Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Chương trình du lịch “khám phá vẻ đẹp phố cổ hà nội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.08 KB, 23 trang )

NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
Chào mừng quý khách đến với chương trình Du lịch “Khám phá vẻ đẹp
phố cổ Hà Nội” của công ty Vietraval chúng tôi. Trước hết tôi xin tự giới thiệu,
tôi là Nguyễn Thị Trang - hướng dẫn viên của cơng ty. Cùng hành trình trong
chuyến tham quan của chúng ta cịn có các hướng dẫn viên là... sẽ đồng hành
với đồn chúng ta.
Tơi hy vọng chuyến tham quan dạo quanh phố cổ sẽ mang lại nhiều điều
bổ ích và thú vị để q vị có thể hiểu thêm và thẩm nhận về nét đẹp của phố cổ
Hà Nội.
Thay mặt công ty, tôi xin gửi đến quý khách lời chào nồng nhiệt và lời
chúc cho chuyến tham quan của chúng ta thành công và thu được nhiều điều bổ
ích.
Bây giờ tơi xin thơng báo lại lịch trình cụ thể của đồn trong ngày hơm
nay mà tơi đã phát cho quý khách.
6h45 : Đón khách tại trường Đại học Văn hoá Hà Nội
7h30 : Tham quan đền Ngọc Sơn
8h15 : Tham quan số nhà 48 hàng Ngang
8h45 : Tham quan chùa Cầu Đông
9h30 : Tham quan đền Bạch Mã
10h15: Tham quan và tự do mua sắm chợ Đồng Xn
11h15: Ăn trưa và nghỉ nghơi
Nếu có gì khơng rõ xin quý khách đừng ngừng ngại hỏi lại tôi hoặc trưởng đồn
để chương trình của đồn được thực hiện tốt. Rất mong sự hợp tác chặt chẽ của
cả đoàn.
Vâng, thưa quý khách, hiện tại chúng ta đang đi quanh khu vực hồ
Gươm. Trước mắt quý vị nhìn thấy là hồ Gươm. Xưa có tên hồ Lục Thuỷ bởi
đây là một nhánh cũ của sơng hồng, nước có màu xanh do một tảo nước ngọt
đặc thù. Vào thế kỷ XV, có tên gọi hồ Hồn Kiếm, Hồ Gươm gắn hiền với
1
Nguyễn Thị Trang


Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
truyền thuyết trả gươm thần cho Rùa Vàng, ghi lại thắng lợi của cuộc chiến đấu
10 năm của nhân dân Việt Nam chống lại quân Minh (1417-1427) dưới sự lãnh
đạo của Lê Lợi. Truyền thuyết kể rằng khi Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn
(Thanh Hố) có mị được một lưỡi gươm, sau đó lại nhặt được một cái chuôi ở
ruộng cày. Gươm báu này đã theo Lê Lợi trong suốt thời gian kháng chiến
chống giặc Minh. Khi lên ngơi về đóng đơ ở Thăng Long, trong một lần nhà
vua đi chơi thuyền trên hồ Lục Thuỷ, bỗng một con rùa xuất hiện. Lê Thái Tổ
rút gươm khỏi vỏ, giơ gươm ra thì gươm bay về phía con rùa. Rùa ngậm gươm
lặn xuống đáy hồ, và từ đó hồ Lục Thuỷ có tên gọi mới là hồ Hoàn Kiếm (trả
gươm) hay hồ Gươm.
Thưa quý khách, Trên hồ có hai hịn đảo: Đảo Ngọc và Đảo Rùa. Cuối thế kỷ
XVI, chúa Trịnh dựng phủ Chúa ở phường Báo Thiên (nay là Nhà Thờ Lớn) và
ở chỗ phố Thợ Nhuộm gần hồ nên đặt tên cho hai phần hồ là Hữu Vọng và Tả
Vọng. Sau đó Trịnh Doanh cho đắp ở bờ hồ, chỗ đối diện với đảo Ngọc, một gị
đất có tên là gị Ngọc Bội, cịn trên đảo Rùa thì cho dựng dinh Tả Vọng. Cùng
thời gian này, hồ có tên gọi hồ Thuỷ Quân – nơi quân triều đình phong kiến
luyện tập chiến thuyền. Khoảng năm 1729 – 1740 xây cung Khánh Thuỵ trên
đảo Ngọc, xây đắp núi Độc Tôn biểu dương võ công triều đình Lê Trịnh. Cuối
đời Lê, cung Thuỵ Khánh bị Lê Chiêu Thống phá huỷ. Đến thế kỷ XIX, ơng
Tín Trai người làng Nhị Khê (Thường tín – Hà Tây) xây chùa Ngọc Sơn trên
nền cung Khánh Thuỵ. Thời Lê, có gác chng trước chùa. Đến 1843, người ta
bỏ gác chuông đi biến chùa thành đền. Ngọc Sơn tự đổi thành ngọc Sơn từ thờ
Tam thánh. Đảo Ngọc vốn là “Điếu ngư đài” đài câu cá thời Lê. Sau xây cung
Khánh Thuỵ dùng làm nơi nghỉ mát của các chúa Trịnh. Năm 1843, hội Hương
thiện(gồm những Hoa Kiều tại Hà nội) xây dựng lại đền thờ Văn Xương Đế
Quân, Lã Đồng Tân, Quan Đế, Trần Hưng Đạo. năm 1865, Nguyễn Văn Siêu

xây lại đền Ngọc Sơn, đình trấn Ba, bắc một cây cầu từ bờ đông đi vào gọi là
cầu Thê Húc.
2
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
Thưa quý khách !
Từ cổng ngồi đi vào có Nghi mơn phía tay trái đắp rồng, phía tay trái
đắp hổ nhìn về hường Đơng mang biểu tượng Tiến sỹ, Cử nhân. Dụng ý mảnh
đất này mang tình Long Hổ hội (nơi quần tụ của giới trí thức), tượng trưng cho
hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng
gắng công học hành.
Thưa quý khách !
Tiếp đến quý khách hướng mắt sang phía tay phải của tơi là cây tháp đá.
Trên núi Ngọc Bội cũ, Nguyễn Văn Siêu cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình
ngọn bút lơng, thân tháp mặt phia Bắc có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết
lên trời xanh) - đây là tuyên ngôn của giới nho sỹ đương thời - tư tưởng mênh
mông hịa cùng trời đất! , ngày nay thường gọi đó là tháp Bút. Tháp bút 5 tầng
cao 28m, cạnh đáy vuông 2m gắn với Nho Giáo: ngũ luân, ngũ thường, ngũ
hành: kim - mộc - thuỷ - hoả - thổ, là sự thể hiện của văn chương - hành hoả dương – nam tính. Ngọn bút lơng cao 0,9m. Tồn bộ ngọn tháp cao 28,9m.
Tháp bút biểu dương văn trị trên nền võ công (tức khi đánh thắng kẻ thù đắp
núi Độc Tơn biểu dương võ cơng, sau đó người ta xây bút tháp trên núi Độc
Tôn thể hiện sau chiến tranh biểu dương tri thức.Vì thế, Ngọc Sơn là hình ảnh
thu nhỏ của sự dung hồ tam giáo.
Thưa q khách !
Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là đài Nghiên gắn với giai thoại Mặt trời chiếu
xuống tháp bút chấm vào đài nghiên tạo thành một đường thẳng vào ngày 5/5.

