Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

SKKN sử dụng rolesheet góp phần nâng cao năng lực lĩnh hội tác phẩm văn học trong chương trình ngữ văn 12 học kì i

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 62 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT 1-5

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI

SỬ DỤNG ROLESHEET GÓP PHẦN NÂNG CAO
NĂNG LỰC LĨNH HỘI TÁC PHẨM VĂN HỌC
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 HỌC KÌ I

MƠN: NGỮ VĂN

Tác giả: BÙI THỊ THANH HOA
Đơn vị công tác: Trường THPT 1-5

Tháng 03 - 2021

0


PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Với quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ đóng vai trị
là người dẫn dắt, tổ chức các hoạt động học. Học sinh, người học, mới là người
chủ động, tích cực và sáng tạo, thực hiện các hoạt động học nhằm chiếm lĩnh tri
thức. Để đáp ứng được mục tiêu dạy học trên, người giáo viên cần phải có những
phương pháp giảng dạy tích cực phát huy khả năng tự học, năng lực tư duy độc lập
và sáng tạo ở học sinh.
Thực tế những năm trở lại đây, việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ
thơng đang gặp phải nhiều khó khăn, thách thức. Vì đa số học sinh chưa thực sự
u thích mơn Ngữ văn. Giáo viên vẫn dạy học theo kiểu đọc chép, dạy nhồi nhét,


dạy như một nhà nghiên cứu văn học…Học sinh tiếp thu kiến thức thụ động,
khơng hình thành thói quen tự học, thiếu sự tương tác giữa giáo viên và học sinh,
học sinh và học sinh, thiếu sự hứng thú và đam mê với việc học…
Học sinh của chúng ta có thể học thuộc những ghi nhớ về nội dung và nghệ
thuật của các tác phẩm văn học và tiểu sử của các nhà văn trong sách giáo khoa,
nhưng khơng mấy khi được đọc kỹ lưỡng tồn bộ một tác phẩm văn học, nhất là
văn xi và có cảm xúc thực sự khi đọc. Học sinh của chúng ta có thể viết lại đúng
các định nghĩa, nhận diện và phân loại chính xác các đơn vị và hiện tượng ngơn
ngữ, nhưng khơng có thời gian thực hành các hoạt động giao tiếp. Các em không
mấy khi được thảo luận (nói và nghe) về một tác phẩm mà mình u thích (đọc).
Các bài làm văn phần lớn được học sinh viết theo ý tưởng gợi ý của giáo viên và
các loại sách tham khảo mà các em học thuộc lòng. Giáo viên cũng khơng có thời
gian chấm và sửa bài cho kĩ lưỡng. Kĩ năng viết một cách sáng tạo, thể hiện năng
lực đánh giá, phê phán một cách độc lập của người viết bị biến thành kĩ năng học
thuộc ý tưởng và cách diễn đạt của người khác và chép lại. Theo nguyên lí của giáo
dục, “dạy” là một hoạt động làm cho quá trình “học” được diễn ra. Nói nhiều trong
lớp mà học sinh khơng nghe, nghe mà khơng hiểu, hiểu mà khơng cảm thấy thích
thú, tức là người giáo viên đang nói vào thinh khơng. Cách mà chúng ta giảng bài
như lâu nay chỉ làm cho quá trình học diễn ra ở số khía cạnh, vì vậy chỉ đạt được
một số mục tiêu khiêm tốn như đã nêu. Một mơn học địi hỏi nhiều cá tính sáng tạo
và sự tưởng tượng của cả người dạy và người học đang trở nên khô khan, buồn tẻ
và bị xa lánh.
Việc thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp dạy học đã được chỉ đạo thực
hiện từ nhiều năm nay, đặc biệt hiện nay ngành Giáo dục đang thực hiện đổi mới
mạnh mẽ trong toàn bộ hệ thống giáo dục, nhằm giúp đào tạo nên những học sinh
năng động - sáng tạo - phát triển toàn diện các kỹ năng, đặc biệt là tự học sáng tạo,
tự học trải nghiệm để hòa nhập với xu thế phát triển chung của tồn xã hội. Vì
những lẽ đó, chúng tơi nhận thấy, việc sử dụng các kỹ thuật dạy học và phương
1



pháp dạy học hiện đại để phát triển toàn diện các kỹ năng của học sinh, kích thích
hứng thú học tập ở các em là nhu cầu bức thiết trong hồn cảnh giáo dục hiện nay.
Vậy nên, tơi mạnh dạn áp dụng kỹ thuật dạy học dùng Rolesheet để hỗ trợ trong
hoạt động giảng dạy, nhằm kích thích phát triển các kỹ năng sẵn có ở các em, để
mơn Ngữ Văn có thể trở thành mơn học u thích, hấp dẫn, sinh động và được
mong chờ trong từng tiết học.
Hơn nữa, năm học 2020 – 2021, ngành giáo dục xác định việc “dạy người”, dạy
đạo đức, lối sống, giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh phải là một trong những
nhiệm vụ được ưu tiên hàng đầu và quyết tâm triển khai hiệu quả. Để đáp ứng
những yêu cầu đổi mới đã có khơng ít giáo viên lựa chọn cho mình những phương
pháp kỹ thuật riêng, lối đi riêng trong cách giảng dạy. Tuy nhiên bên cạnh đó, hiện
trạng nhiều trường trong thời gian vừa qua, đều áp dụng phương pháp dạy học
truyền thống thụ động, một chiều, vừa quá tải về kiến thức, vừa gây nhàm chán
cho người học vẫn cịn rất phổ biến.
Ngun nhân của tình trạng trên một phần do xu hướng phát triển hiện đại,
đòi hỏi số lượng lớn lao động chất lượng cao liên quan đến các ngành kinh tế và
kỹ thuật khiến học sinh chuyển hướng sang học các môn tự nhiên để vừa dễ xin
việc, vừa có thu nhập cao; nội dung sách giáo khoa về các môn xã hội chậm đổi
mới, khơng bắt kịp với thời đại. Đồng thời cũng có một nguyên nhân cơ bản khác
đó là phương pháp dạy học thụ động, lạc hậu khiến học sinh không cảm thấy
hứng thú với việc học Văn. Nếu để tình trạng này kéo dài sẽ rất nguy hiểm bởi
thế hệ tương lai của đất nước sẽ khơng phát triển tồn diện, thiếu hẳn đi phần
nhân văn rất quan trọng - vốn là giá trị nền tảng của xã hội.
Chính vì những lẽ đó, để đáp ứng tốt hơn nhu cầu đổi mới phương pháp dạy
học, đổi mới trong kiểm tra đánh giá, đồng thời đáp ứng tốt hơn yêu cầu bám sát
Chuẩn kiến thức và kĩ năng trong việc dạy học thì việc làm phong phú, sinh động,
khắc sâu đề tài…bằng một kỹ thuật mới đó là vấn đề đáng được quan tâm. Vì vậy,
tơi đã vận dụng Rolesheet vào giảng dạy vài năm gần đây và đạt được những bước
tiến đáng kể. Rolesheet khơng chỉ dễ thực hiện mà cịn góp phần chắp cánh cho

những phương pháp dạy học đặc trưng của bộ môn này đạt hiệu quả cao hơn, sinh
động hơn, đồng thời, tạo hứng thú để học sinh tham gia học tập tích cực hơn, mà
đặc biệt là các tiết học đọc – hiểu văn bản. Giúp phát huy hiệu quả hơn, sinh động
hơn cách tiếp cận tác phẩm mà khơng gây nhàm chán.
Do đó, chúng tơi chọn đề tài: “Sử dụng Rolesheet góp phần nâng cao năng
lực lĩnh hội tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn 12 học kì I” cho
Sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn mang đến một kinh nghiệm mới, dễ áp
dụng, nhưng hiệu quả không nhỏ trong mỗi tiết học để cùng chia sẻ.
Mong rằng với những kinh nghiệm này có thể giúp q đồng nghiệp ít nhiều
trong việc làm phong phú thêm phương pháp, kĩ thuật dạy học môn Ngữ văn, đồng
thời chúng tơi rất mong có sự góp ý chân thành của quý vị để đề tài này được sâu
sắc hơn về giá trị khoa học và tính hữu dụng của nó.
2


