Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

CƠ sở lý LUẬN về PHÁT TRIỂN đội NGŨ cán bộ QUẢN lý các TRƯỜNG TRUNG học cơ sở THEO yêu cầu đổi mới GIÁO dục PHỔ THÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.19 KB, 36 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ QUẢN LÝ CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
THEO YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG

Vài nét về lịch sử vấn đề nghiên cứu
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò đặc biệt quan
trọng của cán bộ đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc
trong nhiều bài nói và viết. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh,
“mọi thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém” [35,
tr.269 - 273], “có cán bộ tốt, việc gì cũng xong” [35, tr.240]
“vì vậy huấn luyện cán bộ là cái gốc của Đảng” [35 tr.257],
“Đảng phải nuôi dạy cán bộ như những người làm vườn vun
trồng những cây cối quý báu” [35, tr.273].
Kế thừa, phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh về cơng
tác cán bộ, ở Việt Nam có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về
phát triển đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ quản lý giáo dục
nói riêng. Trong lĩnh vực khoa học quản lý, nhiều tác giả đã
giải quyết vấn đề phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
theo hướng tiếp cận phát triển nguồn nhân lực.
Trong cuốn sách “Phát triển nguồn nhân lực giáo dục
đại học Việt Nam”, các tác giả Đỗ Minh Cương và Nguyễn


Thị Doan [9] đã cho rằng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
và nhà giáo là nhân tố quyết định chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực. Theo các tác giả, chu trình quản lý nguồn nhân
lực trong giáo dục thường bao gồm các khâu, các bước: xây
dựng kế hoạch quản lý nguồn nhân lực; chuẩn bị nhân sự
cho các hoạt động giáo dục, đào tạo; giao nhiệm vụ, đồng
thời tổ chức, điều khiển hoạt động của các cá nhân, các tổ
chức; đánh giá kết quả hoạt động; tổng kết, sắp xếp lại nguồn


nhân lực, chuẩn bị cho chu trình quản lý mới.
Các tác giả Bùi Minh Hiền (chủ biên), Vũ Ngọc Hải,
Đặng Quốc Bảo trong cơng trình “Quản lý giáo dục”[31],
đã đi sâu bàn về phát triển nhân lực giáo dục (bao hàm cán
bộ quản lý giáo dục và nhà giáo) trong nhà trường. Các tác
giả cho rằng mục tiêu của phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục và nhà giáo là phải bảo đảm đủ về số lượng, mạnh
về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu. Để đạt được mục tiêu
đó, từng trường phải làm tốt việc xây dựng và thực hiện kế
hoạch, quy hoạch nhân lực giáo dục, tiến hành một cách
chặt chẽ, hiệu quả các khâu: tuyển chọn, sắp xếp, bồi
dưỡng phẩm chất, năng lực, kiểm tra, đánh giá thực lực đội
ngũ và sự phấn đấu, rèn luyện của từng cán bộ quản lý giáo
dục và nhà giáo.


Các tác giả Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng[2] đã
cho rằng, muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì tất yếu
phải cải tiến công tác quản lý. Cần phải coi quản lý nhà
trường là khâu đột phá trong các lĩnh vực để phát triển giáo
dục. Để đột phá được vào công tác quản lý nhà trường, tác
giả khẳng định, phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý và nhà giáo.
Tác giả Nguyễn Phúc Châu - Trường Cán bộ Quản lý
Giáo dục Trung ương với đề tài “ Nhận diện những trụ cột
của hoạt động quản lý và vận dụng chúng vào đổi mới quản
lý nhà trường” [6] đã xác định những trụ cột của hoạt động
quản lý là: thể chế xã hội về lĩnh vực hoạt động của tổ chức,
bộ máy tổ chức và nhân lực của tổ chức, tài lực và vật lực
của tổ chức, môi trường hoạt động của tổ chức, thông tin về

lĩnh vực hoạt động của tổ chức,… Ở đây, với tư cách là một
bộ phận thuộc trụ cột về nhân lực của hoạt động quản lý,
đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục phải được xây dựng và
phát triển tương xứng với sứ mệnh giáo dục, đào tạo của
nhà trường.
Trong bài viết “Đào tạo - bồi dưỡng cán bộ quản lý
giáo dục trong xu thế đổi mới và hội nhập”[46], tác giả Lưu
Xuân Mới khi đề cập nội dung này đã chỉ ra sự thay đổi một