Nghiên tạc năm 1865, từ một tảng đá xanh, trên có đặt một cái nghiên mực
bằng đá hình nửa quả đào bổ đơi theo chiều dọc, kht lõm lịng, bề dài quả đào
0,97m, bề ngang 0,8m, cao 0,3m, chu vi 2m, có hình ba con cóc đội, đơi nghiên
như ba chân kiềng, biểu hiện của quyền uy, công dụng của cái nghiên mực xét
về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: Nhất đài Phương Đình bút.
3
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
Thưa quý khách !
Qua cầu Thê Húc sẽ dẫn chúng ta tham quan đền Ngọc Sơn.
Tên cầu Thê Húc - cầu con tôm, nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt
trời. Năm tự Đức thứ 18, do nhà nho Nguyễn văn Siêu tu sửa. Đền chính gồm
hai ngơi đền nối liền nhau. Phía nam là Phương Đình hay gọi tên đình Trấn Ba
(đình chắn song - ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng khơng lành mạnh
trong nền văn hố đương thời). Đình hình vng có tám mái, mái hai tầng có 8
cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Các nhân vật được
thờ trong đền ngoài Văn Xương Đế Quân, Lã Động Tân, Quan Vân Trường,
Trần Hưng Đạo, còn thờ cả phật A Di Đà. Vượt qua sân đình q khách hướng
mắt về phía bắc là đền chính thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng Văn
Xương đứng, tay cầm bút được đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1m, hai
bên có hai cầu thang bằng đá. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng
nguyên của người Việt.
Vâng, quý khách có 10 phút tự do tham quan và chụp ảnh ở đây.
Đúng… tập trung trước cổng đền Ngọc Sơn chúng ta sẽ tiếp tục cuộc hành
trình!


Thưa quý khách!
Tiếp tục chuyến thăm quan của chúng ta chia tay với di tích đền ngọc
Sơn và quần thể di tích Hồ Gươm, tiến lên khu phố cổ Hà Nội. Chúng ta đang
đi trên phố Hàng Đào. Phố Hàng Đào đã có từ lâu đời. Tại Hoa Lư xưa cũng đã
có phường Hàng Đào. Phố Hàng Đào tại thành Thăng Long xưa thuộc phường
Đồng Lạc và Đại Lợi, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương đời Hậu Lê. Phường
Đại Lợi tập trung người làng Đan Loan (Bình Giang, Hải Dương), làng Đình
Loan, Đơng Cao (Bắc Ninh) chun nghề nhuộm tơ lụa có từ thời Trần, Hồ,
đến đời Lê đã rất sầm uất. Các nhà bán vải chủ yếu là bán lẻ. Phiên chợ tơ của
phố mở vào ngày mồng 1 và 6 âm lịch hàng tháng. Phố Hàng Đào có rất nhiều
4
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
điểm đến như Đình hoa Lộc,Nhà cổ 38… Nhưng do thời gian có hạn, chúng
ta sẽ tiếp tục đi tham quan phố hàng Ngang như trong lịch trình tơi đã phát
trước đó.
Thưa q khách chúng ta đang đi trên phố Hàng Ngang.
Phố Hàng Ngang xưa thuộc phường Diên Hưng, tổng Tiền Túc, huyện
Thọ Xương thành Thăng Long. Thế kỷ XVIII, đoạn đầu phố giáp phố Hàng
Đào gọi là phố Hàng Lam, phố bán đồ tơ lụa màu xanh lam; đến thế kỷ 19 có
tên là phố Việt Đông, phố những người Hoa Kiều Quảng Đông. Khu phố Hoa
Kiều bn bán sầm uất, giàu có, hai đầu phố làm hai cánh cổng để buổi tối
đóng lại, đó có thể là một nguồn gốc của tên gọi Hàng Ngang.
Thưa quý khách, hướng mắt về phía tay trái của chúng ta chính là điểm
tham quan của đồn -số nhà 48 – nơi Chủ Tịch Hồ Chí Minh Viết Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà năm 1945.

Thưa quý khách, chúng ta đang đứng trước số nhà 48, liếc mắt lên phía
trên cửa nhà có gắn một tấm bảng đá nổi bật với dịng chữ vàng: “Trong ngơi
nhà này, tại một phịng gác nhỏ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bản Tuyên ngôn
độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa”.
Mời q khách vào bên trong ngơi nhà!
Thưa q khách, . Ngơi nhà có 4 tầng, trước đây tầng dưới làm cửa hàng bán
tơ lụa, tầng 2 và 3 có nhiều phịng dùng làm phịng tiếp khách, phịng ăn, phịng
ngủ, tầng 4, ngồi phịng dùng làm kho chứa hàng, cịn có một sân thượng phơi
phóng. Hiện nay, tầng 1 và tầng 2 làm nơi trưng bày các hiện vật liên quan đến
sự kiện Bác viết bản Tuyên ngôn cũng như các sự kiện khác có liên quan đến
cuộc đời, sự nghiệp của Người cũng như của Cách mạng Việt Nam.
Chủ ngôi nhà ông bà Trịnh Phúc Lợi. Đến những năm đầu thế kỷ XX,
ông bà Lợi đã trao cho vợ chồng người con lớn là Trịnh Văn Bô quản lý. Gia
đình ơng bà Trịnh Văn Bơ là một gia đình yêu nước, được giác ngộ cách mạng
và là một trong những cơ sở cách mạng tại nội thành.
5
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
Tầng1 là pòng trưng bày các hiện vật, q khách có thể theo tơi để tìm hiểu
những ẩn tích trong những bức tranh và các hiện vật nhỏ bé ấy…..
Tiếp theo lên đến tầng 2, đồn chúng ta có thể tham quan các phịng
hội họp, phòng làm việc riêng, phòng ngủ của Bác.
Trước mắt chúng ta là căn phòng làm việc của Bác. Căn phòng rộng
chừng 60m2, chính giữa phịng là một chiếc bàn chữ nhật có kích thước lớn
bằng gỗ màu cánh dán sẫm, 8 chiếc ghế tựa mềm bọc nỉ xanh phủ trắng. Tại
đây, ngày 26/8/1945, Hồ Chủ tịch đã chủ trì cuộc họp với Thường vụ Trung

ương Đảng bàn việc mở rộng thành phần Chính phủ nhằm đồn kết rộng rãi các
tầng lớp nhân dân, tổ chức yêu nước, quyết định ngày ra mắt Chính phủ lâm
thời trước quốc dân Đại hội vào dịp mồng 2/9/1945.
Bước vài bước chân qua góc phải phía ngồi của phịng họp cịn có một chiếc
bàn nhỏ và một chiếc ghế tựa cũng được bọc nỉ phủ vải trắng. Trên bàn là chiếc
máy chữ mà Bác Hồ đã dùng từ Chiến khu Việt Bắc, Bác đã dùng chiếc máy
chữ này soạn thảo các chỉ thị của Đảng và Tuyên ngôn Độc lập.
Mời quý khách theo tôi sang hành lang phía tay trái trước mắt chúng ta là căn
phịng nhỏ của Bác diện tích chừng 20m2, đồ đạc rất đơn sơ. Chúng ta có thể
thấy, góc trong kê một chiếc bàn trịn, một chiếc ghế bành có tựa cao, bọc vải
trắng. Góc bên đặt một chiếc đi văng, một chiếc tủ gỗ màu cánh dán và một
chiếc giường vải xếp Bác vẫn nằm nghỉ ngơi. Chính tại căn phòng nhỏ bé này,
Bác Hồ đã khởi thảo bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hịa. Bản Tun ngơn Độc lập đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh
trọng tuyên bố với thế giới vào ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình lịch
sử, chấm dứt chế độ thực dân và phong kiến ở nước ta, đồng thời mở đầu một
Kỷ nguyên mới, Kỷ nguyên nhân dân ta tự nắm lấy vận mệnh của mình để thực
hiện Độc lập - Tự do và Hạnh phúc.

6
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Nói về di tích 48 Hàng Ngang có rất nhiều điều phải bàn tới nhưng do thời
gian chỉ có 25 phút tham quan nên bây giờ la 10 phút để quý khách tự do tìm
hiểu, có điều gì thắc mắc tơi sẽ giải đáp.

