Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

SKKN một số PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG dẫn học SINH tự học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.94 MB, 70 trang )

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TỰ HỌC
MÔN NGỮ VĂN Ở THPT
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
- Vấn đề tự học tự đào tạo của người học đã được Đảng, Nhà nước quan tâm
quán triệt sâu sắc từ nhiều năm qua. Nghị quyết Trung ương V khóa 8 từng nêu
rõ: “Tập trung sức nâng cao chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự
sáng tạo của học sinh, sinh viên; Bảo đảm mọi điều kiện và thời gian tự học cho
học sinh, sinh viên, phát triển mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường
xuyên và rộng khắp trong toàn dân”. Công văn Số: 4612/BGDĐT-GDTrH về
việc hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thơng hiện hành theo định
hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học 2017-2018 có viết:
Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học “Chú trọng rèn luyện cho học
sinh phương pháp tự học, tự nghiên cứu sách giáo khoa để tiếp nhận và vận
dụng kiến thức mới thông qua giải quyết nhiệm vụ học tập đặt ra trong bài học;
dành nhiều thời gian trên lớp cho học sinh luyện tập, thực hành, trình bày, thảo
luận, bảo vệ kết quả học tập của mình; giáo viên tổng hợp, nhận xét, đánh giá,
kết luận để học sinh tiếp nhận và vận dụng”. Công văn số 3280/BGDĐTGDTrH, ngày 27/8/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn thực hiện điều
chỉnh nội dung dạy học cấp THCS, THPT có viết: Đối với nội dung được hướng dẫn
“Khuyến khích học sinh tự học”, “Khuyến khích học sinh tự đọc” “Khuyến khích
học sinh tự làm”, “Khuyến khích học sinh tự thực hiện”, “Đọc thêm” thì căn cứ vào
tình hình thực tế, năng lực của học sinh, sự liên quan của kiến thức, kỹ năng trong
phần được hướng dẫn “Khuyến khích…” với các nội dung tiếp theo để lựa chọn
nội dung phù hợp, cách thức hướng dẫn, khuyến khích học sinh thực hiện. Đối với
các nội dung được hướng dẫn “Tự học có hướng dẫn”, “Tự đọc có hướng dẫn”,
“Hướng dẫn học sinh tự làm” thì u cầu giáo viên phải có hướng dẫn phù hợp với
đặc thù bộ môn để học sinh thực hiện, từ đó có được những kiến thức, kỹ năng cơ bản,
cốt lõi phục vụ việc học tập tiếp theo; chú ý vấn đề an toàn cho học sinh trong q
trình thực hiện.
- Tự học đóng một vai trị rất quan trọng trên con đường học vấn của mỗi người.
Người biết tự học ln tư mày mị, tìm kiếm, nghiên cứu một cách tích cực và


khơng cấn ai nhắc nhở ở bất cứ hồn cảnh nào. Nhờ đó những con người ấy ln
biết nhìn xa trơng rộng, khơng bị tụt hậu, luôn nhạy bén trong thực tế do biết áp
dụng kiến thức đã học. Kiến thức là vô cùng trong khi trí nhớ của con người là
hữu hạn, nếu chỉ biết học tủ học vẹt thì ta sẽ khơng thể biền những kiến thức ấy
thành của mình để vận dụng vào thực tế mà sẽ mau chóng quên đi. Tự học sẽ
giúp ta khắc phục phục được nhược điểm này đồng thời giúp ta rèn luyện thói
quen tích cực, chủ động hơn trong hồn cảnh khó khăn. Hơn hết, khi tự học ta
mới thấy được cái hay, cái đẹp của tri thức từ đó trở nên say mê khám phá, học
hỏi nhiều điều mới lạ hơn nữa. Tự học giúp ta nắm vững căn bản, đào sâu và mở
rộng kiến thức chứ khơng phải nhận thức một cách máy móc. Có tự học ta mới
hệ thống lại được những kiến thức đã học và kịp thời nhận ra thiếu sót của bản


thân để kịp thời bồi đắp, từ đó ta có bước đầu tự tin trên con đường học vấn. Tự
học giúp HS tiếp thu và giải quyết vần đề từ nhiều nguồn khác nhau: Sách báo,
công nghệ thông tin, bài giảng, từ những kinh nghiệm trong cuộc sống…Lúc đó
vấn đề sẽ được nhìn nhận sâu sắc và tồn diện hơn. Tự học giúp HS có thái độ
chủ động tìm ra phương pháp học tập phù hợp, đạt hiệu quả cao. Khi tự học, mỗi
học sinh hồn tồn có điều kiện để tự nghiền ngẫm những vấn đề nảy sinh trong
học tập theo một cách riêng với những yêu cầu và điều kiện thích hợp. Điều đó
khơng chỉ giúp bản thân học sinh nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền
vững; chủ động bồi dưỡng phương pháp học tập và kĩ năng vận dụng tri thức mà
còn là dịp tốt để rèn luyện ý chí và năng lực hoạt động độc lập sáng tạo. Đó là
những phẩm chất mà chỉ có chính bản thân học sinh tự rèn luyện kiên trì mới có
được.
2. Tính cấp thiết của vấn đề
- Phần lớn GV chỉ giao bài tập về nhà cho HS tự học còn việc hướng dẫn cụ
thể như thế nào và làm sao để việc tự học có hiệu quả thì chưa. Ở lớp việc
hướng dẫn HS chưa đồng đều, cịn mang tính hình thức, chưa hiệu quả. GV chưa
có phương pháp hướng dẫn HS tự học phù hợp với tinh thần đổi mới, cịn áp

dụng các hình thức truyền thống.
- Đề tài của tôi đưa ra một số phương pháp hướng dẫn HS THPT tự học môn
Ngữ Văn phù hợp với tinh thần đổi mới. Tôi cùng đồng nghiệp đã áp dụng có
hiệu quả và thu lại được những kết quả nhất định. Hướng dẫn HS tự học các
VBVH khơng chỉ giúp HS phát huy được tính chủ động, tích cực, tự giác và
sáng tạo mà cịn hình thành và phát triển được NL tự học, một trong những NL
chung cần được hình thành cho HS theo chương trình giáo dục PT (Ban hành
kèm theo thơng tư số 32/ 2018/ TT- BGDDT ngày 26/12/2018 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và đào tạo).
3. Đóng góp mới của đề tài
- Với đề tài này, GV đã bổ sung thêm một số phương pháp hướng dẫn HS tự học
môn Ngữ văn một cách hiệu quả. GV vận dụng các phương pháp hướng dẫn HS
tự học ở các bài học, tình huống và hoàn cảnh khác nhau một cách linh hoạt,
tránh được sự nhàm chán, đơn điệu. HS phát huy được các phẩm chất và NL cần
hướng tới nhất là NL tự học. HS biết cách tự học ở lớp, tự học ở nhà, tự học
ngồi xã hội khi khơng có sự hướng dẫn của GV và tự học cá nhân, học theo
nhóm. Đề tài đáp ứng được xu hướng đổi mới của giáo dục, phát triển con người
một cách toàn diện.
- Đề tài này không những đáp ứng đúng tinh thần đổi mới trong dạy học mà còn
đáp ứng với điều kiện thực tế của XH đó là tình trạng đầy biến động của XH
như đại dịch covid-19 kéo dài, lũ lụt miền Trung...Trong điều kiện như thế này
việc hướng dẫn HS tự học rất quan trọng nhất là đối với những HS THPT đang
tiếp cận gần kề với các kì thi quan trọng .
Những vấn đề trên là nguyên nhân thôi thúc tôi thực hiện đề tài: “ Một số
phương pháp hướng dẫn HS tự học môn Ngữ văn ở THPT”. Đây là một vấn đề


bổ ích, thiết thực đối với chun mơn của chúng ta. Qua cơng trình nghiên cứu
này, tơi mong muốn tất cả GV đều được trang bị cho mình các phương pháp
hướng dẫn HS tự học một cách hiệu quả và tất cả HS đều có khả năng tự học, ý

thức học tập suốt đời để tự hoàn thiện bản thân, đáp ứng xu thế của XH.
PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở lí luận
1.1. Phương pháp dạy và học tích cực
Thuật ngữ “Phương pháp dạy và học tích cực”được dùng để chỉ những
phương pháp giáo dục/ dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của người học.
Phương pháp dạy và học tích cực đề cập đến các hoạt động dạy và học nhằm
tích cực hóa hoạt động học tập và phát triển tính sáng tạo của người học. Trong
đó, các hoạt động học tập được tổ chức, định hướng bởi GV. Người học không
thụ động, chờ đợi mà tự lực, tích cực tham gia vào quá trình tìm kiếm, khám
phá, phát hiện kiến thức, vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề trong thực
tiễn, qua đó, lĩnh hội nội dung học tập và phát triển năng lực sáng tạo.
Trong dạy và học tích cực, hoạt động học tập được thực hiện trên cơ sở hợp
tác và giao tiếp ở mức độ cao. Phương pháp dạy và học tích cực khơng phải là
một phương pháp dạy học, mà là một khái niệm bao gồm nhiều phương pháp,
hình thức, kỉ thuật dạy học khác nhau nhằm tích cực hóa, tăng cường sự tham
gia của người học, tạo điều kiện cho người học phát triển tối đa khả năng học
tập, năng lực sáng tạo và năng lực giải quyết vấn đề.
Phương pháp dạy và học tích cực đem lại cho người học hứng thú, niềm vui
trong học tập. Nó phù hợp với đặc tính ưa thích hoạt động của lứa tuổi học sinh.
Khi đã trở thành niềm vui với HS, việc học sẽ giúp các em tự khẳng định mình
và ni dưỡng lịng khát khao sáng tạo. Như vậy, dạy và học tích cực nhấn mạnh
đến tính tích cực hoạt động của người học và tính nhân văn của giáo dục.
Bản chất của dạy và học tích cực là:
- Khai thác động lực học tập ở người học để phát triển chính họ.
- Coi trọng lợi ích, nhu cầu của cá nhân để chuẩn bị tốt nhất cho HS thích
ứng với đời sống xã hội.
Trong bối cảnh của thời kì đổi mới, giáo dục cần phải phát triển để đáp ứng
yêu cầu của xã hội. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra các tiêu chí quan trọng để đổi

mới phương pháp dạy và học như sau:
- Tiêu chí hàng đầu của việc dạy và học là dạy cách học.
- Phẩm chất cần phát huy mạnh mẽ là tính chủ động của người học.


