Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đổi mới hoạt động rèn kĩ năng viết văn tự sự cho học sinh trung học cơ sở đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.96 KB, 7 trang )

126

Kỷ yếu hội thảo khoa học

ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN TỰ SỰ CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ ĐÁP ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC
PHỔ THƠNG MỚI
Ths. Trần Bích Hải
Khoa THCS - Trường CĐSP Nghệ An
Tóm tắt: Cùng với kĩ năng đọc, nói, nghe thì viết là một kĩ năng chính trong học
tập mơn Ngữ văn. Kĩ năng viết liên quan đến tạo lập văn bản- một trong những năng
lực rất quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ. Bài viết nhấn mạnh đến tầm quan
trọng của cảm xúc trong một bài văn tự sự và đưa ra các phương pháp giúp giáo viên
có thể rèn kĩ năng viết văn tự sự giàu tính biểu cảm cho học sinh trung học cơ sở
(THCS).
I. Đặt vấn đề
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là một trong những tư tưởng quan trọng của
chiến lược dạy học các môn Ngữ văn ở trường phổ thơng nói chung. Hoạt động giao
tiếp là một trong những căn cứ để hình thành và phát triển các hoạt động ngôn ngữ
mà cụ thể là năng lực nghe, nói, đọc, viết. Nếu nghe, đọc là những kĩ năng quan trọng
của hoạt động tiếp nhận thông tin thì nói, viết là những kĩ năng quan trọng của hoạt
động bộc lộ, truyền đạt thông tin cần được rèn luyện và phát triển trong nhà trường.
Cùng với kĩ năng đọc, nói, nghe thì viết là một kĩ năng chính trong học tập mơn
Ngữ văn. Kĩ năng viết liên quan đến tạo lập văn bản một trong những năng lực rất
quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ. Để viết tốt, học sinh phải được rèn luyện
thường xuyên bằng nhiều hình thức và thể thức văn bản (văn bản nhật dụng, văn bản
nghị luận, văn bản thuyết minh, văn bản nghệ thuật...) và những văn bản khác (viết
báo, viết đơn, làm báo cáo…).
Chương trình Ngữ văn trung học cơ sở mới [2] thông qua những kiến thức và kĩ
năng ngữ văn phổ thơng cơ bản, chương trình giúp học sinh tiếp tục học lên trung học
phổ thông, học nghề hoặc tham gia cuộc sống lao động. Kết thúc cấp trung học cơ sở,


học sinh biết đọc hiểu dựa trên kiến thức đầy đủ hơn, sâu hơn về văn học và tiếng Việt,
cùng với những trải nghiệm và khả năng suy luận của bản thân; biết viết các kiểu loại
văn bản (tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh, nhật dụng) đúng quy cách,
quy trình; biết trình bày dễ hiểu, mạch lạc các ý tưởng và cảm xúc; nói rõ ràng, đúng
trọng tâm, có thái độ tự tin khi nói trước nhiều người; biết nghe hiểu với thái độ phù
hợp và phản hồi hiệu quả.
Từ việc cấu tạo chương trình mới địi hỏi người giáo viên phải có một phương
pháp hợp lí nhằm tích hợp hóa hoạt động của người học. Giáo viên đóng vai trị người
tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được hoạt động, đều được bộc lộ
mình và được phát triển. Điều này tạo cho học sinh hướng tư duy hoàn toàn chủ động
và sáng tạo, tạo được niềm hứng khởi cho cả người dạy và người học và đem lại hiệu
quả tốt cho các em.
Văn tự sự là một trong sáu kiểu văn bản được dạy học ở bậc trung học cơ sở.


Kỷ yếu hội thảo khoa học

127

Phương pháp dạy môn tập làm văn ở cấp THCS là dạy kĩ năng làm văn tổng hợp vận
dụng kiến thức của môn ngữ văn và các môn học khác để tạo lập văn bản, trong đó
phần tập làm văn tự sự thể hiện tính tổng hợp, tính đồng tâm rất cụ thể từ lớp 6 đến
lớp 8. Rèn luyện kĩ năng viết văn tự sự là một vấn đề có khả năng lớn trong việc rèn
luyện và tích hợp được các kĩ năng khác như: dùng từ, đặt câu, cách sử dụng cấu trúc
hội thoại trong một cuộc thoại, cách lập dàn ý, cách lựa chọn các chi tiết, sự việc tiêu
biểu trong toàn bộ nội dung câu chuyện.Việc rèn luyện kĩ năng này cần phải thể hiện
sự đổi mới trong phương pháp dạy học: tích hợp và tích cực giữa các chủ thể học sinh
trong q trình dạy học. Với tinh thần đó, trong khuôn khổ bài viết này tôi xin mạnh
dạn đưa ra hướng đi nhằm đổi mới hoạt động rèn luyện kĩ năng viết văn tự sự cho học
sinh THCS.