Thưa q khách đi thẳng phố hàng Ngang sẽ là phố hàng Đường, điểm đến
tiếp theo trong hành trình là di tích chựa Cu ụng!
Mời quý khách theo tôi ! Chúng ta đang đứng tr-ớc chùa Cầu Đông, mời quý
khách đi vào bên trong sân chùa, tôi sẽ giới thiệu chung tổng quan ngôi
chùa. Do thời gian có hạn chúng ta chỉ có 30 phút nên tôi xin cung cấp
những thông tin chính và sẽ để một khoảng thời gian để quý khách tự do
tham quan.
Vâng, Th-a quý khách, đối với chùa Việt Nam h-ớng Tây và h-ớng
Nam là hai h-ớng đẹp và t-ơng đối phổ biến. H-ớng Nam là h-ớng đầy d-ơng
tính, sáng sủa, hợp với khí hậu n-ớc ta; đồng thời là h-ớng của đế v-ơng, là
ph-ơng của trí tuệ. H-ớng Tây đ-ợc tin là ổn định nhất vì hợp với sự vận hành
của âm d-ơng, khiến cho thần linh không rời bỏ nghĩa vụ vì chúng sinh đau
khổ. cũng có khi ngôi chùa quay về hướng Đông, đó là hướng của các thần,
h-ớng này phù hợp với các chùa dòng Tiểu thừa, th-ờng thấy ở đồng bằng sông
Cửu Long, ít khi thấy trên đất Bắc Bộ. Chùa Cầu Đông là một trong số ít những
ngôi chùa nh- vậy, quay theo h-ớng chính Đông.
Nh- quý khách có thể thấy ngôi chùa toạ lạc trong khu phố cổ thuộc phố
Hàng Đ-ờng. Di tích quay về h-ớng Đông là điều hợp lý vì thực chất là quay ra
mặt đ-ờng, thuận tiện đi lại để chúng sinh năng vào lễ Phật, cõi thiền gần với
cõi đời hơn. thêm nữa, tuy h-ớng Đông không nhiều ý nghĩa Phật pháp nhh-ớng Nam, h-ớng Tây song cũng đ-ợc quan niệm là h-ớng mang sinh lực vũ
trụ đến cho con ng-ời. Phật ở ph-ơng Tây nhìn về ph-ơng Đông để cứu hộ
chúng sinh.
7
Nguyn Th Trang

Lp: VHDL 15A


NGHIP V HNG DN DU LCH
Th-a các bạn, điều chúng ta quan tâm tr-ớc tiên là tên gọi của ngôi chùa

này. Sở dĩ chùa Đồng Môn có tên dân gian là chùa Cầu Đông vì gần với cầu Đá
- chợ Cầu Đông ngày tr-ớc. Hiện t-ợng có chợ kề đi bên di tích là một kết cấu
khá cổ của kiến trúc tôn giáo cổ truyền việt. Quý khách có thể thấy ở chùa Dâu
( Bắc Ninh ), chùa Mía ( hà tây ), đền Bạch MÃ ( Hà Nội )chợ và chùa d-ờng
nh- mâu thuẫn với nhau, một bên là sự ồn ào của cuộc sống th-ờng nhạt, một
bên là sự tĩnh lặng của kiếp tu. Tuy nhiên, hai mặt này không triệt tiêu nhau mà
tồn tại nh- một đối trọng, tạo nên một nếp sống đầy chất văn hoá truyền thống.
Chợ Cầu Đông x-a còn có tên là Hoa Thị vì bán rất nhiều hoa, nh-ng đà là chợ
thì phải gắn với mua bán, cạnh tranh, kiếm lời. Nh- vậy cấu trúc chợ chùa đÃ
dựa vào Thần Phật tạo thế ổn định cho xà hội đời th-ờng. Chùa h-ớng về phía
sông Nhị Hà ( sông Hồng ), đằng sau là thành Thăng Long, bên trái là sông Tô
Lịch. Nhánh sông Tô này về sau bị lấp, tạo nên các phố Ngõ Gạch, Nguyễn
Siêu. Sông Tô ngày x-a nổi tiếng với vẻ đẹp lÃng mạn và trữ tình hiếm thấy,
đ-ợc ghi lại trong ca dao ngạn ngữ Hà Nội:
N-ớc sông Tô vừa trong vừa mát
Em nghé thuyền đỗ sát thuyền anh
Hay:Sông Tô n-ớc chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng chạy gần chạy xa.
Di tích chùa Cầu Đông ch-a hội tụ trọn vẹn những yếu tố địa hình, cảnh
quan của một nơi linh địa, song có thể tạm coi là một mảnh đất đẹp,gần yếu tố
n-ớc, hợp với t- duy của c- dân nông nghiệp.Yếu tố n-ớc chính là l-u thuyền
với dòng Nhị Hà chảy n-ớc mặt phía xa và sông Tô Lịch vòng quan bên cạnh.
Bia Vĩnh Thịnh thứ 8(1712) cũng chép: Lặng bốn phía quang cảnh hào hoa,dẹp
tám bề phong quang đẹp mắt. Dải sông Tô Lịch, sóng gằn gằn n-ớc chảy lững
lờ ,đê La Thành giữ phía sau, sông Thiên Đức chầu mặt tr-ớc.Trùng trùng ,điệp
điệp núi sông chÇu dùa.

8
Nguyễn Thị Trang


Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
Th-a quý kh¸ch, Di tÝch chùa Cầu Đông là một quần thể kiến trúc, theo
h-ớng đông quay mặt về phía bờ sông Hồng. Tôi sẽ nói về tổng quát về kết cấu
xây dựng, sắp xếp chùa Cầu Đông !
Tam quan chùa nằm sát mặt phố Hàng Đ-ờng, xây hai tầng, tầng hai là
gác chuông .Sau Tam quan là một khoảng sân nhỏ ,lát gạch và đặt một số chậu
cảnh mang tính chất trang trí tạm thời. Góc phải của sân là Nhà bia t-ởng niệm
các liệt sĩ ph-ờng Hàng Đào, xây năm 1992 bằng vật liệu hiện đại, mô phỏng
phong cách truyền thống theo thể thức chồng diềm hai tầng tám mái. Qua sân
gạch là tầng chùa chính bao gồm tiền đ-ờng, Tiểu h-ơng và Thiện điện là hai
dÃy hành lang chạy song song. Hành lang phải dùng làm nơi sinh hoạt của sni, hành lang trái chính là phần đất nhà chùa mới thu lại. Cạnh nhà Tổ,đất chùa
mở rộng theo chiều ngang với các công trình nh- kho, nhà bếp.
Tiếp giáp và chung vách với phần chùa chính và bên trái là đình Đức
Môn. Đình có cấu trúc dạng ống gồm ba toà nhà nối liền nhau, đều chia ba
gian, Kết cấu vì gỗ chỉ mang tính chất t-ợng tr-ng, bộ phân chịu lực chính là trụ
gạch, t-ờng bao. Mặt tiền của đình bị xây bịt thành cửa hàng.
Thông th-ờng, Chùa và đình có sự gắn bó chặt chẽ, tồn tại bên nhau trong
thời gian dài. Đình Đức Môn đ-ợc coi nh- điện thờ Đức Ông, thuộc hệ thống
chùa. Nh- vậy ,tổng thể công trình có dạng nội công ngoại quốc lối kiến trúc
th-ờng thấy ở các chùa lớn của Việt Nam.Với khuôn viên khép kín ,chùa Cầu
Đông d-ờng nh- thoát khỏi cái dung tục của đời th-ờng, trong nó hàm chứa
một sức mạnh cao siêu, kỳ diệu mà nhịp sống hiện đại bên ngoài không thể lấn
át đ-ợc. Tỏng thể công trình bao gồm các phần nh- : Tam quan, Tiền đ-ờng,
Thiêu h-ơng, Th-ợng điện, Đình Đức Môn và một số di vật tiêu biểu bằng
đá, bằng gỗ, bằng đồng
Do thời gian không cho phép, cho nên đoàn chúng ta bat dau tham quan
phần Tam quan của ngôi chùa !

