Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Định hướng phát triển năng lực thẩm mỹ qua ngữ liệu văn học nhằm bồi dưỡng phẩm chất cho học sinh đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông mới phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.82 KB, 6 trang )

Kỷ yếu hội thảo khoa học

113

ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC THẨM MỸ QUA NGỮ LIỆU
VĂN HỌC NHẰM BỒI DƯỠNG PHẨM CHẤT CHO HỌC SINH ĐÁP ỨNG
CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG MỚI PHỔ THÔNG
ThS. Tạ Thị Thanh Hà - ThS. Trần Thị Lệ Dung
Khoa THCS, Trường CĐSP Nghệ An
Tóm tắt:
Trong chương trình GDPT tổng thể, chúng tơi nhận thấy yêu cầu về năng lực thẩm
mỹ rất sát với những yêu cầu cụ thể về các phẩm chất chủ yếu cần đạt đối với học sinh
phổ thơng. Vì vậy, bài viết này hướng tới khai thác cách tiếp cận NLTM trong dạy
học Ngữ văn nhằm giúp học sinh hoàn thiện các yêu cầu về phẩm chất mà chương
trình GDPT đặt ra.
1. Đặt vấn đề
Chương trình Giáo dục phổ thơng (GDPT) tổng thể [2] xác định rất rõ các biểu
hiện năng lực của HS, trong đó, có 3 năng lực chung và 7 năng lực chuyên môn. Với
môn Ngữ văn, 2 năng lực được xem là đặc thù là năng lực ngơn ngữ và năng lực thẩm
mỹ. Chương trình Giáo dục phổ thông môn Ngữ văn [3.3] cũng khẳng định: “Ngữ văn
là mơn học mang tính cơng cụ và tính thẩm mỹ- nhân văn; giúp học sinh có phương
tiện giao tiếp, làm cơ sở để học tập tất cả các môn học và hoạt động giáo dục khác
trong nhà trường; đồng thời cũng là công cụ quan trọng để giáo dục học sinh những
giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngôn ngữ dân tộc triển ở học sinh những cảm
xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha”. Mơn Ngữ văn mang tính
tổng hợp cao, tích hợp nhiều kiến thức, liên quan đến nhiều mơn học, đồng thời đây
cũng là mơn học có nhiều liên quan với cuộc sống hàng ngày. Trong chương trình
GDPT tổng thể, chúng tôi nhận thấy yêu cầu về năng lực thẩm mỹ (NLTM) rất sát với
những yêu cầu cụ thể về các phẩm chất chủ yếu cần đạt mà chương trình u cầu đối
với học sinh phổ thơng. Vì vậy, bài viết này hướng tới khai thác cách tiếp cận NLTM
trong dạy học Ngữ văn nhằm giúp học sinh hồn thiện các u cầu về phẩm chất mà


chương trình GDPT đặt ra.
2. Năng lực thẩm mỹ trong dạy học Ngữ văn và các phẩm chất cần đạt theo
chương trình GDPT mới.
2.1. Năng lực thẩm mỹ
Nói đến NLTM, người ta thường đề cập đến năng lực khám phá cái đẹp và năng
lực thưởng thức cái đẹp. Qua các tác phẩm văn học, nghệ thuật, người đọc sẽ khám
phá, cảm nhận cái đẹp của tác phẩm rồi tự nguyện chuyển hóa thành cái đẹp trong
chính tâm hồn mỗi con người. Mơn Ngữ văn chính là cơ hội tốt nhất để phát triển năng
lực thẩm mỹ khi học sinh được tiếp xúc với nhiều tác phẩm văn học của các quốc gia,
các thời kỳ lịch sử. Thông qua dạy học các tác phẩm văn học, giáo viên có thể bồi
dưỡng cho học sinh có khả năng phát hiện cái đep, cảm thụ cái đẹp, đánh giá cái đẹp,
từ đó tự làm đẹp tâm hồn mình.
Mục tiêu chung của mơn Ngữ văn mới cũng nhấn mạnh: Mơn Ngữ văn giúp “hình


