Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành (Tiểu luận)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.25 KB, 22 trang )

ĐỀ BÀI SỐ : 05
Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện hành

1


A./LỜI MỞ ĐẦU
Hợp đồng, còn được gọi là “khế ước” chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử
nhân loại. Bất kỳ ai nếu muốn sinh tồn trong xã hội hiện đại đều khơng thể khơng
dùng hình thức hợp đồng để gây lòng tin hoặc đặt lòng tin với người khác và tiến
hành giao dịch. Trong cuộc đời của những con người hiện đại không ngừng thành
lập hợp đồng và thực hiện hợp đồng giống như một chu kỳ tuần hoàn khơng dứt.
Bởi vậy nên, đã có người gọi xã hội nay là “xã hội khế ước” và gọi nền kinh tế
hiện đại là “kinh tế khế ước”. Dưới điều kiện nền kinh tế thị trường, mọi hoạt
động giao dịch đều tiến hành thông qua giao kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng
các chủ thể căn cứ vào nhu cầu của mình mà giao kết với người khác, chuyển
nhượng hàng hóa hoặc dịch vụ để thỏa mãn nhu cầu của mình. Dưới góc độ sự
phát triển kinh tế và xã hội, hợp đồng là cầu nối đã làm cho những tài nguyên xã
hội được phân phối một cách tối ưu, đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội.
Vô số các giao dịch đã cấu thành một thị trường hồn chỉnh. Vì vậy, quan hệ hợp
đồng là quan hệ pháp luật cơ bản của hợp đồng. Chế định hợp đồng cũng đã trở
thành quy phạm pháp luật tối cơ bản mà điều chỉnh quan hệ kinh tế thị trường.
Do đó, việc tìm hiểu các điều kiện để một hợp đồng dân sự có hiệu lực là vấn đề
quan trọng và có ý nghĩa lớn trên thực tế.

2


B.NỘI DUNG
I./ Khái quát chung về hợp đồng dân sự


1./ Khái niệm
Điều 388 Bộ luật dân sự (BLDS) quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”.
Qua khái niệm về hợp đồng dân sự, có thể thấy để hình thành hợp đồng dân
sự phải có những yếu tố cơ bản sau đây:
- Hợp đồng dân sự phải có sự tham gia của các bên: Hợp đồng là sự thỏa
thuận của các chủ thể liên quan đến xác lập các quyền, nghĩa vụ nhằm đem lại lợi
ích cho mình hoặc đem lại lợi ích cho người khác. Nếu như hành vi pháp lý đơn
phương chỉ là sự tun bố ý chí cơng khai của một phía chủ thể thì khi tham gia
quan hệ hợp đồng, ít nhất phải có hai chủ thể đứng về hai phía của hợp đồng.
Ngồi ra trong một số trường hợp, việc tham gia quan hệ hợp đồng có thể có sự
xuất hiện của bên thứ ba (hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba).
- Hợp đồng dân sự được hình thành dựa trên cơ sở thỏa thuận và thống nhất
ý chí giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó. Thỏa thuận và thống nhất ý
chí là yếu tố cốt lõi để hình thành quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể, thiếu sự
thỏa thuận này thì hợp đồng sẽ khơng có hiệu lực.
- Hậu quả pháp lý của sự thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ hợp đồng là
nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.
- Sự thỏa thuận giữa các bên không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như giả tạo,
nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa.
Định nghĩa trên đây của BLDS 2005 được xem là hợp lý và thuyết phục
nhất ở Việt Nam từ trước đến nay vì có nội dung ngắn gọn, chuẩn xác; vừa mang
tính khái quát cao, phản ánh đúng bản chất của thuật ngữ ‘hợp đồng’, vừa thể
hiện rõ vai trò của hợp đồng như là một căn cứ pháp lý (phổ biến) làm phát
sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ (dân sự) của các bên.
2/.Bản chất của hợp đồng
Như đã thể hiện trong khái niệm hợp đồng, bản chất của hợp đồng được
tạo nên bởi hai yếu tố pháp lý là sự thỏa thuận và sự ràng buộc pháp lý giữa các
bên.

3


a./Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên
Hợp đồng là một giao dịch có nhiều bên tham gia để tạo lập sự ràng buộc
pháp lý với nhau dựa trên sự cam kết, thỏa thuận. Bởi vậy, mặc dù trong luật thực
định và trong lý luận có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp đồng, nhưng chung
quy lại, tất cả các định nghĩa đó đều thể hiện một quan điểm nhất quán là luôn
xem sự thỏa thuận giữa các bên là một trong các yếu tố thể hiện bản chất của hợp
đồng. Yếu tố thỏa thuận vừa là nguồn gốc, vừa là cơ sở nền tảng tạo nên hợp
đồng. Không có hợp đồng nào mà khơng do thỏa thuận và khơng có hợp đồng
nào được tạo ra mà thiếu yếu tố thỏa thuận. Bởi vậy, có ý kiến cho rằng :“yếu tố
thỏa thuận giữa các chủ thể là tiền đề của hợp đồng và được xem là tuyệt đối”.
Theo nghĩa thơng thường, thỏa thuận là “nhất trí, đồng ý với nhau sau khi bàn
bạc”.
Trên phương diện pháp lý, để có thể hình thành nên hợp đồng, pháp luật
quy định các bên tham gia cùng thương lượng, trao đổi, bàn bạc để đi đến sự nhất
trí chung, dựa trên sự đề nghị của một bên và sự chấp nhận hoàn toàn của bên
kia. Nhưng sự thỏa thuận với tư cách là một yếu tố thể hiện bản chất của hợp
đồng còn có ý nghĩa tích cực hơn so với các khái niệm thương lượng, bàn bạc,
đồng ý. Nếu khái niệm “thương lượng” hay “bàn bạc” dùng để chỉ quá trình
thương thuyết, giao dịch giữa các bên và khái niệm “đồng ý” dùng để chỉ kết quả
của q trình đó, thì khái niệm “thỏa thuận” ở đây được hiểu là toàn bộ quá trình,
từ sự thương lượng đến sự thống nhất ý chí. Đó là q trình dung hịa giữa ý chí
các bên, đi từ sự đồng ý của từng bên đến sự gặp gỡ ý chí của hai hay nhiều bên
khác nhau, nhằm đạt được sự nhất trí chung hay sự đồng thuận giữa hai hay nhiều
bên đó.
Xét về nội dung, sự thỏa thuận khơng chỉ là sự nhất trí, đồng ý chung
chung mà cịn phải có nội dung cụ thể, mục đích rõ ràng, tức phải xác định được
bản chất của quan hệ hợp đồng mà các bên muốn xác lập. Theo đó, các bên phải

