Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật với vấn đề giáo dục thẩm mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1008.14 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
XW

ĐẶNG THỊ MINH TUẤN

CÁI ĐẸP TRONG HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
XW

ĐẶNG THỊ MINH TUẤN

CÁI ĐẸP TRONG HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC THẨM MỸ

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80

LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học


TS. TRẦN KỲ ĐỒNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2010


3

LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của Tiến sĩ Trần Kỳ Đồng.
Các số liệu, tài liệu trích dẫn trong luận văn là hồn tồn trung thực, chính
xác và có nguồn gốc rõ ràng.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày ….. tháng ….. năm 2010
Tác giả

Đặng Thị Minh Tuấn


4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................................................1

1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài .........................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn...........................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn ...........................................5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn ..............................5
6. Đóng góp mới của luận văn và ý nghĩa của luận văn ..................................6

7. Kết cấu của luận văn .....................................................................................6
PHẦN NỘI DUNG...............................................................................................................7

Chương 1 ..........................................................................................................7
CÁI ĐẸP VÀ CÁI ĐẸP TRONG HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
NHÌN TỪ GĨC ĐỘ BẢN THỂ
1.1. QUAN NIỆM VỀ BẢN THỂ CỦA CÁI ĐẸP TRONG LỊCH SỬ................................7

1.1.1. Bản thể của cái đẹp trong lịch sử triết học phương Đông ......................7
1.1.2. Bản thể của cái đẹp trong lịch sử triết học phương Tây .......................12
1.1.3. Bản thể của cái đẹp theo quan điểm triết học Mác ...............................25
1.2. SỰ BIỂU HIỆN BẢN THỂ CỦA CÁI ĐẸP TRONG HÌNH TƯỢNG .....................31
NGHỆ THUẬT

1.2.1. Tính điển hình của cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật .....................33
1.2.2. Tính ước lệ của cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật ...........................41
1.2.3. Tính biểu cảm của cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật ......................46
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1................................................................................51
Chương 2........................................................................................................52
VAI TRỊ CỦA CÁI ĐẸP TRONG HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
ĐỐI VỚI GIÁO DỤC THẨM MỸ


5
2.1. BẢN CHẤT VÀ PHƯƠNG THỨC CỦA GIÁO DỤC THẨM MỸ ...........................52

2.1.1. Bản chất của giáo dục thẩm mỹ ............................................................52
2.1.2. Phương thức của giáo dục thẩm mỹ......................................................62
2.2. CÁI ĐẸP TRONG HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT LÀ NHÂN TỐ CƠ BẢN
ĐỊNH HƯỚNG GIÁO DỤC THẨM MỸ ...........................................................................73


2.2.1. Cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật định hướng tình cảm và tri thức
thẩm mỹ...........................................................................................................75
2.2.2. Cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật định hướng nhân cách con người
trong hoạt động thẩm mỹ ................................................................................79
2.2.3. Cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật định hướng cho việc xây dựng văn
hóa thẩm mỹ ....................................................................................................84
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...............................................................................93
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................95
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................98


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong cuộc sống đời thường từng giờ, từng phút, con người không khi
nào rời khỏi cái đẹp. Cái đẹp hiện diện ở mọi nơi xung quanh chúng ta. Nó
đóng vai trị khá quan trọng trong đời sống hiện thực của con người. Trong
bất cứ lĩnh vực nào, con người cũng có khát vọng vươn tới cái đẹp. Cái đẹp
tồn tại với tư cách là một thực thể sinh động, biểu tượng cho một giá trị đáp
ứng nhu cầu khát vọng sống của con người. Đó là khát vọng chinh phục tự
nhiên, cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội nhằm hướng tới một cuộc sống đầy đủ
và hoàn thiện.
Sự phát triển, mở rộng những quan hệ giao lưu, hội nhập về các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục, … hiện nay ở nước ta đã có tác
động khơng nhỏ đến hệ thống các giá trị của xã hội. Quá trình hội nhập, một
mặt, thúc đẩy sự lớn mạnh của lực lượng sản xuất, làm gia tăng tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế; mặt khác, nó đào sâu thêm hố ngăn cách về quan hệ
giữa người và người trong xã hội. Trong bối cảnh đó, vấn đề giữ gìn và phát
huy hệ giá trị tốt đẹp trong quá trình xây dựng con người mới và nền văn hóa