2. Tính mới của đề tài
Đã có một số sáng kiến kinh nghiệm về sử dụng bảng biểu, sơ đồ, phiếu học
tập… nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong dạy học văn cấp THPT. Nhưng
chưa có đề tài sáng kiến kinh nghiệm nào đề cập đến sử dụng Rolesheet để nâng
cao năng lực lĩnh hội tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ văn 12 học kì I.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
- Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu các vần đề cơ
bản: Thế nào là Rolesheet? Làm thế nào để tạo lập một Rolesheet hiệu quả?
Rolesheet có ảnh hưởng thế nào đến quá trình dạy – học? Việc vận dụng chúng vào
các tác phẩm văn học trong Ngữ văn 12 học kì I như thế nào? Kết quả của việc
thực hiện đề tài ra sao?
- Đồng thời xác định đối tượng thực nghiệm của đề tài là học sinh 3 lớp 12C1,
12C4, 12C10 của Trường trung học phổ thông 1-5 năm học 2020 – 2021 do bản
thân tôi phụ trách giảng dạy, và lớp đối chứng. Cùng một số lớp 12 trên địa bàn
huyện Nghĩa Đàn và Thị xã Thái Hòa do các đồng nghiệp ở đơn vị bạn thực

nghiệm.
4. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu
- Giúp giáo viên có thêm tư liệu bổ sung cho phương pháp, kĩ thuật dạy học
làm phong phú nội dung bài dạy.
- Giúp học sinh dễ nắm bắt các đơn vị kiến thức trọng tâm trong việc tiếp cận
các tác phẩm theo thể loại trong Ngữ văn 12 kì I, dễ ghi nhớ những vấn đề phức
tạp, từ đó các em hiểu vấn đề một cách có hệ thống. Đồng thời tạo cho học sinh
thói quen nhận thức thế giới bằng lối tư duy quan hệ, tính logic và phát huy một
cách hiệu quả tư duy hình ảnh, trừu tượng của các mặt trong một vấn đề.
- Tạo khơng khí hứng thú, tích cực, phát triển sự chủ động của học sinh trong
giờ học văn, giúp học sinh u thích say mê mơn học.
- Đáp ứng tốt nhất những tiêu chuẩn về kiến thức và kĩ năng mà mục tiêu môn
học đã đề ra. Đồng thời, đề tài này cũng giúp chúng tôi phát triển ở học sinh các
năng lực như: năng lực tự xây dựng, tự lĩnh hội kiến thức; năng lực hệ thống, củng
cố kiến thức và rèn luyện tư duy; đặc biệt giúp bồi đắp tâm hồn thơng qua tư duy
hình ảnh, hội họa và thường xuyên giúp giáo viên đánh giá được sự tiến bộ của học
sinh trong suốt quá trình ứng dụng đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp quan sát thực tiễn trong quá trình dạy và học ở trường
phổ thông nhằm thu thập các biểu hiện sinh động, khách quan về thái độ, hứng thú
cũng như mức độ tham gia hoạt động trong giờ học của học sinh.
- Phương pháp thử nghiệm sư phạm: Tổ chức thực nghiệm nhằm mục đích
kiểm tra kết quả của việc sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn Ngữ
3


văn theo quy trình được xác định trong đề tài. Ngồi ra tơi cịn sử dụng một số
phương pháp chứng minh, minh họa, so sánh, đối chiếu, phân loại, thống kê.
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phiếu bài tập, cách sử dụng
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp.

- Tham khảo các tài liệu dạy học có liên quan.
- Sưu tầm, tra cứu, học hỏi từ đồng nghiệp.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Đặt vấn đề, Kết luận và Tài liệu tham khảo nội dung sáng kiến
gồm 4 phần
1. Cơ sở khoa học
2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu
3. Giải pháp chủ yếu để thực hiện đề tài
4. Kết quả nghiên cứu

4


PHẦN 2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
Từ lâu các nhà sư phạm tiền bối đã từng tâm đắc: tri thức của tuổi trẻ là diện
mạo của đất nước trong tương lai. Từ những năm 60 của thế kỉ trước đồng chí
Phạm Văn Đồng đã từng căn dặn thầy giáo phải: “gõ vào trí thơng minh” của học
sinh, giáo dục là đào tạo học sinh thành những thế hệ thông minh sáng tạo. Sự
thông minh sáng tạo phải xuất phát từ những hiểu biết rộng lớn, nó tạo cho nền
tảng tư duy được vững vàng hơn. Phải hiểu rộng, biết nhiều mới có thể chuyên sâu,
mới “làm được cuộc trường chinh vạn dặm trên con đường học vấn”. Muốn được
như vậy, thì ngay hơm nay, những người thầy giáo phải tích cực, chủ động vận
dụng những thành tựu dạy học tiên tiến của loài người vào giảng dạy cho học sinh,
trong đó sử dụng Rolesheet (Phiếu phân vai) là một cách dạy học dựa trên cơ sở
phân chia những nhiệm vụ phù hợp với năng lực, năng khiếu riêng của từng học
sinh; mỗi học sinh sẽ là một cá thể cũng là một chủ thể trong quá trình học tập, chủ
động tiếp cận và hình thành kiến thức theo tư duy của các em, giáo viên sẽ dựa vào
các năng khiếu, năng lực này để cụ thể hóa nhiệm vụ học tập bằng những lệnh học

tập cụ thể, ở đó giáo viên có thể sử dụng sơ đồ hóa, hệ thống hóa, so sánh đối
chiếu, giáo viên cịn có thể cho học sinh tưởng tượng, sáng tạo trong từng nhiệm
vụ học tập qua những Rolesheet cụ thể; Phiếu phân vai trong các môn học rất phổ
biến ở các nước có nền giáo dục phát triển và chúng ta có thể tìm thấy các mẫu
phiếu bài tập trên mạng Internet, trong các sách hướng dẫn giảng dạy. Riêng việc
sử dụng các phiếu bài tập phân vai (Rolesheet) trong môn văn được Harvey
Daniels giới thiệu khá đầy đủ trong cuốn Literature Circles, Voice and Choice in
Book Club (2002). Ở Việt Nam, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về vấn đề này
một cách hệ thống. Và bản thân tôi nhận thấy đây là kĩ thuật dạy học khá mới mẻ.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Phân mơn Đọc – hiểu trong chương trình môn Ngữ văn hiện hành ở trường
trung học phổ thông có vai trị rất quan trọng bởi mơn học này giúp người học
khơng chỉ biết đọc, biết viết mà cịn thấy được cái hay, cái đẹp và biết thưởng thức
cái hay, cái đẹp, của văn chương nghệ thuật. Từ đó mở mang tri thức, hình thành
nhân cách của học sinh. Hơn thế nữa, mơn học này cịn giúp cho các em sự hiểu
biết phong phú về mọi mặt của cuộc sống con người, xã hội và đất nước. Bồi
dưỡng cho các em một cuộc sống tâm hồn tươi đẹp, phong phú, rộng mở. Từ đó
khơi dậy niềm tự hào về đất nước, dân tộc mình và tình yêu cuộc sống, tình u
nhân loại. Vì thế phân mơn này được xem là môn chủ đạo chiếm thời lượng số tiết
trong tuần khá nhiều so với các phân môn học khác trong cấp học.
Không những thế, theo xu hướng đổi mới trong kiểm tra đánh giá chất lượng
giảng dạy, học tập hiện nay, việc làm thế nào để cả người dạy và người học cùng
5


nắm nhanh, nắm vững, nắm chắc, nắm dài lâu kiến thức là vấn đề vô cùng quan
trong. Trong kỳ thi cuối cấp THPT, mơn Ngữ Văn ln giữ vị trí bất di bất dịch
trong việc lựa chọn một trong những mơn thi Tốt nghiệp, việc đó cũng gây áp lực
rất nhiều trong việc dạy và học. Bởi thi cử là quá trình đánh giá kết quả học tập và
giảng dạy của Thầy và trị trong suốt q trình học. Khơng phủ nhận việc dạy học

tác phẩm văn chương là truyền thụ - cảm nhận - sáng tạo, nhưng quá trình ghi nhớ,
tiếp nhận, khắc sâu, cũng là q trình khơng thể thiếu.
Do vậy, sử dụng Rolesheet (Phiếu phân vai) là một trong những phương pháp
dạy học hữu hiệu, góp phần xoa dịu đi áp lực dạy, học của thầy và trị trong q
trình khai thác –tiếp nhận- tích lũy kiến thức.

6


2. THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
2.1. Thực trạng của đề tài
Thực tế những năm gần đây học sinh nói chung và học sinh trường THPT 1-5
nói riêng rất yếu mơn Ngữ văn, ít ham thích học mơn Văn.
- Đối với giáo viên
Giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến việc học của học sinh. Do thời gian ít
mà nội dung bài học nhiều, giáo viên phải dạy thật nhanh để kịp giờ. Có một số tiết
học, người thầy dù vẫn cố gắng thực hiện theo chủ trương giảm tải nhưng cách tổ
chức các đơn vị kiến thức vẫn cịn rườm rà, cách truyền đạt vẫn cịn rập khn,
truyền thống kiểu giảng giải chi tiết, hệ thống thành câu, đoạn dài dịng, trong khi
đó chỉ cần một biểu đồ với những mũi tên trong một tờ giấy là học sinh có thể hiểu
vấn đề thơng suốt. Cũng có những tiết có tích hợp kĩ năng sống, mơi trường, tích
hợp tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc tích hợp giáo dục quốc phịng thì giáo viên phải
thật sự có nhiều thời gian để giải quyết bài học. Những tiết học như thế giáo viên
chỉ tập trung học sinh khá giỏi để bắt kịp câu trả lời, kịp thời gian cho tiết học.
Điều đó thiếu quan tâm đến học sinh yếu hơn trong lớp. Chưa chú ý đến việc
chuẩn bị kĩ càng nội dung bài mới. Giáo viên phải thường xuyên chịu áp lực nhiều
bởi nội dung bài học nên thường hết giờ thì nội dung bài học vừa hết. Vì vậy thao
tác luyện tập, vận dụng, hướng hướng học sinh chuẩn bị bài mới thường qua loa
cho có và nhiệm vụ học sinh về nhà soạn bài theo câu hỏi sách giáo khoa. Giáo
viên khơng có thời gian định hướng việc soạn bài mới cho học sinh.

