Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Thu hoạch độc lập, tự CHỦ, SÁNG tạo là QUAN điểm NHẤT QUÁN của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM TRONG SUỐT QUÁ TRÌNH LÃNH đạo CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.25 KB, 24 trang )

ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ, SÁNG TẠO LÀ QUAN ĐIỂM NHẤT QUÁN
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG SUỐT QUÁ TRÌNH
LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Cách mạng vô sản là cuộc cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện
nhất trong lịch sử do giai cấp vô sản lãnh đạo, nhằm lật đổ chủ nghĩa tư
bản, xố bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp:
Xã hội – xã hội chủ nghĩa. Do đó, địi hỏi độc lập, tự chủ, sáng tạo rất cao.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng: Giai cấp vô sản phải tự mình lật đổ
chính quyền của giai cấp tư sản, xây dựng chính quyền của giai cấp vơ
sản. Như vậy độc lập, tự chủ là yêu cầu tất yếu khách quan của cách
mạng vô sản. Khi bàn về độc lập, tự chủ C.Mác đã chỉ ra: Sự nghiệp con
người phải do chính con người tự giải phóng lấy.
Đảng cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh
đạo và rèn luyện. Từ ngày thành lập đến nay Đảng ta luôn luôn nhất quán
quan điểm độc lập, tự chủ, sáng tạo. Đây là quan điểm xuyên suốt, là vấn
đề quan trọng bảo đảm cho Đảng ta luôn luôn vững vàng trong mọi hoàn
cảnh, sáng suốt lãnh đạo cách mạng nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử
thách đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong suốt quá trình lịch sử, Đảng ta luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự
chủ, sáng tạo trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa tinh hoa văn
hoá nhân loại, tryền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, biết tiếp thu,
chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng thế giới, để đề ra đường lối cách
mạng đúng đắn, lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi


2

khác. Với tinh thần: Lấy sức ta đề giải phóng cho ta trong xây dựng
đường lối cách mạng, cũng như trong q trình lãnh đạo cách mạng Đảng
ta ln nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo. Nắm vững và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm


cách mạng thế giới, nhưng khơng rập khn, máy móc, khơng chịu sự áp
đặt của bất cứ lực lượng nào. Độc lập, tự chủ, sáng tạo là quan điểm
xuyên suốt của Đảng ta được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, các nội
dung. Nhưng trong phạm vi bài viết này tác giả xin trình bày một số nội
dung cơ bản sau:
1. Độc lập, tự chủ, sáng tạo trong việc Đảng xác định đường lối
cách mạng Việt Nam đúng đắn.
Đường lối là cơ sở, nền tảng cho mọi hoạt động của Đảng, là vấn đề
cốt yếu, cơ bản của Đảng, có đường lối đúng mới bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng dành thắng lợi.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, chỉ có sự lãnh
đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối độc lập, tự
chủ, sáng tạo tìm ra con đường đi thích hợp trong từng giai đoạn cách
mạng, với mục tiêu bất di bất dịch là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Đó là sự lựa chọn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, sự lựa chọn của
lịch sử, không do một ai áp đặt. Kiên định với con đường đó, dân tộc Việt
Nam mới đứng vững, chiến thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ; đồng
thời, giành được nhiều thành tựu trong 20 năm đổi mới, được bạn bè trên
thế giới đánh giá cao. Ngược lại, cũng có lúc do Đảng ta khơng phát huy


3

được tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc XHCN, rập khn, máy móc mơ hình của nước ngồi
thì lúc đó, thời điểm đó đất nước rơi vào tình trạng khó khăn, lâm vào
khủng hoảng…
Vì vậy, chỉ trên cơ sở độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường tìm
ra con đường đúng đắn; kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH, Đảng cộng sản Việt Nam mới lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi

đúng hướng, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân
chủ, văn minh.
Để xác định con đường đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của
Việt Nam, là một q trình nghiên cứu, tìm tịi độc lập, tự chủ, sáng tạo
của Đảng ta. Q trình đó được thể hiện trên các nội dung cơ bản là:
- Quá trình thành lập Đảng và việc xác định đường lối chiến lược
cách mạng ( từ năm 1911 - 1945)
Trước năm 1930, khi Đảng ta chưa ra đời, đất nước ta chìm trong
đêm trường nô lệ, các phong trào yêu nước nổ ra khắp nơi nhưng đều thất
bại. Thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ do nhiều
nguyên nhân , nhưng nguyên nhân cơ bản là do khủng hoảng về đường
lối . Trước tình hình đó việc tìm lối ra cho cuộc khủng hoảng là nhu cầu
nóng bỏng của dân tộc ta.
Năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (chủ tịch Hồ Chí
Minh) đã ra đi tìm đường cứu nước. Với tinh thần yêu nước vô bờ bến,
khát khao giải phóng dân tộc cùng với trí tuệ thiên tài, nhãn quan chính trị
sắc bén, người phân tích, đánh giá và nhận định: “Trong thế giới bây giờ