cách căn bản về vai trò của cán bộ QLGD hiện nay. Từ đó,
địi hỏi cán bộ QLGD cần được trang bị những kiến thức về
lý luận quản lý hiện đại, nghiệp vụ quản lý chuyên nghiệp,
nhất là kỹ năng quản lý, như: Giao tiếp ; định hướng đạo
đức và trí tuệ; sự thay đổi; phân tích và giải quyết vấn đề;
xây dựng tư duy toàn cầu; dám nghĩ, dám làm; có năng lực
hoạt động thực tiễn, năng lực đối ngoại;... để trở thành nhà
quản lý giỏi. Các giải pháp đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ QLGD cần tập trung vào: Đổi mới chương trình đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ QLGD trên cơ sở căn cứ yêu cầu đầu ra
để thiết kế mục tiêu, nội dung chương trìnhđào tạo, bồi
dưỡng ngắn hạn để cấp chứng chỉ, chương trình đào tạo lấy
vănbằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ QLGD; đổi mới phương
pháp dạy học hướng vào tích cực hố hoạt động học tập của
người học.
Trong bài viết “Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
quản lý giáo dục theo tiếp cận năng lực đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục”[56, tr.25-26], các tác giả Phạm Văn Sơn,
Nguyễn Thị Tuyết đã khái quát: Trong bối cảnh đổi mới
giáo dục, vai trò của CBQLGD thay đổi một cách căn bản,

đó là việc hướng tới đổi mới và phát triển, họ phải đóng vai
trị nhà chính trị để tạo được sự đồng thuận trong đội ngũ và


tổ chức; hướng dẫn, tư vấn, hỗ trợ và tạo điều kiện cho việc
thực hiện nhiệm vụ giáo dục. Các tác giả đưa ra 6 giải pháp
đào tạo, bồi dưỡng, nhấn mạnh các giải pháp: Đổi mới
chương trình đào tạo, bồi dưỡng; đổi mới phương pháp dạy
học, kỹ năng sử dụng thiết bị dạy học trong đào tạo, bồi
dưỡng; đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả đào tạo, bồi
dưỡng; trang bị kiến thức thực tiễn và kỹ năng cho cán bộ
QLGD thông qua thực tập trải nghiệm.
Nhưng cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu
một cách tồn diện, có hệ thống về phát triển đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài “Phát triển
đội ngũ cán bộ quản lý các trường trung học cơ sở huyện
Thanh Oai, thành phố Hà Nội theo yêu cầu đổi mới giáo
dục phổ thông” sẽ không trùng lặp với các cơng trình
nghiên cứu đã được cơng bố.
Các khái niệm cơ bản của đề tài
Cán bộ quản lý và đội ngũ cán bộ quản lý trường trung
học cơ sở
Cán bộ và cán bộ quản lý giáo dục
Cán bộ


Điều 4. Luật Cán bộ, công chức xác định: Cán bộ là
công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở

trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau
đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế
và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [54, tr.4].
Như vậy cán bộ có đặc điểm chủ yếu sau:
Phải là cơng dân Việt Nam. Khoản 1 Điều 17 Hiến
pháp 2013 quy định “Cơng dân nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Mỗi cá
nhân đều có quyền có quốc tịch, mọi thành viên của các dân
tộc đều bình đẳng về quyền có quốc tịch Việt Nam. Như
vậy, điều kiện đầu tiên để có thể trở thành cán bộ là người
đó phải là cơng dân có quốc tịch Việt Nam. Điều này có ý
nghĩa quan trọng đến vấn đề an ninh, quốc phòng bởi lẽ bộ
máy nhà nước của một quốc gia là cơ quan đầu não, thay
mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước quyết định những
vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của
một nước.


Được hình thành thơng qua con đường bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm. Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân
và vì dân, do đó mà những người thay mặt nhân dân quản lí
nhà nước ngồi việc đáp ứng đủ những điều kiện luật định
về độ tuổi cũng như năng lực còn phải là những người được
nhân dân tin tưởng lựa chọn thông qua bầu cử. Đây là một
trong những nguyên tắc cơ bản trong quản lí hành chính nhà
nước - nhân dân lao động tham gia vào quản lí hành chính
nhà nước. Phê chuẩn được hình thành trong trường hợp cơ
quan tổ chức có thẩm quyền chấp nhận giao cho công dân
giữ một chức vụ, chức danh nhất định theo quyết định của

