Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Phương thức khai thác nghệ thuật truyền thống trong kinh doanh du lịch: Chầu Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.28 KB, 9 trang )

Đề bài : Phương thức khai thác nghệ thuật truyền thống
trong kinh doanh du lịch.
Chầu Văn.
1.

2.

Giới thiệu :
Hát văn, còn gọi là chầu văn hay hát bóng, là một loại hình nghệ thuật ca hát
cổ truyền của Việt Nam.Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng
của tín ngưỡng Tứ phủ (Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh
Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.Bằng cách sử dụng âm
nhạc mang tính tâm linh với các lời văn trau chuốt nghiêm trang, chầu văn được
coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh.Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ.
Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát văn là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20.Vào thời
gian này, thường có các cuộc thi hát để chọn người hát cung văn. Từ năm 1954, hát
văn dần dần mai một vì hầu đồng bị cấm do bị coi là mê tín dị đoan. Đến đầu
những năm 1990, hát văn lại có cơ hội phát triển. Các trung tâm của hát văn là Hà
Nam, Nam Định và một số vùng thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Nghệ thuật chầu văn
đang được quan tâm bảo tồn và lập hồ sơ trình UNESCO cơng nhận là di sản văn
hóa phi vật thể. Hiện tại, Nghi lễ chầu văn của người Việt ở Hà Nam, Nam Định đã
được đưa vào danh sách 33 di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam (đợt 1).
Phân loại :
Hát văn có nhiều hình thức biểu diễn bao gồm là hát thờ, hát thi, hát hầu (hát
phục vụ hầu đồng, lên đồng), và hát văn nơi cửa đền:
Hát thờ: được hát vào các ngày lễ tiết, những ngày tiệc thánh (ngày thánh đản
sinh, ngày thánh hóa...) và hát trước khi vào các giá văn lên đồng.
Hát hầu, trong hát hầu theo tín ngưỡng tứ phủ thì ba giá tam tòa Thánh Mẫu là
bắt buộc và hầu tráng bóng chứ khơng tung khăn. Các giá tung khăn bắt đầu từ
hàng Quan Lớn trở xuống. Trong tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần, người ta có thể


kết hợp hầu tứ phủ hoặc hầu riêng, nếu hầu kết hợp với tứ phủ thì thường thỉnh tam
tịa Thánh Mẫu đầu tiên, cịn nếu hầu riêng thì mới thỉnh đức Thánh Vương Trần
Triều đầu tiên. Một số tác phẩm tiêu biểu như "Cô Đôi Thượng Ngàn",...
1


3.

Hát văn nơi cửa đền: thường gặp tại các đền phủ trong những ngày đầu xuân,
ngày lễ hội. Các cung văn hát chầu văn phục vụ khách hành hương đi lễ. Thường
thì cung văn sẽ hát văn về vị thánh thờ tại đền, và hát theo yêu cầu của khách hành
hương. Nhiều khi lời ca tiếng hát được coi như một bài văn khấn nguyện cầu các
mong ước của khách hành hương. Một đoạn văn thường hát thí dụ như:
Con đi cầu lộc cầu tài.
Cầu con cầu của gái trai đẹp lịng.
Gia trung nước thuận một dịng.
Thuyền xi một bến vợ chồng ấm êm.
Độ cho cầu được ước nên.
Đắc tài sai lộc ấm êm cửa nhà.
Lộc gần cho chí lộc xa.
Lộc tài lộc thọ lộc đà yên vui.
Hầu đồng là nghi lễ nhập hồn của các vị Thánh Tứ Phủ vào thân xác ơng
Đồng bà Cốt. Trong nghi lễ đó, hát vǎn phục vụ cho quá trình nhập đồng hiển
thánh.Sau khi đã múa các thánh thường ngồi nghe cung văn hát, kể sự tích lai lịch
vị thánh đang giáng. Với các giá ơng Hồng thì cung văn ngâm các bài thơ cổ.
Thánh biểu hiện sự hài lòng bằng động tác về gối và thưởng tiền cho cung văn.
Lúc này cũng là lúc thánh dùng những thứ người hầu đồng dâng như: rượu, thuốc
lá, trầu nước v.v. Các thứ thánh dùng phải làm nghi thức khai cuông (khai quang)
cho thanh sạch.
Cách trình bày và phần lời :