4

chỉ có cách mệnh Nga là đã thành cơng, và thành công đến nơi, nghĩa là
dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, khơng phải tự
do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An
Nam”1
Qua quá trình hoạt động, nghiên cứu thực tiễn người đã chỉ ra:
Cách mạng vô sản ở thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách
mạng vơ sản ở chính quốc. Với nhận định này cho ta thấy ở chủ tịch Hồ
Chí Minh tính độc lập, tự chủ, sáng tạo rất cao. Nhận thức sâu sắc và vận
dung sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh

Việt Nam, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí minh đã xác định đường lối cách
mạng Việt Nam:
Về mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là
CNXH. Muốn xóa bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh
phúc, bình đẳng thật sự thì phải qua hai cuộc cách mạng, cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng XHCN. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ
mật thiết với nhau.
Về lực lượng cách mạng: Trung thành và vận dụng sáng tạo tư
tưởng của Mác-Lênin. Nguyễn Ái Quốc đã nhìn thấy lực lượng to lớn của
cách mạng Việt Nam: Công nông là gốc của cách mệnh, học trị, nhà
bn nhỏ, điền chủ
nhỏ đều là bầu bạn của cơng nơng. Ai mà bị áp bức càng nặng, thì lòng
cách
. Đảng cộng sản Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ, NXB, sự
thật, H.1991.
1


5

mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết. Cách mệnh là việc chung của
cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người.
Nét sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc ở chỗ, khơng bó hẹp lực lượng
cách mạng chỉ là công nông. Đối với một nước thuộc địa, nửa phong kiến
như ở Việt Nam, khác với nước Nga. Lực lượng cách mạng ở Việt Nam
ngồi cơng nơng làm nịng cốt, thì lực lượng học trị, nhà bn nhỏ, điền
chủ nhỏ đều là bầu bạn, đều là đồng minh với cơng nơng; vì họ đều có kẻ
thù chung đó là đế quốc, phong kiến.
Về phương pháp và hình thức của cách mạng:
Quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là cách mạng bạo lực; đồng thời,

giành chính quyền nhất thiết phải bằng con đường khởi nghĩa. Nhưng tiến
hành khởi nghĩa như thế nào là vấn đề không phải đã trả lời ngay được.
Khởi nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga là dựa vào giai cấp công
nhân, tiến hành khởi nghĩa từ thành thị về nông thôn. Khởi nghĩa của cách
mạng Trung Quốc là lấy nông thôn bao vây thành thị.
Trong Chánh cương sách lược vắn tắt, Nguyễn ái Quốc, xác định,
cách mạng phải từng bước hình thành, phát triển theo con đường khởi
nghĩa vũ trang; với con đường khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi
nghĩa; hình thái, kết hợp khởi nghĩa cả nông thôn và thành thị; lực lượng
khởi nghĩa, cả giai cấp công nhân, nông dân lao động đều là chủ lực quân.
Nét đắc sắc của Người là, sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng,
quân sự và chính trị; kết hợp hai hình thức đấu tranh qn sự và đấu tranh
chính trị; trong từng trường hợp sử dụng cho phù hợp. Người đã chỉ ra
thiếu sót của những phong trào cách mạng trước đây là, xúi dân bạo động


6

mà khơng bày cách tổ chức. Việc giải phóng gơng cùm nô lệ cho đồng
bào, cho nhân loại là công việc “to tát”, cho nên phải “dùng hết sức”,
nhưng phải “biết cách làm thì mới chóng”. Tóm lại, là phải có sách lược,
mưu chước, kế hoạch, biết lúc nào nên làm, lúc nào chưa nên làm.
Thực tế thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã chứng
minh, với điều kiện và tình hình thực tiễn của Việt Nam lúc đó, sử dụng
phương pháp và hình thức cách mạng mà Nguyễn Ái Quốc đưa ra phù
hợp. Tiến hành khởi nghĩa của quần chúng làm lực lượng chủ yếu, đấu
tranh vũ trang là hỗ trợ; tiến hành khởi nghĩa từ nông thôn tiến về thành
thị.
Biểu hiện của tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường
của Nguyễn Ái Quốc về phương pháp và hình thức cách mạng, là không

bê nguyên xi con đường cách mạng của Nga, Trung Quốc hay nước khác,
mà đã vận dụng sáng tạo những phương pháp, hình thức đó phù hợp với
điều kiện của Việt Nam.
Về đối tượng của cách mạng: Giữa thực dân và phong kiến thì kẻ
thù nào lớn nhất và cần đánh kẻ thù nào trước ? Đây là vấn đề không phải
ngay từ đầu đã trả lời ngay được. Đảng ta có lúc xác định: tập trung đánh
đế quốc, lúc cho rằng, tiến hành đồng thời đánh đế quốc và đánh phong
kiến. Nghĩa là, ngay từ đầu Đảng chưa thể nhận thấy đâu là kẻ thù chủ
yếu, trước mắt, đâu là kẻ thù cơ bản lâu dài của dân tộc để có phương
pháp, hình thức tiến hành cách mạng, tiến hành quy tụ lực lượng phù hợp.
Đến năm 1939, với Nghị quyết Trung ương VI, câu trả lời mới đầy đủ:
Đánh đế quốc và đánh phong kiến không nhất loạt ngang nhau. Đánh đế