một cơ quan, tổ chức xã hội. Bổ nhiệm là việc cán bộ, công
chức được quyết định giữ một chức vụ lãnh đạo, quản lí
hoặc một ngạch theo quy định của pháp luật. Việc bầu cử,
phê chuẩn, bổ nhiệm chức vụ, chức danh cán bộ theo nhiệm
kỳ trong cơ quan nhà nước được thực hiện theo Hiến pháp,
Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội...
Làm việc theo nhiệm kì, nằm trong biên chế và hưởng
lương từ ngân sách nhà nước. Pháp luật có quy định cán bộ
trong các cơ quan tổ chức nhà nước làm việc theo nhiệm kì
và được nằm trong biên chế nhà nước - biên chế trong các cơ


quan nhà nước là số người làm việc trong cơ quan để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao và được hưởng lương
từ ngân sách nhà nước, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt và làm kinh phí hoạt động thường xuyên hàng
năm. Do cán bộ làm việc cho các tổ chức, cơ quan nhà nước,
cống hiến toàn bộ thời gian làm việc của mình để phục vụ
lợi ích của nhà nước vì thế nhà nước phải chịu trách nhiệm
về vấn đề lương đối với họ.
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn chú trọng công tác cán bộ, xây dựng, đào tạo
đội ngũ cán bộ có đức có tài, xứng đáng là người lãnh đạo,
người đày tớ thật trung thành. Trong công tác cán bộ, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức
cách mạng, vì "cũng như sơng có nguồn thì mới có nước,
khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có
gốc thì cây héo.Người cách mạng phải có đạo đức, khơng
có đạo đức, thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo

được nhân dân"[35, tr.142]. Do đó, Hồ Chí Minh u cầu
mỗi cán bộ phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự
cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư, phải gắn bó mật
thiết với nhân dân, v.v...để được dân tin, dân phục, dân yêu;
đồng thời chỉ rõ chủ nghĩa cá nhân với những căn bệnh


thường mắc như: cậy quyền và cậy thế, kiêu ngạo và xa
hoa, quan liêu và coi thường quần chúng, tự kiêu và không
muốn học tập, không thực hiện tốt tự phê bình và phê
bình… ln là nguy cơ hiện hữu, dẫn đến sự suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của những cán bộ, đảng
viên .
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng gần 90 năm qua,
nhất là trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, công tác
cán bộ được Đảng luôn chú trọng triển khai trong thực tế.
Thực hiện công tác cán bộ, triển khai các Nghị quyết Đại
hội Đảng, Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tại Hội nghị Trung ương
3 khóa VIII (6/1997), Nghị quyết Trung ương 4 khóa X
(1/2007) về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan
Đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy Nhà nước,
Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội và xây
dựng, hồn thiện hệ thống chính trị tại Hội nghị Trung ương
7 khóa XI (5/2013),... đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến địa
phương đã không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất
lượng, trưởng thành, phát triển về nhiều mặt, từng bước đáp
ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, đổi mới và hội nhập sâu rộng.



Cán bộ quản lý giáo dục
Điều 16 của Luật Giáo dục năm 2005, sửa đổi một số
điều năm 2009 nêu rõ: “Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò
quan trọng trong việc tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt
động giáo dục. Cán bộ quản lý giáo dục phải không ngừng
học tập, rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chun mơn, năng lực quản lý và trách nhiệm cá nhân. Nhà
nước có kế hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục nhằm phát huy vai trò và trách
nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục, bảo đảm phát triển sự
nghiệp giáo dục.” [53, tr.4]. Như vậy ta có thể hiểu rằng,
cán bộ quản lý giáo dục là thành viên trong bộ máy quản lý
giáo dục các cấp, có nhiệm vụ thực hiện các chức năng quản
lý giáo dục trong những phạm vi quyền hạn nhất định.
Tác giả Trần Khánh Đức trong cuốn Giáo dục và phát
triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI [24; tr.479-480, 648649] đã nêu ra 4 chức năng cơ bản của quản lý như sau: 1.
Dự báo và lập kế hoạch là một chức năng cơ bản của quản
lý, trong đó phải xác định những vấn đề như nhận dạng và
phân tính tình hình, bối cảnh; dự báo các khả năng; lựa
chọn và xác định các mục tiêu, mục đích và hoạch định con
đường, cách thức, biện pháp để đạt được mục tiêu, mục


