Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Ren luyen cam thu van hoc cho hoc sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.17 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Các biện pháp rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh</b>


<b>trong dạy đọc hiểu văn bản ở trường phổ thông</b>




Ths. Lê Sử


<i> </i> <i> Giảng viên khoa Ngữ văn- Đại học Vinh</i>


Điều kiện đầu tiên của mọi sự phân tích, đánh giá, thẩm định giá trị của văn bản nghệ thuật là người
đọc có cảm thấy văn bản đó hay, hấp dẫn và xúc động thực sự khi đọc hay không. Nghĩa là trong đọc
hiểu văn bản nghệ thuật, người đọc, dù ít hay nhiều phải huy động thoạt đầu là tri giác và sau đó là liên
tưởng, tưởng tượng để thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của văn bản, thể nghiệm giá trị tinh thần và
hứng thú với sắc điệu thẩm mĩ của nó. Nếu quá trình này khơng xảy ra thì người đọc, dù bằng cách nào
đi nữa, cũng khó có thể hiểu được sâu sắc văn bản mình đọc. Và khơng riêng gì việc tiếp nhận văn bản
văn học mà đối với việc tiếp nhận bất cứ loại hình nghệ thuật nào khác thì cũng diễn ra q trình tương
tự. Q trình tâm lí nói trên chính là cảm thụ văn học. ở đây, chúng tôi phân biệt giữa cảm thụ và tiếp
nhận văn học.


Tiếp nhận văn học là tồn bộ q trình biến văn bản thành tác phẩm. Đây là một hoạt động gồm
nhiều bước, nhiều cung đoạn; và người đọc gần như phải huy động tồn bộ những năng lực tinh thần
của mình. Sách <i>Lý luận văn học</i> viết: “Khái niệm tiếp nhận bao hàm các khái niệm cảm thụ, thưởng
thức, lí giải, đồng cảm” (4). Còn cảm thụ văn học là hoạt động mang tính đặc thù trong tiếp nhận văn
học. Cơ sở, nguồn gốc của cảm thụ là sự nhân hố tự nhiên bên trong của con người thơng qua quá
trình lao động sản xuất. Cấu trúc của cảm thụ là sự đan xen phức tạp của các yếu tố tri giác, lý giải,
tưởng tượng, cảm xúc. Trong cấu trúc của cảm thụ các nhân tố lý tính đã hồ tan vào trong đó như
muối, như đường hồ tan trong nước, khơng thể nhận biết trở thành siêu lý tính. Mục đích của cảm thụ
là cảm nhận, phát hiện, khám phá, chiếm lĩnh bản chất thẩm mỹ của văn chương nhằm đào tạo, bồi
dưỡng mỹ cảm phong phú, tinh tế cho độc giả. Với cách quan niệm như trên về cảm thụ, chúng tôi
nhận thấy việc xác lập các biện pháp rèn luyện cảm thụ cho học sinh trong dạy đọc hiểu văn bản văn
học ở trường phổ thông có ý nghĩa quan trọng; đặc biệt nó góp phần đảm bảo tính nghệ thuật đặc thù


của mơn ngữ văn.


Các biện pháp rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh đã phần nào được đề cập trong những cơng
trình về phương pháp dạy học ngữ văn. Đầu tiên, phải kể tới cuốn <i>Phương pháp luận dạy văn học</i> do
Z.Ia.Rez chủ biên. Trong cuốn sách này, các tác giả xác định một số biện pháp <i>bộc lộ và thúc đẩy sự</i>
<i>đồng sáng tạo của người đọc</i>; về thực chất, có thể nói đó cũng chính là những biện pháp rèn luyện cảm
thụ cho học sinh. Các tác giả viết: “Các nhiệm vụ đặc thù của phân tích trong nhà trường (gợi lên sự
đồng thể nghiệm, kích thích trí tưởng tượng của học sinh, hình thành các phẩm chất của người đọc…)
không cho phép giới hạn ở các biện pháp phân tích, nghiên cứu văn học trong khi phân tích ở nhà
trường”(3). Do đó, phải xác định các biện pháp đặc thù nhằm mục đích “phát triển trí tưởng tượng của
người đọc và đồng thời dùng làm phương tiện để phát hiện và đưa việc cảm thụ của người đọc vào việc
phân tích”(3). Nhưng trong khn khổ giáo trình, các tác giả khơng thuyết minh cơ sở lý thuyết để xác
định các biện pháp nói trên.