7

quốc là nhiệm vụ hàng đầu, đánh phong kiến phục vụ cho nhiệm vụ đánh
đế quốc. Bởi vì, mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam lúc này là
đấu tranh giành độc lập cho dân tộc sau đó tiến thẳng lên CNXH bỏ qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Về mục tiêu độc lập dân tộc và ruộng đất cho dân cày, đều là cơ
bản thiết yếu, nhưng mục tiêu nào là quan trọng hàng đầu ? Đây cũng là
vấn đề được Đảng ta và Hồ Chí Minh trăn trở, tìm tịi, đấu tranh cả trong
nhận thức và cả trong thực tiễn. Từ năm 1930-1945 đã từng bước cụ thể
hóa. Đảng ta và Hồ Chí Minh đã xem độc lập dân tộc là mục tiêu quan
trọng hàng đầu. Giành được độc lập cho dân tộc không chỉ đáp ứng được
nguyện vọng cho cơng nơng mà cịn đáp ứng được nguyện vọng cho các
tầng lớp nhân dân khác. Mục tiêu ruộng đất cho dân cày sẽ được giải
quyết từng bước trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.
- Xác định đường lối giữ nước và giải phóng dân tộc trong những

năm 1945-1975
Từ Hội nghị toàn quốc ở Tân Trào (13/8/1945), Đảng ta đã xác định
được con đường giữ nước cho dân tộc, gồm 10 chính sách lớn. Trong đó,
chính sách đối ngoại căn bản của ta là thêm bạn bớt thù; hết sức tránh
trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù cùng một lúc; tranh
thủ được sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xơ và các lực lượng tiến bộ trên
thế giới. Đảng đã khẳng định được nguyên tắc: phát huy tinh thần độc lập,
tự chủ, sáng tạo để tiến hành giữ nước. Như Hồ Chí Minh đã nói: đem


8

sức ta giải phóng cho ta; chỉ có độc lập, tự chủ, sáng tạo mới quyết định
thắng lợi của cách mạng.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược:
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Bộ. Hồ Chí Minh đã kêu gọi:
“Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính
mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”1 Trong suốt chín
năm kháng chiến chống thực dân Pháp, tinh thần ấy được thể hiện rõ nét:
kháng chiến tồn dân, tồn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính; vừa
kháng chiến vừa kiến quốc, xây dựng lực lượng.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặt ra nhiều câu hỏi cần
phải giải đáp: Cách mạng miền Nam có trường kỳ mai phục hay làm tiếp
ngay trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; cách mạng miền Nam
phải tiến hành bằng con đường nào; làm thế nào giữ được hồ bình ở
miền Bắc vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất ở miền Nam mà không
gây ra nguy cơ chiến tranh thế giới lần thứ ba; cách mạng miền Bắc chờ
cách mạng miền Nam thắng lợi rồi cùng đi lên CNXH, hay vẫn tiến hành
xây dựng CNXH trên miền Bắc ? Những câu hỏi đó khơng thể trả lời
ngay được, mà phải trải qua quá trình cân nhắc, tìm tịi trong thực tiễn và

được thể hiện ở các Hội nghị Trung ương, đó là:
Thực hiện tồn quốc kháng chiến, cả nước đánh Mỹ; đồng thời, tiến
hành hai chiến lược cách mạng nhằm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc.

1

Hồ Chí Minh, tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000, tập 3


9

Dùng sức mạnh tổng hợp, chiến tranh toàn dân, toàn diện, lựa chọn
phương thức tiến hành thích hợp cho tồn bộ cuộc chiến tranh và từng
thời kỳ. Đại hội IV của Đảng đã tổng kết trên 9 vấn đề có tính quy luật.
Trong đó, nét đặc sắc, nổi bật là, phải luôn luôn sử dụng hai lực lượng:
quân sự và chính trị, hai hình thức đấu tranh: đấu tranh qn sự và đấu
tranh chính trị; tiến hành đấu tranh quân sự song song với đấu tranh chính
trị trong chiến tranh cách mạng, nhưng không nhất loạt ngang nhau và
được vận dụng sáng tạo trên từng vùng chiến lược để có hình thức, lực
lượng qn sự hay chính trị cho thích hợp. Vùng rừng núi, đấu tranh quân
sự là chủ yếu, đấu tranh chính trị là hỗ trợ; vùng nơng thơn, đồng bằng, do
tương quan lực lượng giữa ta và địch ngang nhau nên Đảng ta vận dụng
đấu tranh quân sự song song với đấu tranh chính trị; vùng thành thị, đấu
tranh chính trị là chủ yếu, đấu tranh quân sự hỗ trợ cho quần chúng nổi
dậy.
Đây là những vấn đề phản ánh tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Đảng trong lãnh đạo đấu tranh cách mạng, đưa cách mạng đi đến thành
cơng. Đồng chí Lê Duẩn đã nói: Sau đường lối và phương pháp cách
mạng thì địi hỏi tư duy, sáng tạo nhiều nhất, nếu không huy động được