mới tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trở nên cấp bách. Do đó, cần thiết phải
có sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề định hướng các giá trị trong xã hội, trong
đó có cả những giá trị về mặt thẩm mỹ. Để góp phần vào việc giải quyết yêu
cầu chung đó, việc nghiên cứu cái đẹp với tính cách là một phạm trù trung
tâm của mỹ học và ý nghĩa thực tiễn của nó đối với cuộc sống hàng ngày của
con người đã trở thành một mảng đề tài được quan tâm của nhiều nhà khoa
học, nhiều học giả với những cơng trình có giá trị khoa học sâu sắc.
Ở đâu cái đẹp cũng làm chuẩn cho các giá trị. Trong đó, cái đẹp trong
hình tượng nghệ thuật là giá trị mang tính đặc trưng nhất và sâu sắc nhất.
Bằng tài năng sáng tạo tuyệt vời của người nghệ sỹ, cái đẹp trong hình tượng


2
nghệ thuật hiện ra với tất cả lung linh, diệu kì của nó. Đó là cái đẹp điển hình
hóa, cơ đọng, có cường độ cao. Do đó, nó trở nên sâu sắc hơn và hoàn thiện
hơn so với cái đẹp trong cuộc sống và nó mang lại giá trị như một chỉnh thể
tinh thần tồn vẹn. Vì vậy, cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật khơng chỉ góp
phần định hướng tốt đẹp cho hành động của con người mà còn có nhiệm vụ
xây nên ngơi nhà tâm hồn của mỗi con người, làm cho tâm hồn con người
phong phú hơn, mỹ cảm hơn, nhân văn hơn. Nhiệm vụ đó khiến cái đẹp trong
hình tượng nghệ thuật gắn kết chặt chẽ với giáo dục thẩm mỹ.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu về cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật và tác
động của nó đến q trình giáo dục thẩm mỹ thể hiện sự quan tâm đến khả
năng hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo có tính thẩm mỹ của con người. Khơng
những thế, thơng qua việc tìm hiểu này góp phần khẳng định và xây dựng hệ
giá trị tốt đẹp trong thời kỳ mới, hướng con người tới các chuẩn mực sống
đẹp một cách hiện đại cũng như các chuẩn mực hưởng thụ văn hóa lành
mạnh. Đồng thời cũng qua đó, chúng ta có cái nhìn khách quan, đúng đắn với
các cảm thụ, các sáng tạo về mặt nghệ thuật, góp phần thiết thực vào việc xây
dựng con người mới nói riêng và một nền văn hóa mới nói chung. Vì lý do

đó, tác giả chọn vấn đề: “Cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật với vấn đề
giáo dục thẩm mỹ” làm đề tài viết luận của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Cái đẹp là một phạm trù giá trị và là giá trị cao nhất mà con người có
và hướng tới. Vì vậy, có thể nói, nó đã trở thành nguồn cảm hứng cho các
nghệ sỹ tự do sáng tạo đồng thời là đề tài nghiên cứu của các nhà khoa học,
các học giả đi sâu tìm hiểu, phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Nghiên cứu cái đẹp với tính cách là một phạm trù trung tâm của mỹ
học, có thể kể ra đây một số cơng trình, tác phẩm tiêu biểu như: Những phạm
trù mỹ học cơ bản của tác giả người Nga IU. Bôrép, trường Đại học tổng hợp


