Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

skkn một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của học sinh THPT về tình trạng ô nhiễm trắng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.22 MB, 62 trang )

GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGHỆ AN
TRƯỜNG THPT QUỲNH LƯU 2

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI

MỘT SÔ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NHẬN THỨC CỦA
HỌC SINH THPT VỀ TÌNH TRẠNG Ơ NHIỄM TRẮNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LĨNH VỰC: KỸ NĂNG SỐNG
Người thực hiện: Nguyễn Thị Hương
Tổ: Văn – Anh
Điện thoại: 0987.589.557
Địa chỉ email:

Nghệ An, 3/2021

1


BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT

GV
HS
Nxb
THPT
GDBVMT
BVMT
ĐVTN
SKKN


THPT

Giáo viên
Học sinh
Nhà xuất bản
Trung học phổ thơng
Giáo dục bảo vệ mơi trường
Bảo vệ mơi trường
Đồn viên thanh niên
Sáng kiến kinh nghiệm
Trung học phổ thông

2


ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Hiện nay, mơi trường đang là vấn đề được tồn nhân loại quan tâm. Thời
gian gần đây, con người đã quan tâm nhiều hơn tới "ngơi nhà chung" của chính mình.
Mơi trường đang bị xuống cấp, nhiều nơi đã bị hủy hoại nghiêm trọng gây nguy cơ mất
cân bằng sinh thái và tạo ra sự phát triển không bền vững trong cuộc sống của con
người. Với sự phát triển kinh tế, con người dần hình thành lối sống tiêu thụ, lãng phí,
kèm theo đó là thói quen xả rác vào mơi trường một cách bừa bãi. Con người đang phải
đối mặt với rất nhiều loại chất thải như: Chất thải rắn khó phân hủy, chất thải nguy hại,
chất thải công nghiệp chưa được xử lý...
1.2. Sự tiến bộ về kỹ thuật và công nghệ đã tạo ra nhiều vật liệu mới như polyme
nhân tạo rất hữu ích cho con người. Nhưng kéo theo đó là hàng loạt các loại chất thải
mới khó phân hủy gây ảnh hưởng xấu tới môi trường. Túi nilon, đồ dùng tư nhựa là
một trong những loại chất thải trên. Cùng với các loại rác thải khác, túi nilon ngày càng
được con người sử dụng nhiều và thải bỏ ra môi trường gây mất cảnh quan, ảnh hưởng

tới sức khỏe và làm ô nhiễm môi trường sống ngày càng nghiêm trọng. Và tình trạng
ngày càng đáng báo động và được các nhà khoa học định bằng bằng một thuật ngữ mới
– ơ nhiễm trắng.
1.3. Thói quen lạm dụng túi nilon và các đồ dùng từ nhựa không chỉ thể hiện ở
người dân mà cả trong lực lượng học sinh hiện nay, nhất là học sinh trung học phổ
thông. Điều này thực sự đáng lo ngại. Bởi học sinh là chủ nhân thực sự của tương lai.
Nếu các em khơng có ý thức giữ gìn mơi trường, khơng hướng tới lối sống xanh bền
vững thì chính các em vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm của sự tàn phá môi trường
sống sau này.
1.4. Giáo dục môi tường giáo dục mơi trường “là q trình tạo dựng cho con
người những nhận thức về mối quan tâm đến môi trường và các vấn đề về môi trường.
Giáo dục môi trường gắn liền với việc học kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái
độ và lịng nhiệt tình để hoạt động một cách độc lập hoặc phối hợp nhằm tìm ra giải
pháp cho những vấn đề hiện tại và ngăn chặn những vấn đề mới có thể xảy ra cho tương
lai”. Giáo dục mơi trường sẽ giúp con người có nhận thức đúng đắn về môi trường, về
việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và có ý thức thực hiện nhiệm vụ
bảo vệ môi trường. Giáo dục mơi trường có thể thực hiện bằng nhiều hình thức và cho
nhiều đối tượng. Trong đó việc giảng dạy về môi trường ở các trường học, nhất là
trường phổ thơng chiếm vị trí đặc biệt quan trọng.
1.5. Một trong những mục tiêu và định hướng giáo dục hiện nay là hình thành,
phát triển các phẩm chất và năng lực cho học sinh. Mục tiêu đó được thể hiện trong nội
dung chương trình, trong phương pháp kiểm tra đánh giá, trong việc sử dụng các hình
thức, kĩ thuật dạy học tích cực, trong đó có việc hướng học sinh vận dụng những điều
3


đã biết, đã học vào trong thực tế cuộc sống đồng thời phải ln ln có sự trải nghiệm
từ thực tiễn. Chính q trình trải nghiệm sẽ giúp học sinh có thêm hứng thú học tập, có
sự soi chiếu giữa lý thuyết và thực tiễn. Vì lẽ đó, trải nghiệm cùng các vấn đề nóng hổi
của đời sống là một trong những nội dung cần quan tâm.

Để hiểu rõ hơn về ý thức sử dụng túi nilon, đồ nhựa của học sinh, đồng thời tiến
hành một số tác động nhằm thay đổi những thói quen chưa tốt, chúng tơi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của học sinh THPT
về tình trạng ơ nhiễm trắng trong giai đoạn hiện nay”. Thực hiện đề tài này chúng tôi
nhằm đánh giá thực trạng nhận thức của học sinh và gia đình về việc sử dụng đồ nhựa
và túi nilon, phân tích, đánh giá nguyên nhân, hậu quả, từ đó đưa ra những biện pháp
giúp học sinh thay đổi thói quen để sử dụng túi nilon và đồ nhựa hợp lý, giảm những
ảnh hưởng tới môi trường và sức khỏe con người.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Đã có một số đề tài nghiên cứu, một số bài báo nói về các phương pháp, biện
pháp để giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh các cấp. Mỗi đề tài mới chỉ dừng ở
việc chú ý đến một số vấn đề mang tính lý thuyết chung hoặc giáo dục các vấn đề về
môi trường thông qua các mơn học, qua chương trình lồng ghép. Tuy nhiên, chưa có
đề tài nhằm nâng cao nhận thức cho học sinh về tác động của tình trạng ơ nhiễm trắng
trong tình hình hiện nay.
Ngồi ra cịn có các văn bản chỉ đạo như Nghị quyết 29 của BCH TW Đảng
cộng sản Việt Nam về công tác giáo dục, các văn bản chỉ đạo Bộ giáo dục đào tạo và
Sở giáo dục đào tạo Nghệ An về việc tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, tổ chức
các chủ đề dạy học tích hợp liên mơn, dạy học theo chủ đề … nhằm góp phần nâng
cao chất lượng giảng dạy, nâng cao kĩ năng sống cho học sinh.
Tuy vậy, qua q trình khảo sát, chúng tơi nhận thấy rằng: những bộ tài liệu,
những văn bản hướng dẫn chỉ là những căn cứ, những cơng cụ có tính chất nền tảng
cịn việc việc thực hiện hiệu quả đến đâu là phụ thuộc vào nhân tố con người, vào
thực tế của từng cơ sở giáo dục, vào đặc điểm văn hóa, xã hội tại địa phương, vào
những điều kiện chủ quan và khách quan khác. Chính vì vậy, khi lựa chọn nghiên cứu
đề tài chúng tơi muốn có một cái nhìn mang tính hệ thống, tồn diện đồng thời mong
muốn góp một kinh nghiệm nhỏ trong việc giáo dục bảo vệ môi trường. Từ đó góp
phần nâng cao chất lượng chất lượng giáo dục tồn diện, từ đó tạo ra những cơng dân
hồn thiện trong tương lai, có đủ Đức – Trí – Thể - Mĩ, có đủ kĩ năng sống, có trách
nhiệm với môi trường sống.