Chưa quan tâm sâu sắc đến việc kiểm tra, đánh giá học sinh. Khi ra đề kiểm
tra nhiều giáo viên cho câu hỏi khó đánh đố học sinh khá giỏi dẫn đến học sinh yếu
kém khơng làm bài được. Cũng có khi dạy nhiều lớp mà ra cùng một đề nên chưa
mang tính phân hóa học sinh, điều này làm cho học sinh lớp này điểm cao cịn học
sinh lớp khác điểm thấp, khơng có sự đồng đều trong khâu ra đề. Từ đó cho thấy
học sinh có học bài nhưng vẫn làm bài chưa được tốt dẫn đến hạn chế khả năng tư
duy và sáng tạo của học sinh.
Hệ thống câu hỏi một số tiết chưa thật sự phù hợp. Hệ thống câu hỏi cũng
đóng vai trị quan trọng trong giờ học. Câu hỏi chung chung mà khơng mang tính
phân hóa học sinh làm học sinh khó trả lời và ít hợp tác với giáo viên.
Chưa linh hoạt trong khâu vận dụng phương pháp dạy học mới. Thực tế trong
nhà trường hiện nay nhiều giáo viên đã tích cực ứng dụng cơng nghệ thơng tin,
những tìm tịi trong cơng tác soạn giảng và tiếp cận lượng lớn tư liệu dạy học. Tuy
vậy về phương diện phương pháp và kĩ thuật vẫn còn nhiều hạn chế nhất là cách
thức giúp học sinh hiểu vấn đề nhanh, nhớ kiến thức lâu và tái hiện nhanh khi cần
thiết vận dụng. Ví dụ hiện nay bộ giáo dục có ban hành và quyết định đưa một số
phương pháp mới vào bộ môn Ngữ Văn THPT như: Phương pháp khởi động, thảo
luận nhóm, tranh luận, đóng kịch, … rồi dạy học trải nghiệm sáng tạo… Tất cả
những cố gắng đó đều nhằm mục đích chung duy nhất: giúp học sinh có hứng thú
7


và học tập có hiệu quả hơn. Thiết nghĩ, khi dạy học vận dụng linh hoạt các phương
pháp này sẽ tăng tính chủ động, tích cực cho học sinh. Nhưng khi áp dụng một số
giáo viên còn ngần ngại, chưa chịu khó trong khâu lên lớp. Cụ thể trong tiết dạy
một số giáo viên còn giới thiệu một cách chung chung. Ví dụ như khi dạy bài:
“Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ”, giáo viên giới thiệu bài mới “Trong cuộc
sống hằng ngày, con người giao tiếp với nhau bằng phương tiện vơ cùng quan
trọng. Đó là ngơn ngữ. Khơng có ngơn ngữ thì khơng thể có kết quả cao của bất
cứ hồn cảnh giao tiếp nào. Bởi vì giao tiếp ln ln phụ thuộc vào hồn cảnh và

nhân vật giao tiếp. Để thấy được điều đó, chúng ta cùng tìm hiểu bài “Họat động
giao tiếp bằng ngơn ngữ.” Sau đó giáo viên vào bài mới. Với cách giới thiệu bài
như vậy khơng sai nhưng chưa kích thích được học sinh khám phá bài học cũng
như tâm thế hứng thú vào bài mới. Để khắc phục điều này, các nhà nghiên cứu,
điều hành phương pháp học mang đến cho giáo viên Ngữ Văn “phương pháp khởi
động” trong dạy học, nhằm tạo tâm thế, hứng thú cho học sinh tìm hiểu bài mới.
Và chúng đã mang đến hiệu quả không nhỏ.
Chưa quan tâm đúng mức đến đối tượng học sinh, còn thụ động trong đổi mới,
sáng tạo, ngại thay đổi. Nhiều giáo viên đến lớp chỉ vì trách nhiệm dạy cho xong
tiết rồi về hoặc chỉ bảo chưa nhiệt tình, chưa tìm hiểu đối tượng học sinh lớp mình
dạy, xuề xịa, dễ dãi với hiệu quả giảng dạy của bản thân. Đây là thực trạng, dù cịn
ít nhưng khơng thể phủ nhận.
- Đối với học sinh
Có thói quen với lối học đối phó. Những học sinh này với phương châm “Học
thầy không tày học bạn” theo cách hiểu của các em là không cần phải học tất cả
nhờ bạn kế bên. Trong giờ kiểm tra chỉ cần kĩ năng nhìn, ngó, liếc… trong giờ học
nếu giáo viên gọi phát biểu thì mượn bài soạn bạn bên cạnh để trả lời.
Chưa có phương pháp học tập phù hợp với đặc trưng bộ môn. Các em dường
như chỉ học theo bản năng, không chịu trau dồi những kĩ năng phù hợp với môn
học. Đầu năm học giáo viên đã định hướng chương trình học ở ba phân môn thuộc
môn văn và cách học nhưng dường như học sinh không nhớ và không qua tâm. Kết
quả cho thấy học sinh chỉ nghe theo giáo viên hướng dẫn như thế nào làm thế ấy
chưa nhận biết được phương pháp học tập bộ môn.
Học sinh xem thường mơn học. Có nhiều ngun nhân do học sinh khơng thích
mơn học; có khi học yếu; cũng có khi tác động từ phía phụ huynh đầu tư ngay từ
đầu cấp THPT chuẩn bị tốt cho con những môn học thuộc khối tự nhiên. Điều này
tác động tiêu cực đến chất lượng môn Ngữ văn và tâm thế khi vào tiết học Ngữ văn
không quan tâm ngồi im lặng viết bài hoặc đùa giỡn, làm việc riêng trong giờ học.
Lười học tập, thiếu chuyên cần trong học tập, không học bài hoặc không làm
bài ở nhà là một thực trạng rất đáng lo ngại. Bản thân tôi thường được phân cơng

giảng dạy lớp theo ban A, hoặc lớp có học lực trung bình, yếu, có lớp khoảng ½

8


hoặc 2/3 các em có ý thức và nhận thức yếu kém trong học tập. Nên đây là một khó
khăn không nhỏ trong nổ lực giảng dạy.
Xét về khả năng trình bày, khi học sinh tạo lập một văn bản, giáo viên có thể dễ
dàng nhận ra những lỗi sai cơ bản của học sinh như: dùng từ sai, viết câu sai, viết
chính tả sai, bố cục và lời văn hết sức lủng củng, thiếu logic. Đặc biệt có những bài
văn diễn đạt ngô nghê, tối nghĩa, lủng củng ... Đây là một tình trạng đã trở nên phổ
biến và thậm chí là đáng báo động.
Mục tiêu của bậc học phổ thơng là đào tạo con người tồn diện, nhưng thực tế
hiện nay cho thấy, các bộ môn khoa học xã hội thường bị học sinh xem nhẹ, mặc
dù kiến thức của các bộ môn này vô cùng quan trọng cho tất cả mọi người. Muốn
khôi phục sự quan tâm của xã hội đối với các bộ môn khoa học xã hội, không thể
chỉ bằng biện pháp kêu gọi mà chúng ta phải tích cực đổi mới phương pháp dạy
học văn, khơi gợi lại hứng thú học văn của học sinh, hình thành cho các em
phương pháp học văn hiệu quả nhất.
Tình trạng học sinh thụ động, ít hợp tác xây dựng bài học cũng là vấn đề đáng
quan ngại sâu sắc trong quá trình khám phá kiến thức mới. Việc học sinh lười phát
biểu, lười trình bày vấn đề, tâm lý lo sợ khi phải giải đáp vần đề thầy cô nêu ra,
xuất phát từ việc chưa nắm kiến thức cũng có mà ngay cả khi đã hiểu vấn đề thì
vẫn gặp phải trở ngại do “hàng rào ngơn ngữ diễn đạt”. Mà trở ngại này lâu dần sẽ
tạo nên thói quen thụ động nguy hiểm trong tiếp nhận kiến thức ở học sinh. Việc
tiếp nhận thụ động kéo theo khả năng cảm nhận thụ động. Và cuối cùng như một
kết quả tất yếu học sinh sẽ sinh ra học vẹt để đối phó trong kiểm tra đánh giá hình
thành cách học thụ động như bộ phận người học hiện nay.
2.2. Nguyên nhân của thực trạng
Xuất phát từ thực tiễn dạy học nhiều năm qua, trong những lần dự giờ, thăm

lớp, các tiết trao đổi học tập kinh nghiệm, bản thân tơi nhận thấy vẫn cịn nhiều
giáo viên chưa thật sự quan tâm trong việc đưa người học trở thành người chủ
động trong quá trình tiếp nhận, hệ thống kiến thức bài học. Trong các tiết dạy, giáo
viên thường sử dụng các phương pháp đơn giản trong việc xây dựng bài học, kiểu
như hỏi- đáp, phương pháp tối ưu được sử dụng là phát vấn, diễn giảng.
Với giáo viên, việc dạy học đúng theo kế hoạch cũng là một vấn đề lo lắng
không kém trong khi tổ chức tiết học. Áp lực bài học, áp lực phải đảm bảo thời
gian, kiến thức, đảm bảo nội dung luôn là mối lo lắng hàng đầu của giáo viên khi
bắt đầu triển khai tổ chức tiết dạy, do vậy né tránh các các phương pháp gây mất
thời gian, không lường trước được các tình huống khó khăn phát sinh khi cho học
sinh tiếp cận phương pháp hiện đại luôn là lựa chọn thận trọng.
Một số giáo viên chưa lựa chọn được phương pháp giảng dạy thực sự phù hợp
với bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng giảng dạy chưa cao.
Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực
quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh.
9