II. Nội dung
1. Các yêu cầu cơ bản khi làm một bài văn tự sự
1.1. Hiểu khái niệm: Tự sự (kể chuyện) là phương thức trình bày một chuỗi các sự
việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng dẫn đến một kết thúc, thể hiện một
ý nghĩa” (Ngữ văn 6, tập một, tr.28). Tự sự là phương thức chủ yếu để thơng báo sự
việc, tìm hiểu sự vật, đáp ứng yêu cầu nhận thức của người đọc, người nghe. Có nghĩa
là trình bày một chuỗi sự việc nối tiếp nhau theo một trình tự hợp lý, có mở đầu, có
diễn biến và kết thúc có ý nghĩa. Những trình tự thường gặp trong văn tự sự là trình
tự thời gian, trình tự khơng gian, trình tự cuộc đời nhân vật, trình tự sự việc… Người
viết kể về việc đời, việc người để bày tỏ trực tiếp hay gián tiếp thái độ khen chê của
mình đối với nhân vật.
1.2. Biết xác định cốt truyện và tạo tình huống: Phải xác định cốt truyện từ cuộc
sống đời thực, không tưởng tượng viễn vơng. Sáng tạo một tình huống bất ngờ, độc
đáo có thể gây thú vị cho người đọc và chú trọng kể xoay quanh tình huống ấy, khơng
ơm đồm sẽ tạo nhạt nhẽo cho bài viết.
1.3. Biết cách xây dựng nhân vật: Lựa chọn số lượng nhân vật phù hợp với cốt
truyện. Cần chú ý tới việc khắc họa chân dung, tính cách nhân vật hay diễn biến tâm
lý nhân vật (tùy thuộc nội dung, ý nghĩa của câu chuyện). Và các nhân vật ấy phải
xuất phát từ những nguyên mẫu ngồi đời, khơng được bịa đặt khơng phù hợp.
1.4. Lựa chọn ngôi kể phù hợp với nội dung câu chuyện. Chọn cách viết lời kể, lời
thoại phải cân nhắc, linh hoạt để tạo sức lôi cuốn người đọc, người nghe.
1.5. Biết cách sắp xếp một bố cục hợp lí theo một thư tự kể linh hoạt để nội dung,
ý nghĩa câu chuyện được chuyển tải đầy đủ đến với người đọc.
Muốn làm được một bài văn tự sự đúng, trước tiên người viết cần nắm các yêu cầu
cơ bản trên. Nhưng để làm được một bài văn tự sự hay, gây xúc động và để lại dư âm
trong lòng người đọc thì khơng thể thiếu yếu tố biểu cảm.
2. Đổi mới hoạt động rèn kĩ năng viết văn tự sự giàu cảm xúc cho học sinh
THCS
Muốn cho học sinh viết được những bài văn tự sự với những lời văn giàu cảm xúc,
trước hết giáo viên phải giúp học sinh hiểu về những lời văn có tính biểu cảm cao,