3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tài liệu khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của học sinh
THPT về tình trạng ơ nhiễm trắng trong giai đoạn hiện nay
4


3.2. Phạm vi tài liệu khảo sát: Đó là hệ thống các tài liệu liên quan đến thực trạng ô
nhiễm trắng, giáo dục bảo vệ môi trường trong nhà trường phổ thông.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong sáng kiến kinh nghiệm này, chúng tôi thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài: thực trạng ô nhiễm trắng
trên thế giới và ở Việt Nam, vai trị của giáo dục mơi trường tại các trường phổ thông
cũng như những nguyên tắc khi triển khai giáo dục môi trường.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
- Đề xuất một số biện pháp, cách thức nhằm nâng cao nhận thức của học sinh
về tình trạng ơ nhiễm trắng và thay đổi thói quen sử dụng đồ dùng làm từ nhựa, túi
nilon của học sinh THPT. trong giai đoạn hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu này, chúng tôi đã phối hợp 2 nhớm phương
pháp nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực tiễn. Bao gồm: phương pháp phân tích
và tổng hợp lý thuyết, phương pháp phân loại và tổng hợp lý thuyết, phương pháp
quan sát và điều tra, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp thực nghiệm.
6. Đóng góp của SKKN
Về mặt lý luận: làm rõ hơn các nội dung liên quan đến nhiệm vụ giáo dục môi
trường trong trường phổ thông và thực trạng ô nhiễm trắng hiện nay.
Về mặt thực tiễn, đề tài đã đánh giá thực trạng, nguyên nhân, hâu quả, từ đó
đưa ra những biện pháp giúp học sinh thay đổi nhận thức, thói quen một cách hiệu
quả để sử dụng túi nilon và đồ nhựa hợp lý, giảm những ảnh hưỏng tới môi trường và
sức khỏe con người.
7. Cấu trúc SKKN

Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của sáng kiến được
triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng của việc giáo dục về tình trạng ơ nhiễm trắng cho học
sinh THPT hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao nhận thức của học sinh THPT về
tác động của ô nhiễm trắng.

5


NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Giáo dục bảo vệ môi trường trong nhà trường phổ thông
1.1.1.1. Cơ sở pháp lý
Giáo dục môi trường được xác định là một nội dung chủ đạo trong nội dung
chương trình giáo dục phổ thơng. Nó được thể hiện ở đường lối của Đảng, các chỉ
đạo của các cấp, của ngành giáo dục. Cơ sở định hướng cho việc xây dựng nội dung
giáo dục bảo vệ môi trường (GDBVMT) trong chương trình đào tạo là xuất phát từ
các văn bản về vấn đề bảo vệ môi trường ở trên thế giới và ở Việt Nam.
Năm 1972, trong tuyên bố của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về “Môi trường và con
người” họp tại Stockholm đã nêu: “Việc giáo dục môi trường cho thề hệ trẻ cũng như
người lớn làm sao để học có được đạo đức, trách nhiệm trong việc bảo vệ và cải thiện
mơi trường”. Ngay sau đó, chương trình môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEF) cùng
với các tổ chức văn hóa – khoa học – giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã thành
lập chương trình giáo dục môi trường quốc tế (IEEP). Tháng 10/1975 IEEP đã tổ chức
Hội thảo Quốc tế lần thứ nhất về Giáo dục mơi trường ở Beograde (Cộng Hịa Liên
Bang Nam Tư), kết thúc hội thảo đã đưa ra được một nghị định khung và tuyên bố về

những mục tiêu và những nguyên tắc hướng dẫn giáo dục mơi trường. Trong đó nêu rõ
mục tiêu giáo dục môi tiêu giáo dục môi trường là nhằm nâng cao nhận thức về vai trị
của mơi trường và hiểu biết về môi trường; giúp cho mỗi người xác định thái độ và lối
sống cá nhân tích cực đối với mơi trường; có những hành động cho một môi trường tốt
đẹp.
Trong Chỉ thị số 36 CT- TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về “Tăng cường
cơng tác bảo vệ mơi trường trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện đại háo đất nước” đã
đưa ra những giải pháp cơ bản để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường như: “Thường
xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và phong trào quần chúng
bảo vệ môi trường” và “Đưa các nội dung bảo vệ môi trường vào chương trình giáo
dục của tất cả các bậc học trong hệ thống giáo dục quốc dân”.
Tại Nghị quyết số 29 - NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về « Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo » xác định: Giáo
dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng
sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc
hiệu quả”.
Cùng với Luật giáo dục thì Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quyết định số
3288/QĐ_BGD&ĐT ngày 2/10/1998 phê duyệt và ban hành các văn bản về chính sách
6


và chiến lược giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông Việt Nam và một số văn
bản hướng dẫn kèm theo. Các văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức
triển khai các hoạt động giáo dục môi trường ở các trường phổ thông và trường sư phạm
trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Tại Quyết định số 1363/QĐ-TTg ngày 17/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ v/v
phê duyệt đề án “Đưa nội dung giáo dục bảo vệ môi trường vào hệ thống giáo dục quốc
dân”. Đặc biệt, Quốc Hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp
thứ 8, đã ban hành Luật bảo vệ môi trường ngày 29/11/2005 và Luật có hiệu lực ngày
1/7/2006.

Trong các văn bản chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ các năm học của Bộ Giáo dục đào
tạo, Sở Giáo dục đào tạo Nghệ An đều có nội dung cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo trên.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, GDBVMT là một nội dung định hướng cơ bản
trong nhiệm vụ giáo dục phổ thơng; là một trong những cơng việc có tính chất chủ đạo
trong chương trình nội dung, kế hoạch giảng dạy và giáo dục của các nhà trường.
1.1.1.2. Các nội dung trong giáo dục bảo vệ môi trường
* Định nghĩa giáo dục bảo vệ môi trường
Theo dự án VIE/95/041 năm 1996 định nghĩa: “GDBVMT là một quá trình
thường xuyên qua đó con người nhận thức được mơi trường của họ và thu được kiến
thức, giá trị, kỹ năng, kinh nghiệm cùng quyết tâm hành động giúp họ giải quyết các
vấn đề môi trường hiện tại và tương lai, để đáp ứng các yêu cầu của thế hệ hiện nay
mà không vi phạm khả năng đáp ứng các nhu cầu của thế hệ tương lai”.
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 định nghĩa: “Hoạt động bảo vệ môi trường là
hoạt động giữ cho mơi trường trong lành, sạch đẹp; phịng ngừa, hạn chế tác động xấu
đối với mơi trường, ứng phó sự cố mơi trường; khắc phục ơ nhiễm, suy thối, phục hồi
và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên;
bảo vệ đa dạng sinh học”.
Như vậy, giáo dục môi trường không chỉ là môn học chứa đựng các hệ thống
khái niệm khoa học mà giáo dục môi trường mang đặc trưng của một chương trình hành
động. Trong khn khổ của việc giáo dục môi trường thông qua các môn học, các hoạt
động giáo dục ở nhà trường thì có thể hiểu giáo dục mơi trường chính là q trình tạo
dựng cho con người những nhận thức về mối quan tâm đến môi trường và các vấn đề
về môi trường. Giáo dục môi trường gắn liền với việc học kiến thức, rèn luyện kỹ năng,
hình thành thái độ và lịng nhiệt tình để hoạt động một cách độc lập hoặc phối hợp nhằm
tìm ra giải pháp cho những vấn đề hiện tại và ngăn chặn những vấn đề mới có thể xảy
ra cho tương lai.
* Mục đích của giáo dục mơi trường
7