đích của q trình. Trong mỗi kế hoạch thường bao gồm các
nội dung như xác định hình thành mục tiêu, xác định và
đảm bảo về các điều kiện, nguồn lực của tổ chức để đạt
được mục tiêu và cuối cùng là quyết định xem hoạt động
nào là cần thiết để đạt được mục tiêu đặt ra. 2. Tổ chức là
quá trình tạo lập các thành phần, cấu trúc, các quan hệ giữa

các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm
làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được
mục tiêu tổng thể của tổ chức. Thành tựu của một tổ chức
phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của người quản lý và sử
dụng các nguồn lực của tổ chức. Quá trình tổ chức sẽ lơi
cuốn việc hình thành, xây dựng các bộ phận, các phịng, ban
cùng các cơng việc của chúng để thực hiện nhiệm vụ của tổ
chức. 3. Lãnh đạo/Chỉ đạo bao hàm việc định hướng và lôi
cuốn mọi thành viên của tổ chức thông qua việc liên kết, liên
hệ với người khác và khuyến khích, động viên họ hồn thành
những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Tuy nhiên, hiểu lãnh đạo không chỉ sau khi lập kế hoạch có tổ
chức thì mới có lãnh đạo, mà là q trình đan xen. Nó thấm
vào và ảnh hưởng quyết định đến các chức năng kia, điều hoà,
điều chỉnh các hoạt động của tổ chức trong quá trình quản lý.
4. Kiểm tra, đánh giá là chức năng của quản lý. Thơng qua
đó, một cá nhân, một nhóm hoặc một tổ chức theo dõi, giám


sát các thành quả hoạt động và tiến hành những hoạt động
sửa chữa, uốn nắn cần thiết. Đó là quá trình tự điều chỉnh,
diễn ra có tính chu kỳ từ người quản lý đặt ra những chuẩn
mực thành đạt của hoạt động, đối chiếu đo lường kết quả,
sự thành đạt so với mục tiêu chuẩn mực đã đặt ra, điều
chỉnh những vấn đề cần thiết và thậm chí phải hiệu chỉnh,
sửa lại những chuẩn mực cần thiết.
Các cơ quan quản lý và cán bộ quản lý giáo dục đều
phải có trách nhiệm thực hiện các chức năng quản lý nêu
trên, thơng qua đó người cán bộ quản lý tiến hành lao động
quản lý. Theo tác giả Trần Kiểm [40], cũng như bất kỳ lĩnh

vực nào, lao động quản lý giáo dục là một dạng lao động
phức tạp và có nhiều khó khăn. Người làm cơng tác quản lý
giáo dục tham gia lao động quản lý theo sự phân cơng có
tính chất chun mơn hóa, nhưng ln quan hệ mật thiết với
các thành viên, bộ phận quản lý khác để cùng đóng góp
cơng sức, trí tuệ vào thực hiện các chức năng quản lý. Đặc
điểm lao động của người cán bộ quản lý giáo dục bao gồm:
Thứ nhất, lao động quản lý giáo dục gắn với việc
phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, vì vậy
người cán bộ quản lý giáo dục phải có những kiến thức,
kỹ năng về đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn, sử dụng con


người; Thứ hai, lao động quản lý giáo dục hướng tới sự
phân công, phối hợp các lực lượng tham gia q trình giáo
dục, đào tạo, do đó vừa có tính nguyên tắc cao, vừa linh
hoạt, mềm dẻo nhằm phát huy được ưu điểm, khắc phục
hạn chế, nhược điểm của các tổ chức và cá nhân; Thứ ba,
đối tượng quản lý giáo dục bao gồm nhiều bộ phận, nhiều
tầng bậc, nhiều loại hình hoạt động trong mơi trường giáo
dục có tính mở, vì thế lao động quản lý giáo dục được
chuyên mơn hóa và phân cấp rõ ràng. Để hồn thành trách
nhiệm được phân cơng, cán bộ quản lý phải có năng lực
chuyên sâu về lĩnh vực mình phụ trách, đồng thời có hiểu
biết tồn diện về q trình đào tạo và môi trường giáo dục;
Thứ tư, lao động quản lý giáo dục gắn liền với thu thập và
xử lý kịp thời, chính xác khối lượng thơng tin lớn, phức tạp,
biến động nhanh, do đó địi hỏi tính sáng tạo cao của người
cán bộ quản lý giáo dục; Thứ năm, lao động quản lý giáo
dục xét cho cùng là công tác lãnh đạo trong lĩnh vực giáo

dục, vì vậy người cán bộ quản lý giáo dục phải có tầm nhìn
bao qt, mang tính dự báo để định hướng đúng cho tồn bộ
quá trình giáo dục, đào tạo, đồng thời phải thực sự thấu hiểu
đối tượng lãnh đạo, quản lý của mình.