- Công cụ cần khai thác triệt để là công nghệ thông tin và đa phương tiện.
1.2. Những dấu hiệu đặc trưng của dạy và học tích cực
Giáo viên giữ vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện tốt
cho HS có thể thực hiện các hoạt động học tập một cách có hiệu quả. Các dấu
hiệu đặc trưng của phương pháp dạy và học tích cực có thể là:
1.2.1. Dạy và học thơng qua tổ chức các hoạt động của HS và chú trọng
rèn luyện phương pháp tự học
Một trong những yêu cầu của dạy và học tích cực là khuyến khích người học
tự lực khám phá những điều chưa biết trên cơ sở những điều đã biết. Tham gia
vào các hoạt động học tập, người học được đặt vào những tình huống; được trực
tiếp quan sát, thảo luận, trao đổi; được khuyến khích đưa ra các giải pháp giải
quyết vấn đề theo cách của mình; được động viên trình bày quan điểm riêng của
mỗi cá nhân. Qua đó người học khơng những chiếm lĩnh được kiến thức và kĩ
năng mới mà còn làm chủ cách thức xây dựng kiến thứ, đồng thời tính tự chủ và
sáng tạo có cơ hội được bộc lộ, rèn luyện
Tổ chức các hoạt động học tập của HS phải trở thành trung tâm của quá
trinhg giáo dục. GV cần biết lập kế hoạch dạy học, hướng dẫn HS phát triển các
năng lực cần thiết trong cuộc sống, trong và ngoài nhà trường ở hiện tại cũng
như trong tương lai.
Trong dạy học, cần rèn luyện cho người học phương pháp tự học. Phương
pháp, kĩ năng, thói quen và ý chí tự học sẽ tạo cho người học lòng say mê học
tập, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi người học và kết quả học tập sẽ được
nâng cao.
Dạy và học tích cực tập trung trọng tâm vào hoạt động học, tạo ra chuyển
biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động, hình thành thói quen tự học

ngay từ những lớp nhỏ ở trường phổ thông. Tự học không chỉ trong giờ lên lớp
dưới sự hướng dẫn của giáo viên mà còn tự học cả ở nhà và ở cả trong các hoạt
động ngồi giờ lên lớp khơng có sự hướng dẫn của GV.
Theo phương pháp truyền thống, các bài tập ở nhà thường chỉ đơn thuần
khuyến khích HS ghi nhớ kiến thức, cịn dạy và học tích cực khuyến khích HS
vận dụng kiến thức đã học vào điều kiện thực tế tại gia đình; tạo điều kiện để HS
rèn luyện các kĩ năng đã học là một hình thức có ý nghĩa, giúp các em liên hệ
các kiến thức đã học ở nhà trường vào thực tế gia đình và cộng đồng.
Khi hướng dẫn HS tự học, GV cần quan tâm đến các vấn đề sau:
. HS có được tạo điều kiện để sáng tạo khơng ?
. HS có thể hoạt động độc lập khơng ?


. HS có được khuyến khích đưa ra những giải pháp của mình khơng ?
. HS có thể xây dựng con đường/ q trình học tập cho riêng mình khơng ?
. HS có thể lựa chọn các chủ đề, bài tập/ nhiệm vụ khác khơng ?
. HS có thể tự đánh giá khơng ?
. HS có được tự chủ trong các hoạt động học tập không ?
1.2.2. Tăng cường hoạt động học tập của mỗi cá nhân, phối hợp với học
hợp tác
Trong dạy và học tích cực, giáo viên cần quan tâm đến sự phân hóa trình độ
nhận thức, cường độ, tiến độ hoàn thành các nhiệm vụ học tập của mỗi học sinh.
Trên cơ sở đó, xây dựng các nhiệm vụ/ bài tập, mức độ hỗ trợ phù hợp với khả
năng của mỗi cá nhân nhằm phát huy khả năng tối đa của người học.
Để người học có điều kiện bộc lộ, phát triển khả năng của mình, cần đặt học
vào môi trường học tập hợp tác trong các mỗi quan hệ thầy -trò, trò- trò. Trong
mối quan hệ tương tác đó, người học khơng chỉ học được qua thầy mà còn qua
bạn, sự chia sẻ kinh nghiệm sẽ kích thích tính tích cực, chủ động của mỗi cá
nhân. Đồng thời, hình thành và phát triển ở người học năng lực tổ chức, điều
khiển, lãnh đạo, các kĩ năng hợp tác, giao tiếp, trình bày, giải quyết vấn đề...và

tạo môi trường học tập thân thiện. Để học hợp tác có hiệu quả, giáo viên cần
hình thành thói quen học tập tự giác, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau cho HS. Nhiệm
vụ được giao phải rõ ràng, cụ thể; mỗi thành viên trong nhóm được phân cơng
xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm của mình.
I.2.3. Dạy và học chú trọng đến sự quan tâm và hứng thú của HS, nhu
cầu và lợi ích của XH
Dưới sự hướng dẫn của GV, HS được chủ động lựa chọn vấn đề mà mình
quan tâm, hứng thú, tự lực tiến hành nghiên cứu giải quyết vấn đề và trình bày
kết quả là đặc trưng lấy HS làm trung tâm theo nghĩa đầy đủ của thuật ngữ” dạy
và học tích cực”. Việc nghiên cứu có thể tiến hành theo cá nhân hoặc theo nhóm
nhỏ.
Các chủ đề/ nội dung tìm hiểu, nghiên cứu có thể do HS tự đề xuất hoặc lựa
chọn trong số các chủ đề/ nội dung do GV giới thiệu, định hướng. Các chủ đề/
nội dung cần gắn liền với nhu cầu, lợi ích của người học và của thực tiễn, xã hội.
Điều này làm cho kiến thức có tính ứng dụng cao và người học hiểu được giá trị,
tác dụng cũng như sự cần thiết của những kiến thức đó trong cuộc sống thực
tiễn.
Dạy và học chú trọng đến sự quan tâm và hứng thú của HS, nhu cầu, lợi ích
của XH nhằm phát huy cao độ tính tích cực, tự lực, rèn luyện cho HS cách làm


việc độc lập, phát triển tư duy sáng tạo, kĩ năng tổ chức cơng việc, trình bày kết
quả.
Nhấn mạnh đến sự quan tâm, hứng thú cũng như lợi ích của người học, GV
cần thiết kế các tình huống học tập sao cho kích thích, lơi cuốn được sự tham gia
tích cực, tự chủ của người học và đảm bảo nguyên tắc phân hóa trong dạy học.
Tuy nhiên, GV có thể gặp khó khăn trong tổ chức hoạt động, khó có thể làm cho
tất cả HS đều hứng thú với chủ đề/ nội dung bài học. Điều này đòi hỏi sự linh
hoạt và nghệ thuật sư phạm của GV. GV cần động viên, khuyến khích, hỗ trợ kịp
thời để đảm bảo tất cả HS đều chủ động tham gia một cách tích cực.

