Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đánh giá vai trò của chính phủ đối với sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiểu vùng Tây Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.02 KB, 8 trang )

ĐÁNH GIÁ VAI TRÕ CỦA CHÍNH PHỦ ĐỐI VỚI SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DNNVV TIỂU VÙNG TÂY BẮC
ThS. Đặng Công Thức
Đại học Tây Bắc

Tóm tắt
Mục tiêu của bài viết này nhằm khái quát lại sự phát triển của các DNNVV tiểu
vùng Tây Bắc ở khía cạnh số lượng và chất lượng, sau đó phân tích, đánh giá vai trị
của Chính phủ Việt Nam trong việc hỗ trợ sự phát triển DNNVV Việt Nam nói chung và
DNNVV Tây Bắc nói riêng. Sử dụng phương pháp thống kê mô tả các số liệu từ báo cáo
của Tổng cục thống kê và cục thống kê các tỉnh nghiên cứu thấy các DNNVV Tây Bắc
đã không ngừng gia tăng về số lượng trong 15 năm qua. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động
kinh doanh chưa cao nếu so sánh với địa phương cùng điều kiện. Chính phủ Việt Nam
đã có nhiều hoạt động cụ thể để hỗ trợ các DNNVV nhất là hỗ trợ tiếp cận vốn nhưng
phần lớn các chương trình hỗ trợ này đem lại hiệu quả chưa cao. Trong thời gian tới
cần có biện pháp tăng hiệu quả các chương trình của Chính phủ.
Từ khóa: DNNVV, tiếp cận tài chính, vai trị của Chính phủ với DNNVV

1. Sự phát triển của các DNNVV Tây Bắc
1.1. Về số lượng
Tiểu vùng Tây Bắc gồm 4 tỉnh Hịa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu là
khu vực trọng điểm về an ninh - quốc phòng. Trong nhiều năm qua Đảng và Nhà
nước đã có nhiều chính sách đặc thù nhằm khuyến khích phát triển kinh tế, xóa
đói giảm nghèo trong đó trọng tâm là đẩy mạnh về số lượng và nâng cao hiệu
quả hoạt động các doanh nghiệp. Theo báo cáo trong niên giám của Cục thống kê
các tỉnh thì số lượng DNNVV Tây Bắc đã không ngừng tăng lên qua các năm
(Bảng 1). Số liệu trong bảng tổng hợp cho thấy trong vòng 15 năm số lượng
DNNVV Tây Bắc đã tăng lên 15 lần, tốc độ tăng trung bình là 19% qua các năm.
Trong giai đoạn 2008 - 2015 số lượng DNNVV tăng nhanh và đều đặn nguyên nhân
là do các tỉnh đã đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, niêm yết cơng khai trình tự
thủ tục đăng ký doanh nghiệp, miễn thuế 4 năm cho doanh nghiệp mới thành lập,


đền bù, giải phóng mặt bằng, tiến độ giao đất, giao rừng, tiếp cận nguồn nguyên liệu
phục vụ sản xuất được quan tâm, hệ thống cơ sở hạ tầng đường Quốc lộ 6 được
nâng cấp sửa chữa, đi lại thuận tiện hơn,…

337


Bảng 1: Số lƣợng các DNNVV vùng Tây Bắc giai đoạn 2000 - 2015
Đvt: Doanh nghiệp
Năm

Điện
Biên

Lai
Châu

Sơn La

Hịa Bình

DNNVV
Tây Bắc

Cả nƣớc

Tỷ lệ
(%)