Chưa đổi mới cách truyền đạt, xây dựng nội dung kiến thức bài học, theo kiểu
kích thích tư duy mà chủ yếu là quan tâm đến độ chuẩn của nội dung ghi. Do vậy,
dù ở lớp học sinh tích cực chủ động để phát hiện hiểu kiến thức nhưng khi học bài
cũ ở nhà thì rất thụ động.
Để có kết quả học tập tốt, ở một số bộ môn học sinh phải học vẹt vì phải nhớ
kiến thức để trả lời câu hỏi mà theo các em, nội dung ghi của giáo viên là chuẩn, là
cách diễn đạt tốt nhất. Chính điều này dẫn đến hiện tượng học sinh học thuộc để trả
lời, đó cũng là nguyên nhân học vẹt ở học sinh.
Những khó khăn trên nhất thiết phải có hướng khắc phục, trước tiên ta hãy
từng bước vận dụng hình thức khám phá, tổ chức kiến thức theo phiếu học tập
nhằm nâng cao năng lực tự học, tự rèn luyện, tự lĩnh hội kiến thức của người học.
Giúp người dạy và người học bước đầu khắc phục trở ngại trong việc tổ chức xây

dựng vấn đề và tiếp nhận vấn đề.
Có thể do cá nhân HS chưa xác định đúng mục đích, động cơ học tập; do tác
động tiêu cực từ gia đình, xã hội: Học sinh yếu, cá biệt cịn nhiều. Những đối
tượng này hầu như khơng chịu học; bất cần điểm số; chấp nhận hình phạt. Giáo
viên phải quan tâm nhiều hơn, tích cực hơn mới đem lại kết quả tốt. Vì vậy, việc
mang đến một phương pháp mới để giúp học sinh hạn chế những tồn tại đang gặp
phải là cách mà chúng ta cần làm càng gấp, càng nhanh thì sẽ càng giúp mang đến
hiệu quả trong thay đổi nhận thức của học sinh và hiệu quả giảng dạy.
3. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp
- Hình thành tình huống có vấn đề để xây dựng kế hoạch hướng dẫn học sinh
tự tìm cách giải quyết vấn đề, thực hiện phương pháp dạy học theo hướng đổi mới
phương pháp dạy học theo tinh thần dạy học tích cực, không cứng nhắc trong mọi
trường hợp, linh hoạt hơn trong việc đọc tài liệu và sách giáo khoa.
- Giúp học sử dụng sách giáo khoa và các tài liệu khác một cách có ý thức,
chủ động theo hướng nghiên cứu để giải quyết vấn đề.
- Tận dụng tối đa phương tiện, thiết bị dạy học để phát hiện vấn đề, nghiên
cứu nội dung mới… chứ không đơn thuần là minh họa những điều đã học.
- Tăng cường sử dụng phương pháp qui nạp trong quá trình đi đến các khái
niệm trừu tượng, có tính khái qt.
- Thay đổi hình thức tổ chức học tập trong điều kiện cho phép như trị chơi,
thảo luận cặp, nhóm nhỏ… tạo điều kiện thích hợp để học sinh tranh luận với nhau,
với giáo viên và tự đánh giá hoặc đánh giá lẫn nhau trong học tập.
Tình hình học sinh trong năm học: Để thực hiện hiệu quả đề xuất sáng
kiến kinh nghiệm của mình, trong các năm học gần đây, bản thân tơi luôn tiến hành
khảo sát chất lượng học tập của học sinh trong năm học trước, khảo sát luôn cả
10


những thế mạnh, hạn chế, những năng khiếu mà tôi dự định sẽ khai thác nơi các

em vào mục tiêu giảng dạy của mình, để giúp các em u thích hơn với môn học,
thay đổi nhận thức hiện hữu nơi các em.
Năm 2020-2021, tôi được phân công giảng dạy các lớp 12C1, 12C4,
12C10. Tơi đã tiến hành khảo sát tình trạng học tập của học sinh ngay đầu năm và
thu được kết quả như sau:
(Sĩ số học sinh: 116, phiếu phát ra 116, thu lại 116, hợp lệ 114, có 2 phiếu
khơng hợp lệ)
Nội dung

Tốt

Trung
bình

Khơng
tốt

Khả năng hoạt động cá nhân

40/114

42/114

32/114

Khả năng tham gia trò chơi

48/114

32/114


34/114

Khả năng nhận xét ý kiến

29/114

46/114

39/114

Sự chủ động tích cực trong giờ học

31/114

43/114

40/114

Khả năng hoạt động nhóm

34/114

47/114

33/114

Thái độ u thích mơn học

43/114


36/114

35/114

Kết quả thống kê về năng khiếu cá nhân của học sinh cho thấy thực tế rất thú
vị rằng đa số các em đều có những năng khiếu nhất định (chúng ta gọi là đam mê
hoặc sở thích cũng được), chỉ có một bộ phận nhỏ là chưa xác định được sở thích,
thế mạnh của bản thân. Nhưng nhìn chung qua quan sát và khảo sát, các em đều
thể hiện sự hào hứng khi chúng tôi dự định khai thác năng khiếu các em vào giảng
dạy. Đây là tín hiệu đáng mừng, nó cho thấy các em chưa phải “vô cảm” với môn
học, và nếu chúng ta nỗ lực, tôi tin các em sẽ đáp lại chúng ta.
Nội dung

Số lượng

Hát

17/114

Vẽ

13/114

Diễn kịch

51/114

Công nghệ


62/114

Khác

-Kể chuyện: 2/114

Chưa biết

37/114

Khảo sát chất lượng học tập đầu năm của học sinh qua bài kiểm tra đầu tiên,
kết quả như sau.
11


Tỷ lệ

Số
lượng

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Kém


12C1

40

15/40

11/40

14/40

0

0

12C4

38

3/38

10/38

25/38

1

2

12C10


38

5/38

11/38

20/38

2

0

Tổng
cộng

116

25/116

32/116

59/116

3/116

2/116

(21.55%)

(27.58%)


(50,86%)

(2,59%)

(1.72%)

Từ kết quả khảo sát, tôi suy nghĩ nhiều về thực trạng học sinh học Ngữ văn
hiện nay trong trường trung học phổ thơng 1-5 nói riêng và xu hướng của học sinh
trong xã hội nói chung. Tơi nhận thấy vấn đề diễn ra đáng lo ngại như đã phân tích
và bản thân tơi nghĩ cần phải thực hiện giải pháp để giúp các em u thích hơn
mơn học, khơng những thế cịn giúp phát triển thêm các năng khiếu vốn có nơi các
em, vận dụng chúng vào các tác phẩm văn chương trong chương trình.
(Chụp lại từ phiếu khảo sát)
(Hình ảnh một số phiếu khảo sát đầu năm – Phụ lục 1)
3.2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
Làm thế nào để học sinh u thích mơn Văn ? Việc gieo cảm xúc ở người
khác vốn dĩ là việc không dễ. Hơn nữa, thực tế cho thấy đa số học sinh có tâm lí
cho rằng nếu khơng có năng khiếu mơn Văn thì khó có thể học tốt mơn Văn. Điều
đó sản sinh hiện tượng thụ động, học lệch, học kiểu thực dụng chỉ chú trọng các
môn tự nhiên, thờ ơ với các môn xã hội trong đó có mơn Văn. Chính vì những lẽ
đó, việc tìm ra phương pháp để giúp học sinh u thích mơn Văn là điều mà giáo
viên nào, năm học nào cũng hướng đến. Thực tế, đã có những phương pháp hiệu
quả làm cho học sinh yêu môn học bằng cách phát huy tính tích cực chủ động,
sáng tạo của học sinh: thảo luận nhóm, thuyết trình, đóng vai.... Tuy nhiên, các
phương pháp có thể là tối ưu nhưng chưa thể là tuyệt đối trong khoảng không gian
hay thời gian nhất định. Tôi đã từng sử dụng các phương pháp và đã đạt hiệu quả
nhất định nhưng chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ dừng lại ở những phương pháp đó.
Bởi lẽ, dù có thể chưa có phương pháp tuyệt đối nhưng bản thân giáo viên phải
ln phát hiện, tìm tịi, sáng tạo và cọ xát với thực tế để đúc kết những kinh

nghiệm cho mình hay xa hơn là cho bộ mơn dù cịn mức hạn chế về năng lực.
Mơn Văn là môn thiên về cảm xúc. Cảm xúc là một trong những biểu hiện
cơ bản tâm lí của con người. Nếu muốn hình thành cảm xúc phải đi từ cảm xúc.
Điều đó có nghĩa là muốn tác động vào tâm lí phải đi từ tâm lí. Như đã đề cập, tâm
lí học sinh cho rằng muốn học tốt mơn Văn phải có năng khiếu về mơn Văn nên
sinh ra hiện tượng thụ động. Tại sao vậy? Tại vì các em nghĩ là mình khơng liên
quan đến mơn này, mình khơng thể nào học tốt được bởi mình khơng có năng
12


khiếu về mơn này. Tâm lí đó ngày càng đẩy các em đi xa hơn đến tâm lí của người
ngồi cuộc. Các em thấy rằng môn này không thuộc về mình, mình có cố gắng
cũng khơng biết cố gắng từ đâu, có muốn hịa nhập thì cũng khơng biết hịa nhập
như thế nào. Từ những phân tích này, ta hiểu vì sao tiết học thiếu sinh động. Nếu
có sinh động thì cũng là sinh động kiểu thiếu tự nhiên bởi những gì các em thực
hiện khơng chính xác là tình yêu mà là nhiệm vụ. Nên phát huy năng khiếu học
sinh là cách tốt nhất để các em biết rằng môn Văn vẫn thuộc về các em, các em vẫn
thấy được mình trong mơn học, các em sẽ nảy sinh tình cảm với nó là điều khơng
hề khó. Từ đó sẽ hình thành cho các em tâm thế và sự hịa nhập hồn tồn tự nhiên
và tự nguyện với tiết học. Đạt được điều này hiệu quả môn học sẽ rất chất lượng.
Trong tiết học, tất nhiên giáo viên sẽ áp dụng nhiều phương pháp kết hợp để
tạo hứng thú cho tiết học, giúp học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động và
sáng tạo. Tuy nhiên, phát huy năng khiếu học sinh là cách mà tôi thấy rằng nó đáp
ứng được sự mong mỏi của các em thấy mình được quan tâm, tơn trọng, thể hiện
được bản thân. Điều quan trọng nhất là phải đứng từ góc độ của các em để xem
các em cần gì, nghĩ gì để giáo viên có thể nhìn lại q trình tổ chức, thiết kế tiết
học của mình sao cho phù hợp với yêu cầu và khả năng của các em. Điều đó chẳng
những thể hiện được sự đồng hành của thầy và trò mà còn thể hiện được cái tâm và
bản lĩnh chun mơn của giáo viên. Từ đó, khả năng cảm và hiểu của học sinh đạt
hiệu quả cao như mong muốn.