Chầu văn là một thể hát do cung văn hát trong nghi thức hầu bóng lên đồng.
Cung văn ngồi một bên mé trong khi người hầu bóng, gọi là đệ tử thánh, ngồi trước
bàn thờ. Hai bên cung văn là nhạc công tấu nhạc cùng ban phụ họa hát theo. Hai
bên đệ tử thánh thì có người phụ việc sửa soạn khăn áo để khi thánh nhập thì trang
phục ăn khớp với giá đồng. Người phụ việc cũng lo các lễ vật dâng cúng cùng lộc
thánh để phát cho các người đến cung nghinh.
Chầu văn sử dụng nhiều thể thơ khác nhau như thơ thất ngôn, song thất lục
bát, lục bát, nhất bát song thất (có thể gọi là song thất nhất bát gồm có một câu tám
và hai câu bảy chữ), hát nói…

2


4.




5.

Các nhạc cụ chính gồm đàn nguyệt, trống ban (trống con), phách, cảnh, thanh
la, ngồi ra cịn sử dụng nhiều nhạc cụ khác như: trống cái, sáo, đàn thập lục, đàn
nhị, kèn bầu, chng, mõ, đàn bầu,...
Thứ tự trình diễn :
Nghi lễ hát chầu văn lên đồng có thể chia thành bốn phần chính:
Mời thánh nhập
Kể sự tích và cơng đức
Xin thánh phù hộ
Đưa tiễn
Bài hát thường chấm dứt với câu: "Xa loan thánh giá hồi cung!"

Các làn điệu và tiết tấu :
Về tiết tấu, hát văn thường sử dụng nhịp ngoại (đảo phách). Loại nhịp này
mang đến một cảm giác khơng ổn định trong tâm trí người nghe, đưa người nghe
vào trạng thái mông lung, huyền ảo.
Hát chầu văn sử dụng nhiều làn điệu (hay còn gọi là lối hát, cách hát). Người
xưa còn gọi làn điệu là cách 格. Thí dụ như điệu bỉ thì gọi là bỉ cách, điệu dọc thì
gọi là dọc cách… Các làn điệu hát văn cơ bản gồm: Bỉ, Miễu, Thổng, Phú Bình,
Phú Chênh, Phú Nói, Phú rầu (phú dầu), Đưa Thơ, Vãn, Dọc, Cờn Xá, Kiều
Dương, Hãm, Dồn, điệu kiều thỉnh, Hát Sai (Hành Sai), ngâm thơ. Ngồi ra cịn sử
dụng nhiều làn điệu khác như hát nói trong ca trù, hát then, hò Huế, hồ quảng, hát
canh …..
Bỉ mang sắc thái trịnh trọng, được dùng để mở đầu cho hình thức hát văn thờ.
Thông thường điệu Bỉ đuợc hát trên thể thơ thất ngôn tứ cú (bốn câu mỗi câu bảy
chữ) hoặc thất ngôn bát cú (tám câu mỗi câu bảy chữ) nhưng cũng có khi điệu này
có thể hát trên các thể thơ khác như song thất lục bát, lục bát, song thất nhất bát.
Trong các bản sự tích chư thánh được hát thờ thì đoạn bỉ thường là đoạn giới thiệu
tóm tắt nội dung chính của cả bản văn. Các đoạn bỉ cũng thường sử dụng nhiều câu
đối nhau (biền ngẫu). Một điều đặc biệt nữa đó là điệu bỉ chỉ có trong hát văn thờ
mà tuyệt nhiên khơng có trong hát văn hầu đồng. Bỉ được lấy theo dây lệch, nhịp
theo lối dồn phách.

3


Miễu là lối hát rất nghiêm trang, đĩnh đạc, chỉ được dùng trong hát thi và hát
thờ, tuyệt nhiên không bao giờ được dùng trong Hầu Bóng. Miễu được lấy theo
dây lệch, nhịp đôi.
Thổng chỉ dành riêng cho văn thờ và văn thi, được lấy theo dây bằng, nhịp ba.
Phú Bình dành riêng cho hát văn thờ, rất đĩnh đạc, và dùng để hát ca ngợi các
nam thần. Phú Bình được lấy theo dây lệch, nhịp 3.