I.2.4. Dạy và học coi trọng hướng dẫn, tìm tịi
Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tịi là giúp HS phát triển kĩ năng giải quyết
vấn đề, phương pháp tự học và phát huy được tính sáng tạo, chủ động ở người
học. Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tịi địi hỏi người học thực sự tích cực
tham gia vào hoạt động học, phải có niềm đam mê, hứng thú và người dạy phải
khơi dậy được ngọn lửa trong người học. GV bắt đầu từ việc hướng dẫn cho HS
trong quá trình phát hiện vấn đề đến HS có thể tự tìm tịi, phát hiện và giải quyết
vấn đề mà không phải sự hướng dẫn của GV.
Một nhiệm vụ học tập tốt là nhiệm vụ đặt ra thách thức đối với người học.
Nhiệm vụ không nên quá dễ tránh tạo ra sự nhàm chán và thậm chí là chán nản.
Tuy nhiên, nhiệm vụ quá khó lại gây ra sự lo lắng và tâm lí sợ thất bại đối với
học sinh. Để đạt được sự cân bằng, các nhiệm vụ cần đa dạng và thiết kế cho
từng đối tượng theo trình độ của HS trong điều kiện cho phép. Một nhiệm vụ
thách thức sẽ tạo ra nhu cầu cần hỗ trợ đối với HS và GV cần quan sát để có sự
hỗ trợ kịp thời. Sự hỗ trợ của GV phải là những can thiệp tích cực.
Hỗ trợ

Nhiều

Ít

Khơng có

Nhu cầu
Nhiều

Cân bằng

Tích cực


Thiếu thốn(bị bỏ rơi)

Ít

Nhàm chán

Cân bằng

Tích cực

Khơng có

Tích cực

Nhàm chán

Cân bằng

I.2.5. Kết hợp giữa đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy và học tích cực, đánh giá khơng chỉ nhằm mục đích nhận định
thực trạng để điều chỉnh hoạt động học tập của học sinh mà còn nhận định thực
trạng để điều chỉnh hoạt động dạy của giáo viên.
Tự đánh giá là một hình thức đánh giá mà HS tự liên hệ phần nhiệm vụ đã
thực hiện với các mục tiêu của quá trình học tập. Học sinh sẽ học cách đánh giá
các nỗ lực và tiến bộ, nhìn lại quá khứ và phát hiện những điểm cần thay đổi để


hồn thiện bản thân. Tự đánh giá khơng chỉ đơn thuần là tự mình cho điểm số
mà là sự đánh giá những nỗ lực, quá trình và kết quả; mức độ cao hơn là HS có
thể phản hồi lại quá trình học của mình.

Dựa vào tiêu chí đánh giá, HS nhìn lại quá trình học tập của mình và biết
được mức độ hoàn thành đac đạt được yêu cầu chưa. Tự đánh giá giúp HS ý
thức hơn về quá trình học tập, về điểm mạnh, điểm yếu và cách học của mình để
điều chỉnh, tiến bộ hơn trong giai đoạn tiếp theo.
Cùng với tự đánh giá, GV cần tổ chức cho HS đánh giá lẫn nhau hay còn gọi
là đánh giá “ đồng đẳng”. Đánh giá đồng đẳng là một q trình trong đó các
nhóm HS cùng độ tuổi hoặc cùng lớp sẽ đánh giá công việc/ kết quả học tập lẫn
nhau. Phương pháp này không được dùng như một biện pháp đánh giá kết quả,
mà chủ yếu dùng để hỗ trợ HS trong quá trình học. HS đánh giá lẫn nhau dựa
trên các tiêu chí được định sẵn do GV cung cấp. Các tiêu chí này cần được diễn
giải bằng những thuật ngữ cụ thể và quen thuộc với HS. Như vậy, đánh giá đồng
đẳng không chỉ giúp HS đánh giá kết quả học tập của bạn mà thông qua đó, các
em cịn có sự so sánh nhìn nhận lại kết quả của chính mình, từ đó, điều chỉnh
cách giải quyết vấn đề, cách học, chia sẻ kinh nghiệm từ kết quả của mình và
của bạn, thúc đẩy kết quả học tập ngày một tốt hơn.
Kết hợp đánh giá của thầy và đánh giá của trị khơng những giúp HS nhìn
nhận bản thân để điều chỉnh cách học mà cịn giúp GV xem lại chính mình để
điều chỉnh cách dạy.
Đánh giá trong dạy và học tích cực cịn là sự kết hợp của đánh giá về học
( đánh giá kết quả), đánh giá vì việc học ( đánh giá q trình) với tự đánh giá.
Dạy và học tích cực nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo người lao động năng
động, sáng tạo, thích nghi với mọi hồn cảnh trong đời sống xã hội. Do vậy,
kiểm tra- đánh giá không chỉ dừng ở yêu cầu ghi nhớ tái hiện kiến thức, lặp lại
các kĩ năng đã học mà phải phát triển ở người học tư duy logic, tư duy phê phán,
khả năng phân tích, tổng hợp, đánh giá, giải quyết các vấn đề mà thực tiễn cuộc
sống đặt ra.
1.3. Phương pháp hướng dẫn HS tự học
1.3.1. Khái niệm tự học
Theo GS. Nguyễn Cảnh Tồn thì tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp cùng với các phẩm chất của mình,

rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một
lĩnh vực hiểu biết mới nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của
mình.


Tiến sĩ Võ Quang Phúc cho rằng:“ Tự học là một bộ phận của học, nó cũng
được hình thành bởi các thao tác, cử chỉ, hành động của người học trong hệ
thống tương tác của hoạt động dạy học.Tự học phản ánh rõ nhất nhu cầu bức
xúc về học tập của người học, phản ánh tính tự giác và sự nooxluwcj của người
học, phản ánh năng lực tổ chức và tự điều khiển của người học nhằm đạt được
kết quả nhất định trong hoàn cảnh nhất định với nồng độ học tập nhất định”
Như vậy tự học hiểu theo đúng bản chất là tự mình động não, suy nghĩ, sử
dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả
cơ bắp (sử dụng các phương tiện) cùng các phẩm chất, cả động cơ, tình cảm, cả
nhân sinh quan, thế giới quan, khơng ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lịng
say mê… để chiếm lĩnh một lĩnh vực khoa học nào đó, biến lĩnh vực đó thành sở
hữu của mình
Tự học là một xu thế tất yếu, bởi vì quá trình giáo dục thực chất là quá trình
biến người học từ khách thể giáo dục thành chủ thể giáo dục (tự giáo dục). Tự
học giúp nâng cao kết quả học tập của học sinh và chất lượng giáo dục của nhà
trường, là biểu hiện cụ thể của việc đổi mới phương pháp dạy học ở các trường
phổ thông.
1.3.2. Năng lực tự học và các biểu hiện của năng lực tự học.
Nguyễn Cảnh Toàn đưa ra quan niệm về năng lực tự học như sau: “Năng lực tự
học được hiểu là một thuộc tính kỹ năng rất phức hợp. Nó bao gồm kỹ năng và
kĩ xảo cần gắn bó với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho người học có
thể đáp ứng được những yêu cầu mà công việc đặt ra” [Nguyễn Cảnh Toàn
(2002), Học và dạy cách học; Nguyễn Cảnh Toàn (2009), Tự học như thế nào
cho tốt). Năng lực tự học là sự bao hàm cả cách học, kỹ năng học và nội dung
học: “Năng lực tự học là sự tích hợp tổng thể cách học và kỹ năng tác động đến

nội dung trong hàng loạt tình huống – vấn đề khác nhau” [Nguyễn Cảnh Toàn
(2009), Tự học như thế nào cho tốt].
Năng lực tự học là những thuộc tính tâm lí mà nhờ đó chúng ta giải quyết được
các vấn đề đặt ra một cách hiệu quả nhất, nhằm biến kiến thức của nhân loại
thành sở hữu của riêng mình.
Những biểu hiện của năng lực tự học
Năng lực tự học là một khái niệm trừu tượng và bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố.
Trong nghiên cứu khoa học, để xác định được sự thay đổi các yếu tố của năng
lực tự học sau một quá trình học tập, các nhà nghiên cứu đã tập trung mô phỏng,
xác định những dấu hiệu của năng lực tự học được bộc lộ ra ngoài. Điều này đã
được thể hiện trong một số nghiên cứu dưới đây:


Candy [Philip Candy (1991), Self-direction for lifelong Learning: A
comprehensive guide to theory and practice] đã liệt kê 12 biểu hiện của người
có năng lực tự học. Ơng chia thành 2 nhóm để xác định nhóm yếu tố nào sẽ chịu
tác động mạnh từ mơi trường học tập.

Nhóm đặc biệt bên ngồi: chính là phương pháp học nó chứa đựng các kỹ năng
học tập cần phải có của người học, chủ yếu được hình thành và phát triển trong
quá trình học, do đó phương pháp dạy của giáo viên sẽ có tác động rất lớn đến
phương pháp học của học trò, tạo điều kiện để hình thành, phát triển và duy trì
năng lực tự học.
Nhóm đặc điểm bên trong (tính cách) được hình thành và phát triển chủ yếu
thơng qua các hoạt động sống, trải nghiệm của bản thân và bị chi phối bới yếu tố
tâm lý. Chính vì điều đó mà giáo viên nên tạo môi trường để học sinh được thử
nghiệm và kiểm chứng bản thân, đôi khi chỉ cần phản ứng đúng sai trong nhận
thức hoặc nhận được lời động viên, khích lệ cũng tạo ra được động lực để người
học phấn đấu, cố gắng tự học.
Tác giả Taylor [Tay lor, B (1995), Self- directed Learning: Revisiting an idea

most appropriare for middle school students] khi nghiên cứu về vấn đề tự học
của học sinh trong trường phổ thông đã xác định năng lực tự học có những biểu
hiện sau:


Taylor đã xác nhận người tự học là người có động cơ học tập và bền bỉ, có tính
độc lập, kỉ luật, tự tin và biết định hướng mục tiêu, có kỹ năng hoạt động phù
hợp. Thơng qua mơ hình trên tác giả đã phân tích ra có ba yếu tố cơ bản của
người tự học, đó là thái độ, tính cách và kỹ năng. Có thể nhận thấy, sự phân định
đó để nhằm xác định rõ ràng những biểu hiện tư duy của bản thân và khả năng
hoạt động trong thực tế chứ không đơn thuần chỉ đề cập đến khía cạnh tâm lí của
người học.
Năng lực tự học cũng là một khả năng, một phẩm chất “vốn có” của mỗi cá
nhân. Tuy nhiên nó ln ln biến đổi tùy thuộc vào hoạt động của cá nhân
trong môi trường văn hóa – xã hội. Năng lực tự học là khả năng bẩm sinh của
mỗi người nhưng phải được đào tạo, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn thì nó
mới bộc lộ được những ưu điểm giúp cho cá nhân phát triển, nếu không sẽ mãi
là khả năng tiềm ẩn. Thời gian mỗi chúng ta ngồi trên ghế nhà trường là rất ngắn
ngủi so với cuộc đời vì vậy tự học và năng lực tự học của học sinh sẽ là nền tảng
cơ bản đóng vai trị quyết định đến sự thành cơng của các em trên con đường
phía trước và đó cũng chính là nền tảng để các em tự học suốt đời.
Như vậy “Năng lực tự học là khả năng xác định được nhiệm vụ học tập một
cách tự giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để đòi hỏi sự nỗ lực phấn
đấu thực hiện; thực hiện các phương pháp học tập hiệu quả; điều chỉnh những
sai sót, hạn chế của bản thân khi thực hiện các nhiệm vụ học tập thông qua tự
đánh giá hoặc lời góp ý của giáo viên, bạn bè; chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ khi
gặp khó khăn trong học tập”.


1.3.3. Các kỹ năng cơ bản của hoạt động tự học

Kỹ năng tự học là khả năng thực hiện một hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự
điều khiển hoạt động tự học trên cơ sở vận dụng các kinh nghiệm có liên quan
đến hoạt động đó. Có bao nhiêu loại hình học tập thì có bấy nhiêu loại hình kỹ
năng chuyên biệt. Các nhà nghiên cứu đã phân chia các kỹ năng tự học theo
nhiều cách khác nhau. Theo nhóm nghiên cứu ở Khoa Tâm lý - Giáo dục Trường
Đại học Sư phạm I Hà Nội, kỹ năng tự học có thể được phân thành 4 nhóm, đó
là nhóm kỹ năng định hướng, nhóm kỹ năng thiết kế (lập kế hoạch), nhóm kỹ
năng thực hiện kế hoạch và nhóm kỹ năng kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm.
Tác giả Vũ Trọng Rỹ thì cho rằng kỹ năng tự học của học sinh nói chung và sinh
viên nói riêng gồm 4 nhóm: kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hành, kỹ năng tổ
chức, kỹ năng kiểm tra đánh giá.
Tiếp thu những quan điểm trên, chúng tôi phân chia hoạt động tự học bao
gồm các nhóm kỹ năng cơ bản sau.
Kỹ năng định hướng
Trước tiên, để quá trình tự học diễn ra thành công người học cần thiết lập cơ
sở định hướng của hành động. Đó là hệ thống định hướng và chỉ dẫn mà chủ thể
có thể sử dụng nó để thực hiện một hành động xác định nào đó. Nó có chức
năng nhận thức đối tượng, vạch kế hoạch, kiểm tra và điều chỉnh hành động theo
kế hoạch. Để có được cơ sở định hướng, người học phải trả lời được các câu hỏi:
- Học nhằm mục đích gì? Học vì u thích mơn học, vì trách nhiệm với gia
đình và xã hội, hay vì để được khen, được đánh giá cao…
- Thái độ học tập ra sao? Học với tinh thần, thái độ nghiêm túc hay hời hợt
qua loa.
- Học như thế nào? Người học nên chọn phương pháp nào là phù hợp với bản
thân.
Kỹ năng lập kế hoạch học tập
Mọi việc sẽ dễ dàng hơn nếu người học xác định được mục tiêu, nội dung và
phương pháp học. Muốn vậy, người học phải xây dựng được kế hoạch học tập.
Trên cơ sở bộ khung đã được thiết lập đó, người học có thể tiếp cận và chiếm
lĩnh tri thức một cách dễ dàng. Trong quá trình lập kế hoạch người học phải chú

ý một số điểm sau:
- Thứ nhất, người học phải xác định tính hướng đích của kế hoạch. Đó có thể
là kế hoạch ngắn hạn, dài hạn, thậm chí kế hoạch cho từng mơn, từng phần. Kế
hoạch phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm, từng giai
đoạn cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình.
- Thứ hai, khi lập kế hoạch, người học phải chọn đúng trọng tâm, cần xác
định được cái gì là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời gian
cơng sức cho nó.
Kỹ năng thực hiện kế hoạch


Muốn thực hiện thành cơng kế hoạch mình đã tạo lập, người học cần có một
số kỹ năng sau:
- Tiếp cận thông tin: lựa chọn và chủ động tiếp nhận thông tin từ nhiều nguồn
khác nhau và từ những hoạt động đã được xác định như đọc sách, nghe giảng,
xem truyền hình, tra cứu từ Internet, đi thực tế… Trong hoạt động này rất cần có
sự tỉnh táo để chọn lọc thông tin một cách thông minh và linh hoạt.
- Xử lí thơng tin: việc xử lí thơng tin trong q trình tự học khơng bao giờ
diễn ra trong vơ thức mà cần có sự gia cơng, xử lí mới có thể sử dụng được. Q
trình này có thể được tiến hành thông qua các kỹ năng ghi chép, phân tích, đánh
giá, tóm lược, tổng hợp, so sánh…
- Vận dụng tri thức, thông tin: thể hiện qua việc vận dụng thông tin tri thức
khoa học để giải quyết các vấn đề liên quan như thực hành bài tập, thảo luận, xử
lí các tình huống, viết bài thu hoạch…
- Trao đổi, phổ biến thông tin: việc trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thơng tin tri
thức thơng qua các hình thức: thảo luận, thuyết trình, tranh luận… là cơng việc
cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức.
Kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm
Khi người học tự đánh giá được kết quả học tập của mình, người học sẽ tự
đánh giá được năng lực học tập của bản thân, hiểu được cái gì mình làm được,

cái gì mình chưa làm được để từ đó có hướng phát huy hoặc khắc phục. Để có
kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, học sinh cần:
- Tự trả lời câu hỏi trong sách giáo khoa bằng cách xác định yêu cầu của câu
hỏi, dự kiến câu trả lời, tái hiện các kiến thức liên quan, tập trình bày câu trả lời
trước nhóm hoặc trước lớp để tìm ra chỗ sai từ đó khắc phục.
- Tự đặt câu hỏi để tự mình giải quyết hoặc thảo luận cùng bạn bè.
- Làm các bài tập của thầy cô giao cho, hoặc các bài tập bản thân tự tìm kiếm
sau đó tự mình kiểm tra đáp án để rút kinh nghiệm…
1.3.4. Những việc GV cần làm để phát triển kỹ năng tự học cho HS
Thứ nhất, phải làm để HS u thích mơn học đó.
Có nhiều cách GV tạo ra cho HS có niềm say mê với môn Ngữ Văn. Sau đây là
một số giải pháp:
GV cần giới thiệu về môn học, về những giá trị của mơn học trong thực tiễn
bằng những ví dụ minh họa cụ thể nhằm kích thích động cơ học tập ở các em.
Nếu chúng ta nói viết khơng đúng, khơng hay sẽ như thế nào? Chúng ta không
biết soạn thảo văn bản thì sẽ ra sao?...GV có thể giới thiệu cho HS những cuốn
sách hay, những văn bản có giá trị để HS đọc và có hứng thú khi tiếp cận môn
Ngữ Văn.
Khi lên lớp, GV phải là người gây được hứng thú học tập cho HS. HS thấy yêu
môn mình học qua bài giảng của GV “ học mà chơi, chơi mà học” tránh được sự


nhàm chán, căng thẳng trong giờ học, qua phương pháp tổ chức dạy học sinh
động, sáng tạo của GV….
Kết thúc giờ dạy GV là người gần gũi, hòa đồng, sẵn sàng giúp đỡ HS trong
mọi hồn cảnh. HS tìm thấy điểm điểm tựa tinh thần từ GV bộ môn. Trong thực
tế nhiều HS u thích GV bộ mơn Ngữ Văn từ đó u thích mơn Văn và quyết
tâm học tốt môn Ngữ Văn.
Với HS THPT, GV cần định hướng cho HS nếu học tốt mơn Ngữ Văn các em
có thể lựa chọn thi vào những nghành nghề nào? Sau này có thể làm dduwwocj