Giáo dục mơi trường sẽ giúp con người có nhận thức đúng đắn về môi trường,
về việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên và có ý thức thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ môi trường. Giáo dục mơi trường có thể thực hiện bằng nhiều hình thức và
cho nhiều đối tượng. Trong đó việc giảng dạy về môi trường ở các trường học, nhất là
trường phổ thông chiếm vị trí đặc biệt quan trọng.
Thơng qua giáo dục mơi trường giúp học sinh có được:
- Các kiến thức về: Hệ sinh thái, cân bằng sinh thái; môi trường và các thành tố
của nó; mơi trường và phát triển, bảo vệ và bảo tồn, tăng trưởng và suy thoái, chi phí
và lợi ích thu được; các chủ trương, chính sách về môi trường của quốc gia, luật Bảo
vệ môi trường…
- Hình thành các năng lực: năng lực giao tiếp và hợp tác, năng lực tư duy, năng
lực nghiên cứu, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực sử dụng phương tiện
kỹ thuật, công nghệ thông tin…
- Thái độ và hành vi:
+ Biết đánh giá, quan tâm và lo lắng đến môi trường sống.
+ Biết khoan dung và cởi mở.
+ Tôn trọng, niềm tin và quan điểm của người khác.
+ Biết tôn trọng những luận điểm đúng đắn.
+ Có ý thức phê phán và thay đổi những thái độ khơng đúng về mơi trường.
+ Có mong muốn tham gia vào việc giải quyết môi trường, các hoạt động cải
thiện môi trường.
* Nhiệm vụ và định hướng trong giáo dục bảo vệ môi trường:
Theo tuyên ngôn của Tổ chức UNESCO-UNEP năm 1998: “Giáo dục bảo vệ
môi trường (GDBVMT) khơng phải là ghép thêm vào chương trình giáo dục như là một
bộ phận riêng biệt hay một chủ đề nghiên cứu, mà nó là một đường hướng hội nhập
vào chương trình đó. Giáo dục bảo vệ mơi trường là kết quả của một sự định hướng lại
và sắp xếp lại những bộ môn khác nhau và những kinh nghiệm giáo dục khác nhau
(khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, văn học nghệ thuật, …), nó cung cấp một nhận
thức tồn diện về mơi trường”
GDBVMT là một phương pháp tiếp cận xuyên bộ môn giúp cho mọi người hiểu

về mơi trường với mục đích hàng đầu là chăm sóc phát triển và có thái độ cam kết, thái
độ này sẽ nuôi dưỡng niềm mong ước và năng lực hành động có trách nhiệm trong mơi
trường. GDBVMT với khơng chỉ kiến thức mà cịn cả tình cảm, thái độ, kỹ năng và
hành động xã hội. Như vậy, việc GDBVMT cần phải được tiến hành giáo dục sâu rộng
8


ngay ở mọi độ tuổi, từ những người làm việc sinh hoạt thường ngày trong cộng đồng
tới những người làm công tác chỉ đạo, quản lý, nhà chiến lược kinh tế xã hội.
Giáo dục về môi trường nhằm: Cung cấp những hiểu biết về hệ thống tự nhiên
và hoạt động của nó; những hiểu biết về tác động của con người tới mơi trường; trên cơ
sở đó xây dựng việc nghiên cứu môi trường và những kỹ năng tư duy để quản lý môi
trường.
Giáo dục bảo môi trường nhằm: xây dựng một nền giáo dục trong mơi trường và
vì mơi trường; phát triển trách nhiệm và xây dựng một nền đạo đức vì mơi trường; xây
dựng động cơ và kỹ năng tham gia trong việc cải thiện môi trường.
* Mô hình dạy và học giáo dục mơi trường
Việc dạy và học trong giáo dục môi trường diễn ra theo mô hình dưới đây với ba
khía cạnh ln tồn tại song song:
Giáo dục về môi trường: Xem môi trường là một đối tượng khoa học, người dạy
truyền đạt cho người học các kiến thức khoa học về môi trường, cũng như phương pháp
nghiên cứu về đối tượng đó. Đó là những kiến thức về hệ thống tự nhiên và hoạt động của
nó; những kiến thức về tác động của con người đến môi trường.
Giáo dục trong môi trường: Xem môi trường thiên nhiên hoặc nhân tạo như một
địa bàn, một phương tiện để giảng dạy, học tập, nghiên cứu. Với cách tiếp cận này mơi
trường sẽ trở thành “phịng thí nghiệm thực tế, đa dạng, sinh động cho người dạy và
người học”.
Giáo dục vì mơi trường: Truyền đạt kiến thức về bản chất, đặc trưng của mơi
trường; hình thành thái độ ứng xử, ý thức trách nhiệm, quan niệm giá trị nhân cách, đạo
đức đúng đắn về môi trường, cung cấp tri thức kỹ năng, phương pháp cần thiết cho

những quyết định; hành động BVMT và phát triển bền vững.

9


* Một số nguyên tắc thực hiện giáo dục môi trường
Giáo dục môi trường ở Việt Nam được thực hiện trên các nguyên tắc sau:
- Coi giáo dục môi trường là bộ phận hữu cơ của sự nghiệp giáo dục và là sự
nghiệp của tồn dân.
- Giáo dục mơi trường được thực hiện vì mơi trường, về mơi trường và trong môi
trường.
- Giáo dục môi trường là một thành phần bắt buộc trong chương trình giáo dục
và đào tạo, và phải được thực hiện trong kế hoạch dạy học và giáo dục hiện hành.
Những vấn đề về môi trường được dạy thông qua nhiều môn học.
- Đưa giáo dục môi trường vào hoạt động nhà trường một cách thích hợp với môi
trường của trường học. Những vấn đề trọng tâm của giáo dục môi trường phải trực tiếp
liên quan đến môi trường của địa phương.
- Làm cho giáo viên và học sinh thấy giá trị của môi trường đối với chất lượng
cuộc sống, sức khỏe và hạnh phúc con người.
- Triển khai giáo dục môi trường thông qua các hoạt động mà học sinh là người
thực hiện, trải nghiệm từ thực tiễn. Giáo viên là người tổ chức hoạt động bảo vệ mơi
trường dựa trên chương trình quy định và tìm cách vận dụng phụ hợp với địa phương.
* Các hình thức triển khai giáo dục mơi trường
- Hình thức 1: thơng qua chương trình của mơn học trong nhà trường. Giáo dục
môi trường dưới hai dạng chủ yếu:
Dạng 1: Nội dung chủ yếu của bài học hay một số phần của mơn học có sự
trùng hợp với nội dung giáo dục môi trường.
Dạng 2: Một số nội dung của bài học hay một số phần nhất định của môn
học có liên quan trực tiếp với nội dung Giáo dục mơi trường.
- Hình thức 2: giáo dục mơi trường được triển khai như một hoạt động độc lập

ở ngoài lớp như:
+ Nghe báo cáo các chuyên đề về môi trường.
+ Tổ chức các buổi xemina, tranh luận, hùng biện.
+ Thực hiện đề tài nghiên cứu về môi trường
+ Khảo sát thực địa tìm hiểu vấn đề bảo vệ mơi trường ở địa phương
+ Tham gia tuyên truyền, vận động bảo vệ mơi trường. Tham gia chương trình
“Xanh hóa trường học”
+ Xây dựng dự án về môi trường và thực hiện.
10