Theo chúng tơi, chính cấu trúc, cơ chế của cảm thụ văn học là cơ sở để xác lập các biện pháp bộc lộ
và thúc đẩy sự đồng sáng tạo của người đọc. Do đó, phần đề xuất các biện pháp của chúng tôi phong
phú hơn về số lượng cũng như khác về nội dung của từng biện pháp.


ở trong nước, có thể nói cho đến nay, chưa có cơng trình nào tập trung xây dựng các biện pháp rèn
luyện cảm thụ văn học cho học sinh ở trường phổ thơng. Ngun nhân chính là vì các nhà nghiên cứu
hoặc đồng nhất giữa hai khái niệm tiếp nhận và cảm thụ hoặc không phân định dứt khốt ranh giới giữa
hai khái niệm này. Nói thế, khơng phải các biện pháp xây dựng cảm thụ văn học cho học sinh chưa
được đề cập tới; phần lớn các biện pháp này được đề xuất trong các cơng trình nghiên cứu các mặt,
các nhân tố riêng của cảm thụ văn học như liên tưởng và tưởng tượng mà tiêu biểu là cơng trình <i>Cơng</i>


<i>nghệ dạy văn</i> của Phạm Tồn và <i>Rèn luyện tư duy sáng tạo của học sinh trong dạy học tác phẩm văn</i>


<i>chương </i>của Nguyễn Trọng Hoàn. Nhưng cũng vì thế các biện pháp được xác định chưa tập trung. Trên



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

biện pháp rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh trong dạy đọc hiểu văn bản ở trường phổ thơng. Xin
được trình bày nội dung từng biện pháp cụ thể:


<i><b>1. Đọc diễn cảm: </b></i>


Đọc diễn cảm là thể hiện sáng tạo tác phẩm văn học trong giọng đọc nhằm tác động đến những
người nghe. Nếu như các biện pháp khác thông thường tác động đến lý trí thì đọc diễn cảm, trước hết
và chủ yếu tác động đến tình cảm. Bởi vì, về thực chất đọc diễn cảm thuộc nghệ thuật trình diễn, nó có
những điểm tương đồng với ngâm thơ hoặc trình diễn ca khúc. Nếu giáo viên đọc diễn cảm tốt thì sẽ
tạo nên bầu khơng khí tươi mát trong giờ học. Người học, trong chừng mực nào đó, có thể thưởng thức
giọng đọc và dễ sản sinh những ấn tượng, xúc động tự nhiên về văn bản. Có thể thấy rất rõ rằng trên
thực tế học sinh ở nhà đã tiếp xúc với văn bản không chỉ một lần; việc lên lớp đọc lại văn bản nếu
khơng tạo được sự khác biệt thì dễ gây nhàm chán và mất tập trung. Do đó, bằng hình thức đọc diễn
cảm, giáo viên có thể tạo cho học sinh những bất ngờ, hoặc sự hứng thú và có thể khiến các em bỗng
nhiên có cảm nhận mới mẻ về văn bản.


Đó là chưa nói nếu như giáo viên yêu cầu học sinh trình bày thì có thể tạo cơ hội cho các em bộc lộ
bản thân. Đương nhiên, giáo viên phải gieo vào học sinh ý thức đọc sao cho cuốn hút chứ không phải là
qua chuyện, và đọc ở đây là thể hiện sự cảm thụ và thể nghiệm sâu sắc về tác phẩm, là làm sao để
người khác cũng có thể sản sinh những ấn tượng tương tự như mình. Diễn cảm ở đây hồn tồn khơng
phải là ở sự uốn éo đầu lưỡi mà thể hiện những cảm xúc nội tại của tâm hồn.