Phú Chênh là lối hát buồn, thường dùng để hát trong những cảnh chia ly.
Được lấy theo dây bằng, nhịp 3.
Phú nói thường dùng để mơ tả cảnh hai người gặp gỡ, nói chuyện với nhau.
Dùng trong hát văn thờ, văn thi và cả trong hầu bóng. Lấy theo dây bằng, nhịp ba
hoặc khơng có nhịp mà chỉ dồn phách.
Phú rầu là lối hát rất buồn, được lấy theo dây bằng nhưng hát theo nhịp đôi.
Đưa thơ được lấy theo dây bằng, nhịp 3 và dồn phách, nhưng chủ yếu là dồn
phách.
Vãn lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất lục bát, hát theo lối vay
trả (vay của câu trước thì trả lại trong câu sau).
Dọc lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất - lục bát và hát theo
nguyên tắc vay trả. Nếu hát từng câu thì gọi là nhất cú. Nếu hát liền hai câu song
thất - lục bát thì gọi là "Dọc gối hạc" hay "Dọc nhị cú".
Cờn dùng để ca ngợi sắc đẹp các vị nữ thần. Cờn được lấy theo dây lệch, nhịp
đôi. Có thể hát theo dây bằng, nhưng hầu hết là hát kiểu dây lệch (biến hóa).
Hãm lấy theo dây bằng, nhịp đơi, đây là lối hát rất khó vì phải hát liền song
thất lục bát. Trong lối hát này có một tuyệt chiêu là Hạ Tứ Tự, có nghĩa là mượn
bốn chữ của trổ sau, khi sang một trổ mới thì lại trả lại bốn chữ ấy.
Dồn được lấy theo dây bằng, nhịp 3.
Xá là một trong những điệu hát quan trọng nhất khi hát văn hầu bóng (cùng
với Cờn, Dọc, Phú nói). Điệu Xá đặc trưng cho các giá nữ thần miền thượng.
Ngồi ra hát chầu văn cịn có thể mượn các làn điệu nhạc cổ truyền khác như
ca trù, quan họ, hò Huế và cả những điệu hát của dân thiểu số
6.

Xen kẽ những đoạn hát là đoạn nhạc không lời, gọi là lưu không.
Khai thác “Chầu văn “ trong du lịch:
Di sản nói chung và di sản phi vật thể nói riêng là những nguồn tài nguyên du
lịch q giá. Hiện nay loại hình du lịch tìm hiểu những nét văn hóa là bản sắc dân
tộc đang được rất nhiều du khách ưa thích, đặc biệt là du khách quốc tế. Điều đó

4


khẳng định vai trò, sức hút và sự hấp dẫn của các di sản đối với sự phát triển của
ngành du lịch.
Trong đợt công bố các di sản phi vật thể quốc gia này, Nghi lễ Chầu Văn của
người Việt cũng được công nhận là di sản phi vật thể ở 2 tỉnh Hà Nam và Nam
Định. Song hát Chầu Văn khơng chỉ bó hẹp ở hai địa phương này, ở Bắc Giang hát
Chầu Văn cũng là một nét sinh hoạt văn hóa độc đáo và được diễn ra khá phổ biến
ở các đền, phủ và các điện như ở đền Suối Mỡ, đền Nguyệt Hồ… Trước đây, Hát
văn là một hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính chất nghi lễ phục vụ chủ yếu cho
tín ngưỡng Tứ phủ ( Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần ( Trần Hưng
Đạo) – những tín ngưỡng dân gian có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống
của người Việt. Hát Văn bao gồm có hát thi, hát thờ, hát văn nơi cửa đền và hát hầu
bóng. Hát Chầu Văn sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với lời văn trau chuốt,
nghiêm trang thể hiện lịng thành kính của người hát đối với các vị thánh thiêng…
Hát văn nhất thiết phải gắn với khơng gian diễn xướng đó là nơi cửa đền, cửa phủ
hoặc các điện thờ. Hát văn phổ biến nhất trong mùa lễ hội, tức là những ngày đầu
xuân năm mới. Khi đó, tại các lễ hội mùa xuân hoặc rải rác trong các ngày tuần
rằm, mồng một tại các nơi đền, phủ thường diễn ra hai loại hình hát văn đó là hát
thờ và hát hầu bóng. Hát thờ chủ yếu phục vụ khách thập phương, những người hát
( gọi là cung văn) ngồi tại nơi cửa đền sẽ tấu lên những bài văn phù hợp mỗi vị
thánh trong phủ thờ hoặc hát theo yêu cầu của khách. Cịn hát hầu bóng phục vụ
nghi lễ hầu đồng, quá trình nhập hồn của các vị thánh vào thân xác các ông Đồng
bà Cốt. Lời của các bài hát văn thường kể lại lai lịch, sự tích các vị thánh đang
giáng và thường kể về xuất xứ, tơn vinh cơng đức, kỳ tích của các thánh. Giai điệu
của hát văn mượt mà, hấp dẫn, khi lại dồn dập khỏe khoắn vui tươi và đặc biệt chất
thơ trong lời các bài hát văn được nâng cao trong không gian tâm linh thành kính,
xuýt xoa cùng với dàn nhạc phụ họa đưa đẩy và các điệu múa thiêng của các thánh
thể hiện qua người hầu đồng... Ngày nay với những tính chất đặc sắc này, Hát Văn

