quả vừa giúp HS yêu thêm quê hương vừa phát huy khả năng
thuyết trình của cá nhân.
Nếu chưa có điều kiện đưa HS đi tham quan các di tích Lịch sử ở các
vùng miền khác nhau trên đất nước thì có thể tham quan các di tích ở địa
phương hoặc cũng có thể tìm hiểu trên sách báo và thuyết minh, giới thiệu lại
cho HS qua các video, slide… Đây cũng là một hoạt động lí thú thu hút được sự
quan tâm chú ý của HS.
2.3. Đảm bảo các nguyên tắc cơ bản khi dạy học học phần Lịch sửViệt Nam
chương trình 12
Đảm bảo tri thức Lịch sử

Dạy học Lịch sử, trước hết phải đảm bảo cung cấp đầy đủ kiến thức về
Lịch sử, đó là điều hiển nhiên. Nhưng như đã trình bày, việc sử dụng kiến thức
các môn hỗ trợ trong việc giảng dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình 12
là điều rất cần thiết song điều đó khơng có nghĩa là biến một giờ học Lịch sử


thành một giờ Ngữ văn, Địa lý hay Giáo dục công dân. Giáo viên Lịch sử phải
biết lựa chọn những tri thức liên môn phù hợp với nội dung và thời gian của giờ
học để tránh quá ít hoặc quá nhiều sẽ làm “lỗng” kiến thức Lịch sử.
Vì vậy, khi sử dụng những kiến thức các môn học khác phải đứng trên
bình diện Lịch sử, tiếp cận dưới góc độ Lịch sử để giữ tính độc lập, dựa vào đặc
trưng nội dung của bộ môn để nâng cao hiệu quả bài học, tránh sự trùng lặp,
công thức, giáo điều.
Đảm bảo tính vừa sức
Vận dụng ngun tắc liên mơn trong dạy học học phần Lịch sử Việt Nam
chương trình 12 cần chú ý đến tính vừa sức. Nghĩa là giáo viên không nên cung
cấp cho học sinh những kiến thức liên môn một cách mơ hồ hoặc quá chi tiết, tỉ
mỉ. Việc cung cấp như vậy sẽ dẫn đến tình trạng rối rắm, phức tạp làm cho học
sinh khó nhận thức được mối liên hệ giữa Lịch sửvà các môn học khác.
Vận dụng kiến thức liên môn khi dạy phần này, tơi thường dựa vào mục
đích, nội dung kiến thức của bài dạy và đặc điểm tâm lý lứa tuổi, trình độ nhận
thức của học sinh từng khối, từng lớp.
Ở mức độ thấp, để học sinh có cái nhìn tổng quan về vấn đề và nhớ lại các
kiến thức có thể vận dụng được. Tôi thường nhắc lại nhanh những tài liệu, sự
kiện, kỹ năng của các mơn có liên quan.
Ở mức độ cao hơn, với học sinh khá hơn, tôi đặt ra yêu cầu đòi hỏi học
sinh nhớ lại và vận dụng kiến thức đã học của các môn học khác để giải quyết
vấn đề đặt ra.
Ở mức độ cao nhất (mức độ ít học sinh thực hiện được): địi hỏi học sinh
phải độc lập giải quyết “bài toán nhận thức” bằng vốn kiến thức đã có huy động

các mơn có liên quan theo phương pháp nghiên cứu. (thường vận dụng cho học
sinh khá giỏi)
Theo tôi, thước đo của sự vừa sức đó là học sinh có thể trả lời được câu
hỏi và thể hiện qua cách học sinh làm bài kiểm tra, bài thi…
2.4. Năng lực nghệ thuật của giáo viên
Để vận dụng thành công những phương pháp dạy học vận dụng kiến thức
liên môn trong dạy học học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 ở
trường THPT, theo tơi, giáo viên khơng chỉ có trình độ chun mơn vững vàng
và trình độ khoa học cơ bản mà còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực nghệ thuật
của giáo viên. Theo kinh nghiệm cá nhân, tôi thường sử dụng kiến thức liên mơn
theo trình tự hợp lý linh hoạt và sáng tạo ở nhiều khâu trong tiến trình dạy học
Triển khai phương pháp liên mơn ngay từ khâu kiểm tra bài cũ. Kiểm tra
bài cũ là bước đầu tiên trong tiến trình tổ chức hoạt động dạy học một bài cụ thể.
Mục đích của hoạt động này là để kiểm tra việc học ở nhà cũng như mức độ hiểu
bài của học sinh. Ngoài ra, đây cũng là hoạt động có tính chất kết nối giữa bài đã
học và bài đang học (bài mới). Vì vậy, việc thực hiện tích hợp trong q trình
kiểm tra bài cũ là vô cùng cần thiết. Vận dụng kiến thức liên môn từ phần kiểm
tra bài cũ bằng các câu hỏi tích hợp kiến thức Lịch sử, Địa lý đã học. Hoặc giáo
viên có thể kiểm tra sự chuẩn bị ở nhà của học sinh theo nhiệm vụ mà giáo viên
đã giao trước đó (nếu có)