Vấn đề đang nói sẽ sáng tỏ hơn khi chúng ta làm rõ vấn đề tại sao lại phải đọc diễn cảm. Trước hết,
vì ngơn từ văn bản nghệ thuật được tổ chức đặc biệt, nhà văn phải là nghệ sĩ ngôn từ. Ngôn từ văn học
là ngơn từ mang tính hình tượng, biểu cảm, và ở những tác phẩm thơ chúng ta có thể nói đến tính nhạc
của ngơn từ. Đọc thơ là để làm cho tác phẩm thơ vang lên như một bản nhạc làm cho nó ngân nga
trong hồn người. Giáo sư Trần Thanh Đạm cho rằng đọc diễn cảm tác phẩm thơ là phải đọc làm sao
cho tác phẩm “sáng hết hình và ngân hết nhạc”. Tuy nhiên, một phương diện khác quan trọng hơn, đấy
là nội dung cảm hứng của văn bản, sản phẩm của việc thể hiện những rung động mãnh liệt, cảm hứng


nồng nàn, cháy bỏng của nghệ sĩ vào tác phẩm. Đọc diễn cảm là làm sao lột tả được nội dung tình cảm
của nó, phải đọc đúng giọng điệu, làm lây lan cảm xúc của nhà văn đến người đọc, truyền cảm hứng
cho độc giả. Ngay tên gọi đã nói đúng bản chất của việc đọc diễn cảm, đó là người đọc phải thể hiện
xúc cảm, tình cảm trong giọng đọc.


Những cảm xúc này không phải giả tạo mà phải là cảm xúc chân thành, sâu sắc về văn bản. Nói đọc
diễn cảm thuộc nghệ thuật trình diễn trước hết khơng phải là “khoe giọng” mà là sự thể hiện xúc động
của trái tim. Chính vì thế, giáo viên sử dụng thích đáng biện pháp này sẽ tạo cho học sinh những ấn
tượng tươi mới, những xúc động mạnh mẽ về văn bản; đồng thời nó có khả năng kích thích liên tưởng,
tưởng tượng tạo sự thâm nhập thuận lợi vào thế giới nghệ thuật của văn bản. Cho nên, đây là biện
pháp có tác dụng rèn luyện cảm thụ văn học cho học sinh.


Giáo viên có thể sử dụng biện pháp này trước khi hướng dẫn học sinh bước vào phân tích cụ thể văn
bản, hoặc kết hợp với việc phân tích; cũng hồn tồn có thể sử dụng sau khi đã hồn tất việc tìm hiểu
văn bản. ở mỗi thời điểm nó đều có tác dụng riêng; hoặc là tạo những ấn tượng chung; hoặc kiểm
nghiệm hay khắc sâu một sắc thái tình cảm nào đó; hoặc củng cố, thống nhất, nâng cao mọi ấn tượng
về văn bản.


<i><b>2. Trần thuật sáng tạo</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

khoảng cách với văn bản, phát huy được sự sáng tạo. Giáo viên phải thực hiện biện pháp này một
cách linh hoạt, không nên rập khuôn. Việc trần thuật có thể thay cho việc đọc, hoặc thực hiện ở phần
củng cố bài học, tuỳ vào đối tượng học sinh.