sự sáng tạo thì cách mạng khơng thể thắng được.
Cùng với những nét sáng tạo ở trên, Đảng ta đã thực hiện được ba
tầng mặt trận trong chống đế quốc Mỹ xâm lược, đó là: Mặt trận thống
nhất trong nước, Mặt trận liên minh ba nước Đông Dương, Mặt trận của
nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam. Trong đó, Mặt trận của nhân
dân thế giới đồn kết với Việt Nam chống đế quốc Mỹ đã thu hút được


10

lực lượng to lớn ủng hộ cách mạng Việt Nam, gây tiếng vang lớn phản
đối chiến tranh, bảo vệ hoà bình thế giới. Qua đó cho thấy, Đảng đã phát
huy tối đa sức mạnh trong nước và sức mạnh thời đại, giải quyết hài hòa
giữa sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngồi, trong đó sức mạnh bên
trong là chủ yếu, quyết định; độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường
nhưng không bài ngoại.
Đảng ta đã được xây dựng ngang tầm đòi hỏi sự nghiệp chống Mỹ
cứu nước, nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Nhờ có
sự lãnh đạo tài tình, đúng đắn của Đảng mà cách mạng miền Nam không
những không bị tan rã bởi luật 10/59 của Diệm. Đội ngũ cán bộ, đảng
viên của Đảng được cài cắm sau Hiệp định Giơnevơ đã hoạt động có hiệu
quả. Các tổ chức cơ sở đảng được củng cố, kiện tồn, làm nịng cốt cho
toàn dân đánh giặc. Đây cũng là một nét thể hiện tư duy độc lập, tự chủ,
sáng tạo của Đảng ta, khác với Đảng dân chủ nhân dân Triều Tiên lúc bấy
giờ, cùng có điều kiện, hồn cảnh như Việt Nam.
Tuy nhiên, cũng có lúc, có thời điểm, chúng ta đã quá hữu khuynh,
chỉ nhấn mạnh đấu tranh chính trị, coi nhẹ hình thức quân sự; hoặc mắc
phải bệnh dập khn, máy móc, bê ngun xi nội dung, hình thức, biện
pháp tiến hành cải cách ruộng đất của Trung Quốc vào Việt Nam không
phù hợp, nên đã dẫn đến những sai lầm khơng đáng có.

Có thể nói trong giai đoạn 1954-1975, tinh thần độc lập, tự chủ,
sáng tạo, tự lực tự cường của Đảng ta được phát triển lên một tầm cao
mới trong hoạch định đường lối, tìm ra con đường đi thích hợp cho hai
miền Nam, Bắc và con đường chung cho cách mạng Việt Nam nên đã


11

đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội.
- Quá trình xác định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sau thắng lợi năm 1975, đất nước thống nhất, non sơng thu về một
mối. Lúc này, có ý kiến cho rằng, nên để miền Nam dừng lại khôi phục
sau chiến tranh, chứ chưa vội tiến lên CNXH như miền Bắc. Có thể nói,
đây cũng là một sự thử thách lớn đối với Đảng ta. Nhưng với sự sáng
suốt, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng và nhân dân ta quyết tâm
đưa cả nước tiến lên CNXH, đây là một quyết định đúng đắn.
Nhưng để đưa cả nước quá độ đi lên CNXH bằng hình thức, mơ
hình nào ? địi hỏi phải có câu trả lời. Thực tiễn các nước Đông Âu, sau
khi kết thúc chiến tranh đều đi lên CNXH theo mơ hình của Liên Xơ. Bên
cạnh đó, hàng loạt vấn đề về xây dựng CNXH trong thời kỳ mới đang đặt
ra phải giải quyết, như: con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ? nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN là như thế
nào ? Trong bối cảnh đó có những người nhân danh góp ý cho Đảng là:
Đảng Cộng sản Việt Nam không nên bắt cá hai tay, không nên vừa là
CNXH, vừa là nền kinh tế thị trường, vì lợi ích dân tộc, nên theo kinh tế
thị trường, có nghĩa là không thừa nhận con đường đi lên CNXH ở nước
ta. Hay có ý kiến cho rằng: Việt Nam nên đi theo con đường tư bản chủ
nghĩa để phát triển kinh tế mạnh, sau đó xây dựng CNXH cũng chưa
muộn ! Đó là những quan điểm hết sức sai trái, phản động, lệch lạc.