128

Kỷ yếu hội thảo khoa học

hiểu và cảm nhận được cái hay của những dòng cảm xúc được thể hiện trong một số
tác phẩm tự sự của các nhà văn được đưa vào trong chương trình này.
2.1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu về những lời văn biểu cảm
Ở chương trình Ngữ văn lớp 6, SGK đưa vào tìm hiểu kiểu văn tự sự (tiếp nối có
tính phát triển kiểu văn đã học ở bậc Tiểu học) với yêu cầu giúp học sinh hiểu để viết
đúng văn tự sự với phương thức biểu đạt chính là tự sự và mục đích giao tiếp là trình
bày diễn biến sự việc. Nhưng khi dạy, ngoài các yêu cầu cơ bản trên, giáo viên cũng
cần giúp các em hiểu ngoài phương thức biểu đạt chính là tự sự, trong bài viết cần có
sự xen lẫn các phương thức biểu đạt khác nhau như miêu tả và biểu cảm để hình ảnh
trong văn hiện lên sinh động hơn và câu chuyện kể có ấn tượng sâu sắc hơn đối với
người đọc. Bởi nếu chỉ sắp xếp các sự việc thơi thì lời văn sẽ trở nên khô, chuyện kể
nhạt nhẽo, không đem lại rung động cho người đọc. Và như thế sẽ làm giảm đi tính
hiệu quả của câu chuyện được kể. Hướng dẫn các em hiểu để vận dụng được ở lớp 6,
lên lớp 8 các em sẽ nhuần nhuyễn trong cách viết để có được những bài văn tự sự hay.
Đây cũng là một cách bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cho học sinh. Vậy làm thế nào để
có cảm xúc và đưa vào bài văn tự sự những dòng văn tự sự giàu cảm xúc? Cảm xúc có
ngay trong mỗi chúng ta khi ta thể hiện thái độ yêu, ghét đối với những gì xung quanh
mình. Ví dụ khi em bộc lộ tình cảm với mẹ bằng lời nói trực tiếp: “Con yêu mẹ lắm!
Con nhớ mẹ quá!...”; hoặc cũng bộc lộ tình yêu ấy nhưng được thể hiện gián tiếp qua
lời kể với người khác về những điều đáng quý ở mẹ (thể hiện tình yêu và niềm tự hào
về người mẹ yêu quý của mình). Cảm xúc được đưa vào trong văn tự sự cũng như thế,
không phải bao giờ cũng được bộc lộ trực tiếp qua các từ ngữ: yêu, thương, nhớ, vui,
mừng, giận…qua những dòng suy nghĩ, những lời nói của nhân vật, mà cịn được bộc
lộ gián tiếp qua lời văn miêu tả hoặc kể chuyện. Người viết muốn bộc lộ được cảm xúc

trong truyện kể thì trước hết phải đặt mình trong hồn cảnh của nhân vật, tức là hóa
thân vào nhân vật ấy để kể mới hiểu rõ về tâm trạng của nhân vật (sử dụng với ngôi kể
thứ nhất); hoặc bộc lộ cảm xúc của mình về nhân vật trong truyện thì cần hiểu rõ về
hồn cảnh của nhân vật và đặt mình trong hoàn cảnh chứng kiến toàn bộ sự việc xảy
ra đối với nhân vật được kể trong câu chuyện.
2.2. Tổ chức hoạt động giúp học sinh tự khám phá vẻ đẹp của lời văn
Giáo viên cần tổ chức các hoạt động để tăng cường sự hứng thú của học sinh, giúp
học sinh có thể tự mình khám phá, hiểu và cảm nhận được cái hay của những lời văn
tự sự giàu tính biểu cảm thể hiện trong các tác phẩm truyện được đưa vào chương trình
dạy học. Giáo viên có thể chia nhóm để giao các nhiệm vụ sau:
Nhóm 1: Cảm xúc của các nhân vật chính được thể hiện như thế nào trong Văn bản
“Buổi học cuối cùng” của nhà văn Pháp An- phông- xơ Đô- đe ?
Yêu cầu học sinh thảo luận, trình bày các nội dung sau:
* Văn bản “Buổi học cuối cùng” của nhà văn Pháp An- phông- xơ Đô- đe (lớp 6)
kể chuyện về một buổi học tiếng Pháp cuối cùng của một lớp học ở vùng An- dát trước
khi bị quân Phổ chiếm đóng. Nhà văn đã xây dựng nhân vật cậu bé Phrăng, sử dụng
ngơi kể thứ nhất và thực sự hóa thân vào nhân vật ấy để kể. Trong truyện, nhà văn chú


Kỷ yếu hội thảo khoa học

129

ý đến dòng tâm trạng của cậu bé Phrăng và thầy giáo Ha- men. Truyện sử dụng rất
phù hợp các yếu tố biểu cảm: trực tiếp qua lời nói, suy nghĩ của nhân vật và gián tiếp
qua lời văn miêu tả, kể chuyện có sử dụng các yếu tố biểu cảm.
- Cảm xúc của Ph răng khi thấy những thay đổi trên con đường đến trường và khi
đến lớp học: ngạc nhiên, lo lắng và khơng hiểu chuyện gì xảy ra: “…và tơi nghĩ mà
khơng dừng chân: “Lại có chuyện gì nữa đây”…”
- Cảm xúc bất ngờ, giận dữ, choáng váng khi hiểu rõ nguyên do của những thay