Ví dụ : khi dạy bài: 17 Nước Việt Nam dân chủ cộng hịa từ sau 2-9-1945
đến trước 19-12-1946 có thể kiểm tra bài cũ diễn biến cách mạng tháng 8 và ý
nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cách mạng
tháng 8.
Tiếp theo ở khâu giới thiệu bài mới giáo viên cũng có thể tích hợp kiến
thức liên mơn tạo tâm thế cho học sinh vào bài mới. Đây là một thao tác nhỏ,
chiếm một lượng thời gian không đáng kể trong tiết dạy (và không phải bài nào,
tiết dạy nào cũng cần giới thiệu vào bài một cách công phu bài bản). Tuy nhiên

thao tác này lại có ý nghĩa khá lớn trong việc chuẩn bị hứng thú cho học sinh
trước khi bước vào bài học. Vì vậy giáo viên có thể vận dụng thao tác này để
thực hiện tích hợp kiến thức liên mơn.
Ví dụ: khi dạy bài 17: Nước Việt Nam dân chủ cộng hịa từ sau 2-9-1945
đến trước 19-12-1946 có thể giới thiệu về tranh, ảnh những sự kiện được nói đến
trong văn bản. ( Video Bác Hồ đọc tuyên ngôc độc lập).
Kiến thức liên môn được sử dụng nhiều và có hiệu quả nhất thơng qua câu
hỏi tìm hiểu bài, có thể kết hợp với tranh ảnh, bảng phụ. Đây chính là khâu giáo
viên sử dụng những phương pháp vận dụng kiến thức liên môn vào giảng dạy.
Từ kiến thức mà học sinh tái hiện lại, nhờ vào hệ thống câu hỏi, giáo viên yêu
cầu các em vận dụng kiến thức đó để tiếp nhận kiến thức mới của bài học Lịch
sử.
Cuối cùng, trên cơ sở các câu trả lời của học sinh giáo viên rút ra kết luận,
tổng kết giờ học, củng cố bằng các bài tập về nhà… Các khâu này giáo viên có
thể sử dụng phối kết hợp linh hoạt trong q trình giảng dạy. Khơng phải bài nào
cũng nhất thiết phải theo trình tự như vậy. Nhiều bài có thể lồng ghép bài cũ vào
bài mới. Nhiều bài có thể kiểm tra kiến thức đã học bằng các bài tập thay cho
phần bài cũ và giới thiệu bài mới. Trong quá trình giảng dạy, khi cần, giáo viên
có thể kết hợp cho học sinh làm bài tập củng cố từng phần…
Để thực hiện phương pháp dạy học liên mơn có hiệu quả địi hỏi sự nỗ lực
của học sinh, bởi vì mọi phương pháp đưa ra đều nhằm vào hoạt động nhận thức
của học sinh. Vì thế, giáo viên hướng dẫn các em tìm hiểu những kiến thức mơn
học có liên quan đến Lịch sử nhất là Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục công dân… dưới
nhiều hình thức: đọc sách tham khảo, vẽ bản đồ, sử dụng bản đồ… Giáo viên
phải thực hiện công việc này thường xuyên.
3. Thực nghiệm sư phạm
3.1. Mục đích thực hiện
Việc thực nghiệm của chúng tôi nhằm chứng minh trong thực tế tính khả thi,
hiệu quả mang lại của những đề xuất cho việc vận dụng kiến thức liên môn để
dạy học phần Lịch sử Việt Nam chương trình lớp 12 THPT theo định hướng dạy

học phát triển phẩm chất, năng lực.
3.2. Đối tượng thực hiện
Đối tượng chúng tôi tiến hành thực nghiệm là học sinh ở khối lớp 12, ở
trường phổ thơng Hồng Mai, Nghệ An.
Việc lựa chọn đối tượng này sẽ đảm bảo tính khách quan, chính xác trong
quá trình thực nghiệm bởi vì:


- Qua q trình thực nghiệm sư phạm, tơi đã giảng dạy tại hai lớp của mỗi
khối này, tôi thấy ở hai lớp của mỗi khối học sinh có ý thức học tập tốt, có tinh
thần tham gia xây dựng bài học.
- Mặt khác, đây là các lớp chọn khối tự nhiên, có trình độ nhận thức khá
và tương đương nhau.
3.3. Nội dung thực hiện
Nội dung mà chúng tôi chọn thực hiện giáo án là:
Khối 12, Bài 16: Phong trào giải phóng dân tộc và tổng khởi nghĩa tháng
8 (1939-1945) Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
3.4. Phương pháp thực hiện
- Soạn giáo án tích hợp kiến thức liên môn
- Giảng dạy ở các lớp đã chọn để bước đầu quan sát, rút ra nhận xét về
thái độ, tinh thần, khơng khí học tập của học sinh cũng như mức độ tiếp nhận
của các em.
- Sau đó chúng tôi tiến hành bài kiểm tra 15 phút tại cả hai lớp để kiểm tra
mức độ nhận thức bài học.
- Tiến hành chấm bài, tổng hợp kết quả, từ đó rút ra kết luận.
3.5. Giáo án đối chứng
Về cơ bản, giáo án đối chứng được giảng dạy ở hai lớp 10A10 và 11A15
cũng giúp học sinh hình thành đầy đủ kiến thức, kỹ năng, thái độ cần có trong
mỗi văn bản như giáo án minh họa. Điểm khác giữa giáo án đối chứng và giáo
án minh họa là giáo án đối chứng sử dụng một số phương pháp khác và không

vận dụng kiến thức liên môn trong giảng dạy văn bản.
Vì vậy, trong thời lượng cho phép, tơi khơng trình bày chi tiết giáo án đối
chứng.
4. Giáo án minh họa
Ngày soạn: 17.11.2020
Tiết PPCT: 22,23
Bài 16
PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
VÀ TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG TÁM (1939 – 1945 )
NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ RA ĐỜI
I. MỤC TIÊU BÀI HỌC.
1.Kiến thức cần đạt:
- Đường lối đúng đắn, sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
- Công cuộc chuẩn bị, diễn biến, ý nghĩa Lịch sử và nguyên nhân thắng lợi
của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
2. Về thái độ, tình cảm, tư tưởng:
- Bồi dưỡng niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng.


- Bồi dưỡng tinh thần nhiệt tình cách mạng; noi gương tinh thần Cách
mạng tháng Tám của ông cha, trân trọng giữ gìn và biết phát huy thành quả
Cách mạng tháng Tám.
3. Kỹ năng:
- Rèn luyện kĩ năng xác định kiến thức cơ bản, sự kiện cơ bản.
- Rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, đánh giá các sự kiện lịch sử.
=> Năng lực hướng tới:- Năng lực chung: Tự học, giao tiếp, hợp tác, sáng
tạo, giải quyết vấn đề.
- Năng lực bộ môn: Tái hiện quá khứ lịch sử, phân tích được hồn cảnh Lịch
sửvà chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng thời kì 1939 –

1945.
4. Nội dung tích hợp: Tích hợp kiến thức liên môn:Văn học, GDCD
+ Kiến thứcVăn học: Sử dụng kiến thức văn học và 1 số hình ảnh minh họa
cảnh người dân chết đói thời kỳ này.
+ Kiến thức mơn GDCD: Giáo dục cho thanh niên tình yêu thiên nhiên, quê
hương; trách nhiệm và nghĩa vụ của công dân: yêu nước, thương dân, có ý thức
xây dựng và bảo vệ tổ quốc...
II. THIẾT BỊ,TÀI LIỆU DẠY HỌC.
- Lược đồ Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945….
Tranh ảnh, bảng biểu
III. TIẾN TRÌNH TỔ CHỨC DẠY- HỌC.
1. Kiểm tra bài cũ.
Lồng vào học bài mới để kiểm tra
2. Bài mới: Trình bày khái quát những nội dung sẽ học trong bài.
3. Tiến trình tổ chức dạy - học.
Các hoạt động của Kiến thức cơ bản cần Kiến thức liên mơn cần
thầy và trị
đạt
tích hợp
Hoạt động:Tình I. Tình hình Việt Nam Tích hợp kĩ năng địa lí:
hình Việt Nam trong trong những năm 1939 Dùng bản đồ thế giới, khái
những năm 1939 – – 1945
quát diễn biến chính của
1945.
1) Tình hình chính trị
chiến tranh thế giới thứ hai
- Tháng 9-1939, Chiến
dùng bản đồ thế giới, tranh thế giới thứ hai
khái quát diễn biến bùng nổ. Chính phủ
chính của chiến tranh Pháp đầu hàng Đức, thực