114

Kỷ yếu hội thảo khoa học

thành và phát triển cho học sinh những phẩm chất chủ yếu yêu nước, nhân ái, chăm
chỉ, trung thực và trách nhiệm; bồi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách và phát triển
cá tính. Mơn Ngữ văn giúp học sinh khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu
hiểu con người, có đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân
văn; có tình u đối với tiếng Việt và văn học; có ý thức về cội nguồn và bản sắc dân
tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam, có tinh thần tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại và khả năng hội nhập quốc tế” [3.5].
NLTM thể hiện trong các môn học Âm nhạc, Mỹ thuật và Ngữ văn; trong môn
Ngữ văn NLTM chính là năng lực văn học (NLVH).
Năng lực văn học là khả năng hiểu một văn bản của người đọc trên cơ sở biết rõ
về sự diễn giải hợp lý hệ thống tín hiệu hoặc “mã” của văn học. Năng lực văn học

được tạo nên bởi các thành tố sau: Kiến thức về văn học (những hiểu biết về lịch sử
văn học, tác phẩm văn học và lý luận văn học); kỹ năng về văn học (kỹ năng đọc hiểu
văn bản, phân tích và đánh giá giá trị văn học); tình cảm, thái độ đối với tiếp nhận văn
học (lịng say mê văn học, ý thức tìm tịi khám phá các giá trị sâu sắc, độc đáo của tác
phẩm văn học trong quá trình tiếp nhận, thưởng thức văn học).
Ngữ văn là một mơn học đặc biệt có thể tác động một cách trực tiếp đến cảm xúc,
tình cảm, tâm hồn người học. “Thông qua những văn bản ngôn từ và những hình tượng
nghệ thuật sinh động trong các tác phẩm văn học, bằng hoạt động đọc, viết, nói, nghe,
mơn Ngữ văn có vai trị to lớn trong việc giúp học sinh hình thành và phát triển những
phẩm hchất tốt đẹp cũng như những năng lực cốt lõi để sống, làm việc hiệu quả, để
học suốt đời”[3.3].
Ở bậc Tiểu học, NLVH yêu cầu đơn giản là “biết phân biệt văn bản truyện và
thơ, nhận biết được nội dung văn bản và thái độ, tình cảm của người viết, bước đầu
hiểu được tác dụng của một số yếu tố hình thức của văn bản văn học. Biết liên tưởng,
tưởng tượng và diễn đạt có tính văn học trong viết và nói” [3.8]. BậcTrung hoc cơ
sở, yêu cầu về năng lực văn học là “nhận biết và phân biệt được các loại văn bản văn
học: truyện, thơ, kịch, ký và một số thể loại tiêu biểu cho mỗi loại; phân tích được tác
dụng của một số yếu tố hình thức nghệ thuật thuộc mỗi thể loại văn bản; hiểu được
nội dung tường minh và hàm ẩn của văn bản văn học. Trình bày được cảm nhận, suy
nghĩ về tác phẩm văn học và tác động của tác phẩm văn học đối với bản thân; bước
đầu tạo ra được một số sản phẩm có tính văn học.”[3.10]. Bậc Trung học phổ thơng,
NLVH u cầu cao hơn, đó là “phân tích và đánh giá văn bản văn học dựa trên những
hiểu biết về phong cách nghệ thuật và lịch sử văn học. Nhận biết được đặc trưng của
hình tượng văn học và một số điểm khác biệt giữa hình tượng văn học và với các loại
hình tượng nghệ tht khác, phân tích và đánh giá được nội dung tư tưởng và cách thể
hiện nội dung tư tưởng trong một văn bản văn học…Nêu được những nét tổng quát về
lịch sử văn học dân tộc và vận dụng vào việc đọc tác phẩm văn học” [3.12]. Như vậy,
yêu cầu về NLVH đặt ra đối với học sinh phổ thơng chính là ngồi việc hiểu được tác
phẩm, tác giả văn học còn phải biết tự cảm nhận, tự trình bày được những cảm xúc,
rung động mà văn học đưa lại với bản thân mình; và từ đó chính họ có thể tạo ra những