những việc gì? thu nhập trong tương lai ra sao ?
Thứ hai, GV cần hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ
ban đầu.
Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, GV cần giới thiệu sơ lược về chương
trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát nhất để HS hiểu và từ
đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù hợp. GV phải làm cho HS hiểu
rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ
thể và HS hồn tồn có thể phấn đấu thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế
hoạch thời gian được xây dựng chi tiết. Cụ thể GV nên cung cấp PPCT môn học
cả năm cho HS ngay từ đầu và yêu cầu HS bám vào PPCT để xây dựng kế hoạch
và thực hiện kế hoạch học tập.
Thứ ba, GV hướng dẫn cho HS cách tìm và đọc sách hoặc tài liệu liên quan
đến môn học.
GV cần nhấn mạnh cho HS thấy rằng, kiến thức môn học khơng chỉ gói gọn
trong nội dung SGK, trong bài giảng của GV mà đến từ nhiều nguồn khác nhau.
Do đó, GV cần giới thiệu cho HS những cuốn sách hay, những tài liệu bổ ích
liên quan đến mơn học và khuyến khích các em tự tìm kiếm, tự phân tích và
tổng hợp kiến thức. Các em có thể tham khảo các tài liệu ôn tập môn Ngữ Văn
của nhà XB giáo dục, nhà XB quốc gia Hà Nội, sách Ơ-lim-pích mơn Ngữ
Văn… GV cũng có thể giới thiệu địa chỉ một số trang web chuyên ngành, hoặc
các trang diễn đàn trao đổi kinh nghiệm học tập để HS tham khảo thêm như Học
nữa, học mãi, Ôn thi THPT quốc gia.
Thứ tư, GV nên dạy cho HS cách nghe và ghi khi học
HS cần có sự kết hợp hài hịa giữa việc nghe và việc ghi bài. Nghe rồi mới ghi
và ghi theo cách hiểu của mình chứ khơng nhất thiết ghi nguyên theo lời GV.
- Về việc nghe :
+ Nghe để hiểu và nhận thức vấn đề chứ không phải chỉ nghe một cách đơn
thuần.
+ Nghe để phản biện nếu nói chưa đúng, chư trúng. Nghe để tiếp nhận lời hay ý
đúng để giải quyết vấn đề trong bài học và các vấn đề ngoài xã hội.



- Về việc ghi:
+ Ghi đầy đủ tiêu đề của bài học, các mục lớn trong bài
+ Nên kết hợp với SGK để ghi, những nội dung thơng tin có trong SGK khơng
nhất thiết phải ghi mà thay vào đó là dùng bút gạch chân các thơng tin đó và
những lưu ý ghi bên lề của SGK hoặc trong vở
+ Nên ghi những vấn đề đã được chốt lại của bài học, những vấn đề cần phải tìm
hiểu, nghiên cứu thêm
+ Hình thức ghi ngắn gọn, dễ hiểu, có dự phân biệt rõ ràng giữa các mục, các
phần
Thứ năm, GV hướng dẫn cách học bài.
GV nên giới thiệu và hướng dẫn cho HS tự học theo mơ hình các nấc thang nhận
thức của Benjamin S.Bloom. Theo cách phân chia trong thang nhận thức của
Bloom, HS có thể học cách phân tích, tổng hợp, vận dụng tri thức vào từng tình
huống thực tiễn, học cách nhận xét, đánh giá, so sánh đối chiếu các kiến thức
khác… Cách tự học theo mô hình các nấc thang nhận thức của Bloom sẽ giúp
cho HS có thể học được cách rèn luyện được năng lực tư duy logic, tư duy trừu
tượng và phát triển tư duy sáng tạo trong việc tìm ra những hướng tiếp cận mới
đối với các vấn đề khoa học.
Thứ sáu, GV cần giao nhiệm vụ học tập cụ thể cho HS
Để phát huy tối đa năng lực tự học, GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS và có
kiểm tra, đánh giá nhiệm vụ học tập đó.Việc giao nhiệm vụ cụ thể sẽ định hướng
cho HS trong quá trình tự học. HS biết mình làm gì? Nên làm như thế nào…
Vấn đề tự học ở HS là một vấn đề không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập
đạt kết quả cao, địi hỏi HS phải tự giác, khơng ngừng tìm tịi học hỏi. Ngồi ra,
sự định hướng của GV đóng vai trị quyết định thúc đẩy sự thành công trong
việc chiếm lĩnh tri thức của người học.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Khảo sát thực tế việc GV hướng dẫn HS tự học các văn bản VH

Để đảm bảo các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực của HS theo chương
trình giáo dục Phổ thơng thì nhiệm vụ của GV là hướng dẫn HS tự học ở tất cả
các mơn học nói chung và mơn Ngữ Văn nói riêng. Để nắm bắt được tình hình
dạy và học của HS tôi đã tiến hành khảo sát thực tế:
- Mục đích khảo sát:
+ Mức độ, khả năng hướng dẫn HS tự học của GV và thái độ và ý thức tự học
môn Ngữ văn của HS THPT.


+ Mức độ hiệu quả của việc hướng dẫn tự học
Từ đó tơi muốn đề xuất phương pháp hướng dẫn HS tự học môn Ngữ văn
ở THPT để giúp HS tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối
với người lao động, ý thức và nhân cách công dân, khả năng tự học và ý thức
học tập suốt đời đáp ứng mục tiêu chương trình giáo dục PT.
- Địa điểm và thời gian khảo sát:
+ Địa điểm: Trường THPT Tân Kỳ; Trường THPT Tân Kỳ 3 và trường
THPT Lê Lợi.
+ Thời gian : Từ tháng 03 năm 2019 đến tháng 9 năm 2019.
Hình thức khảo sát:
+ Trị chuyện trao đổi với GV và HS
+ Tham gia dự giờ một số tiết dạy của GV
+ Phiếu điều tra
- Kết quả khảo sát:
2.1.1 Khảo sát về việc GV hướng dẫn HS tự học các VBVH ( GV môn
Ngữ văn của 3 trường: Trường THPT Tân Kỳ, THPT Tân kỳ 3, THPT Lê
Lợi)
Hình thức: Tơi đưa ra câu hỏi :
Thầy, cơ có thường xun/ khơng thường xun hướng dẫn HS tự học các
VBVH ở THPT hay không?
Kết quả khảo sát GV trường THPT Tân Kỳ.

Thường xuyên

Không thường xuyên

9/11

2/11

Kết quả khảo sát GV trường THPT Tân Kỳ 3.
Thường xuyên

Không thường xuyên

6/9

3/9

Kết quả khảo sát GV trường THPT Tân Kỳ Lê Lợi .
Thường xun

Khơng thường xun

8/11

3/11

Thầy, cơ gặp những khó khăn và thuận lợi nào khi hướng dẫn HS tự học
các VBVH trong chương trình THPT ?( 31 GV)
Thuận lợi
Trình độ GV


Cơ sở cật chất

Khó khăn
Thái độ HS

GV được tập Các VB trong
huấn các PP chương trình
dạy học tích SGK.
cực


Đạt
chuẩn

Khơng đạt Đảm
chuẩn
bảo

Khơng
đảm bảo

Quan
tâm

Khơng
quan
tâm



chất
lượng

Chưa
Hợp
có chất

lượng

Chưa
hợp lý

31/31

0/31

9/31

11/31

20/31

5/31

26/31

11/31

22/31


20/31

Hiện nay thầy/ cơ đã áp dụng những phương pháp nào khi hướng dẫn học
sinh tự học các VBVH trong chương trình THPT?
Kết quả khảo sát: GV của 3 Trường THPT lân cận huyện Tân Kỳ
Tổng
số GV

Các phương pháp hướng dẫn HS tự học

Tỷ số

Tự học trong giờ lên lớp: GV nêu các câu hỏi/ tình huống,
HS tự học sau đó GV tổ chức cho HS trình bày kết quả
học tập.

Tỷ lệ
100 %

31/31

Tự học ở nhà: GV ra bài tập/ các vấn đề về nhà HS tự
học. HS tự học, tự nghiên cứu, tìm hiểu các VB trước khi
đến trường.

100 %
31/31

Hướng dẫn HS tự học thông qua tham khảo thêm các tài
liệu khác nhau.


21/31

Tự học trong các hoạt động ngồi giờ lên lớp khơng có sự
hướng dẫn của GV.

3/31

31
67,74 %
58 %

18/ 9,68 %

Tất cả các phương án trên

31

2.1.2. Khảo sát về tình hình tự học của HS khi có sự hướng dẫn của
giáo viên
Học ở nhà
Thực
hiện
Tổng số
Tên
theo
trường HS
hướng
dẫn
của

GV

Tăng
cường
tự học
với
nhiều
hình
thức
khác
nhau


thực
hiện
nhưng
khơng
đầu tư

Chưa
thường
xun
tự học

THPT
250
Tân Kỳ

45


30

28

45

20

25

THPT 230
Tân Kỳ

Học ở lớp

Khơng
thực
hiện

Thực
hiện
nghiêm
túc,

hứng thú,
phát huy
được tính
tích cực,
sáng tạo.