thống nhất về mục đích của hợp đồng là chuyển giao một vật hoặc làm một vật gì
cụ thể. Nếu một bên thể hiện ý chí muốn bán một ngơi nhà mà bên kia chỉ muốn
th ngơi nhà đó thì khơng thể có sự gặp gỡ ý chí. Hơn nữa, nếu các bên đồng ý
cùng nhau mua bán một ngơi nhà, nhưng khơng nhất trí được với nhau về giá
4


bán, thời điểm giao kết hợp đồng, thời hạn giao nhà, trả tiền thì hợp đồng chưa
chắc được thiết lập.
Tóm lại, thông qua sự thỏa thuận các bên đã làm nên hợp đồng, tức làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng. Vì
vậy, thỏa thuận vừa là tiền đề làm nên hợp đồng, vừa là yếu tố cơ bản cho sự tồn
tại hợp đồng.
b. Hợp đồng là thỏa thuận để tạo ra sự ràng buộc pháp lý giữa các bên
một sự thỏa thuận không phải là hợp đồng nếu không tạo nên hiệu lực ràng
buộc giữa các bên. Bởi vậy, dấu hiệu thứ hai thể hiện bản chất của hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các bên phải nhằm tạo ra một sự ràng buộc pháp lý, tức là sáng
tạo ra các quyền và nghĩa vụ mới ngoài những quyền và nghĩa vụ luật định hoặc
làm thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ ấy.
Một sự thỏa thuận mang tính chất xã giao hoặc một lời hứa danh dự, như
lời hứa sẽ tặng quà nhân ngày sinh nhật, hay thỏa thuận sẽ đến dự tiệc ở nhà bạn,
hay cùng đi ăn tối với người khác cũng không phải là hợp đồng, vì các thỏa thuận
này khơng tạo ra sự ràng buộc quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên. Sự vi
phạm lời hứa danh dự hoặc các cam kết mang tính chất xã giao như trên có thể
làm cho người thất hứa bị mất uy tín, bị dư luận chê trách, nhưng không làm phát
sinh trách nhiệm pháp lý và không thể bị áp dụng chế tài dân sự như trường hợp
vi phạm hợp đồng.
Tóm lại, mọi hợp đồng đều là sự thỏa thuận giữa các bên, nhưng không
phải sự thỏa thuận nào của các bên cũng là hợp đồng. Chỉ những thỏa thuận tạo
ra một sự ràng buộc pháp lý mới được coi là hợp đồng. Bởi vậy, “sự thỏa thuận”

và “sự tạo ra một ràng buộc pháp lý” là hai dấu hiệu cơ bản tạo nên bản chất của
hợp đồng.
II. Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định của pháp
luật Việt Nan hiện hành
1.Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng dân sự
Nói về hiệu lực của hợp đồng, điều 1134 BLDS Pháp quy định rằng: “Hợp
đồng được thiết lập hợp pháp có hiệu lực như pháp luật cho các bên giao kết
ước”.
5


Hiệu lực hợp đồng, còn được gọi là hiệu lực pháp luật của hợp đồng, là để
chỉ sự cưỡng chế của pháp luật đối với các bên đương sự tham gia hợp đồng và
thậm chí cả bên thứ ba, theo quy định của pháp luật về vấn đề này có một số
điểm cần lưu ý sau:
- Hiệu lực hợp đồng nhìn từ góc độ nguồn luật, là do pháp luật hợp đồng
trao cho hợp đồng, đồng thời cũng là sự bảo đảm khả năng cưỡng chế của Nhà
nước. Khi người vay nợ vi phạm hợp đồng, pháp luật căn cứ vào đơn yêu cầu của
bên không vi phạm, cưỡng chế bên vi phạm hợp đồng thực hiện hợp đồng, hoặc
phải chịu những hậu quả bất lợi khác. Như vậy có thể thấy rằng, hiệu lực hợp
đồng không giống như sự ràng buộc của tình hữu nghị, hay ràng buộc của đạo
đức.
- Hiệu lực hợp đồng nhìn từ góc độ thể hiện của ý chí, đó là biểu hiện của sự
thừa nhận của pháp luật đối với sự thống nhất về ý chí của các bên đương sự.
Đồng thời cũng là căn cứ và ủng hộ các bên đương sự nhằm thỏa mãn u cầu
muốn “ tìm kiếm” pháp luật. Nó cũng là kết quả của việc đưa ý chí của bản thân
phù hợp với ý chí Nhà nước. Khi ý chí của các bên đương sự thống nhất hữu cơ
với ý chí của Nhà nước, thì sự thể hiện cao nhất đó chính là thể hiện của đương
sự. VD: Cho phép đương sự căn cứ theo ý muốn của bản thân hạn chế phạm vi
hiệu lực của hợp đồng, cho phép đương sự tự do lựa chọn cách giao hàng, cho