thế giới thứ hai.
hiện chính sách thù địch
với phong trào cách
Trong những năm mạng thuộc địa.
1939-1945, tình hình - Ở Đơng Dương, Pháp
chính trị Việt Nam thực hiện chính sách vơ
chịu tác động rất mạnh vét sức người, sức của
của tình hình thế giới để dốc vào cuộc chiến
và nước Pháp.
tranh.
Tháng 9-1940, quân
Nhật vào miền Bắc Việt


Thảo luận nhóm:
Nhóm 1: Em hãy cho
biết những sự nào của
Lịch sử thế giới và
nước Pháp có tác động
đến Việt Nam?

Nhóm 2: Em hãy cho
biết chính sách kinh tế
của Pháp - Nhật đối
với Đơng Dương?
+ Tháng 9-1939, Tồn
quyền Pháp ra lệnh
tổng động viên nhằm
cung cấp cho “mẫu
quốc” tiềm lực tối đa

của Đông Dương về
quân sự, nhân lực,
nguyên liệu.
+ Pháp thi hành chính
sách « kinh tế chỉ huy
+ Khi Nhật nhảy vào
Đông Dương, Pháp
buộc phải san sẻ quyền
lợi của Đông Dương
cho Nhật.

Nam, Pháp đầu hàng.
Nhật giữ nguyên bộ máy
thống trị của Pháp để vơ
vét kinh tế phục vụ cho
chiến tranh.
- Ở Việt Nam, các đảng
phái thân Nhật ra sức
tuyên truyền lừa bịp về
văn minh, sức mạnh
Nhật Bản, thuyết Đại
Đông Á, dọn đường cho
Nhật hất cẳng Pháp.
- Bước sang năm 1945, ở
châu Âu, Đức thất bại
nặng nề; ở châu Á – Thái
Bình Dương, Nhật thua
to. Tại Đơng Dương,
ngày 9-3-1945 Nhật đảo
chính Pháp, các đảng

phái chính trị ở Việt
Nam tăng cường hoạt
động. Quần chúng nhân
dân sục sơi khí thế, sẵn
sàng khởi nghĩa.
2) Tình hình kinh tế xã hội
- Về kinh tế:
+ Chính sách của Pháp:
thi hành chính sách
"Kinh tế chỉ huy", tăng
thuế cũ, đặt thuế mới …,
sa thải công nhân, viên
chức, giảm tiền lương,
tăng giờ làm…
+ Chính sách của Nhật:
cướp ruộng đất của nông
dân, bắt nông dân nhổ
lúa, ngô để trồng đay,
thầu dầu, yêu cầu Pháp
xuất các nguyên liệu
chiến tranh sang Nhật
với giá rẻ. Nhật đầu tư
vào những ngành phục
vụ cho quân sự như
mănggan, sắt...

Sử dụng kiến thức Lịch sử
và một số hình ảnh về giao
thông Việt Nam thời Pháp
thuộc.

Dùng bản đồ tài nguyên
thiên nhiên để chứng minh
nguồn nguyên-nhiên liệu
phong phú của Việt Nam

Để chứng minh vì
những nguồn lợi mà NhậtPháp thu được từnướcta.
=> lí giải nguyên do nhân
dân ta bị đẩy đến chỗ cùng
cực

Tích hợp kiến thức Văn
học để tơ đậm hơn nữa nạn
đói năm 1945 khiến hơn 2
triệu đồng bào chết đói
+ sử dụng kiến thức văn
học và một số hình ảnh
minh họa cảnh người dân
chết đói thời kì này.


×