Giáo viên nhất thiết phải có sự động viên khích lệ cũng như những hướng dẫn, uốn nắn cần thiết.
Mục đích chính của trần thuật sáng tạo không phải là để học sinh nắm vững hệ thống cốt truyện của
văn bản mà là con đường để cảm thụ văn bản. Do đó, giáo viên phải định hướng việc trần thuật vào
lĩnh hội và thể nghiệm giá trị của văn bản. Chẳng hạn, lưu ý học sinh diễn tả thế nào về những tình
huống trọng yếu, những diễn biến tâm lý và xúc cảm tế nhị của nhân vật. Cũng cần lưu ý rằng đây là
biện pháp phát huy sáng tạo của học sinh nhưng giáo viên phải có định hướng để học sinh khơng vì


cảm xúc và tình cảm mà thay đổi ý đồ sáng tác của nhà văn hay tính cách của nhân vật.


<i><b>3. Đặt những câu hỏi gợi cảm xúc, liên tưởng, tưởng tượng.</b></i>


Trước hết là những câu hỏi gợi cảm xúc, ở dạng đơn giản nhất chúng là những câu hỏi trắc nghiệm
tình cảm. Những câu hỏi này có thể kiểm tra phản ứng tình cảm của học sinh; mặt khác nó thúc đẩy sự
đồng cảm, khuyến khích các em lắng nghe tiếng nói của trái tim. Chẳng hạn, sau khi đọc diễn cảm, giáo
viên có thể hỏi: <i>Em có ấn tượng thế nào về văn bản?</i> Dạng câu hỏi này thường được gọi là câu hỏi ấn
tượng chung. Và ở dạng tương tự, sẽ có các câu hỏi như: <i>Em ấn tượng thế nào về (đoạn thơ, khổ thơ,</i>
<i>câu thơ…trong bài thơ; hay hành động, ngơn ngữ, tích cách nhân vật… trong truyện)?</i>


Nhưng cũng có những hình thức đặt câu hỏi sáng tạo hơn, dựa vào việc khơi gợi liên tưởng của học
sinh mà tạo sự đồng cảm, thể nghiệm văn bản. Chẳng hạn, dạy bài <i>Ra ma buộc tội</i>, khi phân tích hình
tượng Xi-ta, đến đoạn nhà văn miêu tả nỗi đau đớn như nghẹt thở của nàng, giáo viên có thể đọc câu:
“<i>Gia-na-ki xấu hổ cho số kiếp của nàng. Nàng muốn chơn vùi cả hình hài và thân xác mình”,</i> và hỏi học
sinh: <i>Khi chúng ta xấu hổ chúng ta có cảm giác thế nào khi đứng trước mặt mọi người?</i>


Hay để bình giá về chi tiết anh thanh niên trong <i>Lặng lẽ Sa Pa</i> của Nguyễn Thành Long vì “thèm
người” nên ngáng gỗ dọc đường không cho xe đi qua để gặp và trị chuyện cùng những người qua
đường, giáo viên có thể hỏi học sinh: <i>Có thể hiểu thèm người là cảm giác mà ai cũng có khi phải ở</i>
<i>hồn cảnh một mình hay cơ đơn khơng? Tại sao tác giả khơng nói anh rất cơ đơn, rất muốn gặp ai đó</i>
<i>để nói chuyện mà lại nói là “thèm người”? Và các em đã bao giờ trải qua cảm giác này hay chưa? Em</i>
<i>nghĩ gì về anh thanh niên?</i> Những câu hỏi dạng này khiến học sinh phải huy động kinh ngiệm bản thân
để soi sáng bản chất nhân vật, dễ đồng cảm sâu sắc với tình huống và cảnh ngộ của nó.


Ngồi ra, giáo viên có thể dùng những câu hỏi khơi gợi tưởng tượng của học sinh. Văn học dùng ngơn
ngữ làm chất liệu, do tính chất phi vật thể của ngơn ngữ nên hình tượng văn học khơng thể tác động
trực tiếp vào giác quan của người đọc, mà chỉ tác động gián tiếp thông qua liên tưởng, tưởng tượng.
Cho nên thưởng thức văn bản văn học đòi hỏi phải huy động tưởng tượng, hình thức tưởng tượng để
làm nổi bật lên bức tranh đời sống trong văn bản thường được gọi là tưởng tượng tái tạo.