+ Tổ chức các Câu lạc bộ môi trường.
+ Thi sáng tác (tranh, tượng, ảnh, thơ, nhạc…) Triển lãm.
+ Biểu diễn văn nghệ, sân khấu, kịch…
+ Hoạt động dã ngoại, tham quan, cắm trại, trò chơi…
+ Hoạt động phối hợp gia đình, nhà trường và xã hội.
1.1.2. Một số khái niệm liên quan đến vấn đề ô nhiễm trắng
1.1.2.1. Khái niệm Ô nhiễm trắng
Ô nhiễm trắng là cụm từ mà các nhà khoa học dùng để gọi về một loại ô
nhiễm do túi nilon, chất nhựa gây ra cho môi trường. Ô nhiễm trắng xảy ra khi con
người xử lý túi nilon, chất thải nhựa đã qua sử dụng không đúng cách, với hàng loạt hệ
lụy khôn lường…
1.2.2.2. Túi nilon
Túi nilon (túi polyme) xuất hiện cách đây khoảng 150 năm, do nhà hóa học Anh
Alexander Parkes phát minh. Túi nilon là một trong những sản phẩm được sản xuất từ
hợp chất polyme hay những hợp chất cao phân tử, là những hợp chất có khối lượng
phân tử lớn tạo những đặc tính riêng của loại hợp chất. Các polyme nhân tạo được
chưng cất từ dầu mỏ.
Túi nilon được làm từ sợi nhựa tổng hợp, bền, dẻo với nhiều kích cỡ khác nhau,
có thể tái chế được. Có rất nhiều hóa chất được sử dụng trong quá trình sản xuất ra túi

nilon. Dư lượng của các chất tạo ra chất dẻo như các monome, oligome (những mảnh
nhỏ của chất dẻo có ít monome) và chất xúc tác của phảnứng polyme hóa, những chất
này phần lớn là các kim loại.
Ngày nay, nó được dùng rất nhiều để đóng gói thực phẩm, bột giặt, bảo quản
nước đá, đựng các loại đồ ăn, thức uống, các loại chế phẩm hóa học hay đựng các loại
phế liệu, rác thải, ... Túi nilon đã trở nên quen thuộc ương đời sống, nhưng trên thực tế,
ít có người biết đến quá trình tạo ra túi nilon.
1.1.2.3. Nhựa
Nhựa, hay còn gọi là chất dẻo (tiếng anh gọi là plastic) hoặc polymer, là các hợp
chất cao phân tử, được dùng làm vật liệu để sản xuất nhiều loại vật dụng trong đời sống
hằng ngày cho đến những sản phẩm cơng nghiệp. Chất dẻo thường là các chất tổng hợp
có nguồn gốc từ các sản phẩm hóa dầu. Chất dẻo đầu tiên được làm ra vào năm 1838
là vinyl clorua.
Ngày nay, nhựa đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống hằng
ngày. Tuy nhiên, sự phổ biến của nhựa và túi nilon đã gây ra những tác động nghiêm
trọng tới cuộc sống của con người và môi trường.
11


1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng ô nhiễm trắng hiện nay
* Trên thế giới
Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc, mỗi năm trên toàn thế giới sử dụng khoảng
500 tỷ chai nhựa, hơn 500 tỷ túi ni-lông, lượng rác thải nhựa thải ra đủ để bao quanh
trái đất 4 lần. Mỗi phút có 1.000 túi nhựa được tiêu thụ nhưng chỉ 27% trong số này
được xử lý và tái chế. Rác thải nhựa nằm rất nhiều dưới đáy đại dương và sẽ trở thành
một phần thức ăn đầu độc các sinh vật biển.
Ước tính mỗi năm, tồn thế giới sử dụng 500 tỷ đến nghìn tỷ tỷ túi nilon nhưng
chỉ có từ 0,6 - 1% túi này được tái sử dụng. Mỗi năm có khoảng 100.000 rùa biển, cá
heo và các loại sinh vật khác bị chết do tưởng nhầm túi nilon là đồ ăn. Việc lạm dụng

sử dụng túi ni-lơng khó phân hủy, các sản phẩm nhựa, nhất là đồ nhựa dùng một lần đã
và đang để lại những hậu quả khôn lường với môi trường.
* Tại Việt Nam
Theo thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, lượng chất thải nhựa và túi
nilon cả nước chiếm khoảng 8-12% trong chất thải rắn sinh hoạt. Nếu trung bình khoảng
10% lượng chất thải nhựa và túi nilon không được tái sử dụng mà thải bỏ hồn tồn thì
lượng chất thải nhựa và túi nilon thải bỏ xấp xỉ khoảng 2,5 triệu tấn/năm. Đây là gánh
nặng cho môi trường.
Và theo ông bố của chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc thì với 112 cửa
biển, mỗi năm Việt Nam xả ra đại dương 0,28 đến 0,73 triệu tấn rác thải nhựa (chiếm
6% toàn thế giới). Đây thực sự là một con số đáng báo động, cho thấy trách nhiệm của
Việt Nam với đại dương, với mơi trường sống cịn rất hạn chế.
Ở Việt Nam, Luật Bảo vệ mơi trường đã có những quy đinh về quản lý một số
chất thải nói chung như quy định về quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại nhưng,
việc quản lý rác nilon nói riêng thì chưa thấy đề cập đến.
Hiệc nay sử dụng túi nilon khó phân hủy đã đến mức báo động ở Việt Nam, đặc
biệt là tại các đô thị lớn. Tình trạng sử dụng túi nilon một cách dễ dãi, khơng kiểm sốt,
khơng chỉ gây lãng phí mà cịn tạo áp lực lớn cho công tác thu gom, xử lý rác thải và
ảnh hưởng nặng nề, lâu dài tới môi trường đô thị. Mặc dù gây hại cho cả môi trường và
sức khỏe con người nhưng ý thức, thói quen dùng túi nilon, đặc biệt là túi nilon dùng 1
lần của người tiêu dùng chưa có sự cải thiện. Một phần là do giá thành rất rẻ, trong khi
đó túi nilon thân thiện với mơi trường thì đắt hơn và bất tiện cho sử dụng của người
tiêu dùng. Chính vì vậy cần có những giải pháp để hạn chế và thay đổi thói quen dùng
túi nilon 1 lần của người tiêu dùng

12


1.2.2. Ảnh hưởng của ô nhiễm trắng tới môi trường và sức khỏe con người
Nhựa và túi nilon có tác động tiêu cực tới môi trường sống và sức khỏe của con

người. Nhiều sản phẩm sau khi thải bỏ phân rã thành các mảnh nhựa rất nhỏ, cùng với
vi hạt nhựa (microplatic) lẫn vào thức ăn, nước uống, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
con người, các hệ sinh thái, đặc biệt là hệ sinh thái biển. Rác thải nhựa và nilon khi đốt
sẽ tạo ra khí thải có chứa Đioxin và Furan, là những chất độc hại, tồn tại lâu dài trong
môi trường.

Túi nilon là một trong những loại chất thải rất khó tự phân hủy trong mơi trường.
Chúng có thể tồn tại trong đất hàng trăm năm. Do vậy, năm này qua năm khác, nếu
khơng có giải pháp hữu hiệu sẽ tồn đọng một khối lượng khổng lồ các chất thải nilon
trong môi trường gây ô nhiễm rất lớn cho môi trường sinh thái. Nếu vấn đề túi nilon
khơng được giải quyết tốt, đến một lúc nào đó, khắp nơi, kể cả đáy đại dương sẽ xuất
hiện những bãi rác chứa túi nilon, là hangổ của các loại bệnh tật thì hiểm họa về ơ nhiễm
mơi trường sẽ rất nguy hiểm. Mỗi dặm vuông (tương đương 2,6 km2) trên đại dương
có khoảng 36.000 mảnh vụn túi nilon. Theo tổ chức Hịa Bình Xanh (Green Peace),
trên Thái Bình Dương có một vùng tương đương diện tích bang Texas (gần 700 km2)
được gọi là "xoáy rác", nơi mà mỗi đợt sóng cuốn theo 1 kg phù du thì lại cuốn theo
đến 6 kg túi nilon.
Quá trình sản xuất nhựa tái chế khơng đảm bảo độ sạch, độ an tồn khiến những
chất độc hại, vi khuẩn ở trong túi nilon, đồ nhựa cũ vẫn tồn tại cùng với sản phẩm mới
tái chế. Chất độc như chì, cadimi, phẩm nhuộm có ở túi tái chế có thể hịa tan và nhiễm
vào thực phẩm đựng trong túi. Những chất độc này chứa trong các sản phẩm nhựa tái
chế đã được cảnh báo về độ nguy hiểm, có thể ảnh hưởng tới cơ quan sinh dục nam gây
vơ sinh, bé gái thì dậy thì quá sớm...
13