Những phân tích ở trên cho phép định nghĩa rằng: Cán
bộ quản lý giáo dục là người tiến hành các lao động quản lý
theo phạm vi trách nhiệm được phân cơng, góp phần cùng
bộ máy quản lý giáo dục ở từng cấp thực hiện các chức
năng kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, đánh giá quá
trình giáo dục, đào tạo.
Như vậy, lao động chủ yếu của cán bộ quản lý giáo
dục là lao động quản lý, nhưng theo từng cương vị cơng tác
cụ thể lao động đó được chun mơn hóa, do đó chức trách,
nhiệm vụ cán bộ quản lý giáo dục có sự phân biệt giữa từng
cấp, từng bộ phận trong bộ máy quản lý. Theo đó mối quan
hệ công việc giữa cán bộ quản lý cấp trên và cấp dưới là
quan hệ chỉ huy - phục tùng, quan hệ công việc giữa cán bộ
quản lý cùng cấp là quan hệ hiệp đồng, phối hợp để cùng
nhau thực hiện các chức năng của quản lý giáo dục. Hoạt
động chuyên môn của từng cán bộ quản lý giáo dục ln
thống nhất với sự vận hành chung của tồn bộ bộ máy quản
lý giáo dục.
Đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học cơ sở


Đội ngũ được hiểu là tập hợp gồm một số đông người
cùng chức năng, nhiệm vụ hoặc nghề nghiệp, hợp thành lực
lượng hoạt động trong một hệ thống (tổ chức).

Theo tác giả Nguyễn Lân, đội ngũ gồm “Tập thể
người trong một tổ chức quy củ” [41].
Đội ngũ CBQL GD là tập hợp các cán bộ, nhà giáo
thực hiện nhiệm vụ quản lý các nhà trường và quản lý các
cơ quan trong hệ thống GD quốc dân.
Theo tác giả Hoàng Phê, “Đội ngũ là khối đông người
cùng chức năng nghề nghiệp được tập hợp và tổ chức thành
lực lượng” [48].
Các khái niệm về đội ngũ dùng cho các tổ chức trong
xã hội như đội ngũ tri thức, đội ngũ công nhân viên chức
đều có nguồn gốc xuất phát từ đội ngũ theo thuật ngữ qn
sự, đó là một khối đơng người được tổ chức thành một lực
lượng để chiến đấu hoặc để bảo vệ, v.v...
Khái niệm đội ngũ cũng có thể hiểu là: Một nhóm người
được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng, để thực hiện
một hay nhiều chức năng, có thể cùng hay khơng cùng nghề
nghiệp, nhưng đều có chung một mục đích nhất định.


Các khái niệm tuy có khác nhau nhưng đều phản ánh
một điều đó là: một nhóm người được tổ chức và tập hợp
thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng,
có thể có cùng nghề nghiệp hoặc khơng cùng một nghề
nghiệp nhưng cùng có chung một mục đích nhất định.
Tóm lại có thể hiểu: Đội ngũ là một tập thể gồm nhiều
người, có cùng lý tưởng, cùng mục đích, làm việc theo sự
chỉ huy thống nhất, có kế hoạch, gắn bó với nhau về quyền
lợi vật chất cũng như tinh thần.
Đội ngũ cán bộ trường THCS gồm: Hiệu trưởng và
phó hiệu trưởng.

Trong luật giáo dục, tại điều 54 quy định: “1. Hiệu
trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của
nhà trường, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền bổ nhiệm,
cơng nhận; 2. Hiệu trưởng các trường thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản
lý trường học” [53,tr.46].
Theo điều lệ trường trung học: “1. Trường trung học
có một hiệu trưởng và từ 1 đến 3 phó hiệu trưởng theo
nhiệm kỳ 5 năm. Thời gian đảm nhiệm những chức vụ này
là không quá hai nhiệm kỳ ở một trường trung học; 2.Hiệu


trưởng và phó hiệu trưởng phải là giáo viên đạt trình độ
chuẩn quy định, đã dạy ít nhất 5 năm ở cấp trung học hoặc
ở cấp học cao hơn. Có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt;
có trình độ chun mơn vững vàng; có năng lực quản lý
được bồi dưỡng lý luận và nghiệp vụ quản lý giáo dục, có
sức khoẻ, được tập thể giáo viên, nhân viên tín nhiệm”
[3,tr.12].
Từ những khái niệm trên chúng tôi nhận thấy đội ngũ
CBQL Trường THCS là một tập thể những CBQL được tổ
chức thành một lực lượng có cùng một chức năng, nhiệm vụ
GD và rèn luyện học sinh nhà trường, nhằm hoàn thành tốt
mục tiêu, nhiệm vụ của trường THCS.
Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học
cơ sở
Phát triển
Theo quan điểm triết học, phát triển được hiểu là quá
trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Sự phát triển