Để huy động hình thức tưởng tượng này của học sinh vào cảm thụ văn bản, giáo viên có thể đặt các
câu hỏi với dạng sau: <i>Em hình dung thế nào về bức tranh (Với bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến chẳng</i>
<i>hạn thì bức tranh ở đây là bức tranh mùa thu) được tác giả thể hiện trong tác phẩm?</i> ở đây, hồn tồn
khơng phải là việc phân tích bức tranh mà là yêu cầu học sinh phải có cái nhìn bên trong thầm kín, phải
hình dung thấy bức tranh đó trong đầu mình, và trong chừng mực nhất định là sống với nó, đồng cảm
với nó. Khả năng tưởng tượng càng cao thì sự thâm nhập vào văn bản càng sâu sắc, và người đọc có
xu hướng quên đi thế giới thực tại, sống bằng thế giới tưởng tượng do nhà văn sáng tạo nên.


Nhưng tưởng tượng trong cảm thụ văn học cịn có hình thức khác đó chính là sự nhập thân vào
nhân vật, làm sống lại trên chính bản thân mình những cảm xúc nhân vật trải qua. Với thao tác liên
tưởng, học sinh vận dụng những gì mình đã trải nghiệm để hiểu nhân vật, cịn hình thức tưởng tượng
này lại u cầu học sinh thể nghiệm những gì chưa hề trải qua. Nó tạo ra sự xúc động, đắm say mãnh
liệt đối với văn bản. Để huy động hình thức tưởng tượng này của học sinh, giáo viên có thể dùng hình
thức đặt câu hỏi, các câu hỏi kèm theo những gợi ý nhất định. Chẳng hạn, tổ chức đọc hiểu bài <i>Hồi</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>tâm trạng thế nào? Một người bình thường về thăm quê có giống với người biền biệt xa quê, nay về quê</i>
<i>khi tuổi đã già rồi? Em nghĩ gì về tình huống của tác giả trong bài thơ?</i>


<i><b>4. Dùng lời bình đúng thời diểm </b></i>


Dùng những lời bình hấp dẫn và đúng chỗ có tác dụng rất lớn trong việc rèn luyện cảm thụ cho học
sinh. Trước hết, nó khiến học sinh có những ấn tượng sâu sắc khó phai mờ về vẻ đẹp của văn chương;
sau đến, rèn luyện khả năng thẩm định những điểm sáng thẩm mỹ trong văn bản. Biện pháp này cho
phép giáo viên phát huy phẩm chất nghệ sĩ của mình; và cũng vì thế kích thích mầm sáng tạo của học
sinh, tạo nên sự giao lưu về tình cảm trong giờ văn. Nhưng tuyệt nhiên giáo viên không được lạm dụng
biện pháp này, bởi nhiệm vụ chính của giáo viên là tổ chức để học sinh cảm thụ và lĩnh hội giá trị của
văn bản chứ không phải là trổ tài trình diễn để thơi miên học sinh. Do đó, giáo viên chỉ tung ra lời bình
khi học sinh cảm nhận chưa tới, đánh giá chưa xác đáng và những lời bình lúc đó có tác dụng hỗ trợ,
tiến tới khắc sâu ấn tượng cho học sinh, tạo nên những khối cảm thẩm mỹ. Lời bình vì thế, trước hết


phải giàu cảm xúc, là sản phẩm của sự xúc động sâu sắc trước vẻ đẹp của văn bản. Mặt khác, nó phải
độc đáo, giáo viên phải chọn cách nói ấn tượng, ưu tiên tiên những lối diễn đạt giàu hình ảnh nhằm tác
động mạnh đến học sinh.


Hơn nữa, giáo viên chọn bình những chi tiết nào là điểm sáng nghệ thuật của tác phẩm và việc bình
giá nó giúp học sinh nắm được thần thái, linh hồn của văn bản.