Túi nilon làm bằng nhựa polyvinyl clorua, khi cháy ở nhiệt độ thường tạo ra chất
dioxin và axit clohydric vô cùng độc hại, có thể gây ngộ độc, ảnh hưỏng đến tuyến nội
tiết, rối loạn chức năng, gây bệnh tật bẩm sinh cho trẻ, nôn ra máu, giảm khả năng miễn
dịch và là một trong những nguyên nhân gây ung thư cho con người. Ngoài ra, việc sử

dụng túi nilon để đựng rác thải sinh hoạt làm cho các chất thải này khó phân hủy trong
tự nhiên và trở thành các ổ dịch bệnh gây hại cho con người. Trong điều kiện nóng ẩm
chúng sẽ là mơi trường tốt cho các loại vi sinh vật, côn trùng mang bệnh phát triển.
Như vậy có thể thấy, hiện nay con người đang quá phụ thuộc vào vật dụng nhựa
dùng một lần và túi nilon, từ đó gây ra những hậu quả nghiêm trọng đến môi trường và
sức khỏe. Đây đang là một hồi chng đáng báo động, cần phải có những sự thay đổi
trong nhận thức và hành động.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương này chúng tơi đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài bao
gồm các vấn đề:
- Cơ sở lý luận về vấn đề giáo dục bảo vệ môi trường
- Cơ sở lý luận về vấn đề ô nhiễm trắng
- Cơ sở thực tiễn của thực trạng ô nhiễm trắng hiện nay trên thế giới và Việt Nam
cũng như những tác động mạnh mẽ của nó tới môi trường và sức khỏe của con người.

14


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC VỀ TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM TRẮNG
CHO HỌC SINH THPT HIỆN NAY
Ở trong chương 2 này chúng tơi sẽ đi tìm hiểu thực trạng nhận thức của học
sinh về tình trạng ơ nhiễm trắng, thực trạng của công tác giáo dục bảo vệ môi trường
nói chung và vấn đề ơ nhiễm trắng nói riêng tại đơn vị công tác và các đơn vị trường
bạn, tìm hiểu quan điểm, góc nhìn của phụ huynh về vấn đề này. Để trên cơ sở đó có
những giải pháp phù hợp để công giáo dục bảo vệ môi trường đạt hiệu quả cao.
2.1. Thực trạng của việc nhận thức về tình trạng ơ nhiễm trắng của học sinh THPT
2.1.1. Mục đích khảo sát
Mục đích: Sử dụng phương pháp này nhằm thu thập những thông tin về thực trạng nhận
thức của học sinh về tình trạng ơ nhiễm trắng, việc tác động trực tiếp vào tình trạng đó

của học sinh và gia đình cũng như nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
2.1.2. Cách tiến hành
2.1.2.1. Điều tra xã hội học qua phiếu khảo sát
Đây là phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong đề tài nhằm giải
quyết nhiệm vụ nghiên cứu thực tiễn.
- Đối tượng điều tra: 922 học sinh
- Cách tiến hành:
* Bước 1: Xây dựng mẫu phiếu điều tra
Dựa trên lý thuyết về xây dựng mẫu phiếu điều tra và cơ sở lý luận của đề tài,
chúng tôi xây dựng bảng hỏi theo nguyên tắc sau: câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu; kiểu loại:
gồm hai loại câu hỏi đóng và mở; nội dung câu hỏi bao quát được nội dung theo cấu
trúc nghiên cứu, chúng tôi thiết kế câu hỏi nhằm điều tra được các vấn đề: Thực trạng
nhận thức về tình trạng ơ nhiễm trắng hiện nay; thực trạng của việc học sinh và người
thân đang tác động một cách trực tiếp vào tình trạng ô nhiễm trắng từ việc sử dụng các
sản phẩm làm từ nhựa và túi nilon; nguyên nhân của việc làm gia tăng tình trạng ơ
nhiễm trắng hiện nay; sự quan tâm của học sinh và người lớn về tình hình giảm thiểu
của tình trạng ơ nhiễm trắng.
( Mẫu phiếu điều tra được chúng tôi thể hiện trong phụ lục 1)
* Bước 2: Phát phiếu điều tra
Đề tài này chúng tôi tiến hành nghiên cứu từ tháng 8 năm 2019. Vì thế chúng tơi
bắt đầu phát phiếu điều tra trong tháng 9 và tháng 10 năm 2019. Thu thập phiếu điều
15


tra: Tổng số phiếu phát ra: 922 phiếu ( Ở các trường THPT Quỳnh Lưu 2, trường THPT
Lý Tự Trọng, trường THPT Quỳnh Lưu 3, trường THPT Hoàng Mai, trường THPT
Hồng Mai 2). Khi chúng tơi thu về thì có 922 phiếu đạt yêu cầu.
2.1.2.2. Phỏng vấn sâu
- Mục đích: Phương pháp này được sử dụng nhằm thu thập những thông tin sâu
hơn, những thông tin mà bảng hỏi không thu thập hết được.

- Đối tượng phỏng vấn: Phỏng vấn giáo viên, phụ huynh, học sinh để tìm hiểu
những hiểu biết của họ trước vấn đề nghiên cứu cũng như những thay đổi về nhận thức,
hành vi của học sinh sau khi thực hiện các giải pháp tác động.
- Cách tiến hành: chúng tơi tiến hành phóng vấn chính thức và bán chính thức.
Phỏng vấn chính thức là hình thức đối thoại trực tiếp giữa người phỏng vấn và người
được phỏng vấn. Chúng tôi đã phỏng vấn một số thầy cơ và phụ huynh theo mục đích
của đề tài. Phỏng vấn bán chính thức là trị chuyện thân mật với các em học sinh. Cuộc
trị chuyện với khơng khí cởi mở, thân thiện, nội dung không theo một trật tự có sẵn mà
tùy thuộc vào diễn biến của câu chuyện.
Với Thầy cô: chúng tôi trao đổi trực tiếp với các giáo viên về mục đích của cuộc
phỏng vấn, sau đó tiến hành phỏng vấn.
Với phụ huynh: người nghiên cứu sẽ tìm hiểu trước những phụ huynh có con em
đang theo học tại các trường THPT trên địa bàn. Sau đó tìm cơ hội tiếp xúc, gặp gỡ,
trao đổi mục đích của cuộc phỏng vấn và tiến hành phỏng vấn.
Với học sinh: chúng tôi thực hiện phỏng vấn sau khi các em đã được trải nghiệm
các giải pháp để xem hiệu quả của các giải pháp đã thực hiện.
2.1.2.3. Quan sát trực tiếp
Quan sát trực tiếp được tiến hành trên thực địa nhằm thu thập bổ sung, chỉnh sửa
những thông tin sai lệch từ phỏng vấn chính thức, xóa các thơng tin nhiễu.
Trong những lần đi thực địa, chúng tôi đã tiến hành quan sát việc mua bán của
phụ huynh xem họ sử dụng và loại bỏ túi nilon như thế nào. Quan sát học sinh khi các
em vào căng tin, vào quán trà sữa hay đi chợ… để nắm được ý thức sử dụng túi nilon,
đồ nhựa của các bạn. Ngồi ra, chúng tơi cịn chụp các hình ảnh có liên quan để sử dụng
làm tư liệu nghiên cứu.
2.1.3. Kết quả khảo sát
Sau khi thu được kết quả nghiên cứu thực tiễn chúng tôi sử dụng phương pháp
xử lý số liệu bằng thống kê toán học để rút ra kết quả nghiên cứu một cách chính xác
và khách quan, giúp đưa ra những kết luận cuối cùng cho đề tài.
Sau khi xử lý số liệu, chúng tơi có các đánh giá như sau:
16



2.1.3.1. Thực trạng của việc nhận thức về tác động của túi nilon, chất thải
nhựa và việc tác động trực tiếp vào tình trạng ơ nhiễm trắng của học sinh và người
thân
Bảng số liệu 1: Về phiếu khảo sát
Trường Trường THPT Trường
Trường
Trường
Quỳnh Lưu 2
THPT
THPT Lý THPT
Quỳnh Lưu Tự Trọng
Hoàng Mai
3
Số
phiếu
khảo
sát