Nh- mọi kiến trúc truyền thống, chùa Cầu Đông cũng có Tam quan, bao
hàm ý nghĩa Phật triết sâu sắc ,có thể coi nh- tuyên ngôn của đạo Phật đối với
9
Nguyn Th Trang

Lp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
®êi. Chóng sinh b-íc qua Tam quan chùa phần nào đà mang tâm Phật, ít nhiều
giác ngộ đ-ợc cái vi điệu của đạo pháp.Theo đạo Phật, Tam quan là ba cửa thâu
tóm tám vạn t- lối nhìn, bao gồm: Không quan ,giả quan và Trung quan. Ơ đây
không là không, Giả là Sắc, còn Trung là Giải thoát.
Năm 1994,chùa dựng Tam quan mới bằng vật liệu xây dựng hiện đại (vôi
vữa, gạch, xi măng) nh-ng thể hiện theo phong cách truyền thống nh- chúng ta
nhìn thÊy hiƯn nay.
Tam quan cã bèn trơ lín (cao 5m) tạo cho vòm trung quan có độ sâu,đổ
mái bằng và xây gác chuông ở tầng hai. Sát t-ờng nhà dân có hai cột trụ nhỏ
(cao 4m). Mặt ngoài Tam quan, phần nối giữa trụ chính và trụ nhỏ xây giật ba
cÊp, trang trÝ gê nỉi. C¸c trơ cã kÕt cÊu và trang trí giống nhau gồm ba phần:
đầu trụ, thân trụ và đế trụ. Đế trụ làm dạng quả găng , xây gờ, giật cấp, ăn sâu
xuống lòng đất, làm móng chịu lực chính. Thân trụ xây hình vuông, trụ lớn mỗi
cạnh 0,45mx0,45m, trụ nhỏ 0,38mx0,38m; trên thân đắp gờ kẻ nổi để nhấn mạnh
các câu đối chữ Hán. Tiếp đến là phần lồng đèn, các mặt đắp nổi hình tứ linh.
Những linh vật này đều đ-ợc thể hiện trong hình thức động, cách tạo
dáng nh- muốn thể hiện sức mạnh linh thiêng của chúng, song nghệ thuật tạo
hình không có gì đặc sắc. Đỉnh trụ đắp kiểu bốn con chim ph-ợng bay ra bốn
góc, lộn ng-ợc, thân xuống d-ới, đầu cong lên. Đuôi ph-ợng chụm lại thành
bốn múi, chĩa lên trên .Hình thức này th-ờng gọi là kiểu lá lật, đuôi ph-ợng
mang hình thức một thứ lá cách điệu.

Gác chuông có bốn mái, lợp ngói vẩy hến, bờ nóc có con kìm là hai đầu
rồng chầu mặt trời, đầu đao uốn cong duyên dáng thể hiện vân mây. Hệ mái tựa
trên hai bộ vì, tạo thành một gian.
Các cửa của Tam quan có dạng cuốn vòm, trên cửa giữa đắp nổi ba chữ
Đông Tự Môn, hai bên ghi tên chùa bằng chữ quốc ngữ và số nhà, Gỗ làm cửa
khá tốt, dày dặn , bề mặt đ-ợc chạm bong kênh với nhiều đề tài. Cửa chính cao
2,2m , gồm hai cánh, mỗi cánh rộng 0.8m, chia thành ba ô để trang trí. Khi
khép hai cánh, bốn ô trên tạo thành một chữ Thọ và có hai con dơi ,điểm xuyết
bên trong là những hình đồng tiền ngũ thù. Hai ô d-ới chạm hình cá hoá rồng,
10
Nguyn Th Trang

Lp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
Èn hiƯn trong nh÷ng cơm m©y lín, cưa nhá cao 1,9m, réng 0,8m, chia bèn ô với
đề tài chính: long ,ly ,quy ,ph-ợng. Tam quan là sự kết hợp hài hoà giữ yếu tố
hiện đại và phong cách truyền thống. Do vậy, không mất đi sự uyển chuyển,
thâm nghiêm, phần nào xoá đ-ợc sự khô cứng của vôi vữa.
Mi quý khỏch vo bờn trong Tin Đường! Đoàn chúng ta sẽ thắp
những nén nhang thể hiện lũng thnh kớnh!
Tiền đ-ờng (còn gọi là Bái đ-ờng ) cách Tam quan bởi khoảng sân nhỏ
đ-ợc lát gạnh. Sân chùa, hiên và mặt bằng của Tiền đ-ờng rất thấp, không phân
cấp nền
Toà Tiền đ-ờng làm theo kiểu t-ờng hồi bít đốc, mái tr-ớc dài hơn mái
sau,lợp ngói kiểu vẩy hến. Bờ nóc có niên đậi muộn, là một đ-ờng xây bằng
gạnh có phủ vữa áo,tạo những đ-ờng gờ chạy song song. Giữa bờ nóc có bức
đại tự ghi tên chùa, nay đà mất, chỉ còn dấu vết của vài viên gạch xây trên bờ
nóc. Còn kìm là hai đầu rồng thắp bằng vữa. Rồng không có thân , mắt lồi, to

tròn có vành, miệng dài há rộng ngậm vào bờ nóc. Sát cạnh đầu rồng là đấu
nắm cơm-một hình thøc trang trÝ phỉ biÕn ë nh÷ng kiÕn tróc cã kết cấu t-ờng
hồi mít đốc. Bờ giải chạy vuông góc với bờ nóc,cũng đắp vữa,xây giật cấp theo
kiểu tay ngai.
Chiều ngang tiền đ-ờng là 8,6m ,sâu 4,3m ,nến nhà lát gạnh đà hoa, kích
th-ớc 0,2mx0,2m.Bộ khung đ-ợc định vị khá vững chắc bởi 4 bộ vì theo kiểu
th-ợng giá chiêng hạ kẻ,tạo thành 3 gian 2 chái. Kích th-ớc các gian không đều
nhau, gian giữa rộng nhấ 2.7m .Phần chái bên trái đà cắt sang hình Đức Môn.
Đầu hồi phải không xây mà dùng các thanh gỗ hẹp bản ghép khít vào nhau.
Phần diện tích còn lại, sát t-ờng là lối đi vào khu vực sau của chùa.
Chỳng ta ó bit, Chùa thờ phật, do đó chùa nào cũng có t-ợng phật.
Trong điện thờ của các chùa Bắc Bộ ngoài t-ợng phật còn có t-ợng mẫu, t-ợng
tổ, t-ợng thánh thần đó là biểu hiện sự dung hợp các tôn giáo, tín ng-ỡng
cùng tồn tại và phát triển trên đất Việt.
11
Nguyn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIP V HNG DN DU LCH
Chùa Cau ông có khá nhiều t-ợng, gần 60 pho. Số t-ợng mẫu chiếm tỷ
lệ lớn nh-ng niên đại muộn, kỹ thuật tạo tác không cao, kích th-ớc nhỏ. Ni bt
l
Ba pho Tam thế đ-ợc đặt ở trên cao và sâu nhất của Th-ợng điện, Tên
đầy đu đ-ợc gọi là Tam Thế Tr-ờng Trụ Diệu Pháp Thân (Tam Thế:3 thời,quá
khứ gọi là Trang Nghiêm kiếp,hiện tại gọi là Hiền kiếp, vị lai gọi là Tinh Tú
kiếp. Mỗi đại kiếp này xấp xỉ 1 344 000 000 năm:Tr-ờng Trụ: tồn tại vĩnh hằng
; Diệu: đẹp đẽ, linh thiêng,nhiệm màu : Pháp Thân: cái chân thực sự không biến
đổi ,không lệ thuộc vào hình - danh-t-ớng ,không sinh ,không diệt, tức cái đạo