12

Thẳng thắn nhìn vào sự thật là, trong một thời gian, chúng ta đã ảnh
hưởng tư tưởng sao chép, dập khn theo mơ hình CNXH của Liên Xơ;
khơng kịp thời rút kinh nghiệm trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền
Bắc trong những năm chiến tranh, nên sau khi thống nhất đất nước, chúng
ta vẫn tiến hành xây dựng CNXH theo quy luật của chiến tranh trong một
thời gian dài. Dẫn đến, nền kinh tế của nước ta lâm vào khủng hoảng
nghiêm trọng, lạm phát có lúc đã lên hơn 700%. Khi chế độ XHCN ở
Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, đã đặt đất nước ta vào những thử
thách khó khăn chưa từng thấy; bên cạnh đó, kẻ thù tăng cường chống
phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo loạn
lật đổ; tiêu cực, tệ nạn xã hội không giảm …Một bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân dao động, hoài nghi về CNXH; cho rằng, Liên Xô với
thành tựu xây dựng CNXH hơn 70 năm cịn bị tan vỡ, huống gì đất nước
ta mới xây dựng CNXH chưa đầy 15 năm.
Để lãnh đạo đất nước thốt ra khó khăn, Đại hội VI (12/1986) của
Đảng đã chủ trương đổi mới toàn diện, từng bước đưa đất nước vượt qua
khó khăn, kiên định con đường đi lên CNXH và đã giành được nhiều kết
quả quan trọng; không những đưa nước ta vượt qua khỏi khủng hoảng mà
còn phát triển đi lên, được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Đại hội IX đã
tổng kết: “Công cuộc đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã
hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép
bất cứ một mơ hình có sẵn nào”. Đó là là một thực tế khách quan, nhưng
đã có người với âm mưu xuyên tạc, cho rằng: Trong thời điểm đó, Việt
Nam vẫn phát triển bình thường, khơng có dấu hiệu gì về đổi mới, mà do



13

sức ép cải tổ, cải cách của Liên Xô và Trung Quốc. Đó là quan điểm hết
sức phản động nhằm đánh lừa dư luận.
Qua đó, thể hiện Đảng ta có một bản lĩnh chính trị vững vàng, độc
lập, tự chủ, sáng tạo; tư duy lí luận sắc sảo trên cơ sở vận dụng đúng đắn,
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam. Đổi mới nhưng không rơi vào vết xe đổ của các nước
khác.
Để kịp thời định hướng nhận thức, tư tưởng trong toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân, Đại hội lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã
đánh dấu “quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta có thể hình thành những nét chủ yếu”. Cương lĩnh đã chỉ
rõ 6 đặc trưng và 7 phương hướng về con đường đi lên CNXH mà nhân
dân ta cần xây dựng. Tổng kết thực hiện giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ,
tại Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì
thắng lợi của sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam từng bước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, định hướng cho mọi hoạt động của Đảng ta hiện nay
và những thập kỷ tới”. Có thể nói, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Đảng ta về CNXH đã được phát triển lên một tầm cao mới và được
khẳng định trên thực tế. Từ đây, nhân dân ta, đất nước ta đã có một con
đường rộng mở, đó là con đường đi lên CNXH, độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH. Đại hội VII kết luận: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì
thắng lợi của cách mạng Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã


14


hội, định hướng cho toàn bộ mọi hoạt động của Đảng ta hiện nay và trong
tương lai; tuy còn nhiều khó khăn, thử thách, nhưng đã tránh được mọi sự
hồi nghi dao động và là vũ khí sắc bén đấu tranh có hiệu quả với các
quan điểm thù địch.
Hội nghị Đảng giữa nhiệm kỳ (khóa VII, 1/1994) đã tiếp tục làm
sáng tỏ thêm một số vấn đề quan trọng trong quá trình xây dựng CNXH ở
nước ta. Hội nghị đã xác định những chủ trương, giải pháp lớn để thực
hiện Nghị quyết Đại hội VII. Vấn đề quan trọng là, Hội nghị đã đi sâu
phân tích thời cơ, thách thức và chỉ ra bốn nguy cơ, trong đó có nguy cơ
“chệch hướng xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời, còn chỉ ra cho đất nước ta
đang ở vị trí nào, giai đoạn nào trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tránh
được sự thỏa mãn dừng lại, hay “lạc quan tếu”. Đó là: “Mặc dù còn nhiều
mặt yếu kém phải khắc phục, những thành tựu quan trọng đã đạt được đã
và đang tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang thời kỳ phát
triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) trên cơ sở phân tích, đánh giá tình
hình đã rút ra kết luận: Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và
cơ bản hoàn thành nhiệm vụ chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, đất
nước chuyển sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Đại hội nhận định: “Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta ngày càng xác định rõ hơn. Xét trên tổng thể, việc hoạch định
và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn,
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa”.