phép đương sụ sửa đổi hợp đồng hoặc chuyển nhượng nghĩa vụ quyền lợi... Tất
cả những điều này thể hiện rõ hiệu lực hợp đồng chỉ là sự cụ thể hóa hiệu lực
pháp luật, chứ khơng phải bản thân hiệu lực pháp luật
-Hiệu lực hợp đồng với tư cách là biểu hiện của pháp luật, đánh giá sự nhất
trí của các bên đương sự , là một vấn đề hết sức phức tạp: Khi pháp luật khẳng
định sự đánh giá vừa ý đối với các bên đương sự thì sẽ phát sinh hiệu quả pháp
luật như đương sự mong muốn, các bên đương sự sẽ được hưởng quyền lợi,
quyền lợi mà điều khoản hợp đồng ràng buộc, còn khi pháp luật phủ định sự vừa
ý đối với các bên đương sự thì sẽ nảy sinh hậu quả khơng có hiệu lực của hợp
đồng.
6


-Hiệu lực hợp đồng, tức là khả năng cưỡng chế của pháp luật đối với các
đương sự có sự ràng buộc, thậm chí là bên thứ ba trong hợp đồng. Có thể chia
thành sự ràng buộc giữa các bên đương sự và sự ràng buộc đối với bên thứ ba.
Sự ràng buộc của hợp đồng đối với các bên đương sự bao gồm:
+Nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của các đương sự
+Bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm vi phạm theo hợp đồng
+Các bên đương sự không được tự ý thay đổi hoặc hủy hợp đồng, không thể
tự ý chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của hợp đồng
+Đương sự có quyền lợi yêu cầu, trao đổi, quyền xử lý nợ
Hợp đơng có hiệu lực đối với bên thứ ba, trong những trường hợp thơng
thường nó được thể hiện là bất kỳ một bên thứ ba nào cũng không được xâm hại
quyền trong hợp đồng. Khi người có quyền trong hợp đồng tự hủy bỏ quyền hoặc
ủy quyền cho bên thứ ba khi đó mới xác lập hiệu lực thực hiện hợp đồng cho bên
thứ ba hoặc do bên thứ ba thực hiện.
2./Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành
Hợp đồng dân sự là một loại giao dịch dân sự nên muốn có hiệu lực, hợp

đồng dân sự phải đáp ứng được các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự đã
được quy định tại điều 122 BLDS năm 2005. Theo quy định trên, thì các hợp
đồng dân sự được coi là có hiệu lực khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
-Điều kiện về chủ thể
-Điều kiện về mục đích và nội dung
-Điều kiện về ý chí của chủ thể
-Điều kiện về hình thức
a./Người tham gia giao dịch trong hợp đồng dân sự có năng lực hành vi dân
sự
Chủ thể của hợp đồng là những người tham gia xác lập, thực hiện hợp
đồng, có quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng và phải chịu trách nhiệm về việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đó. Để tham gia xác lập, thực
hiện hợp đồng, các hệ thống pháp luật đều quy định chủ thể phải có năng lực chủ
7


thể nhất định. Theo đó, yêu cầu chủ thể tham gia hợp đồng “có năng lực hành vi
dân sự” là một trong những điều kiện tiên quyết để hợp đồng có hiệu lực. Chủ thể
tham gia quan hệ hợp đồng bao gồm các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác, mặt khác năng lực hành vi dân sự để tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng
của các chủ thể khác nhau là không giống nhau
*Đối với cá nhân: Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia hợp đồng phụ
thuộc vào mức độ năng lực hành vi dân sự của họ
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Đó là những người từ
đủ 18 tuổi trở lên, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, không bị mất năng
lực hành vi dân sự. Người có năng lực hành vi dân sự dầy đủ có tồn quyền trong
việc xác lập, thực hiện các hợp đồng dân sự.
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 15 tuổi đến dưới
18 tuổi: Khoản 2 điều 20 BLDS năm 2005 quy định: “Trong trường hợp người từ
đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lâp,

thực hiện hợp đồng dân sự mà khơng cần phải có sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác ’’. Như vậy, nếu pháp
luật có quy định khác thì giao dịch dân sự của người đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi (
mặc dù người này có tài sản riêng đủ để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ ) phải được
sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
Ngoài ra, nếu phjaps luật quy định với các giao dịch dân sự liên quan đến
người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi (mặc dù có người đại diện)
buộc phải được sự đồng ý bằng văn bản của người này thì hợp đồng cũng phải
đáp ứng quy định này. Chẳng hạn, khoản 2 điều 109 BLDS năm 2005 quy định:
“Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất, tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia
đình phải được các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng ý; đối với các loại tài sản
chung khác phải được đa số thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên đồng”.
-Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 6 tuổi đến dưới
15 tuổi, người bị tòa án ra quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự:
Người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi được xác định là những người mà sự nhận
thức và làm chủ hành vi của mình chưa được đầy đủ, do đó họ có thể có những
8


hạn chế nhất định. Vì lẽ đó, trên cơ sở quy định tại điều 20 BLDS, chúng ta thấy
rằng người từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi khi xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự
phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ các giao dịch nhằm phục vụ
nhu cầu sinh hoạt hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
-Đối với người dưới 6 tuổi, người bị Tòa án ra quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự: Những người này không được xác lập, thực hiện hợp
đồng dân sự.
Ngoài ra, khi xem xét đến năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong việc
tham gia hợp đồng dân sự cũng cần chú ý đến những trường hợp riêng biệt do
pháp luật quy định, đó là tham gia hợp đồng dân sự của người giám hộ, người đại
diện ( vì lợi ích của người được giám hộ, người được đại diện) phải tuân theo các