thể,Phật thân).Một tên khác là Tam Thế Thiên Phật, có nghĩa là ba nghìn vị Phật
nối nhau giáo hoá chúng sinh trong ba đại kiếp.
Bộ t-ợng Tam Thế chùa Cầu Đông kích th-ớc trung bình, dáng cân đối
theo bố cục hình tháp, vững chÃi, có tính chuẩn mực. Mặt t-ợng thanh, là sản
phẩm của thế kỷ XIII, các nét phảng phất nữ tính dịu dàng, thuần hậu. Đầu
t-ợng nở, có những hàng tóc xoắn ốc màu sẫm . Đỉnh đầu nổi cao thành một
khối tròn nh- bát úp gọi là Nhục kháo (Unisa),biểu hiện của thông minh, trí tuệ.
Tai t-ợng dài gần chạm vai, hàng nguyệt mi nối với sống mũi trong vẻ đẹp
thánh thiện .Mắt t-ợng khép hờ nh- nhìn xuống đỉnh mũi, soi rọi nội tâm. Môi
t-ợng dày, cằm nổi khối, cổ có ngấn, ngực nở. Tượng ngồi trong tư thế Kiết
già hàng ma để lộ lòng bàn chân phải trên đùi trái .Avó tượng chạm theo lối
bong kênh, khoác choàng qua vai theo kiểu cà sa hai lớp ,phía d-ới ngực thắt
dây bao l-ng,kết núi hình con do ở tr-ớc bụng .T-ợng sơn màu vàng ròng (tử
kim) với vẻ đẹp bề thế,uy nghiêm nh-ng không mất đi sự tì bi,cao cả.
Pho giữa đặt hai tay trên lòng đùi, kết ấn Thiền định (còn gọi là ấn Tam
muội),ngực t-ợng có chữ Vạn.T-ợng bên phải có tay trái đặt trên lòng đùi trái
,kết ấn Vô uý với ý nghĩa diệt trừ tà ma ;tay phải kết ấn Chuyển pháp luân.
T-ợng bên trái có tay trái kết ấn Vô uý, tay phải két ấn Gia trì bổn tôn để trên
lòng đùi ;thé ấn này mang ý nghĩa gìn giữ và phát triển Phật tâm.Hai pho đeo
dây anh lạc đè trên ngực.
12
Nguyn Th Trang

Lp: VHDL 15A


NGHIP V HNG DN DU LCH
T-ợng an toạ trên đài sen, biĨu hiƯn sù cao q, trong s¹ch vỊ lý trí . Đài
sen đ-ợc sơn đỏ, có hai lớp cánh chÝnh ,mét líp c¸ch phơ, phÝa d-íi cã líp c¸nh
óp ng-ợc xuống.Giữa t-ợng và đài sen có độ kênh nhất định, có thể do làm lại

nên đài hơi nhỏ so với mặt ngồi của t-ợng.
Quý khỏch cú th nhỡn thy,
Thiêu h-ơng nằm vuông góc với Th-ợng điện; đẻ nối hai công trình này,
ng-ời ta làm một kẻ ăn mộng từ cột đầu cột cái của Tiền đ-ờng, chạy ra tỳ lực
lên t-ờng bao, thân kẻ đỡ đầu hoành của hai mái.Thiêu h-ơng gồm một gian,
hai bộ vì, kích th-ớc 2,1mx6m.. Cột cái có dáng đòng đòng, cao 3,5m , đ-ờng
kính 0,35m; chân cột định vị trên các tảng kê hình quả găng,đắp bằng xi măng
giả đá. Thay vị trí cột quân là t-ờng bao hai bên .
Th-ợng điện chung với Thiêu h-ơng bộ vì khác tạo thành ba gian
dọc,ng-ời ta đà làm thêm phần sau với ba gian ngang,bốn bộ vì song song với
toà tiền đ-ờng ,tạo cho bố cục chùa gần nh- chữ công.
Quý khỏch cú th nhỡn thy, Bên trái Th-ợng điện có một bàn thờ, đặt
hai pho t-ợng. Nhà Hà Nội học nguyễn vinh Phúc cho là t-ợng Thái s trần Thủ
Độ và Linh từ Quốc mau Trần Thị Dung. Theo Giáo s- Trần Lâm Biền thì t-ợng
Quốc mẫu là t-ợng hhậu của chùa, pho còn lại với g-ợng mặt khắc khổ, mang
t- cánh một t-ợng Tổ nhiều hơn là t-ợng của Trần Thủ Độ. Hơn nữa, nếu đúng
là bàn thờ của Thái s- và Quốc mẫu thì t-ợng không đúng vị, vì niệm :tả d-ơng
hữu âm, nay tượng nữ lại đat bên trái. Chùa Cầu Đông có truyền thuyết được
Linh Từ Quốc mẫu tu bổ, nên thờ Bà với t- cách t-ợng Hậu nên t-ợng Quốc
mẫu là pho bên cạnh phải. t-ợng tạc một phụ nữ đẹp, phúc hậu, g-ơng mặt đầy
đặn, mắt nhìn tự nhiên, khoé miệng nh- đang c-ời. T-ợng mặc áo hai lớp, thắt
bao l-ng, vạt áo vắt chéo nhau tr-ớc bụng d-ới. Bề mặt áo trang trí nổi hình hoa
cúc. T-ợng đôi khăn trùm đầu, phủ xuống vai. T-ợng ngồi xếp bằng, hai tay đặt
trong lòng đùi, gần giống nh- kết ấn Tam muéi.
13
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A



NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
Q khách có thể nhìn thy phớa bờn tay phi Thng in l T-ợng
Quan Âm Nam Hải có thể coi là đặc biệt nhất của chùa Cầu Đông, có niên đại
khoảng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, t-ơng đối nhỏ, ở phía góc bêâigỉ
Thượng điện. Tượng đội Thiên Quan mang hình thức gần như kiểu mũ :Tì Lư (
mũ pháp s- ). Thiên Quan gồm hai phần, phần ngoài là một vành bao chạy từ
đỉnh tai nọ đến đỉnh tai kia qua mặt tr-ớc; phần trong nhô lên cao hơn, là một
tấm che chạy vượt từ thóp lên, che búi tóc cuộn ngược ở đỉnh. Thiên Quan
đ-ợc làm từ một mảnh gỗ với đầu t-ợng. Mũ có ba hình t-ợng lá đề đặt trên đài
sen, nằm ở chính tâm phía tr-ớc và trên đỉnh hai tai đ-ợc nổi khối. Mặt t-ợng
hình trứng, không còn hình thức sọ trên to, hàm d-ới thon của gi-ũa thế kỷ
XVII trở về tr-ớc. đầu t-ợng hơi cúi, mắt khép hờ, tai dài gần chạm vai, hai mép
đ-ợc chú ý nhấn mạnh tạo nên khối căng của má và cằm.
T-ợng ngồi trên toà sen, mặc áo choàng để hở ngực, d-ới ngực kết nút
hình con do. Vạt áo phủ kín lòng đùi, chỉ để lộ bàn chân phải và chảy tràn
xuống bệ. T-ợng có 12 tay ( thập nhị tý ), đan xen theo hình khai mở. đôi tay
chính chắp tr-ớc ngực, kết ấn Liên hoa, biểu hiện lý vµ trÝ cïng mét thĨ, mét céi
ngn. Ên nµy có các ngón duỗi thẳng tự nhiên và ép vào nhau. Tay trái t-ợng
tr-ng cho ngũ phàm, tay phải t-ợng tr-ng cho ngũ thánh. Phàm thánh, âm
d-ơng không cách biệt mà cùng một nguồn gốc. đôi tay cuối cùng đặt vòng về
tr-ớc, kết ấn Tam muội. Các tay khác kết ấn Cam lồ, đoi tay thứ sáu cầm viên
ngọc tay t-ợng thon tròn, ngón thể hện búp măng, cổ tay đeo vòng tạo nên vẻ
đẹp vừa thánh thiện, vừa trần gian. Dáng cánh tay uyển chuyển nh- múa đồng
thời cứ mở rộng dần nh- nở hoa. Đài sen cã hai líp chÝnh, mét líp c¸nh phơ,
c¸c c¸nh móp phồng.
Tha quý khỏch,
Đình Đức Môn Kién trúc đình có niên đại rất muôn với dấu vét của nhiều
lần tu bổ, thay thế các bộ phận. Tiền đề, Trung đ-ờng và HËu cung theo kiĨu
t-êng håi bÝt ®èc, n»m nèi tiÕp nhau víi chiỊu ngang thèng nhÊt lµ 6,6m ; chiỊu
14

Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIP V HNG DN DU LCH
sâu mỗi toà là 3,6m;2,5m;4,3m. Bộ mái làm rất đơn giản,bờ nóc,bờ giải đắp vữa
,lợp ngói vẩy hến.Hai mái giúp nhau có ống máng để thoát n-ớc. Trang trí trên
Vì gỗ của đình đề tài trang trí là hoa lá, cỏ cây nh- hình t-ợng bông cúc mÃn
khai, cánh dài xoè rộng nh- tia sáng mặt trời .các đấu vuông làm thành cánh sen
hoặc tạo hình quả rất đẹp mắt. đào nối lên sự trong sạch thánh thiện và hạnh
phúc trọn vẹn;phật thủ nhiều nhánh tay là hiện thân của -ớc vọng cầu đầy đủ;
lựu nhiều hạt cầu sự sinh sôi. t-ờng bên trái trung đ-ờng có tro một lá thiêng
làm bằng gỗ, dạng lá cúc, nền lá mầu vàng nhạt, viền và sống sơn đỏ. Trên lá
ghi hai chữ Kính - Hội thể hiện sự thành kính tôn nghiêm.
Tha quý khỏch cú th khẳng định còn rất nhiều các di vật khác trong
chùa Cầu Đơng có giá trị như c¸c di vËt b»ng đá. Chùa Cầu Đông có 4 tấm bia
cổ nay chỉ còn lại 3 vi bia Trùng tu Đông Môn tự bi ký niên hiệu Vĩnh Thịnh
thứ 8 ( 1712 ) đà bị mất.
Bia Đông Môn tự ký ( Bài ký trên chùa Đông Môn ), niên hiệu Vĩnh Tộ
thứ 6 ( 1624 )) t-ơng đối nhỏ, để trơn không trang trí.
Bia Đông Môn tự niên hiệu dương Hoà thứ 4 (1639) có thể hơi loe
dạng thượng thu hạ thách. Phần minh văn được giới hạn trong khng chỉ nổi,
khép kín bốn cạnh. Diềm bia chạm nổi dây lá, riêng hai cạnh bên có những
bông hoa cúc mÃn khai điểm xuyết trong băng hoa văn. trán bia trang trí rồng
chầu mặt trời, bên dưới là khung chữ nổi Đông Môn tự (Chùa Đồng Môn).
mặt trời là hai vòng tròn đồng tâm, xung quanh có đao lửa.
Bia Trùng tu Đông Môn tự bi ký niên hiệu Gia Long thứ 15 (1816) để
nguyên tảng đá vuông, không có dạng vòm. Diềm bia chạm nổi văn thực vật
cách điệu, trên đỉnh trang trí rồng vờn mây chầu đao lửa. Khung khắc minh văn

mở đầu bằng hàng chữ nổi, rõ nét Trùng tu Đông Môn tự bi ký (Bia trùng tu
chùa Đồng Môn). Hoac các di vật bằng đồng nhuChuông thời Tây Sơn là loại
chuông chính của chùa, th-ờng đánh vào lúc chập tối (chuông thu không) và
rạng sáng (chuông cảnh tỉnh). Tiếng thu không nhắc nhở xơn vô th-ờng sẽ nhnh
chong đến với mọi ng-ời. Phật tứ nghe tiếng thu không cảm thấy nhẹ nhµng,
15
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIP V HNG DN DU LCH
nh- đứng trên bờ của sự giác ngộ . Chuông cảnh tinh mang ý nghĩa thức tỉnh,
thúc đẩy con ng-ời tịnh tiến tu hành để v-ợt ra ngoài tội lỗi của kiếp luân hồi.
Cả chuông khong thu lẫn chuông cảnh tỉnh đều đánh 108 tiếng với ba hồi mỗi
hồi 35 tiếng và ba tiếng kết thúc trong lời cầu nguyện của chính nhà s-.Cánh
đánh này nhằm loại trừ 108 phiền nÃo căn bản của chúng sinh,đồng thời làm trí
tuệ tăng tr-ởng.
Quý khỏch cú th nhỡn thy Gác chuông chùa Cầu Đông có cheo 1 quả
chuông lớn dúc năm 1800.chuông có dáng thượng thu hạ thách:,cân đối, hài
hoà . Thành chuông vát ,đỉnh phẳng với quai vồng lên, miệng loe, thành đáy nổi
gờ. Quai chuông đ-ợc cấu tạo bởi một hình rồng. Rồng đ-ợc tạo tác rất rữ tợn,
chán và mũi nổi khối, mắt đúc lồi, miệng há rộng, luỡi thè lè ngậm viên ngọc
Minh Châu để lộ 4 chiếc răng nanh, trên miệng rồng mọc ra hai dải tóc trải dài
về phía sau. Rồng ghì cổ, hai chân bám chặt láy đỉnh chuông, với năm móng
sắc nhọn. Đầu rồng ngóc lên tạo dáng như đang bật dậy theo thế Long thăng.
Cổ và móng rồng đúc liền với đỉnh chuông tạo mối liên kết giữa quai và thân
chuông .Thân rồng phủ vẩy, chia đôi ở sống l-ng bằng những vẩy nhọn chĩa
thẳng lên .giữa thân rồng có hình vân xoắn đùn lên cao biểu hiện cho mặt trời
hay nguồn phát sáng. Đuôi rồng uốn cong, ghì vào đỉnh và có hai chân t-ơng tự

nh- phần đầu. Đuôi rồng xoắn, lông duôi tẽ ra nhiều nhóm xoáy cùng chiều với
đôi.
Thân chuông có ba nhóm gân ngang chạy vòng quanh, nhóm trên và d-ới
3 đ-ờng, nhóm giữa 6 đ-ờng chia đều hai bên đai chuông; 4 nhóm gân dọc chạy
từ đỉnh xuống. Các nhóm gan ngang dọc cắt nhau tạo 4 hình thang đứng và 4 ô
chữ nhật nằm ngang phía d-ới. Trên đỉnh các ô hình thang đúc nổi 4 chữ Hán
trong 4 ô vuông chém góc Đông Môn Tự Chung. Lòng 4 hình thang không
trang trí hoa văn, để trơn khắc bài minh ghi ten những ng-ời công đức tiền của
để đúc chuông. Nơi giao nhau giữa hệ thống gân dọc và ngang là 4 núm đánh
t-ợng tr-ng cho 4 mùa xuan hạ - thu dông. Núm là 1 khối tròn to, đ-ợc
đúc nổi, bao quanh ba vòng tròn đồng tâm. Các ô chữ nhật nhỏ nằm ngang trang
trí đúc nổi đề tài Tứ linh : long - ly- quy- ph-ợng. Miẹng chuông để trơn, loe
16
Nguyn Th Trang