Và với tôi, để khai thác tốt các năng khiếu, thế mạnh của các em, tôi chọn
lồng ghép vào với rolesheet, một loại phiếu học tập, mà qua đó những yêu cầu của
chúng ta sẽ bài bản hơn, hệ thống và khoa học hơn. Đó cũng là cách mà theo tôi,
chúng ta sẽ khéo léo giúp các em dù học yếu cũng khơng thấy mình vơ dụng. Bởi
rolesheet sẽ được xây dựng cho nhóm học sinh mà trong đó tất cả các vai học tập
đều được xây dựng nhằm vào các em, giúp cho các em thấy rằng: các em đã góp
phần chủ động xây dựng, tạo ra bài học và sự hấp dẫn cho mình, chứ khơng phải
tiếp thu một chiều như trước. Và tôi cho rằng: Rolesheet đã hiện thực hóa năng
khiếu các em vào bài học, và chính các em là người góp phần vào xây dựng tiết
học.
3.3. Rolesheet
3.3.1. Hiểu thế nào về Rolesheet
Cũng giống như các dạng của Phiếu học tập, Rolesheet (Role là “đóng vai”,
sheet “là tờ giấy”). Vậy, có thể hiểu đơn giản Rolesheet là một loại phiếu làm bài
tập về nhà, phiếu này được giao thành “bộ phiếu” cho nhóm thảo luận với các yêu
cầu mà những tác phẩm văn chương với đặc thù riêng mới sử dụng hiệu quả chúng.
Đó là những bộ bài tập được giao cho các nhóm học sinh, mỗi thành viên trong
nhóm luân phiên thực hiện một bài tập trong bộ bài tập đó, sau đó, thảo luận trong
nhóm để bổ sung kiến thức cho nhau. Phần phiếu này phụ thuộc vào những năng
lực của học sinh nên cịn có thể gọi “Phiếu phân vai” (mỗi học sinh đảm nhận một
hoặc một vài “vai” được giáo viên thiết kế sẵn.
13


Từ đây, chúng tơi đồng thời có thể gọi “Rolesheet” là “Phiếu phân vai”
3.3.2. Phân loại Rolesheet (Phiếu phân vai)
a. Mục đích sử dụng:
- Phiếu dùng để giảng bài mới
- Phiếu dùng ôn tập
- Phiếu kiểm tra bài cũ

b. Theo mức độ đầy đủ của nội dung
- Phiếu chưa có nội dung
- Phiếu chưa có nội dung đầy đủ
c. Theo mức độ khó
- Phiếu liên hệ, tổng hợp kiến thức
- Phiếu chọn lọc, hệ thống hóa
3.3.3. Vai trị của việc sử dụng Rolesheet (Phiếu phân vai)
3.3.3.1. Giúp người học
+ Vai trò của việc sử dụng Phiếu phân vai trong giảng dạy Ngữ văn rất to
lớn. Trước hết là Rolesheet buộc học sinh đọc tác phẩm, từ đó có thể cảm nhận và
đánh giá vẻ đẹp của tác phẩm. Hơn nữa, cao hơn Rolesheet có thể buộc được học
sinh tra cứu thơng tin, tìm hiểu thêm qua tài liệu tham khảo. Phát huy được một
cách tích cực năng lực tự học ở nhà của học sinh. Cách cho học sinh soạn bài
theo những câu hỏi trong phần “Hướng dẫn học bài” của Sách giáo khoa như hiện
nay không thể đáp ứng yêu cầu trên.
+ Vai trò thứ hai là định hướng học sinh vào nội dung trọng tâm của bài
học. Khi học sinh chủ động đọc tác phẩm cùng với sự định hướng của giáo viên là
cần chú ý vào đoạn nào, trang nào thì sẽ hiểu tác phẩm sâu sắc hơn đồng thời tiếp
thu bài trên lớp cũng nhanh hơn.
+ Thứ ba là rèn luyện năng lực liên tưởng, tưởng tượng của học sinh,
năng lực diễn đạt và bao gồm cả năng lực thuyết phục (bao gồm nói và viết) sao
cho ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu. Đây là những năng lực không thể thiếu đối với
một con người hiện đại, càng không thể thiếu đối với người tiếp cận tác phẩm văn
chương. Nơi mà hình tượng là hơi thở, tưởng tượng là khí thở để tồn tại.
+ Thứ tư, Rolesheet giúp phát hiện những năng khiếu riêng của các em
học sinh ở các lĩnh vực khác như sáng tác, hội họa, năng lực xử lý các tình huống
được giao bằng âm thanh, hình ảnh, đồ họa… Bằng việc chứng minh tài năng và
sự tiến bộ của chính mình, Rolesheet sử dụng thường xun sẽ giúp các em ln có
nhu cầu học tập, rèn luyện, nâng cao tay nghề để chứng minh bản thân. Đó là điều
tuyệt vời giúp các em phát triển toàn diện.

14


+ Rolesheet cịn được sử dụng trong thảo luận nhóm của học sinh trên lớp,
vì vậy nó có vai trị thúc đẩy cuộc thảo luận, làm tăng chất lượng thảo luận vì học
sinh đã có sự chuẩn bị kỹ ở nhà trước khi đến lớp. Trong khi thảo luận, học sinh
trao đổi, chia sẻ những suy nghĩ, phát hiện của bản thân về tác phẩm. Do vậy,
Rolesheet còn tạo ra sự lệ thuộc tích cực giữa các thành viên trong nhóm khi
mỗi thành viên được giáo viên giao nhiệm vụ tìm hiểu những mặt khác nhau của
tác phẩm. Đây là sự phát triển tích cực của quan niệm dạy học hiện đại, giúp học
sinh “biết bạn – hiểu mình”.
+ Việc sử dụng Phiếu phân vai còn giúp học sinh nhớ bài rất nhanh, hệ
thống, lâu quên. Điều mà bất kỳ giáo viên nào đứng lớp giảng dạy cũng mong
muốn. Những bộ phiếu phân vai màu sắc, hình ảnh đẹp đẽ này hồn tồn có thể
dán kèm với bài học. Điều đó, giúp ích rất nhiều cho học sinh, cả giáo viên trong
khâu ôn tập, củng cố, hệ thống chương, giai đoạn…
+ Việc sử dụng Phiếu phân vai còn tạo điều kiện cho học sinh đánh giá kết
quả của nhau, xem xét, đánh giá mức độ đúng sai của bài tập mình, tạo động
lực cố gắng để tự khắng định mình. Qua đó cịn tạo thêm cơ hội học tập của học
sinh vì các em khơng chỉ học từ Thầy mà còn học từ bạn. Khi giáo viên chấm điểm
Rolesheet, điểm thảo luận, kèm theo những lời nhận xét, đánh giá, học sinh sẽ
thường xuyên có cơ hội điều chỉnh việc học tập của bản thân để tiến bộ.
3.3.3.2. Giúp người dạy
+ Việc dạy học Ngữ văn theo xu hướng hội nhập và hiện đại ngày nay, trách
nhiệm những giáo viên có tâm sẽ khơng chỉ dừng lại ở việc truyền thụ kiến thức
giúp học sinh thi cử thành công. Mà một người Thầy yêu người, yêu nghề sẽ không
thể quên nhiệm vụ thiêng liêng của nghề giáo mà thời đại giao phó: Đó là dạy nên
những cơng dân tồn diện. Với các bộ phiếu phân vai, người dạy sẽ phát huy năng
khiếu riêng của từng em ở từng lĩnh vực cụ thể, khích lệ các em u thích mơn
học. Để làm thế nào, khi học một tác phẩm văn học, từng học sinh với đủ trình độ

trong nhóm cũng có thể hồn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đây là chìa khóa quan
trọng, giúp các em mong chờ tiết học, mong chờ được thể hiện mình. Các em sẽ
khơng bị bỏ rơi bên lề bụi phấn.
+ Thứ hai, mỗi phiếu phân vai là sản phẩm cá nhân của từng em, “từng vai”
được giao, nên nó giúp người dạy đánh giá một cách hiệu quả, kịp thời quá trình
tiến bộ hay thoái bộ của học sinh để kịp thời xử lý. Điều này thì một tiết kiểm tra
đánh giá theo truyền thống khó mà phát hiện được.
+Thứ ba, chúng ta biết rằng những yêu cầu trên phiếu phân vai là hoàn toàn
sáng tạo từ tư duy và sự thẩm thấu của từng giáo viên, nên nó khơng theo một
khn mẫu hay một chương trình có sẵn nào. Từ đó, Rolesheet khơng chỉ giúp học
sinh năng động, chủ động, tích cực, sáng tạo, tồn diện mà cịn giúp người dạy
khơng ngừng học tập để nâng cao năng lực chuyên môn nếu không muốn tụt hậu.