quy định về giám hộ, về đại diện trong BLDS.
*Đối với pháp nhân:
Pháp nhân là những tổ chức có đủ các điều kiện được qui định tại Điều
84 BLDS 2005. Các pháp nhân là chủ thể đầy đủ của quan hệ pháp luật dân sự có
đủ năng lực chủ thể mang tính chuyên biệt, được tham gia xác lập, thực hiện các
giao dịch phù hợp với mục đích và phạm vi hoạt động của pháp nhân. Mục đích
và phạm vi hoạt động của pháp nhân được thể hiện trong điều lệ, hoặc quyết định
thành lập pháp nhân.
Việc tham gia và thực hiện hợp đồng của pháp nhân được thực hiện thông
qua người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền của pháp nhân đó.
Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể là người đứng đầu pháp nhân
đó ( nếu pháp nhân đó là cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp), đối với
pháp nhân là các doanh nghiệp thì đại diện theo pháp luật là chủ tịch hội đồng
quản trị-chủ tịch hội đồng thành viên hoặc giám đốc, tổng giám đốc tùy thuộc
vào quy định trong điều lệ và trong giấy phép đăng ký kinh doanh của doanh
nghiệp đó. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân tham gia giao kết các
hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền được xác định trổng quy định thành lập
pháp nhân hoặc trong điều lệ, nội quy hoạt động của pháp nhân đó. Người đại
diện theo ủy quyền của pháp nhân là người được đại diện theo pháp luật của pháp
9


nhân ủy quyền, người này ủy quyền cho pháp nhân để tham gia các hợp đồng dân
sự trong phạm vi được ủy quyền.
*Đối với hộ gia đình:
Xuất phát từ việc hộ gia đình là chủ thể hạn chế của chủ thể hạn chế quan
hệ pháp luật dân sự nên các hợp đồng dân sự mà các hộ gia đình tham gia phải là
những hợp đồng dân sự được phép theo quy định của pháp luật. Hộ gia đình chỉ
được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt
động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực kinh doanh khác

theo quy định của pháp luật. Khi tham gia hợp đồng dân sự, chủ hộ (là người đại
diện theo pháp luật của hộ gia đình) cóa thể trực tiếp tham gia hoặc có thể ủy
quyền cho thành viên khác đã thành niên làm đại diện cho hộ gia đình trong hợp
đồng dân sự đó. Hộ gia đình chỉ được tham gia các hợp đồng dân sự liên quan
đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong
một số lĩnh vực kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.
Thông thường, hợp đồng dân sự do chủ hộ hoặc thành viên đã thành viên
khác được chủ hộ ủy quyền xác lập, thực hiện vì lợi ích của hộ gia đình sẽ làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình trịn hợp đồng dân sự. Tuy nhiên, đối
với việc định đoạt tư liệu sản xuất hoặc tài sản chung của hộ gia đình mà có giá
trị lớn thì buộc phải có sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình từ đủ 15
tuổi trở lên, đối với các loại tài sản chung khác phải được sự đồng ý của đa số các
thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên.
*Đối với tổ hợp tác:
Các hợp đồng dân sự tổ hợp tác tham gia cũng là những hợp đồng bị hạn
chế theo quy định của pháp luật. Tổ hợp tác chỉ được tham gia các hợp đồng dân
sự liên quan đến các hoạt đọng sản xuất kinh doanh của tổ. Khi tham gia hợp
đồng dân sự , tổ trưởng tổ hợp tác là người đại diện theo pháp luật của tổ hợp tác.
Ngoài việc trực tiếp đại diện cho tổ hợp tác tham gia hợp đồng dân sự, tổ trưởng
tổ hợp tác có thể ủy quyền cho ủy viên thực hiện những công việc cần thiết cho
tổ hợp tác. Tuy nhiên, việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải
10


được toàn thể tổ viên đồng ý, đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ
viên đồng ý.
Nhìn chung, để có thể xác lập, thực hiện các hợp đồng, chủ thể là cá nhân
phải có năng lực hành vi dân sự thích ứng với loại giao dịch hoặc loại hợp đồng
mà chủ thể đó tham gia. Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện hợp
đồng thông qua người đại diện hợp pháp, nhưng phải đúng ‘phạm vi đại diện’ và

phải phù hợp với giới hạn về ‘lĩnh vực hoạt động’ của các chủ thể.
b. /Mục đích và nội dung của hợp đồng khơng vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội.
BLDS 2005 thừa nhận nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận (Điều 4)
Nhưng để bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của cơng cộng, quyền và lợi
ích
hợp pháp của người khác, BLDS 2005 cũng qui định một số trường hợp hạn
chế quyền tự do của cá cbên trong việc thiết lập hợp đồng. Theo đó, nội dung và
mục đích của hợp đồng (giao dịch dân sự) “không được vi phạm điều cấm của
pháp luật và không trái đạo đức xã hội” (Điểm b, khoản 1 Điều 122).
Mục đích của hợp đồng dân sự là những lợi ích vật chất hoặc tinh
thần mà các bên mong muốn đạt dược khi xác lập hợp đồng đó. Để đạt được mục
đích này, trong hợp đồng dân sự có thể ghi nhận các quyền và nghĩa vụ nhất định.
Quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng dân sự có thể do một bên đưa ra, cũng có thể
do các bên thỏa thuận. Tuy vậy, trong mọi trường hợp mục đích và nội dung của
hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội.
Hợp đồng (giao dịch dân sự) “có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của
pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vơ hiệu” (Điều 128).
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên
chủ thể tham gia hợp đồng được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng.
Mục đích của của giao dịch dân sự (hay hợp đồng) là “lợi ích hợp pháp mà các
bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó”.
Điều cấm của pháp luật “là những quy định của pháp luật không cho phép
chủ thể thực hiện những hành vi nhất định”. Và đạo đức xã hội là những chuẩn
11


mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng
thừa nhận và tôn trọng”. Khái niệm nội dung của hợp đồng là một khái niệm rất
rộng. Thường thì nội dung của hợp đồng gồm các điều khoản, như: đối tượng của

hợp đồng là tài sản hay công việc; số lượng, chất lượng của đối tượng đó; giá và
phương thức thanh tốn; thời hạn, địa điểm thực hiện hợp đồng.
Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản, mục đích mà các bên hướng tới là
quyền sở hữu tài sản. Để đạt được mục đích này đòi hỏi họ phải thỏa thuận được
nội dung của hợp đồng mua bán bao gồm các điều khoản như : Đối tượng ( vật
bán), giá cả, thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng. Sự thỏa thuận
về các điều khoản đó lại nhằm đạt được mục đích là quyền sở hữu tài sản.
Như vậy, để hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung
của hợp đồng không trái với pháp luật, đạo đức xã hội theo nghĩa rộng : không vi
phạm điều cấm của pháp luật , không xâm phạm đến lợi ích nhà nước, lợi ích
cơng cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Vì thế chỉ những tài sản
được phép giao dịch , những công việc được phép thực hiện không vi phạm điều
cấm pháp luật, không trái với đạo đức xã hội mới là đối tượng của hợp đồng dân
sự, những hợp đồng xác lập nhằm trốn tránh pháp luật hoặc tái với đạo đức xã hội
là những hợp đồng có nội dung và mục đích không hợp pháp, không làm phát
sinh hiệu lực pháp luật của hợp đồng đó.
c./ Các bên hồn tồn tự nguyện trong việc giao kết, xác lập hợp đồng
Tự nguyện xác lập, thực hiện hợp đồng là việc chủ thể tự mình quyết định là
có tham gia hay khơng tham gia vào hợp đồng theo nguyện vọng của cá nhân
mình, mà không chịu sự chi phối hay sự tác động, can thiệp chủ quan nào từ
những người khác. Pháp luật đòi hỏi những người tham gia xác lập, thực hiện
hợp đồng phải hồn tồn tự nguyện.
Ý chí tự nguyện của chủ thể là một dấu hiệu thuộc yếu tố chủ quan, nếu
khơng được biểu hiện ra bên ngồi, thì người khác khơng thể biết được. Có tác
giả cho rằng, “tự do ý chí và bày tỏ ý chí là hai mặt của tự nguyện”. Tự nguyện
nghĩa là phải có tự do ý chí, tự do “bày tỏ ý chí” và phải có “sự thống nhất giữa ý
12


chí với sự bày tỏ ý chí”. Khơng có tự do ý chí và sự bày tỏ ý chí hoặc phá vỡ tính

thống nhất giữa hai yếu tố này, thì sẽ khơng có sự tự nguyện.
Hợp đồng do chủ thể xác lập, thực hiện khơng tự nguyện, thì có thể bị vô
hiệu hoặc đương nhiên vô hiệu. Những trường hợp khơng có sự tự nguyện là
những trường hợp mà việc xác lập, thực hiện hợp đồng khơng đúng ý chí đích
thực của chủ thể hoặc khơng có sự thống nhất giữa ý chí của chủ thể với sự bày
tỏ ý chí của chính chủ thể đó ra bên ngồi. Theo qui định của BLDS 2005, hợp
đồng bị coi là được xác lập thiếu yếu tố tự nguyện nếu thuộc một trong năm
trường hợp sau đây:
-Hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự giả tạo : Là hợp đồng dân sự đượ xác
lập nhằm che giấu một hợp đồng khác hoặc để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ
ba. Trên cơ sở các định mục đích của việc xác lập hợp đồng dân sự giả tạo thì
hợp đồng dân sự do giả tạo được phân chia thành hai trường hợp:
+Hợp đồng dân sự được xác lập với mục đích nhằm che giấu một hợp đồng
khác. Trong trường hợp này có hai hợp đồng song song tồn tại – đó là hợp đồng
đích thực ( bên trong ) và hợp đồng giả tạo ( hợp đồng che giấu, thể hiện ra bên
ngồi ). Ví dụ : Ơng A tặng cho con út của mình là B một ngơi nhà, nhưng vì lý
do tế nhị (sợ rằng điều này có thể là nguyên nhân gây mâu thuẫn giữa những
người con), ông A và B đã ký hợp đồng mua bán nhà. Ở đây có hai hợp đồng
cùng tồn tại, đó là hợp đồng tặng cho nhà ở (hợp đồng bên trong, hợp đồng đích
thực) và hợp đồng mua bán nhà ở (hợp đồng bên ngoài, hợp đồng giả tạo).
=>Hợp đồng giả tạo nhằm che giấu hợp đồng khác luôn luôn vô hiệu, cịn
hợp đồng đích thực( hợp đồng bên trong) vẫn có hiệu lực pháp lý. Tuy nhiên, nếu
hợp đồng đích thực cũng vi phạm vào các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân
sự thì có thể vơ hiệu.
+Hợp đồng dân sự được xác lập với mục đích nhằm trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba: Trong trường hợp này, hợp đồng dân sự được xác lập có sự tự
nguyện khi thể hiện ý chí, tuy nhiên sự thể hiện ý chí này lại nhằm mục đích trốn
tránh nghĩa vụ với một chủ thể khác. Thông thường, việc trốn tránh nghĩa vụ với
người thứ ba thường thể hiện ở hai trường hợp: Bản thân chủ thể tham gia hợp
13