Kỷ yếu hội thảo khoa học

115

sản phẩm tâm hồn có giá trị.
2.2. Các phẩm chất chủ yếu cần đạt trong chương trình GDPT
Mục tiêu xây dựng con người Việt Nam “phát triển tồn diện về trí tuệ, đạo đức,
thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật” trở thành mục tiêu
quan trọng, có ý nghĩa chiến lược trong thời kỳ Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Mục tiêu ấy đã được cụ thể hóa trong Chương trình Giáo dục phổ thơng tổng thể.
Chương trình mới đặt ra các yêu cầu về phẩm chất chủ yếu cần đạt cho học sinh như
sau: yêu nước; nhân ái (yêu quý mọi người, tôn trọng sự khác biệt giữa mọi người);
chăm chỉ (ham học, chăm làm); trung thực; trách nhiệm (có trách nhiệm với bản thân,
gia đình, với nhà trường và xã hội, với môi trường sống). Với mỗi cấp học, các phẩm
chất trên được yêu cầu ở các mức độ khác nhau. Các phẩm chất này chính là hướng
đến mục tiêu chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam trong thời đại mới.
Phẩm chất là những yếu tố đạo đức, hành vi ứng xử, niềm tin, tình cảm, giá trị
cuộc sống; ý thức pháp luật của con người được hình thành sau một quá trình giáo
dục. Phẩm chất và năng lực là hai thành phần chủ yếu cấu thành nhân cách con người,
ln có mối quan hệ mật thiết với nhau trong sự phát triển nhân cách. Do vậy, có thể
xem q trình hình thành và phát triển nhân cách con người gắn liền với quá trình tích
tụ, phát triển các yếu tố của phẩm chất và năng lực. Trong quá trình giáo dục, dạy học
phát triển phẩm chất, năng lực người học là một phương pháp dạy học ưu thế hướng
người học tiếp cận gần hơn với phát triển nhân cách của mình. Vì vậy, khi xây dựng
Chương trình và sách giáo khoa mới, mục tiêu này được xác định rõ: “Đổi mới chương
trình, sách giáo khoa GDPT nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và
hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp;

góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát
triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hịa trí, đức, thể, mĩ và phát huy tốt
nhất tiềm năng của mỗi học sinh” [1].
Khi tiếp cận Chương trình GDPT tổng thể và nguồn ngữ liệu được đưa ra trong
Chương trình chi tiết môn Ngữ văn [3.16,17], chúng tôi nhận thấy giữa yêu cầu về
NLVH và sự phát triển các phẩm chất theo định hướng phát triển con người tồn diện
có một mối quan hệ với nhau; nâng cao năng lực văn học cho học sinh phổ thông là
một trong những con đường, cách thức tự nhiên nhất để học sinh có thể tự mình hồn
thiện những phẩm chất theo u cầu của chương trình đặt ra, hướng tới mục tiêu phát
triển toàn diện con người Việt Nam thế hệ mới.
2.3. Bồi dưỡng, hoàn thiện các phẩm chất cho học sinh phổ thông bằng cách
nâng cao năng lực thẩm mỹ (NLVH) trong dạy học các tác phẩm văn học thuộc
chương trình Ngữ văn mới.
2.3.1. Ngữ văn có vai trị rất quan trọng trong việc định hướng, giáo dục những giá
trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngơn ngữ dân tộc, từ đó bồi đắp lịng u q hương
đất nước, lịng tự hào về đất nước Việt Nam. Chương trình có định hướng mở về ngữ
liệu, đó là sự quy định thống nhất trên toàn quốc những văn bản bắt buộc như: Nam


116

Kỷ yếu hội thảo khoa học

quốc sơn hà (thời Lý), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Bình Ngơ đại cáo (Nguyễn
Trãi), Truyện Kiều (Nguyễn Du), Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (Nguyễn Đình Chiểu),
Tun ngơn độc lập (Hồ Chí Minh). Những văn bản này đều là những áng thơ văn
nổi tiếng xuyên suốt chiều dài lịch sử -văn hóa Việt Nam, nối mạch truyền thống yêu
nước, ý chí độc lập, tự cường của dân tộc. Thông qua những tác phẩm này, học sinh sẽ
hiểu hơn về giá trị thiêng liêng của độc lập, tự do, những khát vọng mãnh liệt về độc
lập tự do ngàn đời của ông cha; hiểu hơn về lịch sử hào hùng chống ngoại xâm để bảo