2000


114

130

138

382

36.305

0,0105

2001

143

154

196

493

42.288

0,0116

2002

178


181

248

607

51.680

0,0117

2003

203

72

219

297

791

62.908

0,0125

2004

235


129

274

390

1028

91.755

0,0112

2005

251

163

333

451

1198

100.124

0,0119

2006


262

172

341

467

1242

131.318

0,0094

2007

293

235

413

564

1505

155.771

0,0096


2008

336

297

510

681

1806

205.732

0,0087

2009

417

414

602

896

2329

248.842


0,0093

2010

502

557

657

1142

2858

266.803

0,0107

2011

647

577

718

1139

3081


324.691

0,0094

2012

710

615

832

1296

3453

339.841

0,0101

2013

756

638

830

1463


3687

346.777

0,0106

2014

967

820

1290

1710

4787

373.213

0,0128

2015

1056

922

1460


1908

5346

421.194

0,0126

Nguồn: Cục Thống kê các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Hịa Bình, Lai Châu
Trong bốn tỉnh thuộc vùng Tây Bắc thì Hịa Bình là tỉnh có nhiều
DNNVV hoạt động nhất (chiếm 35%) do tiếp giáp với thủ đô Hà Nội, là cầu
nối thương mại Đông - Tây nên thị trường phong phú, thuận lợi và tỉnh Lai
Châu có ít DNNVV hoạt động nhất (chiếm 17%) do mới được tách khỏi tỉnh
Điện Biên và giao thơng khơng thuận tiện, địa hình chia cắt, thường xuyên
chịu tác động thiên tai.
Tuy số lượng DNNVV Tây Bắc có tăng lên theo thời gian nhưng cịn chưa
tưng xứng với tiềm năng, với tổng diện tích của vùng. Tổng số DNNVV Tây Bắc
chỉ chiếm khoảng hơn 1% số lượng DNNVV cả nước, chỉ bằng ½ số DNNVV
của Tây Nguyên (cũng có 4 tỉnh), chiếm 8% số DNNVV của Hà Nội và chiếm
6,7% số DNNVV của Thành phố Hồ Chí Minh.

338


1.2. Về cơ cấu
* Theo hình thức sở hữu: Tính đến năm 2015 tồn vùng có 99,7%
DNNVV thuộc khu vực kinh tế ngồi Nhà nước cịn lại 0,3% thuộc kinh tế Nhà
nước (Bảng 2). Số lượng DNNVV thuộc sở hữu Nhà nước chiếm tỷ trọng thấp là
do thực hiện chủ trương sắp xếp, đổi mới các DNNN và có đến 95% các doanh

nghiệp Nhà nước tại Tây Bắc được xếp vào doanh nghiệp lớn theo tiêu chí của
Nghị định 56/2009.
Bảng 2. Số DNNVV Tây Bắc theo hình thức sở hữu năm 2015
Hình thức pháp lý
Doanh nghiệp ngồi Nhà nước
Doanh nghiệp Nhà nước
Tổng

Số lƣợng (DN)

Tỷ lệ (%)

5335

99,7

11

0,3

5.346

100

Nguồn: Cục Thống kê Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hịa Bình (2015)
* Theo hình thức pháp lý: Các DNNVV Tây Bắc chủ yếu được đăng ký
thành lập dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân (chiếm 67,2%), tiếp đó là đến
cơng ty trách nhiệm hữu hạn (chiếm 24,6%) và một phần nhỏ là công ty cổ phần
(chiếm 8.2%). Tại Tây Bắc phần lớn các DNNVV được phát triển từ các hộ kinh
doanh cá thể, quy mơ vốn nhỏ, trình độ quản lý kém, thị trường nhỏ hẹp, kinh

doanh tự phát nên số lượng doanh nghiệp tư nhân chiếm ưu thế cao (Bảng 3).
Bảng 3. Số DNNVV Tây Bắc theo hình thức pháp lý năm 2015
Hình thức pháp lý

Số lƣợng (DN)

Tỷ lệ (%)

3.592

67,2

439

8.2

Công ty trách nhiệm hữu hạn

1.315

24,6

Tổng

5.346

100

Doanh nghiệp tư nhân
Công ty cổ phần


Nguồn: Cục Thống kê Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hịa Bình (2015)
Tại Tây Bắc, tuy là vùng đồi núi với nhiều tiềm năng về khí hậu, đất đai,
rừng nhưng các DNNVV kinh doanh trong lĩnh vực nông - lâm - thủy sản chiếm

339


tỷ lệ rất ít khoảng hơn 3%, lĩnh vực được kinh doanh chủ yếu là Công nghiệp,
xây dựng và khai khống, tiếp đó đến thương mại và dịch vụ (Bảng 4). Thực
trạng trên là do các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ có tỷ suất lợi nhuận cao, ít
chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố thời tiết và trên khu vực này được sự quan tâm
của Trung ương, các tổ chức phi chính phủ nên hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng
phục vụ phát triển kinh tế diễn ra mạnh mẽ. Ngồi ra, ở đây có nhiều nguồn tài
nguyên với trữ lượng lớn và phong phú cũng thúc đẩy các doanh nghiệp thành
lập. Lĩnh vực kinh doanh nông, lâm - thủy sản tồn tại nhiều dưới hình thức hợp
tác xã hoặc hộ kinh doanh cá thể.
Bảng 4. Cơ cấu ngành kinh doanh của DNNVV Tây Bắc 2015
Số lƣợng (DN)