đồng dân sự đã tồn tại một nghĩa vụ với chủ thể khác, do đó để trốn tránh nghĩa
vụ này, chủ thể đã xác lập hợp đồng giả tạo( ví dụ :Để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ
trong một hợp đồng vay tài sản, A đã ký hợp đồng giả tạo bán nhà cho người thân
của mình là B để tránh trường hợp ngơi nhà đó có thể bị xử lí để thực hiện nghĩa
vụ của A). Và khi tham gia hợp đồng, chủ thể có thể phải thực hiện một nghĩa vụ
nhất định đối với nhà nước nhưng chủ thể đã xác lập hợp đồng với sự giả tạo.
Trên thực tế, cịn có những trường hợp một hợp đồng dân sự được thể hiện
ra bên ngoài nhưng hoàn toàn khơng có thực và cũng khơng nhằm che giấu một
hợp đồng nào cả. Đây là hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự tượng tưởng.
-Hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự nhầm lẫn: Nhầm lẫn là sự khơng
trùng hợp ý chí được thể hiện với mong muốn thật sự của người thể hiện ý chí.
Hay nói cụ thể hơn, đó là việc một hoặc các bên hình dung sai về sự việc, chủ
thể, đối tượng hoặc các nội dung của hợp đồng nên đã xác lập hợp đồng trái với ý
nguyện đích thực của mình. Ví dụ: Người mua bảo hiểm tưởng là khi mua bảo
hiểm thì được hưởng tiền bảo hiểm trong mọi trường hợp có rủi ro, nhưng thực tế
là điều khoản bảo hiểm đã có những loại trừ nên một số loại rủi ro sẽ không được
bảo hiểm. Pháp luật Việt Nam chỉ chấp nhận hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn về
nội dung của hợp đồng. Hợp đồng bị nhầm lẫn phải chịu trách nhiệm dân sự tại
điều 131 BLDS 2005.
-Hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự lừa dối: Diều 132 BLDS 2005 quy
định: “ lừa dối là hành vi cố ý trong một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm
cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của
hợp đồng dân sự nên đã xác lập hợp đồng đó”. Như vậy, hành vi lừa dối có thể
được thực hiện bởi một bên trong hợp đồng, nhưng cũng có thể được thực hiện
bởi người thứ ba với lỗi cố ý. Mục đích của việc lừa dối là nhằm làm cho bên kia
hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng (ví
dụ : bán hàng do Trung Quốc sản xuất nhưng lừa dối người mua là hàng do Nhật
Bản sản xuất, bán ngọc trai nhân tạo nhưng lại lừa dối người mua là ngọc trai tự

nhiên... ).
14


-Hợp đồng dân sự được xác lập bởi sự đe dọa: “Đe dọa trong giao dịch là
hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện
giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân
phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình”. Sự đe dọa
thường được hiểu là việc một bên cố ý gây ra sự sợ hãi cho bên kia bằng hành vi
bạo lực vật chất hoặc sự khủng bố tinh thần, làm bên kia tê liệt ý chí hoặc làm
mất khả năng kháng cự nên đã xác lập hợp đồng trái với nguyện vọng đích thực
của họ.
-Hợp đồng dân sự được xác lập mà vào thời điểm xác lập, người xác lập
không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình: Đây là trường hợp bản thân
chủ thể vẫn hoàn toàn nhận thức, làm chủ được hành vi của mình nhưng đúng
vào thời điểm xác lập hợp đồng dân sự thì họ lại khơng nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình, ví dụ như : Say rượu bia kí hợp đồng. Việc khơng nhận
thức và làm chủ được hành vi của chủ thể khi xác lập hợp đồng có thể do ý chí
chủ quan của người này nhưng cũng có thể do chủ thể khác hoặc do nguyên nhân
khách quan... Đây là yếu tố hết sức quan trọng cần phải được xác định cụ thể để
đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể khi tuyên bố hợp đồng dân sự vơ hiệu.
d./Hình thức của hợp đồng dân sự phải phù hợp với quy định của pháp luật
Hình thức là một yếu tố pháp lý quan trọng của hợp đồng, có quan hệ biện
chứng với bản chất, nội dung, giá trị hiệu lực, thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng, và là phương tiện để diễn đạt ý chí của các bên, cũng như để chứng minh
sự tồn tại của hợp đồng. Người ta sẽ không biết đến sự tồn tại của hợp đồng, nếu
nó khơng được thể hiện dưới một hình thức xác định.
Hợp đồng dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể . Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng dân sự phải
được thể hiện bằng văn bản, phải được công chứng nhà nước chứng nhận, được

chứng thực, đăng kí hoặc phải xin pháp thì phải tuân theo các quy định đó.
-Hình thức bằng lời nói: Hình thức này thường thấy trong các hợp đồng dân
sự mà giá trị của hợp đồng nhỏ, giữa các chủ thể của hợp đồng có sự tin cậy.
Ngồi ra, hình thức này có thể thấy trong các hợp đồng dân sự mà ngay sau khi
15


các bên thỏa thuận xong về điều khoản cơ bản của hợp đồng, các bên thực hiện
hợp đồng ngay sau đó và hợp đồng chấm dứt. Đối với hình thức lời nói, các bên
thỏa thuận xong về các điều khoản cơ bản của hợp đồng thì hợp đồng được coi là
giao kết. Nhưng cũng có trường hợp hợp đồng dân sự nếu được thể hiện bằng
hình thức lời nói phải đảm bảo tuân thủ những điều kiện luật định mới có giá trị.
-Hình thức bằng văn bản thường: Các bên thám gia hợp đồng dân sự thỏa
thuận hoặc pháp luật quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng hình thức văn
bản. Nội dung hợp đồng được thể hiện trên văn bản có chữ kí xác nhận của chủ
thể. Cho nên hình thức này là chứng cứ xác nhận chủ thể đã tham gia vào một
giao dịch dân sự rõ ràng hơn nhiều trường hợp hợp đồng dân sự được thể hiện
bằng lời nói.
-Hình thức bằng văn bản có cơng chứng chứng nhận, UBND cấp có thẩm
quyền chứng thực được áp dụng trong những trường hợp pháp luật có quy định
hợp đồng dân sự bắt buộc phải được lập thành văn bản hoặc các bên có thỏa
thuận phải có chứng nhận, chứng thực, đăng kí hoặc xin phép thì khi xac lập hợp
đồng các bên phải tuân thủ hình thức, thủ tục đó.
-Hình thức bằng hành vi cụ thể : Hợp đồng khơng có sự thỏa thuạn giữa các
bên mà mặc nhiên coi là có sự thỏa thuận khi một bên bằng hành vi của mình
chấp nhận giao kết hợp đồng thông qua sự ấn định trước q