đổi ấy: “… Mấy lời đó làm tơi chống váng. A! Qn khốn nạn…”.
- Cảm thấy tự giận mình, ân hận khi khơng thể đọc thuộc quy tắc phân từ một cách
rõ ràng: “…tơi lúng túng…lịng rầu rĩ, khơng dám ngẩng đầu lên…”.
- Tiếc nuối vì đây là buổi học Pháp văn cuối cùng; kinh ngạc vì sao hôm nay lại
hiểu bài đến thế; ngây thơ khi nghĩ: liệu người ta có bắt cả chim bồ câu cũng học tiếng
Đức không…
- Thấy thương thầy giáo Ha- men: “Tội nghiệp thầy!”…
Bằng những lời văn kể giàu cảm xúc, nhà văn đã gợi lại khơng khí trong buổi học
tiếng Pháp cuối cùng của người An- dát.. Người đọc xúc động trước những dịng tâm
trạng, những cử chỉ, lời nói của Phrăng và thầy giáo Ha- men, đau đớn cùng người dân
vùng An- dát trước cảnh họ sắp bị rơi vào vịng nơ lệ. Ý nghĩa về vai trị tiếng nói mẹ
đẻ trong mỗi con người, mỗi dân tộc sâu sắc hơn.
Nhóm 2: Cảm xúc của các nhân vật chính được thể hiện như thế nào trong Văn bản
“Tôi đi học” của nhà văn Thanh Tịnh ?
Yêu cầu học sinh thảo luận, trình bày các nội dung sau:
* Tác phẩm “Tôi đi học” của nhà văn Thanh Tịnh kể về buổi tựu trường đầu tiên
của nhân vật tôi. Câu chuyện dường như khơng có cốt truyện: “Hơm nay tơi đi học”
cũng khơng phải là tình huống truyện gay cấn truyện khơng chứa nhiều kịch tính, mâu
thuẫn gay gắt, căng thẳng; truyện cũng khơng có nhiều những sự kiện; truyện chỉ chú
ý quan tâm đến diến biến tâm trạng của nhân vật “tơi” trong ngày đầu đến trường: đó
là cảm xúc mãnh liệt, dạt dào:
- Cảm xúc từ tâm trạng hồi hộp, náo nức, mơn man, bâng khng, xao xuyến:”…
lịng tơi lại nao nức những kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường… lịng tơi lại bừng
rộn rã…”; hạnh phúc khi lần đầu tiên được mẹ cầm tay dắt đến trường.
- Cảm giác lúng túng, nặng nề khi cầm trên tay mấy quyển vở; non nớt, ngây thơ
nghĩ:”…chắc chỉ người thạo mới cầm nổi bút thước”.
- Cảm xúc khi tiếng trống trường vang dội: hồi hộp đến nín thở, lo sợ;”..cảm thấy
chơ vơ…vụng về, lúng túng…”.
- Cảm xúc khi thầy giáo gọi đến tên mình: tim như ngừng đập, giật mình lúng
túng…

Để diễn tả dòng cảm xúc ấy như một cách chân thành, nhà văn đã sử dụng ngôi kể
thứ nhất và nhiều các tính từ miêu tả tâm trạng, giọng văn nhẹ nhàng mà sâu lắng gieo
vào lòng người đọc bao nỗi niềm bâng khuâng, bao rung cảm nhẹ nhàng, trong sáng
và dường như được sống lại cùng tác giả trong những ngày đầu tiên đến trường ấy.