15


+ Thứ tư, bộ phiếu phân vai (Rolesheet) là sản phẩm khơng ngừng sáng tạo
nên nó là kỹ thuật dạy học tuyệt vời giúp giáo viên linh hoạt trong đổi mới phương
pháp dạy học, kiểm tra đánh giá.
3.3.4. Một số yêu cầu khi dạy – học với Rolesheet
3.3.4.1. Yêu cầu ở giáo viên
- Trước hết, giáo viên phải thiết kế được câu hỏi, nhiệm vụ học tập giúp học
sinh khám phá tác phẩm. Khả năng thiết kế câu hỏi phụ thuộc vào năng lực cảm
thụ, phân tích tác phẩm của giáo viên. Đồng thời giáo viên phải hiểu rõ đặc trưng
từng loại Rolesheet và đặc trưng thể loại, nội dung tác phẩm để thiết kế Rolesheet
phù hợp. Công việc này địi hỏi sự sáng tạo, lịng nhiệt tình, nhiệt tâm của giáo
viên.
- Thứ hai, bộ phiếu phân vai được thực hiện dựa trên thế mạnh và năng lực
riêng của người học, không phải việc phát ngẫu nhiên “vai” cho học sinh nào cũng
được nên đòi hỏi giáo viên phải qua quá trình điều tra, sàng lọc đối tượng học sinh

ngay từ đầu năm học.
- Yêu cầu thứ ba, do chúng ta có thể sử dụng nhiều Rolesheet trong q trình
thảo luận nhóm, do vậy, khi học sinh thảo luận, giáo viên cần bao quát các nhóm,
tạo điều kiện cho tất cả các nhóm được trình bày ý kiến của nhóm mình và cho
điểm khuyến khích các nhóm. Nếu khơng bao qt nhóm, giáo viên sẽ khơng có
được những đánh giá cơng bằng, chính xác và hiệu quả.
- Thứ tư, Rolesheet thường được sử dụng tốt nhất khi học sinh dùng nó để
chuẩn bị ở nhà, sau đó sử dụng trên lớp, trong quá trình thảo luận hoặc tham gia
xây dựng bài. Do vậy, nếu học sinh – nhân vật trung tâm trong hoạt động dạy học –
không ý thức được vai trị, nhiệm vụ và quyền lợi của mình, khơng thực hiện
Rolesheet và sau đó, khơng có tinh thần hợp tác trong quá trình thảo luận thì việc
sử dụng Rolesheet không thể đạt kết quả. Do vậy, giáo viên phải giúp các em nhận
thức được tầm quan trọng của việc sử dụng Rolesheet và khuyến khích các em
bằng cách cho điểm nhóm, điểm cá nhân, đặc biệt những Rolesheet (phiếu phân
vai) khi trao đến tay học sinh phải đảm bảo rằng em ấy đủ năng lực để hoàn thành
“vai” của mình. Đồng thời cũng cần đề ra những biện pháp hợp lý nghiêm túc để
phê bình những học sinh khơng hợp tác và khơng hồn thành “vai” của mình.
- Thứ năm, chúng ta cần linh hoạt các vai khác nhau cho từng học sinh.
Tránh để các em giữ mãi một vai trong nhiều tiết học liên tục.
- Cuối cùng là kỹ thuật dạy học với bộ phiếu phân vai này hồn tồn có thể
sử dụng trong tất cả các tiết Đọc văn trong chương trình trung học phổ thơng. Đây
là điều thú vị, bởi đa phần các phương pháp và kỹ thuật dạy học đều khó có thể áp
dụng thường xuyên thì kỹ thuật này như một điểm cộng để học sinh và giáo viên
tiếp cận tác phẩm dễ dàng và nhanh chóng.
3.3.4.2. Yêu cầu ở học sinh
16


- Để giúp học sinh có niềm say mê học môn Ngữ văn và để nâng cao chất
lượng giảng dạy theo phương pháp mới đạt hiệu quả thì việc tự học của học sinh là

rất quan trọng.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị tốt các khâu tự học ở nhà một
cách cụ thể, chi tiết: Với mỗi bài mới, học sinh phải đọc kĩ văn bản, trả lời các câu
hỏi ở phần “vai” được giao. Học sinh phải tự phát hiện các chi tiết ở nhà một cách
cụ thể, nghiêm túc. Sau đó, dưới sự hướng dẫn của giáo viên ở giờ học trên lớp,
học sinh tự đánh giá các chi tiết đó và mức độ hồn thành “vai” của mình.
- Ngồi việc trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa thì học sinh cịn phải trả
lời những “vai” mà giáo viên giao một cách đầy đủ, rõ ràng. Đây được xem là
nhiệm vụ chính của mỗi em học sinh nên học sinh khơng nên tìm cách “trốn vai”
của mình hoặc sao chép vì sao chép sẽ dễ dàng phát hiện ra.
- Học sinh cần chuẩn bị đầy đủ các phương tiện học tập, tư liệu (vở bài tập,
để học tốt Ngữ văn, nâng cao năng lực cảm thụ thơ văn của học sinh, các sách
tham khảo khác….) phương tiện khác như giấy, bút mực đỏ, đen, bút màu….
* Việc học của học sinh trên lớp
- Ngoài việc chuẩn bị ở nhà, trên lớp học sinh phải tích cực chủ động vì học
sinh là “trung tâm của hoạt động dạy học”.
- Học sinh phải chú ý nghe giáo viên hướng dẫn tổ chức bám sát sách giáo
khoa, học sinh tiếp thu và phát hiện tốt những kiến thức đã chuẩn bị ở nhà. Học
sinh phải biết cách đánh giá, nhận xét, tổng hợp các kiến thức.
- Trong việc sử dụng phiếu phân vai đòi hỏi học sinh phải thật tích cực, nhạy
bén và có đầu óc tư duy, lựa chọn chính xác thì việc sử dụng phiếu mới có hiệu quả
và giờ học mới thật sự sôi nổi, cuốn hút.
- Nếu học sinh chuẩn bị bài tốt thì việc học tập của học sinh ở trên lớp rất dễ
dàng. Học sinh hiểu bài và nắm bài rất chắc. Khi giáo viên sử dụng phiếu phân vai
phù hợp sẽ giúp học sinh đặc biệt yêu thích giờ học vì được tự do thể hiện cảm xúc
trải nghiệm những sáng tạo của bản thân, phát huy tối đa năng lực tưởng tượng
trong sáng tạo nghệ thuật. Điều mà bất kỳ một người giáo viên dạy Văn nào cũng
“thèm” muốn.
3.4. Cách thức tiến hành tạo lập Rolesheet (Phiếu phân vai)
3.4.1. Nguyên tắc tạo lập phiếu phân vai

+ Phiếu phân vai phải được thiết kế sẵn, phù hợp với từng đối tượng học
sinh.
+ Thông tin trong từng phiếu phải vừa đủ.
+ Trong một tiết học luôn cần sử dụng nhiều phiếu phân vai để xốy sâu vào
tất cả những khía cạnh của tác phẩm văn học. Tuy nhiên cần lưu ý khi “giao vai”
17


cho học sinh, phải đảm bảo Nhóm học sinh sẽ hoàn thành được các vai trong bộ
phiếu.
+ Phiếu phân vai chỉ là một phương pháp dạy học nên cần được kết hợp với
các tài liệu học tập và phương tiện dạy học khác thì linh hồn của tác phẩm văn
chương mới khơng mất đi. Khuyến khích lưu giữ phương pháp bình giảng tổng
hợp các nội dung trọng tâm sau khi được đào sâu tìm hiểu.
+ Giáo viên phải nhận xét đánh giá từng phiếu cụ thể, kịp thời, cần chú ý
đến sự tiến bộ hoặc thoái bộ dù nhỏ ở mỗi học sinh.
3.4.2. Yêu cầu khi xây dựng phiếu phân vai
+ Hình thức phiếu phải rõ ràng, thể hiện tính sư phạm để kích thích, tạo ra
sự hứng thú cho học sinh. Kích thước của phiếu học tập thường là giấy khổ A4, có
chỗ trống cho học sinh hồn thành “vai” được giao.
+ Nhiệm vụ học tập, những “vai” cụ thể được giao phải vừa sức với trình độ,
hoạt động của học sinh, với lượng thời gian thực hiện thích hợp. Vừa sức và nhắm
đến phát huy những “năng khiếu tiềm ẩn” mà giờ dạy truyền thống khó nhận ra:
hội họa, âm nhạc, sáng tạo, ứng dụng công nghệ.
+ Phiếu phân vai phải thể hiện được ý tưởng giảng dạy của giáo viên: tổ
chức học sinh giải quyết vấn đề theo hệ thống câu hỏi, định hướng hoạt động của
học sinh để phát hiện kiến thức mới, khái quát hoá vấn đề dưới dạng sơ đồ, biểu
bảng, các nhiệm vụ học tập phải hướng đến giải quyết hoặc minh họa vấn đề bài
học…
+ Vấn đề trên các phiếu phân vai nên chia nhỏ và được sắp xếp để tất cả học

sinh trong lớp học đều có thể tham gia.
+ Phiếu phân vai thể hiện được yêu cầu làm việc hợp tác với nhau trong
nhóm học tập như trao đổi về một kết quả học tập nào đó, cùng nhau xây dựng hệ
thống kiến thức ...
+ Giáo viên khi xây dựng và giao vai cho học sinh, cần chú ý đến đặc điểm
riêng về năng lực của các em để thiết kế. Muốn được như vậy, chúng ta cần có sự
sàng lọc, tập hợp các học sinh với những thế mạnh khác nhau vào cùng một nhóm
và nhóm nào cũng phải đủ các thành phần như thế. Công việc này chúng ta nên
hình thành nhóm ngay từ đầu năm học, chẳng hạn bản thân tơi đã lập nhóm như
sau:
Nhóm 1: Học sinh có lực học trung bình, yếu.
Nhóm 2: Học sinh có lực học khá, giỏi.
Nhóm 3: Học sinh có thế mạnh về hội họa, âm nhạc
Nhóm 4: Học sinh có thế mạnh về năng lực sơ đồ hóa, năng lực ứng dụng
công nghệ thông tin.
18