Lp: VHDL 15A


NGHIP V HNG DN DU LCH
rộng tạo dáng vững chÃi. Có thể nói chuông chùa khá hoàn hảo về kĩ thuat và
mĩ thuật với nét chữ dứt khoát, hoa văn trang trí rõ ràng, tỉ mỉ. Qủa chuông là
một di vật quý vì ở nhiều di tích khác, niên hiệu Cảnh Thịnh th-ờng bị đục đi
d-ới nhà Nguyễn.
Ben canh do la các di vật bằng gỗ nhu: Nhang án chùa Cầu Đông dạng
hình hộp chữ nhật dài, bốn góc có chân vuông. Mặt tr-ớc đ-ợc thể hiện ằng 1
ván gỗ lớnvới đ-ờng viền hoa tranh biểu hiện cho nguồn sáng. Đề tài chạm khac
mang yếu tố vũ trụ, gợi nhiều ý t-ợng của huyền thoại và triết học ph-ơng
Đông. Phía bên d-ới là ngọn n-ớc cao thấp khác nhau. Những vân xoắn tầng
tầng lớp lớp trên mặt n-ớc nh- nói về ý nghĩa trong n-ớc có lửa, trong âm có
d-ơng. Hai đầu của mảng chạm, từ trên mặt n-ớc nổi lên hai quả lôi đang bốc

lửa. Ơ phần trung tâm cũng trên ngọn n-ớc là hình cây thiên mệnh, theo kiểu
những cành không lá. Linh vật đ-ợc trang trí ở đây là 1 hồi long đang giỡn trên
sóng. Rồng chạy từ trung tam ra ngoài rồi quay đầu lại chầu vào 1 quả lôi đang
bốc lửa, thân rồng ẩn trong n-ớc và đuôi hiện lên phía sau để tạo thế câ xứng
với đầu. Phía sau đuôi rồng trên ngọn n-ớc có con trai khổng lồ đang há miệng
nhả 1 tinh thể phát sáng. Bức tranh điêu khắc này đ-ợc bố cục chặt chẽ và mang
1 ý nghĩa mênh mông của ng-ời x-a, nh- phản ánh uớc vọng về chật tự và quy
luật của vũ trụ, là ý thức cầu n-ớc cầu mùa của tâm thức Việt.
Tha quý khỏch, Tóm lại các di vật tiêu biểu của chùa Cầu Đông đ-ợc
làm chđ u tõ d-íi thêi Ngun hoµ cïng tỉng thĨ kiến trúc, hệ thống di vật đÃ
tạo nên giá trị lịch sử, nghệ thuật cho ngôi chùa.
Quý khỏch cú 10 phút tự do tham quan và chụp ảnh ở đây. Đúng… tập
trung trước cổng chùa. Đoàn chúng ta sẽ khởi hành tiếp.
Đoàn chúng ta đang dạo bước trên phố Hàng Buồm. Dừng chân tại 76
hàng Buồm là đền Bạch Mã. Xưa, nơi đền toạ lạc thuộc địa dư phường Hà
17
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
Khẩu, tổn Đông Thọ, huyện Thọ Xương. Di tích được coi là một trong những
danh thắng của “Thăng Long tứ trấn”.
Mời quý khách vào tham quan bên trong ngôi đền!
Thưa quý khách, đền Bạch Mã thờ thần “Long Đỗ Thần Quân Quảng Lợi Bạch
Mã Đai Vương”. Tương truyền rằng vào thế kỷ thứ IX, viên quan đô hộ nhà
Đường (Trung Quốc) là Cao Biền đắp La Thành. Khi ra ngồi cửa Đơng, thấy
một người lạ trong đám mây ngũ sắc. Biền vốn là đạo sĩ, có ý muốn trấn áp.
Đêm, Biền nằm mộng thấy người đã gặp. Người đó tự xưng là Long Đỗ. Cao

Biền đem chiếc búa bằng đồng đi chôn yểm. Đêm sau, nổi mưa gió. Sáng ra
thấy chiếc búa đồng bị đánh tan như cát bụi. Biền sợ và lập đền thờ. Năm 1010,
khi Lý Thái tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, định đắp thành, nhưng nhiều
lần thành đắp lên lại bị sụp đổ. Vua cho người cầu khẩn ở đền thờ Long Đỗ thì
thấy một con ngựa trắng ở trong đền đi ra. Vua lần theo vết chân ngựa để vẽ đề
án xây thành, thành mới đứng vững. Thần được Lý Thái Tổ phong làm thành
hoàng của kinh thành Thăng Long. Thần Long Đỗ tức thần núi “Rốn Rồng”
cũng gọi là núi Nùng (hiện nay nằm trong thành cổ Hà Nội). Tương truyền núi
có khe thơng sâu xuống đất, tiếp nhận khí thiêng sơng núi. Văn bia “Trùng tu
bạch Mã miếu bi ký” có niên đại Minh Mệnh nguyên niên (1820), hiện còn tại
đền cho biết : “Ngài là vị thành hoàng của kinh thành Thăng long.. Thần một
thơn, một ấp đều được tơn kính, hng đây là vị thần chủ tể một khu vực ngàn
dặm, được hàng trăm đời vua cúng tế. Các công lao ban phúc cho đất nước,
giúpđỡ cho nhân dân, trong đó, cả đo thành và lân ấp đều được nhờ cậy”.
hệ thống bia đá hiện cịn tại di tích cho biết đền được mở rộng vào niên hiệu
Chính Hồ thời Lê (1680 – 1705). Đến năm Minh Mệnh nguyên niên hiệu triều
Nguyễn 1820 được tu bổ; năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), sửa lại đền, dựng
riêng văn chỉ ở bên trái, xây thêm phương đình ở phía trước đền để làm nơi
cúng lễ trong các ngày tuần tiết. Trong dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà
Nội, di tích được tu bbor lớn trên cơ sở giữ nguyên hiện trạng cũ.
18
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Thưa quý khách, Hiện nay, ngôi đền là một kiến trúc đẹp quay về hướng
Nam, gồm có cổng Tam quan, phương đình, đại bái, thiêu hương, cung cấm và

nhà hội đồng ở phía sau.
Đồn chúng ta đang đứng trước Tam quan của đền. Tam quan có mặt
bằng hình chữ nhật chia thành 5 gian với 4 bộ vì giống nhau kiểu “chồng rường
giá chiêng hạ bảy”, một số thanh rường chạm văn hình dọc, mặt trước, gian
giữa mở lối vào đền bằng cánh cửa gỗ lớn.

Thưa quý khách,
Ngay sát phía sau chúng ta là kiến trúc phương đình. Phần kiến trúc này
có mặt bằng hình vuông. Bộ mái làm hai tầng, mỗi tầng bốn mái có các góc đao
cong. Bộ khung nhà được làm bằng gỗ gồm 4 cột cái kê trên chân tảng đá hình
lục giác tạo thành hai bộ vì. Vì được làm bằng kiểu “giá chiêng chồng rường”,
dưới mỗi thanh rường có đấu kê chạm hình cánh sen, trong giá chiêng có bức
cốn chạm nổi một hình chim phượng xoè rộng cánh. Các bức ván gió giữa các
thanh xà trang trí tứ quý, bát bửu. Đặc biệt giữa xà hạ và xà trung của mỗi vì có
hai tượng nghê lớn bằng gỗ hướng mặt vào lòng nhà. trong kết cấu của nhà
phương đình được sử dụng hệ thống “củng ba phương”, vừa có tác dụng đỡ góc
mái vừa có tác dụng trang trí và treo đền lồng trong các ngày lễ hội.