444

120

46

189

Trường
THPT

Hoàng Mai
2
123

Tổng: 922 phiếu
a. Hiểu về khái niệm Ô nhiễm trắng, thực trạng ô nhiễm trắng tại Việt Nam
Bảng số liệu 2: Khảo sát nhận thức về tình trạng ơ nhiễm trắng

Nội dung
khảo sát
Đã bao giờ
nghe cụm
từ ô nhiễm
trắng

Trường
Trường
THPT Quỳnh THPT
Lưu 2
Quỳnh
Lưu 3

Trường
THPT Lý
Tự Trọng

Trường
Trường
THPT Hoàng THPT
Mai

Hoàng
Mai 2

Đã từng
Đã từng
nghe:342/444 nghe:
83/120
Chưa từng

Đã từng
Đã từng
Đã từng
nghe:38/46 nghe:103/189 nghe:
98/123
Chưa từng Chưa từng

nghe:102/444 Chưa
từng
nghe:
37/120

nghe: 8/46

nghe: 86/189

Chưa từng
nghe:
25/123

3/444


0/46

0/189

0/123

Ơ nhiễm
trắng là
khái niệm
dùng để chỉ
tình trạng :
- Ô nhiễm
do khói bụi

7/120

17


và cháy
rừng

389/444

98/120

43/46

151/189


109/123

- Ơ nhiễm
khơng khí

18/444

12/120

2/46

28/189

12/123

- Sương
muối, băng
giá

34/444

3/120

1/46

10/189

2/123


- Ơ nhiễm
do chất thải
nhựa và túi
nilon:

Theo số liệu ở bảng trên, có một bộ phận các bạn đã biết đến vấn nạn ô nhiễm
môi trường nhưng chưa từng nghe đến khái niệm ô nhiễm trắng, có đến 258/922 bạn
học sinh được khảo sát cho rằng chưa từng nghe đến khái niệm này (27,9%). Đó là một
con số khơng nhỏ, cho thấy sự quan tâm của các bạn trẻ đến mối trường sống, đến các
vấn đề của thời đại chưa thực sự sâu sắc.
Từ bảng kết quả trên có thể thấy đại đa số các bạn học sinh đều cho rằng ô nhiễm
trắng là khái niệm được dùng để chỉ tình trạng ơ nhiễm do chất thải nhựa và túi nilon:
790/922 phiếu, chiếm tỉ lệ 85,7%. Chỉ có 132/922 (chiếm 14,3%) học sinh cho rằng nó
được dùng để chỉ tình trạng ơ nhiễm khơng khí, ơ nhiễm khói bụi do cháy rừng hoặc
dùng để chỉ hiện tượng sương muối và băng giá.
Tuy nhiên, đại đa số học sinh lại không biết rõ về mức độ ô nhiễm trắng tại Việt
Nam. Khi được hỏi Việt Nam nằm trong top mấy của thế giới về lượng rác thải nhựa
thải ra biển năm 2015 thì có tới 243/922 (26,3%) học sinh trả lời là khơng biết; trong
đó chỉ có 333/922 (36,1%) học sinh trả lời đúng – nằm trong top 5 của thế giới. Như
vậy, hiểu biết của các em học sinh về tình trạng ơ nhiễm trắng còn chưa thực sự đầy
đủ.
b. Hiểu về tác hại của nhựa và túi nilon với sức khỏe và môi trường
100% số học sinh được hỏi đều khẳng định nhựa có khả năng ảnh hưởng tới sứ
khỏe của người, và có thể gây ra nhiều bệnh như các bệnh về đường tiêu hóa, bệnh về
đường hơ hấp và các bệnh khác. Cũng theo số liệu khảo sát thì có tới 914/922 (99,1%)
học sinh cho rằng nhựa có ảnh hưởng đến môi trường.
c. Việc sử dụng túi nilon và rác thải nhựa
- Việc sử dụng các sản phẩm từ nhựa tại gia đình học sinh:
Bảng số liệu 3: Việc sử dụng sản phẩm làm từ ngay tại gia đình học sinh
18



Trường
THPT
Quỳnh
Lưu 2

Trường
THPT
Quỳnh
Lưu 3

Trường
THPT
Lý Tự
Trọng

Trường
THPT
Hồng
Mai

Trường
THPT
Hồng
Mai 2

- Nước ngọt đóng hai

157/444


45/120

17/46

46/189

33/123

- Nước khống đóng hai

194/444

39/120

12/46

41/189

39/123

40/120

13/46

62/189

29/123

15/444


32/120

4/46

40/189

22/123

182/444

40/120

21/46

63/189

12/123

- Lọ thủy tinh, bình thủy
tinh

118/444

15/120

9/46

57/189


17/123

- Lọ sứ, bình sứ

98/444

20/120

0/46

32/189

19/123

- Tất cả các loại trên

46/444

45/120

16/46

37/189

75/123

Nội dung khảo sát

Các lọ nhựa, chai nhựa có
ở gia đình bạn là do dùng:


- Các loại trà sữa, nước giải 78/444
khát
- Mỹ phẩm
Gia đình bạn đứng cá loại
gia vị, ngâm các loại
rượu, hoa quả bằng:
- Lọ nhựa, hai nhựa, hộp
nhựa

Thực tế sử dụng: hộp nhựa, chai nhựa: 318/922 (34,5%); Lọ thủy tinh: 216/922
(23,4%); Lọ sứ, bình sứ: 169/922 (18,3%); Sử dụng tất các các loại trên: 219/922
(23,8 %)
Từ bảng số liệu trên, chúng tơi nhận thấy: hiện tại các gia đình của học sinh sử
dụng khá nhiều đồ dùng bằng nhựa. Các sản phẩm nhựa có trong gia đình là do dùng
nước khống đóng chai, các loại nước giải khát và các loại mỹ phẩm.
Bên cạnh đó là việc sử dụng các loại chai, lọ, hộp để đựng các loại gia vị hay
ngâm rượu, quả tại gia đình các học sinh. Trong thực tế sử dụng: hộp nhựa, chai
nhựa:328/922 (34,5%), lọ thủy tinh 216/922 (23,4%); lọ sứ, bình sứ:169/922 (23,4%);
sử dụng tất cả các loại trên: 219/922 (23,8 %). Như vậy, sử dụng các sản phẩm từ nhựa

19


vẫn chiếm ưu thế ngay tại các gia đình. Chính điều này đã tác động trực tiếp vào tình
trạng ơ nhiễm trắng ngày càng tầm trọng.
- Việc sử dụng túi nilon ngay tại gia đình học sinh:
Với câu hỏi khảo sát về số lượng túi nilon mà mỗi gia đình học sinh thải ra mỗi
ngày, kết qủa thu được là: 1-3 túi: 192/922 (20,8%), 3 – 5 túi: 216/922(23,4%), 5 - 7
túi: 398/922 (43,1%), 7 - 9 túi: 142/922 (15,4%).