uyền và nghĩa vụ

của bên kia. Hình thức này cũng phổ biến trong giai đoạn hiện nay, đặc biệt khi

công nghệ ngày càng phát triển với sự tự đọng hóa được áp dụng ở nhiều nơi, đặc
biệt là các thành phố, thị xã như: Bán hàng qua máy tự động, rút tiền ở các máy
do các ngân hàng đặt ở những vị trí khác nhau.
Ngồi ra, hợp đồng dân sự cũng có thể được giao kết thông qua phương tiện
điện tử theo quy định tại khoản 1 điều 124 BLDS 2005.
III. /Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân sự,
thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hồn thiện
Trong thực tế, có rất nhiều trường hợp do chưa nắm vững các quy định của
pháp luật về hợp đồng nên khi xác lập, thực hiện hợp đồng các bên chủ thể không
đáp ứng được các yêu cầu của pháp luật thường làm cho hợp đồng rơi vào tình
16


trạng khơng có hiệu lực. Mặt khác, do khơng nắm vững được các nghĩa vụ cũng
như quyền lợi của mình nên trong quá trình thực hiện hợp đồng các bên thực hiện
không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ, làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên kia,
vì vậy nhiều tranh chấp đáng tiếc xảy ra. Đặc biệt, hợp đồng dân sự vi phạm về
hình thức diễn ra hết sức phổ biến trong xã hội và những quy định về hình thức
hợp đồng trong pháp luật nước ta vẫn cịn nhiều bất cập.
1./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân sự và
thực tiễn áp dụng
a./Quy định về hình thức hợp đồng vẫn cịn nhiều điểm thiếu sót, chưa nhất
qn, chưa đảm bảo lơ gích pháp lý giữa các điều luật liên quan
Khoản 2 Điều 122 BLDS 2005 qui định: “Hình thức giao dịch dân sự là điều
kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Trong
quy định này, nhà làm luật chỉ đề cập đến ‘trường hợp pháp luật có qui định”, mà
khơng dự liệu khả năng khi các bên có thỏa thuận lựa chọn hình thức hợp đồng
là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.
Việc quy định như vậy là thiếu sót. Bởi lẽ, pháp luật không cấm các bên
thỏa thuận xác lập hợp đồng theo một hình thức xác định. Trong luật thực định,

đối với nhiều loại hợp đồng, pháp luật cũng cho phép các bên được tự do lựa
chọn hình thức thích hợp để giao kết hợp đồng. Ví dụ: “Hình thức uỷ quyền do
các bên thoả thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc uỷ quyền phải được
lập thành văn bản” (khoản 2 Điều 142). Trên thực tế, đối với các loại hợp đồng
pháp luật khơng quy định hình thức bắt buộc, thì các bên cũng có quyền thỏa
thuận hình thức là một điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Ví dụ: các bên có thể
thỏa thuận hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, hoặc hợp đồng mua bán kim cương…
phải được lập bằng văn bản theo thủ tục công chứng thì mới có hiệu lực, mặc dù
pháp luật khơng quy định bắt buộc các hợp đồng kể trên phải được lập bằng văn
bản có cơng chứng.
Mặt khác, việc điều luật quy định như vậy cũng đã vi phạm nguyên tắc tự do
trong hợp đồng. Tóm lại, hình thức của hợp đồng có thể là điều kiện có hiệu lực
17


của hợp đồng trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định.
Do đó, điều luật quy địh như vậy là cịn thiếu sót.
Khoản 1 Điều 401 qui định: “Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng
lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định
loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định”. Quy định
này vẫn còn dài dòng dẫn đến việc áp dụng điều luật trong thực tiễn kém linh
hoạt. Trong thực tế, các bên không chỉ xác lập hợp đồng bằng một hình thức duy
nhất là lời nói, văn bản hay hành vi cụ thể mà có thể kết hợp nhiều hình thức
trong giao kết hợp đồng.Ví dụ: trong vụ tranh chấp về “hợp đồng bảo hiểm” tại
Bản án số 195/2007/KDTM-PT ngày 09/10/2007 của Tòa Phúc thẩm – TANDTC
tại Hà Nội, giữa nguyên đơn là Công ty Vật tư vận tải và xây dựng cơng trình
giao thơng với bị đơn là Công ty cổ phần bảo hiểm Viễn Đông. Ngày 20/12/2004,
nguyên đơn có ký hợp đồng với bị đơn để mua bảo hiểm tài sản cho 72 chiếc xe
máy hiệu STAR (có giá trị là 916.363.656 đồng) mà nguyên đơn đang vận
chuyển từ Đồng Nai đi Hà Tây. Việc ký kết hợp đồng được thực hiện bằng cả hai

cách: các bên vừa gọi điện thoại trao đổi để ký hợp đồng, đồng thời cũng vừa
giao kết hợp đồng bằng văn bản
b./ Qui định về cách thức giải quyết hậu quả pháp lý của các hợp đồng bị vi
phạm về hình thức cịn nhiều bất cập
Ảnh hưởng của yếu tố hình thức đối với hợp đồng rất đa dạng, có thể làm
hợp đồng vô hiệu, hoặc làm cho hợp đồng khơng có giá trị pháp lý đối với
người thứ ba, có thể chứng minh được sự tồn tại của hợp đồng, xác định thời
điểm giao kết và thời điểm có hiệu lực của hợp đồng. Tuy vậy, quy định tại:
Điều 134 BLDS 2005 chỉ đưa ra một cách thức xử lý đối với một trường hợp
vi phạm: “khi hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà các bên khơng
tn thủ thì theo u cầu của một hoặc các bên, Tồ án, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của
giao dịch trong một thời hạn; q thời hạn đó mà khơng thực hiện thì giao dịch
vô hiệu”.
18