15

Tháng 4/2001 Đảng ta tiến hành Đại hội IX. Một trong những vấn
đề rất quan trọng là, Đại hội đã tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn về lí

luận và thực tiễn con đường đi lên CNXH ở nước ta trên một số nội dung
cơ bản mà các Đại hội trước đây chưa làm rõ. Đó là những nội dung: Về
mục tiêu của cách mạng và lý tưởng của Đảng. “Đảng và nhân dân ta
quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Về nội dung đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Đại
hội đã chỉ rõ: “Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn
hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát
triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn
chặn và khắc phục những và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch;
bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ
nghĩa phồn vinh”. Cùng với những nội dung trên, Đại hội đã xác định
động lực chủ yếu của cách mạng, xác định mơ hình kinh tế tổng qt
trong thời kỳ quá độ lên CNXH …
Sự khẳng định trên là hết sức quan trọng trong thời điểm hiện nay.
Bởi, “Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi…Các quốc gia độc lập
ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để lựa chọn và quyết định con
đường phát triển của mình. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài
học thành công và thất bại cũng như từ khát vọng và thức tỉnh của các
dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy


16

luật tiến hóa của lịch sử, lồi người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.
Đại hội tiếp tục khẳng định: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát
triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” .
Những nội dung cơ bản trên được Đại hội IX làm sáng tỏ, bổ sung,

hồn chỉnh là những vấn đề về lí luận và thực tiễn rất quan trọng liên
quan trực tiếp về con đường đi lên CNXH ở nước ta trong thời kỳ quá độ.
Đại hội đã cho chúng ta thấy rõ hơn tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
việc tìm tịi, phát triển lí luận về thời kỳ q độ lên CNXH trên cơ sở
những nguyên lí của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù
hợp với điều kiện thực tế Việt Nam.
Quá độ đi lên CNXH được Đảng ta đề ra trong công cuộc đổi mới
đã đem lại những kết quả thành công rất quan trọng, nhưng “đất nước ta
phải đối mặt với nhiều thách thức” và bốn nguy cơ đang tồn tại. Với bản
lĩnh của người cộng sản, với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự
cường; cùng với sức mạnh của khối “đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên
minh giữa cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo”. Chúng
ta tin tưởng công cuộc đổi mới của đất nước sẽ đi đến thành công.
2. Ý nghĩa trong công cuộc đổi mới hiện nay
Công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo đang trên đà phát triển, đẩy
mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những thành
tựu mà đất nước ta đạt được trong 20 năm đổi mới vừa qua rất to lớn và
có ý nghĩa quan trọng. “Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Mơi
trường hồ bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên


17

thế giới tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so
sánh, tranh thủ ngoại lực. Đó là cơ hội lớn.
Đồng thời, đất nước ta phải đối mặt với nhiều thách thức. Bốn nguy
cơ mà Đảng ta từng chỉ rõ - tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham
nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến hồ bình” do các thế lực thù địch gây ra
- đến nay vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn

nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào”. “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mới dừng lại ở những nét khái qt
chung; cịn khơng ít vấn đề cụ thể đặt ra từ thực tiễn chưa có lời giải đáp
hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục.
Nhiều cán bộ, đảng viên nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh cịn giản đơn; hiểu biết về chủ nghĩa tư bản hiện đại
chưa sâu sắc, phương pháp tư duy chưa vươn tới tầm duy vật biện chứng,
còn dừng lại ở trình độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm”.
Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời
kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta. Vì
vậy, chúng ta cần:
Một là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời, Đảng phải
có một trình độ lí luận ngang tầm địi hỏi của cách mạng Việt Nam
Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam là tất yếu khách quan. Chỉ có
sự lãnh đạo của Đảng với đường lối đúng đắn thì mới phát huy được sức


18

mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, cả trong cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân và ngày nay là cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Để Đảng có đường lối đúng, nhất là trong cơng cuộc đổi mới, địi
hỏi Đảng phải có một trình độ lí luận ngang tầm. Các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác-Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Khơng
có lí luận cách mệnh, thì khơng có cách mệnh vận động …Đảng mà
khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn
chỉ nam”.
Thực tiễn cách mạng thế giới và trong nước đã chứng minh tính tất
yếu Đảng phải lãnh đạo cách mạng và vận dụng sáng tạo lí luận chủ
nghĩa Mác-Lênin thì cách mạng mới thành cơng. Các nước XHCN Đơng

Âu và Liên Xơ là ví dụ điển hình, do từ bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng, từ
bỏ lí luận chủ nghĩa Mác-Lênin nên đã dẫn tới sự sụp đổ.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đất
nước, cần phải: Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
Đảng, đây là vấn đề có tính ngun tắc đối với tất cả các Đảng chân
chính; bên cạnh đó, thường xun nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất
và năng lực của cán bộ, đảng viên của Đảng; thường xuyên củng cố Đảng
về tổ chức, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng; do đó cần
tránh, bng lỏng vai trị lãnh đạo của Đảng, hoặc Đảng bao biện làm
thay.
Để Đảng có một trình độ lí luận ngang tầm địi hỏi của cơng cuộc
đổi mới, cần phải: Mở rộng dân chủ, phát huy tự do tư tưởng, khai thác