khơng chỉ bó hẹp trong các nghi lễ như trước kia nữa mà Hát Văn đã được coi như
một hình thức ca nhạc dân gian vui tươi lành mạnh được trình diễn ở các hội thi,
biểu diễn ở các hội nghị, các buổi giao lưu văn hóa – văn nghệ và đặc biệt là trong

5


các chương trình giao lưu “ Ẩm thực – Văn hóa – Văn nghệ” trong các tour phục
vụ khách du lịch.
Hát Văn ở Bắc Giang tồn tại song hành cùng với tín ngưỡng dân gian thờ
Mẫu và Đức Thánh Trần. Với hàng trăm di tích đền, phủ nằm rải rác trong tỉnh
cùng với nhiều điện thờ tư gia là những không gian sinh hoạt của nghệ thuật hát
Văn, đặc biệt là hát thờ, hát hầu bóng….Hằng năm, phổ biến vào dịp đầu xuân các
con nhang, đệ tử trong tỉnh cũng như từ các địa phương lân cận đổ về các đền thờ ở
Bắc Giang để tổ chức hát hầu, hát thờ. Trong những điểm thường diễn ra lễ hầu
bóng phải kể đến đền Suối Mỡ thuộc xã Nghĩa Phương huyện Lục Nam và đền bà
chúa Nguyệt Hồ thuộc xã Hương Vĩ huyện Yên Thế. Trong nghi thức thờ Mẫu ở
đền bà chúa Nguyệt Hồ và hệ thống đền thờ ở Suối Mỡ ( Cơng chúa Quế Mỵ
Nương hay cịn gọi là Bà chúa Thượng Ngàn) thì hình thức hầu bóng được coi là
một nét văn hóa đặc trưng khơng thể thiếu, nhất là trong những ngày đầu xuân và
dịp lễ hội. Vào dịp đầu năm có rất đơng du khách thập phương từ các tỉnh Hải
Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Nội... về đền Suối Mỡ và đền bà
chúa Nguyệt Hồ để lễ Mẫu và dâng văn hầu. Theo sự tích truyền lại đền Đền
Nguyệt Hồ là một trong những di tích cổ gắn liền với hàng ngàn năm lịch sử và
văn hiến của quê hương Bắc Giang. Ngơi đền nằm ở vùng đất có nhiều di tích
thuộc thượng lưu dịng sơng Thương. Dọc ven dịng sơng này có rất nhiều các
điểm di tích thờ Mẫu nhưng được quan tâm và nổi tiếng hơn là đền Nguyệt Hồ,
thuộc xã Hương Vĩ, huyện Yên Thế. Những năm gần đây đền Nguyệt Hồ là điểm
nhấn tâm linh, tín ngưỡng của đông đảo nhân dân và du khách thập phương. Hàng
năm, có tới hàng ngàn lượt khách từ khắp các tỉnh, thành trong nước hành hương

tìm về đền Bà Chúa Nguyệt Hồ để xin lộc, cầu tài, cầu bình an trong cuộc sống.
Còn tại Suối Mỡ- hệ thống đền Hạ, đền Trung và đền Thượng đều thờ công chúa
Quế Mị Nương, con gái thứ 10 của vua Hùng Định vương. Tương truyền nàng là
người có cơng khởi thác Vực Mỡ đưa nước về cho nhân dân trong vùng khai
hoang, trồng trọt, xây dựng xóm làng, nàng có cơng dạy dân làm lúa nước, ươm tơ
dệt vải…mang lại ấm no cho dân bản…Khi hóa nàng được tơn làm vị Thần, là
Thánh Mẫu tồn năng bảo vệ dân làng, trơng coi núi rừng và có nhiều mối quan hệ
với các dân tộc thiểu số anh em... Ở Bắc Giang đền Nguyệt Hồ và đền Suối Mỡ
6