130

Kỷ yếu hội thảo khoa học

Nhóm 3: Cảm xúc của các nhân vật chính được thể hiện như thế nào trong Truyện
ngắn “lão Hạc” của nhà văn Nam Cao ?
Yêu cầu học sinh thảo luận, trình bày các nội dung sau:
* Truyện ngắn “lão Hạc” của nhà văn Nam Cao không giống kết cấu truyện “Tôi
đi học” của Thanh Tịnh. Truyện kể lại một phần đời của người nông dân nghèo trong
xã cũ (nhân vật chính là lão Hạc) qua lời kể của ơng giáo (người chứng kiến tồn bộ
chặng đời của lão Hạc). Truyện có ấn tượng với người đọc bởi nhiều yếu tố: cách xây
dựng nhân vật, cốt truyện, tình huống truyện bất ngờ. Truyện thành cơng cịn bởi tác
giả sử dụng phù hợp những lời văn giàu tính biểu cảm: trực tiếp qua suy nghĩ của nhân
vật ông giáo (là hiện thân của nhà văn) về cuộc đời và con người; gián tiếp qua những
lời văn miêu tả; hay sử dụng các câu cảm thán, câu hỏi tu từ.
- Cảm xúc của ông giáo về cái nghèo, về sự túng quẫn để rồi phải tiếc nuối bởi
không giữ lại được cho mình thứ đáng quý nhất- những thứ đem lại cho họ một niềm
vui trong cuộc sống nghèo ấy:
…” Khơng! Lão Hạc ơi! Ta có quyền giữ cho ta một tí gì đâu! Lão q con chó
vàng của lão đã thấm vào đâu với tôi quý năm quyển sách của tôi”…
- Cảm xúc của ông giáo về cuộc sống nghèo khổ, bần cùng của người nông dân
trước cách mạng tháng 8 đã làm lấn át, làm che lấp mất cái bản tính tốt của họ: “ Chao
ơi! Đối với những người ở quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ thì ta chỉ thấy họ
gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi…toàn những cớ để cho ta tàn nhẫn; không

bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương”…
- Bày tỏ nỗi đau đớn, tuyệt vọng khi nghĩ rằng cái bản tính tốt rất đáng q vốn
có của con người lại bị cái nghèo hủy hoại. Từ những cảm xúc ấy, tác giả đã đưa đến
cho người đọc một sự suy ngẫm về cuộc đời và con người, về số phận của người nông
dân trong xã hội cũ. Để từ đó tạo được ở người đọc lịng thương yêu, sự đồng cảm sâu
sắc với số phận nghèo hèn của họ đồng thời biết trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất
vượt lên trên cuộc sống bần cùng của con người.
Hầu hết trong tác phẩm truyện, nhà văn ngoài việc quan tâm đến cốt truyện, cách
xây dựng nhân vật, tạo dựng các tình huống…cịn biết đưa vào hiệu quả các bài văn
giàu cảm xúc để câu chuyện để lại được dư âm trong lòng bạn đọc. Đây là một trong
những yếu tố quan trọng làm nên thành công của tác phẩm. Bởi thế trong khi dạy, GV
cần đưa ra và phân tích các yếu tố biểu cảm được sử dụng trong các tác phẩm truyện
để học sinh hiểu, cảm nhận được cái hay của các bài văn ấy và ý thức được muốn viết
một bài văn tự sự hay, cần thiết đưa vào các yếu biểu cảm; hơn nữa các em cũng học
tập được cách viết văn tự sự giàu tính biểu cảm từ các nhà văn.
2.3. Hướng dẫn học sinh cách viết các lời văn giàu cảm xúc trong văn bản tự sự
Trong văn bản tự sự, cảm xúc không chỉ xuất hiện trong một vài từ hay một vài
câu mà là xuất hiện trong tất cả các phần, cảm xúc như chất keo dính kết các sự việc
góp phần đem lại cho người đọc một sự suy ngẫm sâu sắc về nội dung, ý nghĩa của câu
chuyện. Có nhiều cách để bộc lộ cảm xúc trong văn tự sự: Nếu kể chuện theo ngôi thứ
nhất, người kể cần hóa thân vào nhân vật để kể mới hiểu rõ tâm trạng của nhân vật ấy


Kỷ yếu hội thảo khoa học

131

và có thể trực tiếp nói ra những cảm tưởng, ý nghĩ của mình, cảm xúc sẽ chân thành
hơn, câu chuyện hiện lên như thật (vì nhân vật tơi khơng phải bao giờ cũng là tác giả).
Cịn nếu truyện được kể theo ngơi thứ 3 thì người viết cần hiểu rõ về hồn cảnh của