Như vậy, số lượng túi nilon mà mỗi gia đình học sinh sử dụng mỗi ngày hiếm
nhiều nhất là lượng 5-7 túi/ngày – chiếm 43,1%. Đây là điều đáng lo ngại.
- Thực trạng sử dụng túi nilon sau khi đã sử dụng ngay tại gia đình học sinh:
Bảng số liệu 4: Sử dụng túi nilon sau khi đã sử dụng ngay tại gia đình học sinh
Nội dung khảo
sát
(cho phép chọn
nhiều đáp án)

Trường
THPT
Quỳnh
Lưu 2

Trường
Trường
THPT
THPT Lý
Quỳnh Lưu Tự Trọng
3

Trường
THPT
Hoàng Mai

Trường
THPT Hoàng
Mai 2

Cách xử lý túi

nilon đã qua
sử dụng:
- Nếu sạch thì
giữ lại để tái sử 182/444 34/120
dụng

1/46

106/189

53/123

- Vứt chung
vào sọt rác

108/444 40/120

42/46

83/189

57/123

- Vứt ra ao hồ,
sông, đường đi

56/444

55/120


26/46

5/189

31/123

- Gom rồi chôn
23/444
lấp

25/120

1/46

9/189

19/123

156/444 45/120

4/46

76/189

48/123

38/46

60/189


23/123

- Dùng để
đựng các loại
rác khác trong
gia đình

- Gom chung
với các loại rác 33/444

20/120

20


khác rồi mang
đi đốt
Kết quả hành động thải bỏ túi nilon đã sử dụng của gia đình học sinh (% số
người): Nếu sạch thì giữ lại để tái sử dụng: 40,8%; vứt chung vào sọt rác: 35,8%; vứt
ra ao hồ, sông, đường đi: 18,8%; gom rồi chôn lấp: 8,4%; dùng để đựng các loại rác
khác trong gia đình: 35,7%; gom chung với các loại rác khác rồi mang đi đốt:18,9%.
Đây là những hành động tác động tới môi trường và sức khỏe con người một cách mạnh
mẽ và trực tiếp nhất.
- Việc dùng các loại trà sữa, trà chanh, các loại nước giải khát đựng trong
ống nhựa của học sinh:
Bảng số liệu 5: Tỉ lệ học sinh dùng các loại trà sữa, trà chanh, các loại nước
giải khát… đựng trong ống nhựa
Trường
Nội dung khảo THPT
Quỳnh Lưu

sát
2
Bạn có dùng
trà sữa, trà
chanh, các
loại nước giải
khát đựng
tong ống
nhựa:
- Có dùng

Trường
THPT
Quỳnh Lưu
3

Trường
THPT
Lý Tự
Trọng

Trường
THPT
Hồng Mai

Trường
THPT Hồng
Mai 2

405/444


91/120

41/46

109/189

89/123

39/444

29/120

5/46

80/189

34/123

- Khơng dùng
Có dùng: 735/922 (79,8%); Khơng dùng: 187/922 (20,2%)
2.1.3.2. Ngun nhân dẫn đến việc tình trạng ơ nhiễm trắng ngày càng gia tăng
trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu và thị xã Hồng Mai
a. Do thói quen
Bảng số liệu 6: Tỉ lệ dùng làn, túi xách… khi đi chợ của học sinh và gia đình
Nội dung khảo TrườngTH Trường
sát
PT Quỳnh THPT
Lưu 2


Trường
Trường
Trường
THPT Lý THPT
THPT
Tự Trọng
Hoàng Mai
21


Quỳnh Lưu
3

Hồng Mai
2

Bạn và người
thân có sử
dụng làn
nhựa, túi
xách.. khi đi
chợ
- Thường
xuyên

92/444

20/120

3/46


38/189

24/123

- Không
thường xuyên

108/444

25/120

17/46

48/189

31/123

6/46

91/189

20/46

12/189

- Thỉnh thoảng
- Không bao
giờ


185/444
59/444

35/120
40/120

37/123
31/123

Thường xuyên: 177/922 (19,2%); Không thường xuyên: 229/922 (24,8%); Thỉnh
thoảng: 354/922 (38,3%); Không bao giờ: 162/922 (17,7%)
Từ kết quả trên, chúng ta thấy túi nilon ra đời đã tạo ra thói quen "đi tay không"
đi mua hàng cho người tiêu dùng. Khi chưa có túi nilon, 100% người đi mua hàng mang
các đồ như làn mây, túi vải, thúng rổ đi đựng hàng. Nhưng từ khi túi nilon xuất hiện,
cái gì cũng được người dân đựng vào trong túi nilon.
b. Do giá thành rẻ, do sự tiện lợi mà túi nilon và chất thải nhựa mang lại cho cuộc
sống của con người
Khi được hỏi “Bạn và người thân có thể ngừng sử dụng hồn tồn đồ nhựa, túi
nilon” khơng? Vì sao? Thì có đến 104/922 (11,3%) phiếu trả lời là “không”.
Những nguyên nhân chủ yếu mà các bạn học sinh đưa ra đó là: do sự tiện lợi, do
giá thành rẻ, do sự gọn nhẹ, do rất cần cho cuộc sống, do chưa có những quy định chặt
chẽ, do chưa có vật liệu thay thế phù hợp, …
c. Do chưa có những quy định chặt chẽ về phân loại rác thải và xử lí rác thải, do
chưa có những tun truyền tích, sâu rộng tại nhà trường và khu dân cư
Hiện nay, ở trên địa bàn huyện Quỳnh Lưu và thị xã Hoàng Mai chưa yêu cầu
phải phân loại rác thải. Ngay tại các trường học cũng chưa có những hướng dẫn cụ thể
về việc phân loại rác. Tất cả các loại rác đều gom chung vào thùng rác của trường. Đặc
biệt, cũng chưa có bất cứ quy định có tính chất bặt buộc nào về giảm rác thải nhựa.
22



Công tác tuyên truyền cũng chưa thực sự sâu rộng. Rất ít các hoạt động ở trường
hướng vào thực trạng này. Ở tại gia đình, phụ huynh cũng khơng có ý thức nhiều trong
việc giảm thiểu túi nilon hay các sản phẩm từ nhựa. Ngay khi chúng tôi đi khảo sát,
phỏng vấn phụ huynh, nhiều nphụ huynh mỉm cười cho qua hoặc cho rằng đó là điều
khơng quan trọng.
2.1.3.3. Hậu quả
Như đã trình bày ở mục (1.2.1) việc sử dụng quá nhiều túi nilon và chất thải nhựa
đã tạo ra một lượng rác thải lớn. Dọc các bãi biển của huyện Quỳnh Lưu và thị xã
Hoàng Mai như Quỳnh Phương, Quỳnh Lập, Quỳnh Bảng, Quỳnh Nghĩa… rác thải tràn
ngập. Các tổ chức thiện nguyện và các tổ chức xã hội phải tổ chức thu gom thường
xuyên.
Cũng do lượng rác thải khổng lồ nên có những thời điểm các bãi rác lớn nhất ở
xã Tân Sơn (huyện Quỳnh Lưu) bị ùn ứ, người dân gần bãi rác không cho tập kết khiến
khắp các ngõ, đường đâu đâu cũng thấy rác, túi nilon bay khắp đường. Có những thời
điểm, dân gom rác (trong đó có túi nilon và chất thải nhựa) để đốt, thì hành động đó
cịn ảnh hưởng sức khỏe nhiều hơn nữa.
Hiện có nhà máy xử lí rác ở xã Quỳnh Vinh (thị xã Hoàng Mai) nhưng khả năng
đáp ứng nhu cầu theo dự báo có thể khơng đảm bảo do lượng rác thải rất lớn. Với một
lượng rác thải như thế thì việc sức khỏe của người dân trên địa bàn và mơi trường bị
ảnh hưởng là điều có thể nhận thấy.
2.2. Thực trạng của việc giáo dục bảo vệ môi trường, giáo dục về vấn đề ô nhiễm
trắng tại các trường THPT hiện nay
Giáo dục môi trường là một trong các nội dung then chốt trong các Nghị quyết
của Đảng, được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị, xã hội; là một trong những nội
dung quan trọng trong chương trình giáo dục phổ thơng. Thế nên tại các Trung học phổ
thơng nói chung trên địa bàn Quỳnh Lưu – Hồng Mai nói chung, trường THPT Quỳnh
Lưu 2 nói riêng cũng đã chú trọng cơng tác này và được thể hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau.
Để thực hiện đề tài này, để có cái nhìn rõ hơn về vấn đề giáo dục bảo vệ mơi

trường nói chung và vấn đề ơ nhiễm trắng nói riêng chúng tơi đã tiến hành một cuộc
khảo sát bằng phiếu (125 giáo viên) và một số cuộc trao đổi mang tính chất phỏng
vấn sâu đối với các giáo viên trong trường và một số trường bạn về các vấn đề cụ thể:
- Tìm hiểu ý kiến, nhận xét của giáo viên quanh vấn đề giáo dục môi trường
cho học sinh THPT; tham khảo ý kiến giáo viên về những bài học có khả năng lồng
ghép nội dung GDMT vào bài giảng trên lớp.
- Tham khảo ý kiến giáo viên về phương pháp và hình thức thực hiện dạy học tiết
học có lồng ghép nội dung GDMT.
23