Tỷ lệ (%)

173

3,21

Cơng nghiệp, xây dựng và khai khống

2.920


54,63

Thương mại và dịch vụ

2.253

42,15

Tổng

5.346

100

Ngành kinh doanh
Nông - Lâm - Thủy sản

Nguồn: Cục Thống kê Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình (2015)
1.3. Hoạt động kinh doanh của DNNVV Tây Bắc
Các chỉ tiêu kinh doanh là thước đo quan trọng để đánh giá sự phát triển
của doanh nghiệp. Trong năm 2014 các DNNVV Tây Bắc đã đóng góp cho ngân
sách Nhà nước 798 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 118.682 lao động (Bảng 5).
Tuy nhiên, lợi nhuận sau thuế TNDN của doanh nghiệp toàn vùng đang ở mức
âm (đánh giá tổng thể là làm ăn không hiệu quả).
Bảng 5. Một số chỉ tiêu kinh doanh của DNNVV Tây Bắc năm 2014
Chỉ tiêu
Số
DN

Lao động

(ngƣời)

Nguồn
vốn (tỷ
đồng)

Doanh
thu thuần

Lợi nhuận
trƣớc thuế

Nộp ngân
sách

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

(tỷ đồng)

Tây Nguyên

9.488

244.625

202.570

197.898


4.989

2.427

Tây Bắc

4.787

118.682

81.703

46.396

-314

798

Tỷ lệ %

50,4

48,5

40,3

23,4

0


32,8

Khu vực

Nguồn: Tổng cục Thống kê và Cục Thống kê các tỉnh Tây Bắc 2014

340


Bảng 5 còn cho thấy nếu so sánh các chỉ tiêu kinh doanh của DNNVV Tây
Bắc với các DNVV Tây Nguyên (có một số điểm chung về điều kiện địa hình,
diện tích, cùng có 4 tỉnh) thì các DNNVV Tây Bắc có số lượng ít hơn, đóng góp
cho kinh tế - xã hội và hiệu quả hoạt động cũng kém hơn. Cụ thể như sau:
+ Số lượng DNNVV Tây Bắc chỉ bằng 50,4% số lượng DNNVV Tây Nguyên.
+ Kết quả giải quyết việc làm của DNVV Tây Bắc chỉ bằng 48,5% kết quả
giải quyết việc làm DNNVV Tây Nguyên.
+ Tổng nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh của DNNVV Tây Bắc chỉ
bằng 40,3% tổng nguồn vốn của DNNVV Tây Nguyên.
+ Doanh thu thuần của DNNVV Tây Bắc chỉ bằng 23,4% doanh thu thuần
của DNNVV Tây Nguyên.
+ Lợi nhuận trước thuế của DNNVV Tây Bắc bị âm, trong khi các
DNNVV Tây Nguyên là 4.989 tỷ đồng.
+ Đóng góp cho ngân sách Nhà nước của DNNVV Tây Bắc chỉ bằng
32,8% so với DNNVV Tây Nguyên.
Kết quả trên cho thấy các DNNVV Tây Bắc tuy đã có những đóng góp nhất
định cho các địa phương trong vùng nhưng so với các vùng kinh tế khác có nhiều
nét tương đồng về điều kiện thì những đóng góp này chưa đạt được kỳ vọng,
thực trạng này có thể do tỷ lệ thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào Tây
Bắc chưa cao, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thấp, điều kiện địa

hình hiểm trở, giao thơng đi lại khó khăn ảnh hưởng đến phát triển kinh tế,
phần lớn nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội của tỉnh phụ thuộc vào ngân
sách Trung ương, trình độ lao động chưa cao, chưa phát triển được thị trường
và thương hiệu của các mặt hàng nông sản địa phương, hiệu quả từ các chính
sách hỗ trợ của Nhà nước cịn chưa cao, khả năng tiếp cận vốn của các tổ chức
tài chính cịn hạn chế,… vì vậy cần phải có các biện pháp để tăng cường phát
triển, nâng cao hiệu quả hoạt động, cải thiện khả năng tiếp cận các nguồn vốn
của DNNVV toàn vùng để phát huy hết ưu thế, thế mạnh đóng góp nhiều hơn
cho kinh tế - xã hội các địa phương trong vùng.
Ngoài các chỉ tiêu kinh tế cơ bản trên thì chỉ tiêu thu nhập bình quân/lao
động và tỷ suất lợi nhuận sau thuế/doanh thu là chỉ tiêu quan trọng được nhiều
chủ thể quan tâm (Bảng 6).