(Chúng ta sẽ lưu ý đến những học sinh vừa có lực học trung bình, yếu nhưng
lại có thế mạnh ở lĩnh vực hội họa, sáng tác hay khả năng dụng ứng dụng cơng
nghệ để phát huy vai trị của các em thích hợp. Tương tự như vậy, các học sinh khá
giỏi cũng cần lưu ý để giúp các em luân phiên phát huy năng lực của mình trong
từng vai ở từng tiết học cụ thể.)
3.4.3. Cấu trúc của Rolesheet (Phiếu phân vai): gồm các phần chính sau
Một bài tập phân vai thường gồm 4 loại thơng tin, đó là các thơng tin:
(a) Họ tên học sinh, tên nhóm thảo luận, tên tác phẩm, và số trang được phân
cơng tìm hiểu.
(b) Yêu cầu. Trong đó, có những nhiệm vụ (vai) cụ thể và hướng dẫn cách
trả lời.
(c) Phần trả lời của học sinh.

(d) Những dòng nhắc nhở học sinh về lỗi chính tả, ngữ pháp. Mỗi mẫu bài
tập phân vai có kích cỡ khoảng 1 tờ giấy A4.
Phần quan trọng nhất của phiếu là phần “Yêu cầu”. Phần này chứa
những câu hỏi xoay quanh những kiến thức trọng tâm của bài học. Giáo viên phải
chuyển những kiến thức này từ dạng thơng báo thành dạng tình huống/câu hỏi gợi
mở. Qua q trình trả lời các tình huống/câu hỏi đó, học sinh sẽ hình thành được
kiến thức mới hoặc củng cố kiến thức. Dựa vào mục đích sử dụng và trọng tâm của
từng bài, từng đoạn trích và năng khiếu của đối tượng học sinh mà giáo viên có thể
sẽ lựa chọn những bộ vai hợp lý.
3.4.4. Các bước tạo lập Rolesheet
Bước 1: Giáo viên cần phân tích bài dạy, soạn kỹ bài giảng để có thể nắm
vững nội dung kiến thức bài học, hoặc những kiến thức cần tổ chức để học sinh
lĩnh hội.
Bước 2: Xác định rõ mục tiêu bài học.
Bước 3: Xác định mục tiêu phiếu phân vai.
Bước 4: Chọn vấn đề – kiến thức trọng tâm. Chọn bộ phiếu phù hợp cho
từng bài.
Đây là bước quan trọng trong việc xây dựng phiếu phân vai. Phiếu phân vai
chỉ phát huy hiệu quả tối ưu nhất khi chúng ta biết xác định đúng trọng tâm. Tránh
lan man, mất thời gian ở những phần kiến thức không phải trọng tâm của bài học.
Bước 5: Chuyển vấn đề học tập – kiến thức trọng tâm thành dạng Bộ phiếu
phân vai dưới hình thức câu hỏi, sơ đồ, hoặc biểu bảng. Yêu cầu phải được xây
dựng bằng câu hỏi rõ ràng, nghĩa cụ thể, tránh gây hiểu nhầm. Câu hỏi khéo léo,
khơi gợi đúng độ cần thiết để học sinh có thể dễ dàng tìm hiểu, từ dễ đến khó dần.

19


Có thể nhiều câu hỏi trong cùng một phiếu học tập, ở phần trọng tâm nhất của bài
học.

Bước 6: Xây dựng đáp án cho các bộ phiếu.
3.4.5. Quy trình sử dụng Rolesheet
- Điều tra năng lực của học sinh để hình thành nhóm tổng hợp. Trên cơ sở
ban đầu: Nhóm 1: Học sinh có lực học trung bình, yếu; Nhóm 2: Học sinh có lực
học khá, giỏi; Nhóm 3: Học sinh có thế mạnh về hội họa, âm nhạc; Nhóm 4: Học
sinh có thế mạnh về năng lực sơ đồ hóa, năng lực ứng dụng cơng nghệ thơng tin.
Sau đó, hình thành nhóm tổng hợp có đủ các học sinh như trên vào nhóm mới. Bản
thân tơi chia lớp thành 7 nhóm, mỗi nhóm có khoảng 5, 6 học sinh. Và nhóm này
là nhóm có thể cố định để duy trì tới hết năm học mà khơng phải chia nhóm lại.
Tuy nhiên, chúng ta nên thay đổi thành viên nhóm cho từng học kỳ với thành phần
tương ứng về năng lực, điều này cũng góp phần kích thích năng lực thích nghi và
hợp tác của các em.
- Phần sử dụng phiếu thì tùy thuộc vào mục đích và u cầu nêu trong phiếu
phân vai, giáo viên sử dụng phiếu cho nhóm hay cho từng cá nhân học sinh mà
giáo viên tiến hành quy trình nhất định. Phiếu phân vai, có thể cho học sinh chuẩn
bị ở nhà, vào lớp xem như đó là tài liệu học tập của cá nhân để phát biểu xây dựng
bày hoặc trình bày của cá nhân hay của nhóm theo sự điều khiên của giáo viên.
Giáo viên cũng có thể sử dụng phiếu rieng cho một số học sinh theo ý đồ riêng.
- Vì phiếu phân vai có thể sử dụng thành bộ phiếu cho nhóm, nên giáo viên
cần chia lớp thành nhóm theo hình thức lớp mà giáo viên chọn. Ví dụ nhóm 4 học
sinh sẽ có bộ phiếu cho 4 học sinh; Nhóm 6 học sinh sẽ có 6 phiếu. Lưu ý, nhóm lý
tưởng chỉ từ 5 - 6 học sinh và tùy số lượng thực tế của lớp để linh hoạt. Phương
pháp này thường dùng để giao bài tập, soạn bài mới và kết hợp với các phương
pháp khác như thuyết trình, thảo luận nhóm…
Chúng ta có thể theo quy trình sau:
Bước 1: Phát bộ phiếu phân vai cho nhóm vào tuần trước khi tiết học bắt
đầu. (Số lượng phiếu thích hợp tùy hình thức tổ chức lớp của giáo viên).
Bước 2: Hướng dẫn thực hiện phiếu phân vai.
Bước 3: Học sinh làm việc với các nguồn tài liệu và hoàn thành phiếu phân
vai ở nhà. Giáo viên cần nhắc nhở, lưu ý tiến độ và những khó khăn mà các em gặp

phải để giải đáp kịp thời. (Giáo viên sẽ theo dõi tiến độ trong quá trình học tập của
học sinh bằng cách cung cấp địa chỉ zalo, Messenger của mình cho học sinh để học
sinh nêu thắc mắc khi gặp phải, chọn lưu số điện thoại zalo, Messenger của các
nhóm trưởng, lớp trưởng để tiện việc hướng dẫn từ xa).
Bước 4: Kiểm tra sự chuẩn bị trước khi tiết học bắt đầu. Phần việc này
chúng ta sẽ giao cho cán sự lớp, cán sự bộ môn thực hiện đầu giờ học. Khi giáo
viên đến lớp, học sinh sẽ báo cáo nhanh cho giáo viên.
20


Bước 5: Học sinh trình bày, những học sinh khác chú ý theo dõi, đối chiếu
với “vai” của mình để bổ sung, góp ý, cũng có thể thắc mắc, tranh luận với người
trình bày (phần này tùy tình hình tiết học, lớp học và thời gian cụ thể mà giáo viên
bố trí thời lượng hợp lí). Chúng ta có thể cho học sinh “cùng vai” có sự đối chiếu
sản phẩm.
Bước 6: Giáo viên sửa chữa, bổ sung và đưa ra đáp án, đồng thời cho học
sinh bình chọn bộ phiếu tốt nhất để khích lệ. Giáo viên cũng có thể cho học sinh so
sánh, đối chiếu và rút kinh nghiệm tự đánh giá. Học sinh có thể tự chấm điểm bài
của mình, chấm chéo bài của bạn và ghi chú nhận xét cụ thể. Bước tiếp theo, có thể
trả phiếu phân vai lại cho cá nhân và để học sinh tự hồn thành lại phiếu phân vai
của mình bằng mực khác màu. Bước này có thể giúp học sinh hiểu được nhiều kiến
thức hơn mà giáo viên cũng có thể đánh giá được chính xác kết quả lao động của
học sinh.
Bước 7: Sau mỗi giờ học, giáo viên sẽ thu lại tất cả các bộ phiếu của học
sinh để kiểm tra thái độ làm việc, khả năng làm việc của từng nhóm học sinh (hoặc
cá nhân). Nhận xét, đánh giá và điều chỉnh hợp lí những hạn chế của học sinh. Ghi
chép tiến độ, kết quả của học sinh vào sổ theo dõi.
3.5. Xây dựng một số phiếu phân vai cho giờ học đọc văn.
Bên cạnh việc xác định các chuẩn kiến thức kỹ năng, các phẩm chất và năng
lực cần có ở người học theo mục mục tiêu giáo dục, đồng thời nghiên cứu mục tiêu

nhất định của từng bài học, chúng tôi xây dựng các mẫu phiếu phân vai cịn nhằm
mục đích rèn luyện các năng lực tư duy, diễn đạt, cảm thụ tác phẩm cho học sinh,
chúng tôi thử thiết kế khá nhiều dạng bài tập phân vai để sử dụng trong giờ đọc
hiểu văn bản. Cơ bản như sau:
CÁC DẠNG PHIẾU
PHÂN VAI

-Phiếu “Người tìm từ
độc đáo”.