là kết quả của quá trình thay đổi về lượng dẫn tới sự thay
đổi về chất và giải quyết các mâu thuẫn nội tại của sự vật.
Trong đời sống xã hội, để tạo nên sự phát triển thì con


người phải nhận thức sâu sắc, đầy đủ và vận dụng đúng
đắn về quy luật phát triển, từ đó nỗ lực cải tạo hiện thực.
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học, sự phát triển
của cá nhân con người, cũng như của từng cộng đồng người
chủ yếu diễn ra dưới tác động của xã hội, trước hết là giáo
dục và tổ chức hoạt động. Vì vậy, tăng cường giáo dục, rèn
luyện, tổ chức khoa học các hoạt động thực tiễn, mở rộng
giao tiếp xã hội, thúc đẩy tự giáo dục là những con đường
cơ bản để hình thành, phát triển nhân cách và các nhóm, tập
thể.
Trong Từ điển Tiếng Việt, “phát triển” được định
nghĩa là “biến đổi hoặc làm cho biến đổi theo chiều hướng
tăng, từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng, thấp đến cao, đơn giản
đến phức tạp” [48, tr. 204]. Như vậy có thể nói rằng, phát
triển được đánh giá bằng sự tăng tiến hoặc làm cho tăng tiến
về số lượng, chất lượng, giá trị của các yếu tố cấu thành sự
vật, hiện tượng.
Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo sự phát triển đội ngũ
cán bộ quản lý là một trong những nhân tố tác động rất
mạnh mẽ tới chất lượng giáo dục. Sự phát triển đội ngũ cán
bộ quản lý giáo dục không chỉ là tăng thêm đơn thuần về


số lượng, mà điều cốt yếu là nâng cao chất lượng của từng
cá nhân, cũng như toàn bộ hệ thống quản lý giáo dục nhằm

đáp ứng nhu cầu phát triển giáo dục.
Tác giả Trần Khánh Đức [24] đã nêu quan niệm: Phát
triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi, chuyển
biến về số lượng, cơ cấu và chất lượng nguồn nhân lực phù
hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp
độ khác nhau (quốc gia, vùng, miền, địa phương...) nhằm
đáp ứng nhu cầu nhân lực cần thiết cho các lĩnh vực hoạt
động. Quan niệm này có thể vận dụng vào xác định khái
niệm về phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.
Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học cơ
sở
Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục
và đào tạo năm 2013 của Đảng đã xác định: “ Phát triển
giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng
thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều
kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”
[20,tr.8].


Phát triển đội ngũ CBQL phải dựa trên cơ sở thế ổn
định, là q trình biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng,
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Phát triển là làm
cho số lượng và chất lượng vận động, biến đổi theo hướng
đi lên trong mối quan hệ hỗ trợ, bổ sung cho nhau tạo nên
một hệ thống bền vững.
Thời đại ngày nay là thời đại của khoa học và công
nghệ, đặc biệt là cơng nghệ thơng tin và kinh tế trí thức; nền
kinh tế của chúng ta chuyển sang cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cùng với sự hội nhập WTO và khu

vực. Cơ chế quản lý về GD&ĐT cũng phải thay đổi từng
ngày để thích ứng với đặc điểm tình hình mới.Thực tiễn cho
thấy trình độ, năng lực CBQL nước ta cịn bộc lộ yếu kém.
Báo cáo về tình hình giáo dục tại kỳ họp thứ sáu, Quốc hội
khóa IX, đã chỉ ra những nguyên nhân chủ yếu về những
yếu kém trong giáo dục là: Trình độ năng lực của một bộ
phận cán bộ quản lý còn thấp, chưa theo kịp yêu cầu đổi
mới mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục.
Do vậy, việc phát triển đội ngũ nhà giáo và CBQL
giáo dục nói chung và cán bộ quản lý trường THCS nói
riêng đáp ứng được những yêu cầu đó là tất yếu. Nội dung


phát triển đội ngũ CBQL gồm ba yếu tố: Phát triển về số
lượng, về cơ cấu và chất lượng.
Về số lượng: Phát triển bảo đảm đủ số lượng CBQL
theo định biên của bộ GD&ĐT. Mỗi trường THCS có một
hiệu trưởng và một số phó hiệu trưởng tùy theo quy mơ của
từng trường.
Về cơ cấu: Phát triển đội CBQL cán bộ quản lý đồng
bộ về tuổi, giới tính, dân tộc, thâm niên quản lý, vùng miền.
Về chất lượng: Theo quan niệm của triết học chất
lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một
sự vật, sự việc. Đó là tổng thể những thuộc tính cơ bản,
khẳng định sự tồn tại của một người, một sự vật và phân
biệt nó với người, sự vật khác.
Đổi mới giáo dục phổ thông và những yêu cầu đối
với cán bộ quản lý trường trung học cơ sở
Đổi mới giáo dục phổ thông
Đối với giáo dục phổ thông, Nghị quyết 29 về đổi mới