3
xuất bản, Hà Nội, 1974; Mỹ học cơ bản và nâng cao của tác giả M.F. Ốp-xian-nhi-cốp, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2001; Mỹ học với tư cách là một
khoa học của tác giả Đỗ Huy, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; Mỹ học
đại cương của tác giả Đỗ Văn Khang, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2002;
Nguyên lý mỹ học Mác – Lênin của tập thể các nhà khoa học Liên Xô, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1961; Giáo trình mỹ học Mác – Lênin của hai tác giả Đỗ Huy –
Vũ Trọng Dung, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003 …
Nghiên cứu về cái đẹp với tính cách là một phạm trù giá trị, có thể kể
đến cơng trình: Cái Đẹp – Một giá trị của tác giả Đỗ Huy, Nxb Thông tin lý
luận, Hà Nội, 1984; Đẹp của tác giả Vũ Khiêu, Nxb Thanh niên, 1963; Đi tìm
cái đẹp của hai tác giả Lê Ngọc Trà và Lâm Vinh, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 1984 …
Nghiên cứu cái đẹp trong mối quan hệ với các vấn đề thực tiễn có cơng
trình: Cái đẹp với vấn đề giáo dục thẩm mỹ trong điều kiện nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Nga, Luận văn thạc sĩ, 1999; Văn
hóa thẩm mỹ và sự phát triển con người Việt Nam trong thế kỷ mới của tác giả
Nguyễn Văn Huyên, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thơng tin, Hà Nội, 1997;
Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển năng lực sáng tạo của con người của tác

giả Nguyễn Ngọc Thu, Nxb Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh;
Quan hệ giữa cái thẩm mỹ và cái đạo đức trong cuộc sống của con người của
tác giả Nguyễn Văn Phúc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996 …
Nghiên cứu cái đẹp gắn với dòng chảy lịch sử và các sáng tạo nghệ
thuật của dân tộc, có cơng trình: Khơi nguồn mỹ học dân tộc của tác giả Mịch
Quang, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004; Lịch sử mỹ học của tác giả Đỗ
Văn Khang, Nxb Văn học, Hà Nội, 1983; Các lý thuyết mỹ học của tác giả Vũ
Quỳnh Anh, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2000; Lịch sử tư tưởng mỹ học


4
của tác giả Trần Kỳ Đồng, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn
Thành phố Hồ Chí Minh, 2007 …
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây cũng xuất hiện các bài viết
phân tích những mặt, những góc độ khác nhau của cái đẹp, của đời sống thẩm
mỹ, quan hệ thẩm mỹ được đăng trên các tạp chí Triết học, tạp chí Nghiên
cứu lý luận, tạp chí Thơng tin khoa học xã hội, tạp chí Mỹ thuật thời nay, …
thể hiện sự quan tâm sâu sắc của các nhà khoa học đối với vấn đề thẩm mỹ và
cái đẹp ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn.
Tuy nhiên, nghiên cứu bản thể của cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật
và sự tác động của nó với vấn đề giáo dục thẩm mỹ, đặc biệt là trong xu thế
của thời đại ngày nay thì vẫn rất cần thiết được tiếp tục làm sáng tỏ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở khái quát những quan niệm về cái đẹp và một số nội dung
của giáo dục thẩm mỹ, luận văn đi vào phân tích bản thể của cái đẹp trong
hình tượng nghệ thuật, đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa cái đẹp trong hình
tượng nghệ thuật với vấn đề giáo dục thẩm mỹ nhằm góp phần bảo tồn, xây
dựng và phát huy hệ giá trị tốt đẹp của xã hội.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn

Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung vào thực hiện các
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất: trình bày khái quát quan niệm về cái đẹp và cái đẹp trong
hình tượng nghệ thuật trong lịch sử tư tưởng thẩm mỹ, nhấn mạnh quan niệm
về cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật trên lập trường của tư tưởng thẩm mỹ
mácxít.
Thứ hai: Trình bày một số nội dung cơ bản của giáo dục thẩm mỹ gồm:
bản chất, phương thức và vai trò của giáo dục thẩm mỹ.


5
Thứ ba: trình bày và phân tích vai trị của cái đẹp trong hình tượng
nghệ thuật đối với giáo dục thẩm mỹ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật trên bình diện triết học và vai trị
của nó đối với giáo dục thẩm mỹ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong phạm vi đề tài đã chọn, tác giả chỉ nghiên cứu khía cạnh triết học
trong quan niệm về cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật và một số nội dung
cơ bản của vấn đề giáo dục thẩm mỹ chủ yếu trên lập trường của tư tưởng
thẩm mỹ mácxít; đồng thời phân tích mối liên hệ giữa cái đẹp trong hình
tượng nghệ thuật với quá trình giáo dục thẩm mỹ để thấy được vai trị của cái
đẹp trong hình tượng nghệ thuật trong xây dựng hệ giá trị cho con người.
Ngoài ra, tác giả có tìm hiểu thêm các quan niệm khác nhau về cái đẹp
trong lịch sử tư tưởng thẩm mỹ, các sáng tạo trong một số lĩnh vực nghệ thuật
tiêu biểu như thơ văn, hội họa, …, các nhận xét, đánh giá, quan điểm của các
tầng lớp xã hội đối với hệ giá trị đang thay đổi hiện nay nhưng không đi sâu
phân tích.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện những yêu cầu trên, luận văn chủ yếu dựa trên quan điểm
triết học và mỹ học Mác – Lênin; đồng thời có kế thừa những kết quả của một
số cơng trình nghiên cứu đã cơng bố có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với một số