Có thể thấy, việc xử lý hậu quả của hợp đồng vơ hiệu về hình thức như
trên là chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và không khả thi. Ví dụ: Bản án số
1355/ 2006/DSST ngày 21/12/2006 về “Hợp đồng mua bán nhà”, TAND Tp. Hồ
Chí Minh đã cho rằng, khi các bên đã không đồng ý tiếp tục thực hiện hợp đồng,
thì cách tốt nhất là chấp nhận việc chấm dứt hợp đồng, và buộc bên có lỗi làm
cho hợp đồng không thể tiếp tục thực hiện phải bồi thường thiệt hại cho bên kia.
Quy định giải pháp khắc phục vi phạm hình thức hợp đồng cũng cịn nhiều bất
cập, thiếu nhất qn, khơng phù hợp với thực tiễn.
2./ Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định hiện hành về hình thức
hợp đồng
Thực trạng pháp luật và thực tiễn xét xử các tranh chấp liên quan tới hình
thức hợp đồng hiện nay cịn nhiều bất cập. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm
khắc phục tình trạng trên và hồn thiện pháp luật về hình thức hợp đồng:

-Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 1 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005. Cần
sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 401 theo hướng mở rộng và quy định linh hoạt
hơn về hình thức hợp đồng, bảo đảm tối đa quyền tự do lựa chọn hình thức hợp
đồng của các bên chủ thể.
-Sửa đổi, bổ sung qui định tại khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005
qui định tại khoản 2 Điều 401 cịn thiếu sót, và chưa nhất quán với qui định
tại khoản 2 Điều 124 Bộ luật Dân sự 2005. Mặt khác, cách qui định mang tính
chất liệt kê làm cho khoản 2 Điều 401 vừa dài dịng, vừa khơng đầy đủ, vì chưa
dự liệu được hết mọi hình thức bắt buộc của hợp đồng. Do đó, khoản 2 Điều 401
cần phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp theo hướng vừa ngắn gọn vừa đảm
bảo sự nhất quán.
- Bỏ đoạn 2 khoản 2 Điều 401 và bổ sung quy định hình thức là điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.
Đoạn 2 khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự 2005 là nội dung gây ra sự mâu thuẫn,
và làm vô hiệu hóa các qui định khác về hình thức hợp đồng. Và bổ sung quy
định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng khi các bên có
thỏa thuận.
19


-Giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vi phạm hình thức.
Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các qui định pháp luật về đường
lối xử lý hợp đồng vi phạm hình thức vẫn cịn nhiều lúng túng, bất cập, vừa rườm
rà, vừa thiếu tính khả thi. Vì vậy, ý kiến kiến nghị ở đây cần sửa đổi, bổ sung qui
định tại điều 134 BLDS 2005, bổ sung các tiêu chuẩn cụ thể để Tịa án có căn cứ
xem xét, giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.

C.KẾT LUẬN
Như vậy, có thể thấy rằng hợp đồng dân sự là vấn đề đóng vai trị quan
trọng trong xã hội loài người, đặc biệt là nền kinh tế thị trường hiện nay.Dựa vào

bản chất hợp đồng, pháp luật Việt Nam đã quy định các điều kiện bắt buộc để hợp
đồng có hiệu lực: chủ thể tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự; nội
dung, mục đích của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và không
trái đạo đức xã hội; các bên tham gia hợp đồng hồn tồn tự nguyện;hình thức
của hợp đồng phải phù hợp với quy định của pháp luật.Nhìn chung, các qui định
về vấn đề này trong pháp luật Việt Nam hiện hành đã hoàn thiện về cơ bản. Tuy
nhiên, trong thực tiễn xét xử việc áp dụng hình thức của hợp đồng vẫn cịn nhiều
bất cập, vướng mắc. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cần có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay để các tranh chấp về hợp
đồng xảy ra ít hơn trong cuộc sống.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1)

Trường Đại học luật Hà Nội, giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2

(NXB Cơng an nhân dân – 2006).
2)
TS. Lê Đình Nghị, giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 1(NXB
Giáo dục Việt Nam).
3)
TS. Lê Đình Nghị, giáo trình Luật dân sự Việt Nam, tập 2 (NXB
Giáo dục Việt Nam).
4)
Bộ luật Dân sự năm 2005 (NXB Lao động).
5)
ThS.LS Lê Kim Giang, Hợp đồng dân sự và các tranh chấp thường

gặp (NXB Tư pháp)

MỤC LỤC
Trang
A./LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................1
B.NỘI DUNG..............................................................................................1
I./ Khái quát chung về hợp đồng dân sự....................................................1
1./ Khái niệm................................................................................................1
2/.Bản chất của hợp đồng............................................................................2
II./ Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự theo quy định
21


của pháp luật Việt Nan hiện hành..............................................................4
1/.Lý luận chung về hiệu lực hợp đồng dân sự..........................................4
2./Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành............................................................................6
III./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng
dân sự, thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện.....................16
1./Một số vấn đề bất cập trong quy định về hình thức hợp đồng dân
sự và thực tiễn áp dụng.............................................................................16
2./ Một số kiến nghị nhằm hồn thiện quy định hiện hành về hình
thức hợp đồng............................................................................................18
C.KẾT LUẬN.............................................................................................20

22




×