Thưa quý khách,
Kiến trúc lớn nhất trong đền là nhà đại bái. Nhà chia thành năm gian
rộng lòng, nền nhà được bó tồn bằng đá xanh hình khối chữ nhật chắc chắn.
Đỡ mái là bộ khung nhà được làm toàn bằng gỗ với hệ thống số lượng nhiều và
kichs thước lớn kê trên chân tảng đá hình trịn. Sáu bộ vì được làm theo hai
kiểu: hai vì hồi làm kiểu kẻ chuyền; bốn vì giữa làm giơng nhau kiểu “thượng
chồng rường giá chiêng hạ bảy”. Trang trí trên kiến trúc của toà nhà này được
19
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A



NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
thể hiện chủ yếu trên hai bộ vì gian giữa dẫn vào chính điện, chạm các hình tứ
linh trên nền văn xoắn, hình đầu rồng trên các đầu dư.
Bên cạnh đó, Thưa quý khách, Thiêu hương và cung cấm của đền Bạch
Mã có ngoại dạng tương đối giống nhau. Phần mái làm thành hai tầng, tầng trên
hai mái, tầng dưới bốn mái có các góc đao cong. Bộ khung nhà được dựng bởi
hệ thống cột gỗ lớn, các bộ vì đỡ mái được làm kiểu “giá chiêng chồng rường”
và các xà thượng, hạ chạy ngang dọc khắp năm gian nhà. nghệ thuật trang trí
trên kiến trúc ở đây khơng nhiều, chỉ có một vài thanh rường đấu kê chạm hình
chữ “Thọ” hoặc hình lá có diềm răng cưa. Trong cung cấm có một sàn gỗ cao,
có ván bưng ba mặt để làm nơi toạ lạc của thần Bạch Mã.
Q khách có thể nhìn thấy nối phương đình, đại bái với thiêu hương là
một vịm “vỏ cua” hình bán nguyệt trang trí hoa lá. Vỏ cua tạo khơng gian rộng
thêm cho kiến trúc, nhờ đó mà phương đình, đại bái, thiêu hương và cung cấm
trở thành một kiến trúc khép kín, mặt bằng nội thất trở nên rộng rãi.
Bên cạnh nghệ thuật trên kiến trúc là nghệ thuật thể hiện trên các di vật
tại di tích. trừ một số bia đá có niên đại thế kỷ XVII, hầu hết là những hiện vật
mang nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XIX – XX. Những con vật long, ly, quy,
phượng trên cửa võng là biểu tượng của sự bền vững thanh cao, cũng giốn đất
trời chuyển vận quanh năm khơng bao giờ ngừng, khơng có bắt đầu và cũng
khơng bao giờ có kết thúc tiêu biểu cho sự vĩnh hằng. Đôi hạc thời Nguyễn
chân cao, cổ cao, đường nét mềm mại uyển chuyển đặt trên lưng rùa, phản ánh
quan niệm cổ xưa của dân gian Việt NAm - biểu tượng của sự bền vững thanh
cao như cái tâm vĩnh hằng của con người với đất trời. Có thể nói nghệ thuật kiến trúc đền Bạch Mã đã kết hợp được tinh thần nghệ thuật - kiến trúc từ các
giai đoạn trước và gắn kết tinh thần kiến trúc nghệ thuật thế kỷ XIX.

Thưa quý khách,
20
Nguyễn Thị Trang


Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
Trong các di tích thuộc “tứ trấn” – bao gồm đền Quán Thánh trấn phía
Bắc, đình Kim Liên trấn phía Nam, đền Voi Phục trấn phía tây, đền Bạch Mã
trấn phía đơng thì đền Bạch Mã được xây dựng sớm hơn cả, và sự có mặt của
nó ở thời Lý, Trần đã được khẳng định. Tồn tại ngay trong lòng phố cổ, với
nhiều màu sắc, yếu tố nghệ thuật kiến trúc cùng một hệ truyền thuyết đầy tính
lịch sử và triết học về vị thần được thờ. Đền Bạch Mã với nhiêù vẻ đặc sắc,
trước sau vẫn giữ nguyên giá trị về một mốc giới thiêng của kinh thành Thăng
long nghìn năm văn hiến.
Vâng, quý khách có thể chụp ảnh tại đây khoảng 10 phút! Sau đó tập
trung trước cổng đền để tiếp tục chuyến tham quan!
Hiện tại là 10h15’, bây giờ sẽ là khoảng thời gian quý hấp dẫn quý
khách. Điểm cuối cùng trongchương trình khám phá vẻ đẹp phố cổ Hà Nội
hơm nay sẽ là chợ đồng Xuân! Mời quý khách theo tôi !
Đoàn chúng ta đang đứng trước khu chợ Đồng Xuân.
Thưa quý khách, Tôi xin chia sẻ một vài thông tin trước khi chúng ta vào
bên trong tham quan và mua sắm.
Năm 1890 chính quyền Pháp mới bắt đầu xây dựng chợ Đồng Xuân. Chợ
được thiết kế tương đối đơn giản: Các bộ khung bằng sắt, lợp tơn mái chảy,
diện tích khoảng 6500 m2 . Toàn bộ gồm 5 dãy nhà và được phân theo các vòm
cuốn mặt trước, bên trong phân cách bởi các đường đi giữa các vòm (mỗi vòm
chợ dài 52m, khung thép cao 19m, rộng 25m). Mặt tiền theo kiến trúc Pháp,
gồm năm phần hình tam giác có trổ lỗ như tổ ong, lợp mái tơn.
Do nằm ở vị trí thuận lợi là gần bến sơng và trung tâm đầu mối của các
mặt hàng nông sản, gần khu phố cổ với các mặt hàng thủ công truyền thống nên
sau khi xây dựng xong, chợ trở thành một điểm buôn bán sầm uất và thu hút sự

chú ý của giới thương nhân nước ngoài. Trong thời gian này, chợ là nơi đặt văn
phòng thương mại của một số thương nhân người Pháp, Ấn, Việt. Không bao
21
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
lâu, chợ Đồng Xuân phát triển mạnh thành đầu mối giao dịch hàng hoá lớn của
Hà Nội và chiếm vị trí chỉ đạo các hoạt động kinh tế của thành phố Hà Nội và
chi phối cả khu vực miền Bắc khi đó.
Năm 1947, chợ Đồng Xuân là một trong những căn cứ kháng chiến
chống thực dân Pháp của Hà Nội. Chợ Đồng Xuân hơn 100 năm sau đã được
xây lại, xong được ít lâu thì ngày 14/07/1994 lại bị hoả hoạn lớn do chập điện,
phải làm lại lần nữa, chợ vẫn còn lưu giữ những nét căn bản của hình dáng cũ.
Năm 1995, chợ Đồng Xuân lại được cải tạo một lần nữa. Chợ được xây
dựng thành 3 tầng với tổng diện tích mặt bằng xây dựng là 28.968m2, tổng diện
tích kinh doanh là 22.245m2. Riêng tầng 1 vẫn mang hình hài vóc dáng cũ của
chợ xưa, nhưng đầu hồi bên trái có gắn thêm bức phù điêu bằng đồng mô tả
cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Đồng Xuân trong thời kháng chiến
chống Pháp.

Thưa quý khách, Chợ Đồng Xuân hiện nay trước mắt chúng ta cao ba
tầng, kích thước rộng 73,5m, dài 130,5m, có khu giao dịch, bán hàng, phần chợ
Bắc Qua xây mới trên móng cũ có gia cố cẩn thận, bảo tồn mặt tiền chợ Đồng
Xuân cũ, nhiều cầu thang, lối đi thống đãng với ba lối vào phía trước, 3 lối vào
phía sau, 2 lối vào phía hơng (có cầu thang bê tơng), 2 cầu thang ngồi trời lên
chợ Đồng Xuân - Bắc Qua, 5 cầu thang lên các tầng trên và một hệ thống thang
máy hiện đại.

Mời quý khách tự do tham quan và mua sắm với vô vàn các mặt hàng đa
dạng phong phú từ quần áo, các mặt hàng gia dụng, mỹ phẩm.
Có quý khách nào muốn mua bn thì đây là một dịp rất lợi đấy ạ!
Chúng ta sẽ có 45 phút tự do tại đây. Đúng 11h15’, xin mời quý khách
tập trung tại trước tầng 1 của chợ Đồng Xuân, chúng ta sẽ ăn trưa tại nhà hàng
Chả Cá Lã Vọng! Và nghỉ trưa tại khách sạn kêt thúc chuyến tham quan “Khám
phá vẻ đẹp phố cổ” sáng nay.
22
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH
Trở về khách sạn chia tay đồn. Một lần nữa thay mặt cho cơng ty xin
chúc quý khách có những ngày nghỉ thật thoải mái tại Hà Nơi. Q khách nghỉ
ngơi để có sức khoẻ tốt tiếp tục cho những ngày tham quan tiếp theo!
Xin chào và hẹn gặp lại!

23
Nguyễn Thị Trang

Lớp: VHDL 15A



×