Thực
hiện
một
cách
đối
phó

Khơng

hứng
thú học

20

7

40

60

20

10

10

30

55


35


3
THPT
Lê Lợi

252

60

20

24

7

15

25

61

40

2.2. Nhận xét kết quả khảo sát
Với xu hướng dạy học theo định hướng phát triển năng lực, giáo viên dạy
học cần quan tâm nhiều đến đầu ra của học sinh nên địi hỏi cơng việc dạy học
của GV lại khó khăn hơn. Vấn đề là học sinh học xong phải biết áp dụng các
kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Hơn nữa theo hướng

dẫn điều chỉnh nội dung dạy học cấp THPT môn Ngữ Văn ( Kèm theo Công văn
số 3280/ BGDĐT- GDTrH ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ
GDĐT), nhiều văn bản trong chương trình đã được giảm tải và nhiều bài khuyến
khích HS tự đọc, tự học, tự làm. Chính vì lẽ đó nên việc hướng dẫn HS tự học là
rất quan trọng. Hiện nay nhiều GV đã có ý thức trong việc hướng dẫn HS tự học
nhưng chưa có các phương pháp hiệu quả, một số GV vẫn xem nhẹ việc hướng
dẫn HS tự học cho nên chưa đầu tư nhiều về các phương pháp và hình thức
hướng dẫn HS tự học. Việc hướng dẫn HS tự học cịn có nhiều vấn đề vướng
mắc như sau:
2.2.1. Với giáo viên
- Theo hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học cấp THPT môn Ngữ Văn,
hầu như các văn bản được học đều tích hợp thành các chủ đề và thời gian để
thực hiện các văn bản trong một chủ đề không bị ràng buộc chặt chẽ như trước
đây. Chính vì vậy GV có thời gian nhiều hơn để hướng dẫn HS tự học và HS
cũng tự thực hiện được các nhiệm vụ học tập ở trên lớp một cách chủ động và
sáng tạo hơn. Thế nhưng có một số GV vẫn chưa bắt nhịp kịp nên khoảng trống
thời gian trên lớp cịn chưa khai thác triệt để.
- Hình thức kiểm tra và đánh gia đã có sự thay đổi thế nhưng GV vẫn
chưa mạnh dạn và có sự bứt phá trong việc áp dụng phương pháp hướng dẫn HS
tự học. Một số GV ngại thử sức với phương pháp mới, theo lỗi cũ khi hướng dẫn
HS học Văn nên tính hiệu quả chưa cao, chưa có sức hút đối với học sinh.
- GV được tập huấn về phương pháp hướng dẫn HS tự học chưa được
đồng bộ, các tài liệu liên quan đến các phương pháp hướng dẫn tự học khơng có
nhiều. GV vừa dạy, vừa học vừa rút kinh nghiệm.
- Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của trường chưa đảm bảo và tạo nhiều
thuận lợi trong việc hướng dẫn HS tự học.
* Nguyện vọng của GV:
- Trên cơ sở hướng điều chỉnh nội dung dạy học cấp THPT môn Ngữ Văn,
nhà trường cần trao đổi tổ nhóm chun mơn xây dựng PPCT hợp lý. Các bài
được tích hợp thành một chủ đề dạy học cần phân bố thời gian hợp lý, chú trọng

thời gian cho HS tự học, tự làm, tự đọc ngay trên lớp.


- Cần cung cấp các tài liệu liên quan đến phương pháp hướng dẫn HS tự
học. GV được tập huấn về phương pháp hướng dẫn HS tự học một cách bài bản,
có chất lượng.
- Nhà trường kết hợp tổ chuyên môn mời các chuyên viên trao đổi trực
tiếp về tinh thần đổi mới của bộ môn Ngữ văn và cung cấp một số phương pháp
cụ thể trong việc hướng dẫn tự học.
- Các nhóm chun mơn thường xun trao đổi các bài dạy trước khi lên
lớp để đưa ra phương pháp giảng dạy hiệu quả nhất. Mỗi nhóm chun mơn của
mỗi khối nên lập riêng một trang ( Zalo, Facebook..) để cùng trao đổi chuyên
môn, cùng thảo luận các phương án thực hiện.
- Tổ, nhóm chun mơn cần thường xun nhắc nhở các GV phải có ý
thức cao trong việc trau dồi chuyên môn nhất là các phương pháp dạy học phát
huy được NL tự học, tự làm, tự đọc, tự sáng tạo của HS. Cần tuyên dương, khen
thưởng những GV có nhiều đổi mới trong việc hướng dẫn HS tự học có hiệu quả
cao. Đề xuất những GV có kinh nghiệm trong việc hướng dẫn HS tự học dạy thể
nghiệm để cả tổ cùng trao đổi, học tập.
2.2.2. Với học sinh
- Hiện nay HS có quá nhiều vấn đề bên ngoài tác động tới nên việc học của các
em đều bị chi phối. Nhiều HS chưa có tinh thần tự học, ở lớp cũng như ở nhà.
HS chỉ học những gì GV hướng dẫn ở trường cịn về nhà hầu như khơng tự học,
tự nghiên cứu tìm hiểu ngay cả việc không đọc văn bản VH, không soạn bài
trước khi đến trường hoặc nếu có soạn bài thì cũng chỉ soạn một cách đối phó
bằng việc giở SGK tham khảo hoặc lên mạng để chép. Ngay cả khi học ở
trường, một số học sinh cũng rất lười tự học mà chỉ ghi chép và nhớ một cách
thụ động những kiến thức mà các bạn của mình đã tìm hiểu. Chính vì lệ thuộc
vào thầy cơ, bạn bè như vậy mà một học sinh ln rơi vào tình trạng bị động,
khơng biết cách ứng phó với những đề bài có hướng mở và không tự giải quyết

được các vấn đề trong học tập và ngay cả ngoài đời sống.
- Một số HS xác định: học để thi đậu tốt nghiệp THPT là đạt yêu cầu nên những
gì học ở lớp là đủ không cần phải giành nhiều thời gian cho việc tự nghiên cứu,
tự học, tự làm. Có những HS lại tự mãn, quá tin vào bản thân, cho rằng những gì
mình biết đã đủ để phục vụ cho cuộc sống nên cũng không cần phải cố gắng nữa
- Nhiều HS chưa hiểu rõ được vai trò quan trọng của việc tự học, tự nghiên cứu,
tìm hiểu. Tự học giúp HS có được ý thức tốt nhất trong q trình học: chủ động
suy nghĩ, tìm tịi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề từ đó tự
học giúp ta tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, từ
truyền hình ti vi, từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh, những kinh
nghiệm sống của nhân dân.
- Nhiều HS vẫn còn lúng túng khi sử dụng các kỹ năng và phương pháp tự học.
Đặc biệt do đặc thù của bộ môn, nhiều HS khi học Văn, vẫn thích GV dạy theo
phương pháp cũ, phương pháp truyền thụ một chiều, GV cảm thụ hộ HS.
* Nguyện vọng của HS.


- Mong muốn GV có các phương pháp hướng dẫn HS tự học phong phú,
đa dạng và có hiệu quả hơn. GV cần khuyến khích, động viên học sinh bằng các
hình thức khác nhau để tạo hứng thú cho HS trong quá trình tự học.
- Cơ sở vật chất và thiết bị học tập đầy đủ hơn, hiện đại hơn, học sinh
được học ở trong lớp và ngoài lớp một cách thuận tiện, đảm bảo.
- Nên có nhiều cơ hội việc làm sau khi HS đã tốt nghiệp các trường đại
học, cao đẳng để HS có niềm say mê và hứng thú trong việc tự học, tự sáng tạo.
Thông qua khảo sát GV và HS ở các trường THPT huyện Tân Kỳ, tỉnh
Nghệ An cũng như tiến hành dự giờ thăm lớp ở các lớp 10C6, 11C8, 12C12
trường THPT Tân Kỳ, tôi thu nhận được một số kết quả như trên. Với kết quả
này tôi thấy một số vấn đề cấp bách được đặt ra, đó là:
- GV cần có những phương pháp hướng dẫn HS tự học như thế nào để có
hiệu quả ? Cần làm gì để HS ln có ý thức tự học, tự đọc, tự làm ở mọi nơi ?