6
phương pháp cụ thể như: lịch sử – lơ gích, phân tích, quy nạp và diễn dịch, so
sánh – đối chiếu, điều tra xã hội học.
6. Đóng góp mới của luận văn và ý nghĩa của luận văn
Nghiên cứu cái đẹp trong hình tượng nghệ thuật với tư cách là một đối
tượng của triết học – mỹ học, phân tích mối liên hệ giữa cái đẹp trong hình
tượng nghệ thuật với vấn đề giáo dục thẩm mỹ theo quan điểm mácxít nhằm
bổ sung một cách nhìn tồn diện hơn về triết học Mác – Lênin cũng như chức
năng giá trị của hệ thống triết học này.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công
tác nghiên cứu, học tập các môn học về Mỹ học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có hai chương và bốn tiết:


7
Chương 1
CÁI ĐẸP VÀ CÁI ĐẸP TRONG HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
NHÌN TỪ GĨC ĐỘ BẢN THỂ
1.1. QUAN NIỆM VỀ BẢN THỂ CỦA CÁI ĐẸP TRONG LỊCH SỬ


1.1.1. Bản thể của cái đẹp trong lịch sử triết học phương Đơng
Trong dịng chảy mênh mông của lịch sử tư tưởng thẩm mỹ nhân loại
từ thời cổ đại cho đến hiện đại, từ phương đơng sang phương tây, có những
quan niệm khác nhau về cái đẹp đã hình thành và phát triển với đầy đủ sự
phong phú và đa dạng của nó. Ngay từ buổi bình minh của lịch sử, với các
kiến thức mà con người có được cịn rất hạn chế, mang tính chất sơ khai và
thuần phác, những tư tưởng thuộc về khoa học thẩm mỹ nói chung và cái đẹp
nói riêng đã có sự nảy sinh và phát triển. Chúng thể hiện sự cảm nhận giá trị
cuộc sống một cách đa dạng của thế giới cổ đại. Mỹ học của thế giới cổ đại
được xây dựng khá tường tận trong xã hội nơ lệ đương thời. Trước hết, nó đã
từng phát sinh trong những xã hội nô lệ ở phương Đông cổ đại mà tiêu biểu là
ở Ấn Độ và Trung Quốc cổ đại.
Hình thành trên cơ sở tơn giáo và triết học tôn giáo Ấn Độ, trên cơ sở
các quan niệm riêng lẻ mang tính chất huấn thị tơn giáo và cách thức hành lễ
cúng tế tôn giáo trong thánh kinh Veda-Upanishad, các tư tưởng mỹ học Ấn
Độ dần được xác lập. Đặc biệt sau thời kỳ cổ điển, các nhà tư tưởng mỹ học
Ấn Độ đã bắt đầu nghiên cứu và xây dựng một cách có ý thức các tư tưởng
tản mạn thành hệ thống quan điểm mỹ học Ấn Độ, nổi bật là trong Thi pháp
học và Nghệ thuật thơ ca Ấn Độ.
Trong tư tưởng mỹ học Ấn Độ, cái đẹp không chỉ được xem như một
thực thể tối cao mà con người phải hướng tới mà cái đẹp được nhận thức vừa
là nguyên lý tối cao của vũ trụ vừa là trạng thái an lạc nơi nội tâm con người.