19

mọi tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lí luận;
đồng thời, giữ nghiêm kỷ cương trong việc phổ biến kết quả nghiên cứu;
bên cạnh đó, phải tích cực đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tư tưởng lí
luận của Đảng; thường xun đổi mới cơng tác giáo dục chính trị tư
tưởng cả trong Đảng và trong nhân dân; kiên quyết đấu tranh với những
biểu hiện và nhận thức sai trái, như: cán bộ đã được đào tạo lí luận cơ bản
rồi thì khơng cần bồi dưỡng thêm làm gì; hoặc lí luận khơng gắn với thực
tiễn, nói khơng đi đơi với làm.
Hai là: Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới
Đây là vấn đề rất quan trọng quyết định sự thành bại của cách mạng
XHCN ở Việt Nam.
Đảng ta đã xác định, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; đồng thời, bốn
nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ (khóa VII) vẫn
nguyên giá trị, trong đó có nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổng kết mười năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội VIII của
Đảng nhận định: “Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường
lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng
XHCN, tuy trong q trình thực hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc lớn
và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức
độ này hay mức độ khác”. Vì vậy, kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá


20

trình đổi mới là vấn đề có tính ngun tắc, thể hiện bản lĩnh độc lập, tự
chủ, sáng tạo, tự lực tự cường của Đảng ta.
Để Đảng luôn kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, cần: Nắm chắc bản chất cách mạng khoa học và vận dụng sáng tạo
vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, không rập khn máy móc; đồng thời,
phải biết chắt lọc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của dân tộc, của nhân
loại; kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu thù địch, bảo vệ sự trong
sáng, đúng đắn của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Để giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới, điều quan
trọng hàng đầu là Đảng phải kết hợp nhuần nhuyễn giữa chiến lược và
sách lược. Về chiến lược, là phải giữ vững nguyên tắc, kiên định với mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Về sách lược, phải mềm dẻo, linh hoạt,
sáng tạo, chủ động nắm bắt cái mới cái tiến bộ; thận trọng giải quyết
những vấn đề mới nảy sinh; nhưng không vi phạm nguyên tắc, mục tiêu;
nghĩa là “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, nhằm giữ vững ổn định chính trị, tạo
mơi trường hồ bình để đất nước phát triển.

Đảng khơng được sai lầm về đường lối; phải tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước bằng pháp luật; khai thác
triệt để vai trị tích cực đi đôi với khắc phục ngăn ngừa, hạn chế những tác
động tiêu cực của cơ chế thị trường theo định hướng XHCN; bảo đảm sự
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi doanh nghiệp và
cá nhân, không phân biệt thành phần kinh tế; đồng thời, phải giữ vững
độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh
tế với bên ngoài.


21

Ba là: Đảng phải thường xuyên bám sát, nắm chắc thực tiễn thế
giới và trong nước để có đường lối lãnh đạo đúng đắn
Thực tiễn thế giới, trong nước luôn diễn ra sinh động, mau lẹ; nếu
Đảng không thường xuyên bám sát thực tiễn sẽ dẫn tới lạc hậu, xơ cứng,
quan liêu trong hoạch định đường lối.
Thực tiễn đường lối đấu tranh cách mạng giành độc lập dân tộc và
đường lối đổi mới của Đảng được đều được xuất phát từ thực tiễn, chứ
không do ý muốn chủ quan của Đảng, nên đường lối đó ln đúng đắn.
Ngày nay, trước xu thế tồn cầu hóa nền kinh tế thế giới; chủ nghĩa
tư bản đã có sự điều chỉnh thích nghi; Đảng ta chủ trương tiến hành kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN …Vì vậy, Đảng cần phải thường
xuyên bám sát thực tiễn để có đường lối lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi
đến thắng lợi cuối cùng.
Để bám sát và nắm chắc thực tiễn, trước hết, Đảng phải có hiểu bết
sâu sắc về lí luận, có tinh thần cách mạng; đứng vững trên lập trường
cách mạng và khoa học; nắm vững nội dung của phép biện chứng duy
vật, đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu thực tiễn.
Thứ hai, phải mở rộng dân chủ, phải trung thực với thực tiễn với

chân lí khách quan; tránh, dân chủ hình thức hoặc dân chủ quá trớn, nhất
là trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và phát hiện những mâu thuẫn
trong thực tiễn; hoặc biểu hiện tô hồng, hay bôi đen thực tiễn, đều trái với
quan điểm của Đảng.
Thứ ba, phải rèn luyện năng lực tư duy, tư duy tích cực (nghĩa là
suy nghĩ tới nơi, tới chốn); đồng thời, phải hiểu biết kỹ càng các vấn đề cụ