nhân vật để có thể diễn tả được cảm xúc của nhân vật ấy về các sự việc diễn ra trong
câu chuyện. Cảm xúc có thể bộ lộ trực tiếp qua suy nghĩ, lời nói của nhân vật cũng có
thể bộc lộ gián tiếp qua những lời văn miêu tả hoặc tự sự về con người, cuộc đời hay
về sự việc được kể trong truyện. Trong bố cục của một bài văn tự sự, ngoài những ý
cơ bản cần thiết để kể về nội dung câu chuyện (các nhân vật, chuỗi sự việc, tình huống
truyện…) thì cảm xúc cần được đưa vào xen lẫn trong cả ba phần:
+ Mở bài: Cảm xúc thường xuất hiện ngay trong lời văn giới thiệu câu chuyện sắp
kể.
+ Thân bài: Cảm xúc ở trong lời kể các đoạn truyện, tình huống truyện.
Cảm xúc đằng sau câu chuyện: nâng cao, mở rộng suy nghĩ từ câu chuyện (nếu
có).
+ Kết bài: cảm xúc để lắng kết lại câu chuyện, để lại dư âm trong lòng người đọc.
Dạy văn không chỉ giúp học sinh hiểu về các tác phẩm , hiểu cách viết các kiểu
văn mà còn khơi dậy và bồi đắp tâm hồn tình cảm cho các em, bởi thế, khi dạy văn tự
sự, ngoài việc hướng dẫn các em nắm vững các yếu tố cơ bản, cần giúp các em hiểu để
đưa vào bài viết của mình những lời văn tự sự giàu cảm xúc. Nếu làm được điều này,
giáo viên không chỉ giúp học sinh có những bài văn tự sự hay mà cịn làm giàu thêm
tâm hồn tình cảm ở các em.
Suy nghĩ, tìm tịi để có một phương pháp dạy phù hợp với mỗi kiểu bài là một
nhiệm vụ quan trọng của mỗi giáo viên. Để học sinh viết được một kiểu văn đúng và
hay cần trải qua một quá trình rèn luyện và cung cấp kiến thức về cách làm cho các
em. Cụ thể khi dạy các tiết rèn luyện về viết văn tự sự, giáo viên cần phải:
- Nhận thức được để viết một bài văn tự sự hay cần thiết phải đưa vào bài các yếu
tố biểu cảm. Vậy nên ngoài việc cung cấp cho các em kiến thức về cách làm bài văn
tự sự (là phương thức trình bày một chuỗi sự việc liên quan đến nhau cuối cùng dẫn
đến một kết thúc có ý nghĩa) thì giáo viên phải chú ý hướng dẫn cho học sinh cách
đưa các yếu tố biểu cảm vào bài văn tự sự.
- Trước hết, giúp các em hiểu tình cảm, cảm xúc có xung quanh cuộc sống con
người, hiểu về các lời văn có tính biểu cảm cao. Và khi dạy các văn bản tự sự (mà
trong đó nhà văn sử dụng xen lẫn phương thức biểu đạt biểu cảm có hiệu quả) giáo

viên cần phân tích những yếu tố biểu cảm để học sinh hiểu được tác dụng của việc đưa
những lời văn biểu cảm vào bài viết tự sự của mình.
- Giúp học sinh biết cách đưa yếu tố biểu cảm vào bài viết của mình bằng trực tiếp
hoặc gián tiếp (phụ thuộc vào nội dung câu chuyện kể).
- Hướng dẫn các em, khi kể chuyện cần đứng vào hoàn cảnh của nhân vật trong
truyện để kể, tìm tình huống đặc sắc để có thể viết các lời văn biểu cảm dễ hơn.
- Trong các tiết dạy tìm hiểu về bố cục một bài văn tự sự, giáo viên cần hướng dẫn
học sinh xen lẫn các yếu tố biểu cảm vào trong các phần: cảm xúc về sự việc hoặc


132

Kỷ yếu hội thảo khoa học

nhân vật được kể trong truyện.
III. Kết luận
Đảng và nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục bởi đó là “Quốc
sách hàng đầu”. Ngay từ nghị quyết trung ương IV khóa VII đã xác đinh phải “khuyến
khích tự học”, phải “áp dụng” những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng
cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề để trở thành con
người năng động, sáng tạo trong tương lai. Môn Ngữ văn trong chương trình THCS
nói chung, phân mơn Tập làm văn nói riêng có vai trị quan trọng trong việc rèn luyện
các kĩ năng tạo lập văn bản một cách sáng tạo cho học sinh. Nhận thức rõ điều đó, các
thầy cơ giáo đã tích cực đổi mới phương pháp, tìm ra những cách dạy học mới và hay
nhằm phát huy năng lực sáng tạo của các em.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, Hà
Nội
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018) , Chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ
văn, Hà Nội

3. Cao Xuân Bích( 2013), Rèn luyện kĩ năng làm văn ở trung học cơ sở, NXBGD
4. Đỗ Ngọc Thống (2018), Định hướng đổi mới chương trình mơn Ngữ văn,
Bigschool.vn
5. Nhiều tác giả , Sách giáo khoa, Sách giáo viên Ngữ văn 6,7,8, (2018), NXBGD




×