8
Cũng như tồn bộ hoạt động triết học, tơn giáo, văn hóa của Ấn Độ cổ
đại, quan niệm về cái đẹp được tập trung thể hiện trong các thánh kinh Veda,
Upanishad và qua hai bộ sử thi Mahabrahadta và Ramayana.
Tư tưởng triết học mang tính thần thoại và hướng về tâm linh của

người Ấn Độ cổ đại đã làm cho tư tưởng mỹ học mang sắc thái thần bí. Trong
đó, cái đẹp được hiểu như là cái đẹp của Brahman (linh hồn vĩ đại – tinh thần
vũ trụ tối cao) được nhận thức trong trạng thái con người đã lánh xa được mọi
tội lỗi, đạt đến sự thanh thoát, thư thái, khơng cịn dục vọng.
Trong tư tưởng mỹ học Ấn Độ cổ đại thì sự vật, hiện tượng của cái đẹp
được cảm nhận bằng kinh nghiệm là có thực nhưng không phải cái đẹp chân
thực. Cái đẹp luôn biến đổi nên khơng thể nhận thức được tính chân thực của
cái đẹp bằng kinh nghiệm. Đằng sau tính đa dạng của cái đẹp là bản thể tuyệt
đối của nó. Nhận thức chân chính của con người về cái đẹp phải kinh qua sự
nhận thức cái đa dạng để nhận biết cái duy nhất. Sự nhận biết đó địi hỏi con
người phải lánh xa mọi tội lỗi. Do đó, cái đẹp phải dựa trên cái thiện, cái đẹp
mà con người đạt được chính là sự giải thốt bằng cách xóa bỏ mọi sự ràng
buộc của thế giới nhục dục, đưa cái tiểu ngã (Atman: linh hồn cá biệt) hòa
nhập vào cái đại ngã (Brahman: linh hồn vĩ đại), nhận ra bản chất chân thực
của con người và thực tướng của vạn vật bằng sự nâng cao tri thức, giữ tâm
yên tịnh và hành động đạo đức.
Trong tư tưởng mỹ học Ấn Độ cổ đại, cái đẹp là sự cảm nhận tính
thống nhất giữa cái cảm giác và cái siêu cảm giác. Do đó, cái đẹp khơng mang
tính thực thể bất động mà nó trở thành một nguyên lý phổ biến, một trạng
thái, một điều kiện cần thiết để con người vượt qua giới hạn không gian, thời
gian, vươn tới nấc thang tự do, nấc thang sáng tạo, vươn tới Brahman. Như
vậy, bản thể tuyệt đối của cái đẹp trong tư tưởng thẩm mỹ Ấn Độ cổ đại chính


9
là Brahman. Đó là hình tượng cao cả nhất, hùng vĩ nhất, huyền bí nhất và
cũng đẹp nhất.
Trong khi đó, tư tưởng mỹ học của Trung Quốc cổ đại lại được xuất
phát từ Kinh Dịch. Đây là một trong những tác phẩm triết học cổ nhất của
người Trung Quốc, được đánh giá như là một chân dung của lịch sử văn hóa

tinh thần của dân tộc Trung Quốc. Kinh Dịch khơng trực tiếp bàn luận về mỹ
học nhưng chính những tư tưởng và ý nghĩa của những phạm trù trong Kinh
Dịch đã xác lập nên những cơ sở cho lý luận mỹ học Trung Quốc với những
đặc điểm riêng so với các lý luận mỹ học khác như của Ấn Độ và phương
Tây.
Trong Kinh Dịch, cái đẹp không chỉ là cái đẹp của trời đất mà còn là
cái đẹp từ sự sinh tồn và phát triển của con người. Cái đẹp là một hình thức
hợp quy luật, có sự biến hóa đa dạng, gắn với cái thiện và sự tu dưỡng đạo
đức cá nhân, lý tưởng thẩm mỹ là lý tưởng nhân sinh mà cái đẹp là sự kết hợp
trọn vẹn bốn yếu tố: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
Nguyên có nghĩa là bản nguyên, nguyên thủy của muôn vật và được
cho là đứng đầu cái thiện.
Hanh có nghĩa là tốt đẹp có quan hệ màu sắc, hình thức cái đẹp và sự
hưởng thụ cái đẹp của con người.
Lợi có nghĩa là lợi ích, gắn bó với quan hệ giữa cái đẹp và sự tồn tại,
phát triển của sự sống.
Trinh có nghĩa là phù hợp chính đạo, giữ vững chính đạo, có quan hệ
giữa cái đẹp và quy luật tự nhiên, giữa cái đẹp và đạo đức phẩm cách của con
người. Bốn phẩm chất này kết hợp hữu cơ và thực hiện trọn vẹn thì là “đại
hịa” – làm nên cái đẹp cao nhất, cái đẹp hoàn hảo.
Trong lịch sử tư tưởng mỹ học Trung Quốc, cái đẹp được chia thành
hai loại. Đó là cái đẹp của dương cương (tráng mỹ) và cái đẹp của âm nhu (ưu