đều có Hát Văn hầu thánh, Hát Văn thể hiện nét văn hóa đặc trưng riêng tại hai địa
điểm này. Riêng đền Suối Mỡ hằng năm vào dịp lễ hội còn tổ chức hội thi Hát Văn.
Đây là một nét sinh hoạt văn hóa rất đặc trưng của lễ hội Suối Mỡ khẳng định giá
trị, sức lan tỏa của loại hình di sản Hát Văn góp phần khơng nhỏ trong việc thu hút
khách du lịch đến với điểm du lịch này.
Có thể khẳng định tại Suối Mỡ với những phong cảnh hữu tình những thác
nước quanh năm tung bọt trắng xóa, hịa chung trong với thiên nhiên núi rừng
hoang sơ với hệ thống đền thờ Mẫu là những làn điệu Hát Văn đi vào lòng người
đã khiến nơi đây trở thành một địa điểm du lịch văn hóa tâm linh và sinh thái hấp
dẫn. Trong quy hoạch phát triển du lịch đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020 và quy hoạch bảo tồn tổng thể hệ thống di tích và danh thắng Tây Yên Tử
tỉnh Bắc Giang đều khẳng định Suối Mỡ là một điểm du lịch nhiều tiềm năng phát
triển của tỉnh. Đồng thời đây là một điểm du lịch trọng tâm được đưa vào quy
hoạch, đã và đang được xây dựng và khai thác trong giai đoạn hiện nay cũng như
hướng phát triển lâu dài của tỉnh Bắc Giang nói chung và của huyện Lục Nam nói
riêng. Theo đó Suối Mỡ sẽ được đầu tư theo hướng bảo tồn, tơn tạo các giá trị văn
hóa, lịch sử, bảo vệ tài nguyên môi trường để khai thác phát triển du lịch sinh thái
gắn với du lịch văn hóa tâm linh. Như vậy, ngồi việc tơn tạo các giá trị vật thể của
di tích, danh thắng Suối Mỡ, vấn đề bảo tồn giá trị văn hóa phi vật thể tại điểm du

lịch này cũng cần được quan tâm. Di sản phi vật thể ở đây có thể nói đến đó là văn
hóa thờ Mẫu thượng ngàn, gắn với lễ hội Suối Mỡ được tổ chức hằng năm và đặc
biệt là nghệ thuật hát văn hầu bóng tại hệ thống đền thờ và hát văn thi trong ngày
hội Suối Mỡ.
Việc bảo tồn, khai thác nét văn hóa độc đáo ở Suối Mỡ phục vụ cho phát triển
du lịch, đồng thời tránh sự lợi dụng thái quá hình thức hát văn phục vụ cho mục
đích mê tín dị đoan theo tơi, chúng ta nên thực hiện một số giải pháp sau:
- Trước nguy cơ mai một của nghệ thuật hát văn truyền thống như lớp nghệ
nhân hát văn giờ chỉ còn thưa thớt, lớp trẻ học hát văn chủ yếu để phục vụ nhu cầu
hành nghề cấp tốc theo kiểu ăn sổi. Mặt khác đời sống âm nhạc cổ truyền bị phá
vỡ, đối tượng thưởng thức loại hình nghệ thuật này bị thu hẹp dần do đó cần có
chính sách cho các nghệ nhân hát văn. Có các hoạt động đào tạo, truyền nghề cho
7


7.