căn bản, toàn diện Giáo dục và đào tạo năm 2013 của Đảng
đã đề ra nhiệm vụ tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình
thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi


dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Đồng thời, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú
trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống,
năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào
thực tiễn. Sau 5 năm thực hiện đổi mới, giáo dục phổ thơng
có nhiều dấu hiệu khả quan và những xu hướng vận động
tốt nhưng cũng còn rất nhiều thách thức đang đặt ra cần cấp
bách giải quyết ở cả tầm vĩ mơ và vi mơ. Đã có sự chuyển
biến trong chính sách, được ban hành theo hướng chuyển
dần từ mục tiêu giáo dục tăng cường kiến thức sang phát
triển phẩm chất và năng lực người học. Chất lượng giáo dục
phổ thơng, ở một góc độ nào đó, được đánh giá tiệm cận
chuẩn thế giới. Nhiều chính sách mới đã được bổ sung, sửa
đổi theo hướng đảm bảo chất lượng, chú ý đến đảm bảo quy
trình; chuẩn hóa đầu ra, tạo môi trường dạy và học hiệu quả
cho giáo viên, học sinh. Cụ thể là các chính sách về đào tạo
và bồi dưỡng giáo viên, quy định chuẩn chức danh hiệu
trưởng trường phổ thơng, chuẩn giáo viên; thực hiện chương
trình giáo dục phổ thông hiện hành theo định hướng phát
triển năng lực; đổi mới cơ chế quản lý chuyên môn để thực
hiện phương pháp dạy học tích cực…
Chương trình giáo dục phổ thông mới đang được triển khai xây
dựng theo hướng phát triển năng lực, tích hợp ở bậc Tiểu học, tự chọn



phân hóa ở bậc Trung học phổ thơng và tích lũy theo tín chỉ. Đầu tư về
giáo dục được tăng cường, tạo môi trường dạy học thuận lợi nhất cho
giáo viên và học sinh, tăng cường xã hội hóa trong giáo dục.Trước khi
thực hiện Nghị quyết 29, giáo dục Việt Nam từ phổ thông đến đại học
đều chạy theo thành tích. Ở phổ thơng, cấp tiểu học, học sinh khá giỏi
nhiều hơn học sinh trung bình, học sinh học nhiều nhưng biết ít, đổ xơ
vào đại học, khả năng thích ứng kém… Nghị quyết 29 đã tạo ra sự
chuyển biến mạnh mẽ về giáo dục và đào tạo, khắc phục những mặt tồn
tại, hạn chế trong suốt thời gian dài.Đặc biệt, nhận thức của các cấp, các
ngành và của toàn xã hội về đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo đã có
sự chuyển biến lớn, đây là một thành tựu quan trọng. Bởi những người
có trách nhiệm phải có nhận thức sâu sắc về triết lý giáo dục của nước
mình mới đưa cơng cuộc đổi mới đi đến thành công, chuyển một cách
căn bản từ một nền giáo dục tiếp cận nội dung sang nâng cao năng lực
cho người họcgiáo dục phổ thơng đã có nhiều thay đổi, công tác giảng
dạy trong nhà trường không chỉ truyền thụ kiến thức mà bám sát thực tế
hơn, năng lực của học sinh được phát triển hơn. Từ kiến thức được học,
khi tốt nghiệp, học sinh sẽ thích nghi tốt với xã hội đầy biến động, có thể
tự chủ, tự lập được.Nhiều mơ hình trường học mới, trường học kết nối,
trường học STEM được đưa vào nhà trường.Mỗi địa phương lựa chọn
một mơ hình cụ thể gắn liền với u cầu của địa phương, vùng miền.Ví
dụ như vùng miền núi có “lớp học đồi chè” để học sinh miền sơn cước
biết được kỹ thuật trồng cây chè, áp dụng kỹ thuật phụ giúp gia đình.
Các em vùng biển có lớp học gắn với nuôi trồng thủy hải sản, học sinh
hiểu được kỹ thuật phịng chống bệnh dịch để việc ni trồng thủy sản
của gia đình tránh được rủi ro lớn với tinh thần của Nghị quyết 29, trong
thời gian qua, sự thay đổi về phương pháp giảng dạy, mơ hình trường
học, đội ngũ giáo viên… đã đưa giáo dục phổ thông đi đúng hướng, rèn