- Tại sao nhiều HS ở trường cũng như khi về nhà không tự giác trong việc
tự học ? GV cần hướng dẫn cụ thể việc tự học của HS ra sao?
- Ngồi XH, khơng có sự hướng dẫn của GV thì HS tự học như thế nào?
Tất cả những vấn đề này tôi sẽ giải quyết ở phần tiếp sau đây:
3 . Một số phương pháp hướng dẫn học sinh tự học môn ngữ văn THPT
3.1. Hướng dẫn HS tự học ở nhà
Sau khi kết thúc bài học ở lớp, GV giành khoảng thời gian từ 1 đến 2 phút
hướng dẫn HS tự học ở nhà. Nội dung hướng dẫn có liên quan đến bài vừa học
và bài sẽ được học ở tiết tiếp theo.
3.1.1. Hướng dẫn HS tự học những nội dung kiến thức để chuẩn bị học bài
mới.
Trước khi học bài mới HS cần có thao tác chuẩn bị bài mới, việc chuẩn bị
bài mới sẽ giúp HS đến lớp tiếp cận bài mới một cách có hiệu quả hơn. Với mơn
Ngữ văn, HS có thể tiến hành theo các bước sau:
- Hướng dẫn cách tiếp cận bài học: Nếu tự học phần Tiếng việt hoặc Tập làm
văn thì cần bám theo thứ tự các vấn đề trong SGK, nếu là văn bản VH thì GV
nên định hướng cách tiếp cận VB cho HS, đó là xuất phát từ đặc trưng thể loại
để tiếp cận VB.
- Hướng dẫn HS soạn bài:
+ Hướng dẫn cụ thể, không chung chung: Khi soạn bài cần phải
bám vào SGK, tìm hiểu kết quả cần đạt của bài học là gì? (phần này được SGK
khái quát ở đầu bài học) đọc các nội dung và trả lời câu hỏi theo SGK, nếu là
VB văn học thì trả lời câu hỏi theo hướng dẫn học bài. Những vấn đề chưa hiểu,
không rõ cần ghi vào cuốn sổ tay để trao đổi thêm trong giờ học ở trên lớp. Các


em nên tự trả lời câu hỏi theo khả năng tiếp cận riêng của mình. Việc tìm hiểu và
khắc sâu vấn đề của bài học nên thực hiện sau khi đã học ở trường.
+ GV có thể thiết kế lại câu hỏi hướng dẫn học bài từ dễ đến khó, cho
thêm câu hỏi, bài tập để kích thích, khơi gợi

+ Cộng điểm cho HS soạn bài tốt, nếu không chuẩn bị bài thì cần có
những hình thức kỉ luật phù hợp với các lớp khác nhau, các đối tượng khác
nhau.
- Hướng dẫn cách tham khảo và sử dụng các tài liệu có liên quan đến bài học:
+ Hướng dẫn HS những địa chỉ cụ thể để tham khảo các tài liệu (Sách tham
khảo, địa chỉ trên internet, …)
Ngoài các bước trên, GV cần hướng dẫn HS chuẩn bị thêm một số nội
dung học tập, những nội dung này phần lớn mất nhiều thời gian hoặc những nội
dung cần phải khảo sát thực tế, những nội dung có khả năng phát huy được các
năng lực cá nhân... Chuẩn bị các sản phẩm học tập, các đồ dùng học tập tự làm
(nếu có) .
Ví dụ: Dạy truyện cổ tích Tấm Cám: HS tóm tắt truyện bằng các
hình thức như sân khấu hóa tác phẩm.
Ví dụ: Dạy truyện Vợ nhặt của Kim Lân. GV u cầu HS tóm tắt tác phẩm
bằng các hình thức khác nhau (có thể vẽ tranh, vẽ sơ đồ tư duy, sân khấu hóa…)
Hay khi dạy trích đoạn: Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác. Phần tìm hiểu
về quang cảnh phủ chúa, GV cần hướng dẫn để HS về nhà tự học, đến lớp chỉ
mời một số em lên thuyết minh lại. HS có thể lựa chọn các hình thức tái hiện
bức tranh quang cảnh phủ chúa khác nhau để phát huy được năng lực sáng tạo
của từng HS trong lớp
3.1.2. Hướng dẫn HS tự học những nội dung đã hoàn thành xong ở
lớp (học bài cũ về nhà)
- Học bài cũ, đây là nội dung trọng tâm trong việc tự học. HS cần tự tạo
cho mình thói quen biết tự học bài cũ sau khi đã học ở trường. Học bài cũ khơng
có nghĩa là học thuộc lịng, mà học bài cũ với nhiều hình thức phong phú, sinh
động. Thực tế, ngày nay nhiều HS, nhất là những HS học lực còn Yếu, TB
thường bỏ qua bước này. Một số HS chỉ làm các bài tập thầy/ cơ ra về nhà mang
tính chất đối phó cịn chưa thật đầu tư cho việc tự học ở nhà. Vậy làm thế nào để
tất cả HS từ những HS có học lực từ Giỏi, Khá, TB, Yếu đều có ý thức tự học
bài cũ về nhà. Sau đây tôi đưa ra các bước lần lượt thực hiện như sau:

+ GV thay cho việc hướng dẫn chung chung là về nhà các em xem lại bài đã học
bằng việc sẽ cụ thể hóa nội dung HS cần thực hiện là gì: HS sẽ học gì? học ở
đâu? hình thức làm như thế nào? thời gian phải hoàn thành? tùy vào nội dung
mà GV có thể yêu cầu kết quả HS cần đạt được là gì? GV cần đa dạng hình thức
chuẩn bị bài ở nhà, câu đố, đọc phối hợp kể lại bằng chữ, bằng sơ đồ, nhập vai;


chuẩn bị phiếu học tập, nên khuyến khích HS viết đoạn (bài) nhờ GV sửa hộ.
GV nên ra thêm các bài tập mang tính chất tìm tịi, mở rộng, ứng dụng nhất là
những lớp chuyên chọn.
Ví dụ: Sau khi học xong văn bản Tấm Cám, GV có thể ra bài tập như sau: Viết
một bài văn trình bày cảm nhận của em về nhân vật Tấm trong truyện Tấm Cám
( bằng các hình thức khác nhau). Với câu hỏi trên HS có thể trình bày cảm nhận
của mình về nhân vật Tấm bằng các hình thức như viết bài văn nghị luận, làm
thơ, sáng tác nhạc, vẽ tranh, sơ đồ tư duy....
+ Sau đó GV phải kiểm tra, đánh giá kết quả tự học của HS. GV có thể tổ chức
kiểm tra ở trên lớp hoặc thơng qua trang nhóm của lớp (GV nên lập riêng cho
mỗi lớp những nhóm học tập để GV có thể thường xuyên theo dõi tình hình tự
học của HS và đánh giá được mức độ tự học của HS).
- Một số phương pháp tôi đã áp dụng hướng dẫn HS tự học như sau:
+ Hướng dẫn cá nhân tự học:
Xem lại vở ghi đã học ở trường, xác định lại những vấn đề trọng tâm của
bài học cần phải khắc sâu, những vấn đề chưa rõ khi học ở trên lớp, cách giải
quyết từng vấn đề. Vấn đề cần phải được nâng cao và tìm hiểu thêm, những vấn
đề có tính chất ứng dụng..và làm các bài tập theo yêu cầu của GV và các bài tập
bản thân cho là cần thiết.
+ Tự học thông qua trao đổi với bạn cùng lớp, khác lớp, khác trường về vấn đề
đã được tiếp cận ở trường. Nội dung này thường khó hoặc có nhiều vấn đề cần
bàn luận .
+ Tự học qua phương tiện truyền thông, các tài liệu hướng dẫn: Với chương

trình lớp 10, lớp 11 HS có thể vào Youtube các video do cơ Thu Phương giảng
dạy trang Tuyển Sinh 247.com, lớp 12 vào trang ơn thi THPT quốc gia. HS có
thể tìm mua các cuốn sách do NXB giáo dục và NXB đại học quốc gia Hà
Nội…
Ví dụ như sau khi HS đã tìm hiểu xong văn bản Tấm Cám ở trên lớp, GV
có thể hướng dẫn HS về nhà học bài như sau:
- Xem lại vở ghi đã học ở trường, xác định lại những vấn đề trọng tâm của
bài học cần phải khắc sâu, những vấn đề chưa rõ khi học ở trên lớp. Vấn đề
trọng tâm của bài học thể hiện rõ ở phần mục tiêu của bài học ở đầu SGK và
phần ghi nhớ sau văn bản.Với tác phẩm Tấm Cám đó là mâu thuẩn xung đột
giữa Tấm và mẹ con Cám (Chú ý diễn biến và chiều hướng của mâu thuẩn, bản
chất và ý nghĩa xã hội của mâu thuẩn) GV có thể hướng dẫn HS tự học bằng
cách ra bài tập sau : Lập bảng tóm tắt các sự việc và chi tiết thể hiện diễn biến
của mâu thuẫn- xung đột giữa Tấm và mẹ con Cám.


- Làm các bài tập theo yêu cầu của GV: GV ra các BT mang tính chất vận
dụng, mở rộng. Các nhiệm vụ học tập có thể tiến hành tự học theo cá nhân hoặc
nhóm như :
Tìm trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam và thế giới 5 truyện cổ tích có mơ
típ giống Tấm Cám. Em hãy kể lại truyện đó?
Từ truyện cổ tích Tấm Cám, anh/chị suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa cái
thiện và cái ác trong xã hội hiện nay?
Nêu suy nghĩ của anh/ chị về hành động trả thù của Tấm?
Cảm nhận của anh/chị về truyện cổ tích Tấm Cám bằng các hình thức khác
nhau (vẽ tranh, sáng tác nhạc, viết bài văn nghị luận..)( có thể tự học theo
nhóm)
3.1.3. Hướng dẫn HS tự học những nội dung kiến thức cần tiếp tục
hoàn thiện của bài học (tiếp tục hoàn thành những hoạt động cịn lại của bài
học)