vệ dân tộc, non sống đất nước; cũng từ đó giáo dục ý thức về độc lập tự do của người
Việt Nam trong bối cảnh hiện nay; một tấc đất, một gang sông đều gắn với giá trị của
lịch sử, văn hóa Việt. Nguồn ngữ liệu trên là những tác phẩm lớn nhất, những bài ca
ca ngợi ý thức tự tôn dân tộc, cuộc đấu tranh kiên cường, những thắng lợi vẻ vang lừng
lẫy của dân tộc; đó cũng là những văn hào lớn nhất mà tên tuổi của họ mãi trường tồn
trong lịch sử văn học Việt Nam.
Tình yêu với tiếng Việt cũng chính là tình u q hương, đất nước, văn hóa Việt
Nam. Đối với một quốc gia độc lập, ngôn ngữ được xem là một trong ba biểu tượng
của một quốc gia (cùng với quốc kỳ và quốc ca). Phạm Văn Đồng đã nói: “Tiếng
Việt ta rất giàu và đẹp… Chính cái giàu đẹp đó đã làm nên cái chất, giá trị, bản sắc,
tinh hoa của tiếng Việt, kết quả của cả một quá trình và biết bao công sức dồi mài”.
Nâng cao NLVH qua đọc hiểu các tác phẩm văn học cũng là cách giúp học sinh thêm
u tiếng Việt, ln có ý thức giữ gìn trong sáng của tiếng Việt. Tác phẩm kinh điển
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du cũng là tác phẩm bắt buộc trong chương trình Ngữ văn
mới. Khơng thể phủ nhận được rằng tiếng Việt trở nên giàu có, phong phú, tinh túy
và đặc sắc hơn là nhờ một phần vào Truyện Kiều. Bao nhiêu lời ca ngợi cũng khơng
đủ nói hết sự vĩ đại của tác phẩm này. “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”
(Chế Lan Viên), “Ngơn ngữ Truyện Kiều như được làm bằng ánh sáng vậy” (Nguyễn
Đình Thi), “Truyện Kiều là tác phẩm được đánh giá cao nâng tầm giá trị ngôn ngữ
Việt” (Phong Linh)… Dạy học những tác phẩm lớn này, giáo viên phải làm cho học
sinh hiểu được giá trị của tiếng Việt, thêm yêu quý và tự hào về tiếng mẹ đẻ, có nhiệm
vụ bảo vệ và phát triển tiếng Việt, nhất là trong bối cảnh hịa nhập văn hóa hiện nay,
tiếng Việt cũng khơng nằm ngoài sự vận động, phát triển theo hướng hiện đại này.
2.3.2 Văn học còn giúp học sinh phát triển những cảm xúc lành mạnh, tình cảm
nhân văn, lối sống nhân ái vị tha.
Giá trị văn học là sản phẩm kết tinh từ quá trình văn học, đáp ứng những nhu cầu
khác nhau của cuộc sống con người, tác động sâu sắc tới con người và cuộc sống. Giá
trị của văn học gắn với đặc trưng, bản chất của văn học. Văn học có ba giá trị cơ
bản là nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Văn học có thể mang tới cho người đọc những
nhận thức mới mẻ và sâu rộng về nhiều mặt của cuộc sống. Văn học giúp đỡ người

đọc hiểu được bản chất của con người nói chung, đồng thời từ cuộc đời của người khác
mỗi người có thể liên hệ, so sánh, đối chiếu để hiểu chính bản thân mình hơn với tư
cách là một con người cá nhân. Đó là q trình tự nhận thức mà văn học mang tới cho
mỗi người. Giá trị nhận thức luôn là tiền đề của giá trị giáo dục, khơng có nhận thức


Kỷ yếu hội thảo khoa học

117

đúng đắn thì văn học không thể thực hiện chức năng giáo dục được con người.
Giá trị giáo dục của văn học trước hết biểu hiện ở khả năng đem đến cho con
người những bài học quý giá về lẽ sống để họ tự rèn luyện bản thân mình ngày một tốt
đẹp hơn. Văn học hình thành trong người đọc một tư tưởng tiến bộ, giúp họ có thái độ
và quan điểm đúng đắn về cuộc sống.
Văn học làm cho tâm hồn con người trở nên lành mạnh, trong sáng, cao thượng
hơn. Văn học có thể thay đổi hoặc nâng cao tư tưởng, tình cảm của con người theo
chiều hướng tích cực, tốt đẹp, tiến bộ, đơng thời làm cho con người ngày càng hồn
thiện về đạo đức. Tác dụng giáo dục của văn học với tâm hồn con người dần dần thấm
sâu, bền lâu. Văn học khơng chỉ góp phần hồn thiện bản thân con người mà còn
hướng họ tới những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống. Ngồi ra, con người ln có nhu
cầu cảm thụ và thưởng thức cái đẹp, và trong sự tồn tại của mình, con người khơng
những muốn cuộc sống tốt hơn mà còn đẹp hơn, do vậy giá trị thẩm mĩ là khả năng
của văn học có thể phát hiện và miêu tả nhiều vẻ đẹp của cuộc sống một cách sinh
động, giúp con người cảm nhận được và biết rung động một cách tinh tế sâu sắc trước
vẻ đẹp đó.
Cùng các mơn học khác, văn học giúp hoàn thiện phẩm chất của con người.
“Những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái, vị tha” theo mục
tiêu đặt ra trong Chương trình Ngữ văn sẽ được hình thành qua hệ thống ngữ liệu là
những “tác phẩm bắt buộc lựa chọn”, được định hướng về chủ đề cụ thể như sau: 4 tác