luyện tư duy, kỹ năng cho học sinh và phát triển được phẩm chất, năng
lực của học sinh. Bên cạnh đó, một trong những mục tiêu của giáo dục
phổ thơng là định hướng nghề nghiệp.Trong quá trình thực hiện đổi mới,
quan điểm về lựa chọn nghề đã bước đầu thay đổi. Như Nghệ An được
gọi là “đất học”, quan niệm của người dân bao lâu nay luôn coi việc học
rất nặng nề, gắn với khoa cử. Nếu như trước đây, 90% học sinh Nghệ An
tốt nghiệp phổ thông sẽ vào đại học, cao đẳng nhưng đến nay, tỷ lệ này là
60% - 40% (60% vào đại học và 40% đi học nghề). Các em lựa chọn
được nghề nghiệp phù hợp với năng lực, có việc làm và thu nhập ổn
định.
Tuy nhiên, giáo dục phổ thơng hiện vẫn cịn tồn tại một số hạn
chế. Kết quả nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học Đại học Quốc gia
Hà Nội cho thấy, một bộ phận cán bộ quản lý chưa năng động và sáng
tạo; phải làm nhiều nhiệm vụ hành chính, sự vụ ngồi chun mơn. Khả
năng thích ứng và sức ì của một bộ phận giáo viên cản trở việc đổi mới
phương pháp dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin cũng như tổ chức
hoạt động trải nghiệm cho học sinh.Chương trình mới đã ban hành
nhưng chậm so với yêu cầu, trong khi chương trình hiện hành đang cịn
chú trọng về nội dung kiến thức. Bên cạnh đó là sự thiếu đồng bộ về
chính sách như chính sách về trường chuẩn nhưng chi phí cho cơ sở vật
chất chưa theo kịp; chính sách về chuẩn giáo viên nhưng vấn đề đào tạo
và bồi dưỡng chưa theo kịp.
Vai trò của người cán bộ quản lý trường trung học cơ sở trước
yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông
Cán bộ quản lý trường THCS có ảnh hưởng lớn nhất trong hệ
thống quản lý ngành, đến kết quả học tập của HS. Cụ thể, CBQL thích
văn nghệ thì HS dễ làm văn nghệ; CBQL thích thể thao thì HS thích thể
thao; phong cách làm việc của CBQL sẽ ảnh hưởng đến cả môi trường



hoạt động của nhà trường…; và đặc biệt, công cuộc đổi mới thường
khơng có mơ hình tiền lệ, điều kiện thường khơng hồn chỉnh từ đầu tư,
cơ sở vật chất đến nhân sự và cả hệ thống pháp lý, nên CBQL là con
chim đầu đàn, là thuyền trưởng, là nhà thiết kế và người tổ chức thực
hiện, xây dựng kế hoạch, bồi dưỡng lực lượng, giám sát và đánh giá,
khen thưởng động viên… CBQL cần có năng lực tiếp nhận và trình bày:
Khối lượng thơng tin đến với nhà trường ngày nay thường rất to lớn!
Vấn đề được đặt ra là chúng ta chọn lấy những thông tin nào cho công
việc điều hành nhiệm vụ được giao một cách tốt nhất. Và, khi trình bày
triển khai cơng việc với cộng sự, người CBQL phải có lộ trình phù hợp
thể hiện sự am hiểu công việc, cảm thông thực tế để tạo niềm tin, lịng
quyết tâm cho cộng sự. CBQLcần có năng lực thiết kế chương trình, xây
dựng kế hoạch: CBQL là người định hướng phát triển nhà trường và đề
ra kế hoạch thực hiện nhiệm vụ. Với mục tiêu sát hợp khả thi, phân công
khoa học, hợp lý đồng thời xác định các điều kiện thực hiện thích hợp.
Ngồi ra, CBQL cịn có nhiệm vụ tổ chức, điều hành và phối hợp các lực
lượng thực hiện nhiệm vụ.Phải biết phát động và thúc đẩy hài hòa giữa
điểm và diện, giữa khâu then chốt và khơng then chốt, giữa người tích
cực và chưa tích cực.
Yêu cầu phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường trung học cơ
sở đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông
Đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được thơng qua tại
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định: “Phát triển
giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và
hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội
ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt” [18, tr.45]. Để triển khai



×