341


Bảng 6: Chỉ tiêu kinh doanh quan trọng của DNNVV Tây Bắc năm 2014
Chỉ tiêu

2008

2011

2014

Thu nhập bình quân/ lao động ( nghìn đồng)

2.670

3.550


4.274

Tỷ suất lợi nhuận sau thuế/doanh thu (%)

1,59

0,32

0

Nguồn: Tổng Cục Thống kê và cục Thống kê các tỉnh Tây Bắc 2016

Số liệu trong Bảng 6 cho thấy thu nhập của người lao động đã tăng dần qua
các năm (từ 2008 đến 2014 thu nhập trung bình đã tăng hơn 60%) chứng tỏ các
DN rất chú trọng tới các chính sách cho người lao động nhằm ổn định cuộc sống
để họ yên tâm lao động sản xuất, sáng tạo chủ động trong cơng việc và khuyến
khích, thu hút lao động có chun mơn cao. Tuy nhiên, chỉ tiêu quan trọng là tỷ lệ
lợi nhuận/doanh thu (một đồng doanh thu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau
thuế) lại giảm nhanh. Đây là tín hiệu cảnh báo chung về hiệu quả cho các DNNVV
toàn vùng, hiệu quả kinh doanh chung rất thấp, hiệu quả sử dụng vốn cũng rất thấp
so với mặt bằng chung cả nước.
2. Vai trị của Chính phủ đối với sự phát triển của các DNNVV Tây Bắc
Sự phát triển về số lượng và chất lượng của DNNVV Tây Bắc trong 15
năm qua là kết quả của quá trình lỗ lực vươn lên của bản thân các doanh nghiệp
và sự tạo điều kiện về môi trường pháp lý, thể chế của Chính phủ. Đại hội Đảng
tồn quốc lần thứ 6 năm 1986 với chủ trương cải cách “đổi mới” toàn diện nền
kinh tế được coi là dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của DNNVV Việt
Nam nói chung và các DNVNV Tây Bắc nói riêng. Sau chủ trương cải cách,
hàng loạt cách chính sách và các quy định được ban hành để thúc đẩy sự phát

triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như Luật Doanh nghiệp năm 1990,
Luật Doanh nghiệp mới năm 2000. Hơn nữa, Chính phủ đã ban hành nhiều chính
sách cụ thể đối với các DNNVV như Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn
2006 - 2010, Kế hoạch phát triển DNNVV từ năm 2011 - 2015 (Quyết định số
1231/QĐ-TTg). Một nội dung quan trọng trong các chính sách trên là hỗ trợ tài
chính cho các DNNVV, hỗ trợ cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng và nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn. Ngồi ra, Chính phủ cịn thành lập Cục Phát triển
DNNVV (ASMED) trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư chuyên phục vụ việc xây
dựng và thực hiện chính sách cho DNNVV.

342


Trong hơn 15 năm từ năm 2001 Chính phủ đã thực hiện rất nhiều các
chương trình đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ phát triển tài sản tri thức cho các
DNNVV. Ví dụ: trong giai đoạn 2004 - 2008, Cục Phát triển DNNVV đã thực
hiện 3.704 khóa đào tạo cho các DNVVN gồm “1.372 khóa học về khởi sự kinh
doanh, 2.304 khóa học về quản lý kinh doanh và 28 khóa đào tạo cho các giảng
viên, với 182.870 người tham gia".
Về hỗ trợ các DNNVV tiếp cận tài chính: Chính phủ đã triển khai nhiều
chương trình hỗ trợ DNNVV. Đó là những quy định tài chính khuyến khích mở
rộng cho vay đối với các DNNVV, thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho
DNNVV, cung cấp các chương trình đào tạo cho các doanh nghiệp nhỏ để giúp
họ nâng cao năng lực của mình trong kỹ năng quản lý và lập kế hoạch kinh
doanh, thành lập Quỹ Phát triển DNNVV, các Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ Hỗ trợ
phát triển tại địa phương. Để hỗ trợ tài chính cho khu vực này, hầu hết các quốc
gia đều có Quỹ Phát triển DNNVV. Đây là một nguồn vốn quan trọng giúp các
doanh nghiệp khởi nghiệp. Tại Việt Nam, việc thành lập Quỹ Hỗ trợ phát triển
DNNVV đã được đặt ra từ 14 năm trước. Chính phủ đã ban hành Nghị định
56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển DNNVV cùng một số các