-Phiếu “Người tóm tắt
tác phẩm”

MỤC ĐÍCH

ĐỐI TƯỢNG
THỦ VAI

- Giúp học sinh nhận biết được
những từ ngữ quan trọng, độc đáo
của tác phẩm, phân tích nghĩa của
từ, qua đó, rèn luyện năng lực cảm
thụ tác phẩm.

- Học sinh trung
binh, yếu, khá,
giỏi.
- Học sinh có thế
mạnh cơng nghệ.


- Giúp tăng cường khả năng học
tập – ghi nhớ những từ, ngữ mới,
sáng tạo, giúp mở rộng kho từ
vựng phong phú cho các em.
- Giúp rèn luyện năng lực sâu - Học sinh trung
chuỗi sự kiện, khái quát vấn đề, binh, yếu,
giúp các em nắm chắc tác phẩm.
- Học sinh có thế
21


- Giúp rèn năng lực tái hiện, trình mạnh cơng nghệ
bày vấn đề từ những nội dung cốt thông tin, hệ thống
lõi.
bằng hình ảnh, hội
- Giúp phát triển kỹ năng nắm bắt họa.
tốt nội dung trọng tâm của tác
phẩm văn học hoặc câu chuyện
trong đời sống.
- Giúp học sinh hệ thống hóa kiến
thức trong đoạn trích, tác phẩm;
các em sẽ tiếp cận tác phẩm có
trình tự và ghi nhớ kỹ hơn.

-Phiếu “Người sắp xếp
- Hình thành năng lực phân tích,
sự kiện”
đánh giá, sắp xếp, tổng hợp các
chi tiết ở học sinh theo trình tự
nhất định.


-Phiếu “Người hỏi”

- Học sinh trung
binh, yếu,
- Học sinh khá –
giỏi.
- Học sinh có năng
khiếu cơng nghệ
thơng tin, hệ thống
bằng hình ảnh, hội
họa.

- Giúp học sinh đọc sáng tạo tác - Học sinh khá giỏi
phẩm ở nhiều góc độ kiến thức.
- Học sinh trung
- Giúp rèn luyện năng lực xác bình, yếu.
định trọng tâm vấn đề trong tác -Học sinh có thế
phẩm.
mạnh cơng nghệ
- Giúp giáo viên biết được mong
muốn của học sinh và định hướng
tác phẩm.

-Phiếu “Người liên hệ
tác phẩm”

- Giúp học sinh củng cố kiến thức; - Học sinh khá giỏi
mở rộng khả năng liên hệ vận - Học sinh trung
dụng, năng cao năng lực nghị luận bình, yếu.

tác phẩm văn học và xã hội.
-Học sinh có thế
- Giúp học sinh nắm vững và củng mạnh...
cố kỹ năng tổng hợp, xử lý và huy
động các kiến thức nền sẵn có một
cách hợp lý.

-Phiếu “Người hội
họa”

-Giúp phát huy năng khiếu riêng -Học sinh có thế
của học sinh, các em tự tin hơn, mạnh hội họa.
yêu thích và hứng thú với tác
phẩm nhiều hơn.

-Phiếu “Người tìm
-Giúp học sinh biết cách phát hiện - Học sinh khá giỏi
điểm sáng nghệ thuật” tài năng, sở trường của tác giả từ - Học sinh trung
22


các điểm sáng nghệ thuật.

bình, yếu.

-Giúp các em hiểu phương pháp -Học sinh có thế
tiếp cận tác phẩm đi từ cơ bản là mạnh công nghệ
từ hiểu nghệ thuật đến hiểu nội
dung tác phẩm văn học; giải mã
những hình tượng nghệ thuật để

hiểu ý đồ nghệ thuật của tác giả.

-Phiếu “Người nghiên
cứu”

- Giúp các em hứng thú trong tìm - Học sinh khá giỏi
hiểu toàn bộ các vấn đề của tác - Học sinh trung
phẩm, từ dễ đến khó, từ tác giả bình, yếu.
đến tác phẩm.
-Học sinh có thế
mạnh hội họa,
công nghệ…

-Giúp các em nắm rõ bối cảnh của - Học sinh khá giỏi
tác phẩm, đoạn trích.
- Học sinh trung
-Phiếu “Người sắp xếp - Giúp hiểu được ý đồ nghệ thuật bình, yếu.
quang cảnh”
của tác giả.
-Học sinh có thế
mạnh hội họa,
cơng nghệ…
-Phiếu “Người sáng
tác”

- Giúp phát huy sự u thích của - Học sinh khá giỏi
các em với tác phẩm văn học; -Học sinh có thế
Tăng khả năng vận dụng, sáng tạo mạnh sáng tác
ở các em.


MẪU THIẾT KẾ MỘT SỐ PHIẾU PHÂN VAI
(Phụ lục 2)

3.6. Minh họa bộ phiếu phân vai cho 1 tiết học
Văn bản.

“AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DỊNG SƠNG?”
TÁC GIẢ HỒNG PHỦ NGỌC TƯỜNG.

23


Một vài lưu ý cần thiết khi soạn bộ phiếu phân vai: ngoài những kiến thức
trọng tâm, năng lực học sinh, đối tượng học sinh, kỹ thuật thiết kế; người dạy
chúng ta cần bám sát chuẩn kiến thức, kỹ năng để đảm bảo các vấn đề về chun
mơn.
Với đoạn trích “Ai đã đặt tên cho dịng sơng?”, sách giáo khoa đã xác định
đây là đoạn trích trong tác phẩm thuộc thể bút kí xuất sắc của Hồng Phủ Ngọc
Tường, là đoạn văn xi súc tích đầy chất thơ về sơng Hương. Nét đặc sắc làm nên
sức hấp dẫn của đoạn văn là những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ vốn hiểu
biết phong phú về lịch sử, văn hoá, địa lí và văn chương cùng một văn phong tao
nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
Dựa vào mục đích, vai trò của phiếu phân vai, nội dung của bài học và nhằm
phát triển năng lực tư duy cho người học, chúng ta sẽ thiết kế phiếu phân vai cho
đoạn trích này với 6 vai sau: Người hỏi, người minh hoạ, người phát hiện những
điểm sáng thẩm mĩ, nguời liên hệ, người nghiên cứu, người sắp xếp bối cảnh.
- Vai người hỏi có vai trị rất quan trọng, tác phẩm này không phải là truyện,
không phải là thơ, nhưng lại rất nhiều chi tiết và giàu chất thơ. Chính vì thế, vai
người hỏi phải ln ln phải có mặt để dẫn dắt, hướng dẫn cho việc tìm hiểu tác
phẩm khơng bị lạc hướng, lạc thể loại.

- Vai người liên hệ cũng đóng một vai trị vơ cùng quan trọng khi tìm hiểu
đoạn trích này. Đoạn trích thuộc thể loại bút kí, cho nên nó thể hiện sự hiểu biết về
rất nhiều vấn đề, nó là tổng hợp vốn kiến thức và sự hiểu biết về mọi mặt của tác
giả. Chính vì thế người học có thể phát hiện ra ở đó nhiều vấn đề thú vị trong và
ngồi văn chương, người học cũng từ đó mà có thể liên hệ đến rất nhiều vấn đề
thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trong cuộc sống và trong đời sống tình cảm của
chín mình. Do đó, vai nguời liên hệ trong phiếu phân vai này sẽ giúp học sinh rèn
luyện rất nhiều năng lực tư duy: phân tích, liên tưởng, tưởng tượng đặc biệt là so
sánh.
- Vai người phát hiện những điểm sáng thẩm mĩ khơng thể thiếu khi tìm
hiểu tác phẩm đặc biệt là đoạn trích này. Những từ ngữ đáng nhớ, những câu văn
độc đáo, những nét nghệ thuật quan trọng, những đoạn thú vị hầu như bao trùm
toàn bộ đoạn trích này. Do đó, nguời đọc phải sàng lọc để chọn lựa, phải so sánh
để tìm ra những điểm thẩm mĩ sáng hơn. Nhờ đó, năng lực tư duy của người học sẽ
được rèn luyện và nâng cao, đặc biệt là năng lực phát hiện, tổng hợp, so sánh. chọn
lựa.
- Vai người minh hoạ cũng là một vai cơ bản trong phiếu phân vai. Người
minh hoạ đọc tác phẩm, xuôi theo sơng Hương từ thượng nguồn đến cửa biển dưới
ngịi bút miêu tả độc đáo của tác giả, sẽ hình dung ra được rất nhiều hình ảnh về
sơng Hương thơ mộng, trữ tình. Từ đó, người đọc phác hoạ ra trong trí tưởng
tượng của mình hình ảnh sơng Hương từ ngôn ngữ của văn bản để tạo ra một bức
tranh phi ngôn ngữ phong phú và đa dạng tuỳ theo sự cảm nhận và trí tưởng tượng
24


×