22

thể của lĩnh vực khảo sát để có thể khái quát những thực tiễn phong phú
nhưng thường tản mạn, trở thành những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo
hành động.
Thứ tư, cần có những hình thức, phương thức huy động rộng rãi các
nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn cùng tham gia nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn.
Hết sức tránh “làm việc theo cách quan liêu. Cái gì cũng dùng
mệnh lệnh, ép dân chúng làm. Đóng cửa lại mà đặt kế hoạch, viết chương
trình rồi đưa ra cột vào dân chúng, bắt dân chúng làm theo”.
Bốn là: Đảng phải thường xuyên tổng kết rút ra bài học kinh
nghiệm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng
Đây là khâu có ý nghĩa quan trọng trong quy trình lãnh đạo của
Đảng, nhằm đánh giá đúng những mặt đã làm được để phát huy, những
mặt còn hạn chế để kịp thời chấn chỉnh và bổ sung, điều chỉnh đường lối
lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng phù hợp với thực tế.
Vì vậy, phải “coi trọng tổng kết thực tiễn trong nghiên cứu lí luận
và trong hoạt động của các cấp ủy đảng; coi tổng kết thực tiễn là nhiệm
vụ thường xuyên của các cấp, các ngành; gắn nghiên cứu thực tiễn với
tiếp thu có chọn lọc những thành tựu khoa học của nhân loại”; đồng thời,
Đảng phải chú ý lắng nghe những ý kiến phản ánh và tình hình tư tưởng

của quần chúng nhân dân; kịp thời đúc rút những bài học kinh nghiệm để
đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp hơn. Trong giai
đoạn hiện nay, Nghị quyết Trung ương Năm (khóa IX) Đảng xác định,


23

cần tập trung nghiên cứu 10 vấn đề, như: Kinh tế thị trường định hướng
XHCN; con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; những tác động nhiều
mặt của q trình tồn cầu hóa; đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân…..
Bốn nội dung cơ bản nêu trên có quan hệ chặt chẽ và tác động biện
chứng lẫn nhau và có ý nghĩa rất quan trọng đối với mỗi tổ chức cơ sở
đảng; vì vậy, cần vận dụng cho phù hợp với tình hình thực tế, nhằm phát
huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường trong lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội của Đảng được đề ra
tại Đại hội X.
KẾT LUẬN
Độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực tự cường là quan điểm nhất quán
của Đảng ta, là truỳên thống quý báu của dân tộc Việt Nam được hun đúc
qua mấy ngàn năm lịch sử giữ nước và dựng nước. Nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo là vấn đề xuyên suốt, có ý nghĩa quýêt định bảo đảm
cho Đảng định ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, lãnh đạo
cách mạng giành thăngh lợi trong mọi thời kỳ, mọi hoàn cảnh, nhất là
trong tình hình hiện nay, Đảng ta lãnh đạo đất nước tiến hành sự nghiệp
đổi mới.
Ngày nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang hực hiện hai
nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa với
nội dung và yêu cầu mới. Sự nghiệp đó đang diễn ra trong bối cảnh quốc
tế có nhiều diễn biến phức tạp cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc tính chất
chất ngày càng gay gắt. Trước mắt chiến tranh thế giới ít có khả năng xảy

ra. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, can thiệp quân sự lật đổ


24

diễn ra nhiều nơi. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đang ráo riết
đẩy mạnh “ diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật đổ hịng xố bỏ chế độ chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay nước ta chính
thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vừa tạo thời cơ lớn,
vừa đặt ra nhiều thách thức gay gắt. Trước tình hình đó, lại càng địi hỏi
Đảng ta càng phải nêu cao hơn nữa tính độc lập, tự chủ, sáng tạo trong
hoạch định đường lối chiến lược. Cũng như trong lãnh đạo, chỉ đạo cách
mạng; đồng thời, kết hợp sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế; kiên quyết đấu
tranh với các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch hịng nhằm xóa
bỏ CNXH ở Việt Nam, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội;
những biểu hiện lệch lạc, dập khn máy móc; hoặc tư tưởng bài ngoại,
không biết tận dụng sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, tận dụng những kiến
thức văn minh của nhân loại, đều không đúng với quan điểm của Đảng
Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén của Đảng;
là lực lượng chính trị tin cậy, trung thành của Đảng, nhà nước, nhân dân.
Đòi hỏi quân đội phải được xây dựng vững mạnh toàn diện đủ sức hoàn
thành mọi nhiện vụ trong hoàn cảnh. Để xây dựng quân đội theo hướng
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại yêu cầu mọi cán bộ,
chiến sĩ trong quân đội cần quán triệt sâu sắc quan điểm độc lập, tự chủ,
sáng tạo, tự lực tự cường, quan tâm xây dựng đơn vị vững mạnh, sẵn sàng
chiến đấu cao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao
phó.




×