quy định khác về thành lập Quỹ Phát triển DNNVV nhưng đến thời điểm này
quỹ vẫn chưa đi vào hoạt động.
Ngồi ra, tính đến hết năm 2015 đã có 171 chứng thư còn hiệu lực với giá
trị vốn cam kết bảo lãnh 2.641 tỷ đồng, dư nợ vay ngân hàng thương mại
(NHTM) 1.729 tỷ đồng. Lũy kế số tiền đã trả cho NHTM 168 tỷ đồng và dư nợ
bắt buộc 162 tỷ đồng. Hơn nữa, hầu hết chính quyền các địa phương đều nhận
thấy việc thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV là cần thiết, nhưng gặp
khó khăn trong việc cân đối ngân sách. Nguyên nhân là do, vốn rất nhỏ và ngân
sách địa phương phải đóng góp tối thiểu 30% vốn điều lệ là rất khó, nhất là địa
phương nghèo có nhiều DNNVV cần bảo lãnh, khó có đủ điều kiện thực hiện; tổ
chức bộ máy và nhân sự làm nghiệp vụ bảo lãnh hạn chế, nhất là vùng sâu, vùng
xa, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn.
Đặc biệt, để hỗ trợ doanh nghiệp DNNVV, trong việc tiếp cận tín dụng
trong bối cảnh suy thối kinh tế từ năm 2008, Chính phủ đã áp dụng một chính
sách tiền tệ linh hoạt, các biện pháp thực hiện để kiểm sốt lạm phát để duy trì sự
ổn định của nền kinh tế, giảm bớt tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng,
giảm lãi suất cơ bản,…

343


Tóm lại, các DNNVV Việt Nam đã nhận được nhiều sự quan tâm từ Chính
phủ trên nhiều lĩnh vực trong đó có hỗ trợ tiếp cận tín dụng. Tuy nhiên, cho đến
hiện nay chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả của các chương trình và
chính sách hỗ trợ của Chính phủ. Cho dù Chính phủ đã nỗ lực hỗ trợ khu vực
DNNVV nhưng qua nhiều báo cáo điều tra các DNNVV vẫn than phiền về khó
khăn trong việc tiếp cận các khoản vay chính thức và các ngân hàng thương mại
vẫn phàn nàn về những trở ngại và rủi ro trong cho vay DNNVV.
Nhƣ vậy, doanh nghiệp nhỏ và vừa tiểu vùng Tây Bắc đã không ngừng
tăng lên về số lượng trong những năm qua. Trong đó Hịa Bình và Sơn La là 2

tỉnh có số lượng DNNVV lớn. Tuy các DNNVV có những đóng góp nhất định
cho các địa phương nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao. Nhận thức được vai trị
của DNNVV Chính phủ đã có nhiều chính sách đặc thù hỗ trợ sự phát triển của
DNNVV. Tuy nhiên hiệu quả của các chương trình và các chính sách chưa cao.

Tài liệu tham khảo
1. Cục Thống kê Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hịa Bình (2010, 2011,
2012, 2013, 2014. 2015), Niêm giám thống kê năm các năm 2003, 2004,
2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, NXB
Thống kê, Hà Nội.
2. Nghị định 56 của Chính phủ số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 về trợ
giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
3. Tổng Cục Thống kê (2005, 2006, 2007, 2008, 2009, 2010, 2011, 2012,
2013, 2014), Niên giám thống kê các năm 2005,2006,2007, 2008, 2009,
2010, 2011, 2012, 2013, 2014, NXB Thống kê, Hà Nội.
4. UBND Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hịa Bình (2012), Kế hoạch phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 5 năm giai đoạn 2011 - 2015
5. Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam - VCCI (2012), Báo cáo
tình hình doanh nghiệp và kiến nghị tại cuộc họp Chính phủ tháng
5/2012.

344



×