- Thu thập những kiến nghị của các giáo viên để việc thực hiện GDMT trong các
tiết dạy và hoạt động giáo dục được hiệu quả hơn.
(Mẫu phiếu khảo sát giáo viên được chúng tôi thể hiện trong phụ lục 2)
Sau các trao đổi, khảo sát chúng tôi thu được các số liệu như sau:
- Về vấn đề “Mức độ tiếp nhận lí luận dạy học về giáo dục bảo vệ mơi trường”, có
100% giáo viên được hỏi đã trả lời đúng là “đã từng nghe qua”, chứng tỏ đây là vấn đề
đang được quan tâm thực sự, được chú ý hàng đầu trong hoạt động của xã hội toàn cầu
hiện nay. Tất cả các giáo viên được hỏi đều trả lời chính xác cho thấy có thể đưa vấn
đề giáo dục môi trường vào nội dung giảng dạy và giáo dục, giáo viên có quan tâm, ắt
sẽ có động lực để cải tiến bài dạy của mình cho phù hợp với xu thế đào tạo của xã hội.
- Về vấn đề “Mức độ quan tâm của thầy/ cô về việc đưa giáo dục bảo vệ môi
trường vào giảng dạy trong trường THPT”, qua các khảo sát, có thể thấy đa số giáo
viên được hỏi trả lời là “rất quan tâm” 115/125 (92%) với việc đưa GDMT vào giảng
dạy ở trường THPT là cần thiết. Và các ý kiến trên cũng cho thấy giáo viên hoàn toàn
ủng hộ việc thực hiện lồng ghép giáo dục môi trường cho học sinh trên ghế nhà trường.
- Về vấn đề “Có khả năng vận dụng kiến thức giáo dục bảo vệ môi trường vào
giảng dạy” thì có tới 85/125 (68%) giáo viên cho rằng “có khả năng cao” vận dụng
kiến thức mơi trường trong q trình giảng dạy. Chỉ có một số ít giáo viên trả lời ở
mức độ bình thường 10/125 (8%).

- Về vấn đề “Đánh giá của thầy/ cô đối với hiểu biết của học sinh về thực trạng ô
nhiễm môi trường nói chung và ơ nhiễm trắng nói riêng” có 7 phiếu trả lời cho rằng
học sinh hiểu biết nhiều (chiếm 5,6%), trong khi đó, có 72 phiếu trả lời cho rằng học
sinh ít hiểu biết về vấn đề này (chiếm 57,6 %). Như vậy, có thể thấy, dù đã có nhiều
kênh thơng tin như: báo chí, truyền thanh, truyền hình, mạng Internet…. liên tục đưa
thơng tin về mơi trường, cách xử lý và tuyên truyền ý thức bảo vệ môi trường nhưng
theo nhận định của giáo viên, hiệu quả thấy được ở học sinh là thấp.
- Về vấn đề “Đánh giá như thế nào về phương pháp, cách thức tổ chức giáo dục
môi trường tại trường thầy/ cô đang cơng tác” thì có đến 92/125 (72%) giáo viên
được hỏi cho rằng phương pháp tổ chức giáo dục về môi trường đang ở mức độ
“nghèo nàn, hiệu quả thấp”. Những thông tin này là cơ sở để chúng tôi xây dựng các
giải pháp phù hợp.
Từ thực tế khảo sát, phỏng vấn và trao đổi trực tiếp, chúng tôi rút ra một số
nhận xét như sau:
Trước hết, việc giáo dục ý thức về môi trường cho học sinh đã được thể hiện
rõ trong nhận thức của cán bộ quản lý và đội ngũ cán bộ, giáo viên. Tập thể lãnh đạo
các nhà trường đều ý thức sâu sắc nội dung này nên quán triệt đầy đủ, sâu sắc tới toàn
thể hội đồng sư phạm nhà trường cũng như học sinh. Tinh thần đó được thể hiện rõ
24


trong công tác chỉ đạo chuyên môn, chỉ đạo hoạt động của các tổ chức đoàn thể cũng
như phối hợp cùng các cơ quan ban ngành trong quá trình triển khai nội dung này.
Về tổ chức thực hiện, hoạt động này được triển khai tương đối đồng bộ. Dựa trên
các văn bản hướng dẫn của cấp trên, Ban giám hiệu nhà trường đã xây dựng kế hoạch
và chỉ đạo thực hiện việc lồng ghép. Ở các bộ mơn văn hóa, nhà trường chỉ đạo cụ thể:
Tất cả các mơn ngồi việc cung cấp kiến thức cho học sinh thì thơng qua đó phải coi
trọng nhiệm vụ giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh thông qua các hoạt động lồng
ghép, tích hợp. Tuy nhiên trong phân phối chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp tại
một số trường THPT, trong đó có đơn vị tơi đang cơng tác, chưa có tiết học cho nội

dung bảo vệ mơi trường nói chúng và vấn đề ơ nhiễm trắng nói riêng. Trong khi đó
chúng ta đều hiểu rằng khơng thể giao phó nhiệm vụ ấy cho riêng một môn học nào mà
cần có sự kết hợp chặt chẽ với nhau, biện chứng với nhau hoặc tích hợp liên mơn hướng
tới một mục đích chung cuối cùng là giáo dưỡng, giáo dục và phát triển tồn diện nhân
cách cho học sinh.
Tuy nhiên nói như vậy khơng có nghĩa giáo dục mơi trường trong học đường
khơng tồn tại những khó khăn nhất định. Cụ thể, bên cạnh việc đảm bảo nội dung
chương trình khung bắt buộc đối với các mơn học chính thức thì hiện nay trong chương
trình giáo dục phổ thơng đã có nhiều nội dung cần lồng ghép, “tích hợp”. Do đó, khơng
cịn nhiều thời gian cho việc lồng ghép nội dung giáo dục mơi trường.
Từ những phân tích trên, chúng tơi ghi nhận một số tồn tại cụ thể về giáo dục
mơi trường:
Về phía giáo viên:
- Giáo viên chưa giới thiệu một cách đầy đủ về các vấn đề môi trường, nhất là
tình hình ơ nhiễm nói chung và ơ nhiễm trắng nói riêng. Một số giáo viên đơi khi cịn
khơng thực sự quan tâm về vấn đề này.
- Một số giáo viên còn thiếu sự phối hợp cùng các tổ chức đoàn thể, phụ huynh
trong việc giáo dục bảo vệ mơi trường cho học sinh
- Hình thức giới thiệu chưa thực sự ấn tượng, vì thế khơng thực sự kích thích
sự khám phá, tìm hiểu nơi học sinh
Về phía học sinh:
- Nhiều học sinh khơng xác định được việc tìm hiểu về môi trường cũng là một
nhiệm vụ học tập.
- Một bộ phận không nhỏ học sinh nhận thức hết sức nơng cạn và hời hợt đối
với vai trị của mơi trường sống.
- Kĩ năng để trình bày những hiểu biết của mình cịn rất hạn chế
- Tỉ lệ HS tích cực, chủ động, thích thú với các hoạt động trải nghiệm về mơi
trường cịn ít, do khơng được thơng tin, giới thiệu một cách đầy đủ, do phụ huynh
không ủng hộ việc tham gia.
25



×