ở đây, chúng tơi muốn nói đến những lời bình có khả năng đánh thức liên tưởng của học sinh, nó
tựa con đường dẫn học sinh thâm nhập tự nhiên vào thế giới nghệ thuật văn bản. Tại sao lời bình lại có
chức năng này? Vì bản thân lời bình đó chứa đựng liên tưởng thẩm mỹ hết sức nhạy bén. Giáo sư
Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng bình văn chẳng qua là thể hiện một liên tưởng thẩm mỹ của người đọc
đối với tác phẩm. Chẳng hạn, Xuân Diệu bình chùm thơ thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến, ông kể lại
chuyến về thăm quê nhà thơ, vùng đồng bằng chiêm trũng, ngịi bút của ơng phác thảo cảnh vật nơi
đây, những phong cảnh đã đi vào thơ Nguyễn Khuyến, và từ những phác thảo rất duyên dáng đó, Xuân
Diệu dẫn ta vào những câu thơ của Nguyễn Khuyến, những câu thơ đã vẽ nên cái hồn, cái thần của
mùa thu, “điển hình cho mùa thu ở nơng thôn đồng bằng Bắc Bộ”.


Tương tự, giáo viên có thể khơi gợi học sinh nhớ về những đêm ngắm trăng sáng, những lần xa q
khơng ngi nỗi nhớ mà kí thác nỗi nhớ nhà lên tạo vật, lên vầng trăng khuya để từ đó cảm nhận nỗi
nhớ quê hương bồi hồi, bồn chồn, thẳm sâu, và vô cùng da diết, tắm vào không gian bàng bạc, vào
vầng trăng trên trời của nhà thơ Lý Bạch trong bài <i>Tĩnh dạ tư</i>. Hoặc gợi cho học sinh từ những bước
chân xa nhà, hoặc nỗi nuối tiếc quá khứ và dĩ vãng tươi đẹp đã qua mà thấu tỏ nỗi niềm lữ thứ, tấm
lòng ba đào, cố quận tang thương hoá vào trong tiếng quốc quốc đau lòng, sầu thảm; tiếng gia gia khản
giọng của Bà Huyện Thanh Quan trong bài <i>Qua đèo ngang. </i> Nghĩa là phải gợi lên những tình huống
của nhân vật, liên hệ với tình huống của bản thân để từ đó có những lời bình thích đáng, xuất phát từ
những rung động sâu xa, chân thật của tâm hồn. Nó làm cho rung động của nhà văn nay hiện hình
trong tâm hồn của học sinh. Học sinh nói về nhân vật, về văn bản là đang nói lên chính nỗi lịng mình.


<i><b>5. Đối chiếu văn bản với các loại hình nghệ thuật khác</b></i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Đối với những văn bản thơ đã được phổ nhạc như <i>Mùa xuân nho nhỏ</i> của Thanh Hải, <i>Đồng chí</i> của
Chính Hữu, <i>Viếng lăng Bác</i> của Viễn Phương, giáo viên hồn tồn có thể cho học sinh thưởng thức
những ca khúc này, chúng sẽ có tác dụng rất lớn trong việc tạo nên những xúc động mạnh mẽ của học
sinh về văn bản. Công việc này cùng với đọc diễn cảm có khả năng đánh thức cảm giác về nhịp điệu,
giai điệu cho học sinh và cũng từ đó cảm nhận những cung bậc của tâm hồn đang hát lên trong những
giai điệu đó.


Tài liệu thamkhảo


1. Nguyễn Trọng Hồn <i>Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương</i>, Nxb Giáo dục,
2001 .


2. Phan Trọng Luận, Trương Đình, Nguyễn Thanh Hùng, <i>Phương pháp dạy học văn</i>, Nxb Đại học quốc
gia Hà Nội, 1996.


3. Z.I.A Rez, <i>Phương pháp luận dạy học văn</i>, Nxb Giáo dục, 1983.


</div>

<!--links-->

×