phẩm đại diện cho 4 thể loại truyện dân gian; 3 bài ca dao về các chủ đề tình yêu quê
hướng đấ nước, tình yêu, tình cảm gia đình, con người và xã hội; 1 sử thi, 1 truyện thơ,
1 kịch bản chèo hoặc tuồng; ngồi ra chương trình cịn u cầu bắt buộc học các tác
phẩm của các tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến,
Hồ Chí Minh, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu (trước Cách mạng tháng Tám),
Tố Hữu, Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Lưu Quang Vũ; các tác phẩm và tác giả
văn học nước ngoài của các nền văn học lớn như Anh, Pháp, Mỹ, Hy Lạp, Nhật Bản,
Trung Quốc, Ấn Độ (ít nhất một tác phẩm cho một nền văn học).
So với ngữ liệu của chương trình hiện hành thì hệ thống ngữ liệu mới cơ bản không
thay đổi nhiều nhưng không áp đặt mà yêu cầu mở cho các nhà soạn sách giáo khoa
và các bộ sách giáo khoa. Nhìn tổng thể, hệ thống ngữ liệu đọc hiểu “bắt buộc” và
“bắt buộc lựa chọn” cho môn Ngữ văn cơ bản đáp ứng được yêu cầu “giúp học sinh
phát triển những cảm xúc lành mạnh, tình cảm nhân văn, lối sống nhân ái vị tha” mà
mục tiêu chung đưa ra.
2.3.3 Cùng với các môn học khác, Ngữ văn giúp hoàn thiện dần những phẩm
chất tốt đẹp của con người đáp ứng mục tiêu của giáo dục Việt Nam trong giai đoạn
mới, đó là “giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân”. Chương trình GDPT mới cịn nhấn
mạnh mục tiêu phát triển con người năng lực, hài hòa con người xã hội và con người
cá nhân. Mục tiêu này rất gần với bốn trụ cột giáo dục của thế kỷ XXI mà Unessco
đưa ra: “Học để biết; học để làm; học để tồn tại và học để chung sống”. Để đạt được


118

Kỷ yếu hội thảo khoa học

mục tiêu chung, học sinh phổ thông cần thiết phải trau dồi những phẩm chất cơ bản,
những phẩm chất ấy chính là điều kiện để tiếp tục phát huy những năng lực của con
người trong cuộc sống hòa nhập vào thế giới hiện đại. Trong quan điểm tích, hợp với

các mơn học khác trong chương trình, NLTM trong dạy học Ngữ văn có một vai trị
quan trong trong việc hồn thiện phẩm chất tốt đẹp của học sinh, phẩm chất ấy được
hình thành và ổn định trong suốt q trình dài, ngày một hồn thiện theo hướng vừa
có thể tự tin hịa nhập vào thế giới phẳng với “những cảm xúc lành mạnh, tình cảm
nhân văn, lối sống nhân ái vị tha’ mà vẫn biết trân trọng giá trị cốt lõi của cội nguồn,
những giá trị cao đẹp về văn hóa, văn học và ngơn ngữ dân tộc.
3. Kết luận
Nghị quyết 29-NQTƯ 8 (Khoá XI) đặt ra mục tiêu: “Tạo chuyển biến căn bản,
mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công
cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người
Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của
mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả”.
Những mục tiêu này đã được cụ thể hóa trong những yêu cầu về phẩm chất cần đạt
trong Chương trình GDPT mới. Để có thể giúp hồn thiện phẩm chất của mỗi cá nhân
theo định hướng mục tiêu của giáo dục Việt Nam đề ra, một trong những cách quan
trọng và hiệu quả chính là nâng cao năng lực thẩm mỹ cho học sinh trong dạy học các
tác phẩm văn học./.
Tài liệu tham khảo
1. Quốc hội Việt Nam- Nghị quyết 88/2014/QH13
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018). Chương trình GDPT tổng thể
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018). Chương trình GDPT môn Ngữ văn
4. Nguyễn Quang Cương (2011). Phát triển năng lực ngôn ngữ và năng lực văn học
cho học sinh phổ thơng trước u cầu mới. Tạp chí Giáo dục số 266, tháng 7/2011



×