lớp người trẻ kế cận để hát văn không bị mai một. Khuyến khích việc đưa các tiết
mục hát văn vào các cuộc hội diễn nghệ thuật, các chương trình giao lưu văn hóa –
văn nghệ phục vụ du khách…;
- Tiếp tục duy trì và mở rộng và nâng cao chất lượng Hội thi Hát Văn vào
ngày hội Suối Mỡ và lấy đó là một trong những điểm nhấn nhằm thu hút du khách
về với Bắc Giang. Để thực hiện điều này, cần tăng cường công tác tuyên truyền về
hội thi đồng thời có hình thức động viên, khuyến khích để thu hút các cung văn ở
các địa phương trong tỉnh tham gia Hội thi;
- Ban quản lý di tích Suối Mỡ cần được kiện toàn và bổ sung chức năng,
nhiệm vụ phối hợp tốt với nhà Đền quản lý tốt các sinh hoạt tín ngưỡng trong đó
có việc quản lý cả sinh hoạt hát văn tại Suối Mỡ đồng thời có thể có biện pháp
quản lý các sử dụng các cung văn hợp lý vừa phục vụ sinh hoạt tín ngưỡng vừa
phục vụ được du khách thập phương;

- Xây dựng Hát Văn trở thành một trong những điểm nhấn quan trọng hình
thành sản phẩm du lịch tại Suối Mỡ. (Ví như duy trì hình thức hát thờ, tổ chức cho
các cung văn hát phục vụ khách thập phương khi hành hương đến Suối Mỡ. Xây
dựng tour du lịch Suối Mỡ có chương trình Hát Văn, hoặc khi khách du lịch có nhu
cầu sẽ có đội cung văn phục vụ).
Nếu được bảo tồn, quản lý và khai thác tốt Hát Văn trong phát triển du lịch,
ngành du lịch Bắc Giang hứa hẹn sẽ thu hút được đông đảo du khách về với địa
phương.
Bảo tồn và phát huy :
Liên hoan hát Văn, hát Chầu văn khu vực đồng bằng sông Hồng mở rộng năm
2013 nhằm bảo tồn, tôn vinh, phát huy nghệ thuật văn hóa dân gian, mang đậm
màu sắc tín ngưỡng trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể Việt Nam; góp phần
làm phong phú, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc trong Tuần Văn hóa - Du lịch tỉnh
Vĩnh Phúc. Đây cũng là dịp để các đoàn nghệ thuật quần chúng của các tỉnh, thành
phố gặp gỡ, giao lưu, học hỏi góp phần cùng các nhà quản lý văn hóa thúc đẩy tiến
trình lập hồ sơ trình UNESCO cơng nhận hát Văn, hát Chầu văn là di sản văn hóa
phi vật thể của nhân loại. Đại diện cho tỉnh ta, Nhà Văn hóa 3-2 tỉnh tham dự với 5
tiết mục, trong đó, có 3 tiết mục đoạt Huy chương Vàng: Hát Văn lời cổ “Hội làng”
(Thu Hiền); Giá Chầu “Quan đệ tam” (Thanh An, Văn La) và Hòa tấu dàn nhạc; 2
8


Huy chương Bạc: Giá Chầu “Cô bé thượng ngàn” (Tập thể diễn viên, nhạc công);
hát Văn lời mới “Bài ca đất nước dâng Người” (Văn La). Quê hương Nam Định là
nơi phát tích và bảo lưu nhiều làn điệu dân ca, dân vũ; có nhiều loại hình nghệ
thuật truyền thống độc đáo. Trước hết, ở loại hình diễn xướng dân gian, theo các
nhà nghiên cứu, Nam Định là cái nôi của nghệ thuật Chầu văn. Về mặt văn học
(tức là ngôn ngữ và thể loại), hầu hết các giá văn cổ của nghệ thuật Chầu văn lưu
truyền trong dân gian đều ở thể thơ lục bát, song thất lục bát.
Hằng năm, tại lễ hội cấp quốc gia Phủ Dầy đều có tổ chức thi hát Văn. Thành

cơng của đội tuyển Nam Định tại Liên hoan hát Văn, hát Chầu văn khu vực đồng
bằng sông Hồng mở rộng tiếp tục khẳng định những giá trị đích thực của nghệ
thuật Chầu văn Nam Định, cũng như kết quả công tác lưu giữ, bảo tồn, phát huy
giá trị di sản văn hoá phi vật thể này của các cấp, các ngành chức năng và nhân dân
yêu nghệ thuật Nam Định.

9



×