Hoạt động học khơng chỉ diễn ra ở trường mà cịn ở nhà, có những hoạt
động học chưa tiến hành xong ở lớp thì GV tiếp tục hướng dẫn HS về nhà học.
Một số hoạt động, GV hướng dẫn HS về nhà học để hoàn thiện bài học. Nội
dung tự học này có thể là một ý nhỏ hoặc cũng có thể là một vấn đề lớn của bài
học. Sau khi HS tự học GV sẽ tiến hành kiểm tra, đánh giá vào tiết học tiếp theo.
Ví dụ: Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy
Nhân vật Trọng Thủy: GV có thể hướng dẫn HS về nhà tự học trên cơ sở có sự
định hướng : Có thể cho HS tìm hiểu nhân vật Trọng Thủy gắn liền với nhân vật
Mị Châu. Đó là trước khi Mị Châu chết và khi Mị Châu chết. Cũng có thể tìm
hiểu nhân vật Trọng Thủy từ lại lịch đến tính cách. Dù tìm hiểu bằng cách nào
cũng phải làm rõ được con người của Trọng Thủy và qua đó cũng thấy rõ được
thái độ của nhân dân ta đối với Trọng Thủy.
Tất cả nội dung GV hướng dẫn HS về nhà tự học cần được thường xuyên đánh
giá qua các hình thức khác nhau như điểm số, lời khen, quà thưởng. GV có thể
cho nhiều con điểm sau đó cọng lại chia đều, GV khen thưởng, tuyên dương
riêng với những em có tinh thần ý thức học tập tốt, những em có sự tiến bộ trong
học tập ở cuối kì, cuối năm. Điều này vừa có tính chất động viên vừa kích thích
được ý thức và trách nhiệm tự học của HS.
3.2. Hướng dẫn HS tự học qua các giờ lên lớp ở trường


- Để hướng dẫn HS tự học tốt ở trên lớp đầu tiên GV phải có sự chuẩn bị chu
đáo về mọi mặt: kỉ thuật, phương pháp tổ chức dạy học; kết quả cần đạt; dự
kiến các tình huống học tập xẩy ra và cách giải đáp; các tình huống sư phạm…
- Một số phương pháp hướng dẫn HS tự học qua các giờ lên lớp ở trường
3.2.1. Dạy học theo nhóm (Dạy học hợp tác)
3.2.1.1 Quy trình thực hiện dạy học theo nhóm/ dạy học hợp tác.
- Bước 1: GV chọn nội dung và nhiệm vụ phù hợp
+ HS phải có đủ thời gian để thực hiện nhiệm vụ học tập
+ Nhiệm vụ học tập nên tương đối khó hoặc rất khó (tùy từng đối tượng HS ở

các lớp để GV hình thành nhiệm vụ học tập phù hợp)
- Bước 2: Thiết kế kế hoạch bài học
+ Xuất phát từ mục tiêu, nội dung của bài học, GV xác định hoạt động nào cần
tổ chức hoạt động theo nhóm. Chúng ta nên chọn các nội dung kiến thức có vấn
đề hoặc có tính chất mở, có tính chất tổng hợp cao để tổ chức hoạt động nhóm.
Có thể phân nhóm theo trình độ, theo sở trường, theo ngẫu nhiên hoặc theo một
tiêu chí nào đó
+ Kết hợp phương pháp dạy học theo nhóm với kỉ thuật dạy học: Với phương
pháp học theo nhóm, GV nên chọn kỉ thuật khăn trải bàn hoặc kỉ thuật mảnh
ghép. Với kỉ thuật khăn trải bàn đòi hỏi tất cả các thành viên phải làm việc cá
nhân, tự suy nghĩ rồi viết ra ý kiến của mình trước khi thảo luận nhóm. Các cuộc
thảo luận thường có sự tham gia của tất cả các thành viên và các thành viên có
cơ hội chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm của mình, tự đánh giá và điều chỉnh nhận
thức của mình một cách tích cực. Kỉ thuật mảnh ghép tạo ra hoạt động đa dạng,
phong phú, HS được tham gia vào các hoạt động với các nhiệm vụ khác nhau và
cùng mức độ yêu cầu khác nhau. Thơng qua hoạt động này hình thành ở HS tính
chủ động, linh hoạt, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm cao trong học tập.
+ Thiết kế nhiệm vụ củng cố, đánh giá: GV có thể cho đại diện của các nhóm
trình bày, các nhóm khác nhận xét, bổ sung, hoặc các nhóm chuyển kết quả thảo
luận nhóm cho nhau để nhận xét, bổ sung trực tiếp vào kết quả của nhóm. Ngồi
ra GV có thể thiết kế bài tập củng cố dưới các hình thức khác nhau để kiểm tra
kiến thức, kĩ năng bài học.
+ Cuối cùng GV hướng dẫn HS về nhà tự học. Tự học bài vừa học và chuẩn bị
cho bài tiếp theo. GV phải hướng dẫn cụ thể và có hình thức kiểm tra, đánh giá
để HS có ý thức tự học, tự nghiên cứu ở nhà.


- Bước 3: Tổ chức dạy học
+ Phân nhóm học tập: Tùy vào nội dung thảo luận nhóm mà GV có thể thay đổi
cách phân nhóm ở trong một bài dạy hoặc các bài dạy khác nhau để tránh sự

nhàm chán đồng thời HS có thể tự học với hầu hết các đối tượng trong lớp.
+ Giao nhiệm vụ cho nhóm: Có thể giao cho mỗi nhóm HS một nhiệm vụ riêng
hoặc tất cả các nhóm đều thực hiện chung một nhiệm vụ. GV quy định về thời
gian thực hiện và yêu cầu sản phẩm của mỗi nhóm.
+ Hướng dẫn HS hoạt động nhóm: Yêu cầu nhiệm vụ của các thành viên trong
nhóm. Nhóm trưởng điều khiển hoạt động nhóm, các thành viên khác thảo luận,
thống nhất kết quả chung của nhóm, thư kí ghi kết quả của nhóm, phân cơng đại
diện của nhóm trình bày kết quả trước lớp. Để các thành viên trong nhóm đều
tích cực hoạt động, nhóm trưởng cần có sự đánh giá về mức độ hoạt động của
các thành viên .
+ Theo dõi, điều khiển, hướng dẫn hỗ trợ các nhóm: GV quan sát các nhóm hoạt
động, nếu các nhóm thảo luận khơng đúng trọng tâm hoặc tranh luận thiếu hợp
tác thì GV cần hỗ trợ kịp thời để hoạt động nhóm có hiệu quả.
+ Tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả và đánh giá: Mỗi nhóm cử đại diện
trình bày kết quả, các nhóm khác nhận xét, bổ sung.
+ Chốt lại những vấn đề cơ bản của bài học.
VD: Khi dạy văn bản “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ ở hoạt hình
thành kiến thức mới (chỉ phần tác giả) : GV có thể hướng dẫn HS tự học nhóm
theo cặp 2 học sinh:
- HS dựa phần Tiểu dẫn, kết hợp với việc đã chuẩn bị bài ở nhà theo
hướng dẫn trước của GV, các em hãy hồn thành ơ chữ sau:

N

H

T

G


T

R

A

C

A

T

T

N

O

H

I

V

A

H

A


T

I

I

E

N

H

A

T

O

N

G

Đ

A

O

I
R


U
I
N

N

H
I

O

C


Q

T

H

O

N

G

G

I


A

I

N

G

U

U

A

N

G

N

G

A

Y

E

N


I

(1) Tên hiệu của Nguyễn Công Trứ là .....
(2) Nguyễn Cơng Trứ rất say mê loại hình diễn xướng .....
(3) Nguyễn Cơng Trứ là ơng hồng của thể loại thơ .....
(4) Nguyễn Công Trứ đã xưng danh là ..... trong Bài ca ngất ngưởng.
(5) Quê hương ..... đã sinh ra người con ưu tú Nguyễn Công Trứ.
(6) Sáng kiến đắp đê lấp biển của Nguyễn Công trứ đã giúp ông khai sinh ra
huyện ..... ở Thái Bình
(7) Chức vụ cao nhất mà Nguyễn Công Trứ được bổ nhiệm là .....
(8) Nguyễn Công Trứ đã từng mong ước tái sinh làm cây ..... trong chính những
vần thơ của ơng.
(9) Ơng thi đỗ ..... năm 41 tuổi.
(10) Nguyễn Công Trứ từng bị giáng chức làm lính thú ở .....
Các ơ chữ vừa tìm được đã tạo cho anh/chị những ấn tượng đặc biệt gì về
tác giả Nguyễn Cơng Trứ ?
- Sang phần đọc hiểu văn bản: GV tiếp tục hướng dẫn cho HS tự học theo nhóm

nhưng thay đổi hình thức, khơng phân nhóm cặp đơi mà theo số thứ tự từ trên
xuống (6 em một nhóm) và tiến hành thảo luận các vấn đề sau: Nguyễn Công
Trứ ngất ngưởng khi ông ra làm quan; ngất ngưởng khi ông cáo quan về hưu;
ngất ngưởng khi ông trở lại quãng đời lam quan nhưng ở chốn triều đình.
3.2.1.2 Điều kiện thực hiện có hiệu quả
- Phịng học có đủ khơng gian
- Bàn ghế dễ di chuyển
- Nhiệm vụ học tập phù hợp
- GV hiểu rõ bản chất của dạy học theo nhóm. HS có thói quen học tập hợp tác,
có kĩ năng điều khiển, tổ chức và các kĩ năng XH khác



×