10
mỹ). Cái đẹp của dương cương biểu hiện cho sức mạnh sinh sôi không ngừng,
kiên cường, bền bỉ của giới tự nhiên bao gồm cả sức mạnh đạo đức tinh thần
của loài người – một sức mạnh hợp quy luật và có tiết chế, mang tính hồn
chỉnh. Cịn cái đẹp của âm nhu biểu hiện sự mềm mại, thuận và tĩnh như tính
khoan dung của cái đẹp hàm súc bên trong.

Từ nền tảng của Kinh Dịch, triết học Trung Quốc cổ đại đã có những
bước phát triển rực rỡ về sau, đặc biệt là trong thời Tiên Tần với một loạt các
triết gia nổi tiếng như Khổng Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, Mặc Tử … Cùng với
sự phát triển của triết học, những tư tưởng thẩm mỹ cũng được bộc lộ với
nhiều dáng vẻ khác nhau. Do đó, quan niệm về cái đẹp cũng vô cùng phong
phú.
Trong quan niệm của Khổng Tử, “mỹ” là sự đánh giá cao đối với hình
thức đẹp cịn “thiện” là sự đánh giá đối với nội dung đẹp. Hai khái niệm này
đều được Khổng Tử dùng để nói về cái đẹp. Trong đó, ơng đặt “thiện” cao
hơn “mỹ”, khi cho rằng “nhạc càng “mỹ”, càng hay, càng lơi cuốn bao nhiêu,
nếu khơng “thiện” thì chỉ gây thêm sự chia rẽ, căm thù, hoặc dâm loạn”[54,
tr.174]. Ông đặc biệt nhấn mạnh sự gắn bó của nghệ thuật với đạo đức, khả
năng tác động của nghệ thuật vào con người về mặt đạo đức. Ông cũng khẳng
định nghệ thuật là phương tiện tốt để giáo dục đạo đức. Nghệ thuật mà ơng
nói đến chính là nhạc. Và theo ơng, nhạc “điều hịa tình cảm, vui mà khơng
q đến lưu đãng, buồn mà không thương tổn”(Luận ngữ), cho nên có thể
cảm hóa được cho dân.
Những quan niệm của Khổng Tử về cái đẹp được Mạnh Tử kế thừa rất
xuất sắc. Chính Mạnh Tử đã để lại một định nghĩa thú vị về cái đẹp khi cho
rằng: cái đẹp là cái phong phú. Theo Mạnh Tử, con người sinh ra vốn đã
mang bản tính thiện, vì vậy, con người lúc sinh ra đã đẹp về mặt tâm hồn.


11
Cùng với hai đại diện này của Nho giáo, Lão giáo là một trào lưu triết
học khác có nhiều ảnh hưởng ở Trung Quốc cổ đại mà đại diện tiêu biểu nhất
chính là Lão Tử. Trong tác phẩm “Đạo đức kinh”, Lão Tử hồn tồn khơng
phủ nhận rằng cái đẹp tồn tại khách quan trong thế giới; mà dưới hình thức
“thiện” và “mỹ”, nó được quan niệm là một trong những biểu hiện xuất phát
từ bản chất bên trong của thế giới vật chất, xuất phát từ “đạo”, từ nguyên lý

sáng tạo vơ hình của thế giới. Nhưng cái đẹp đó thuộc về thế giới của “những
hình thái hữu hạn” và nhận thức được do cảm tính. Cịn “đạo” là huyền bí, nó
khơng có tên và khơng thể diễn đạt được nó. Bản thân sự huyền bí đó của
“đạo” cũng đã là đẹp. Cái đẹp của đạo là cái đẹp tự nhiên có sự kết hợp hài
hịa giữa cái vơ hình và cái hữu hình, giữa cái giống nhau và cái khác biệt.
Theo ông, đẹp và xấu đi cùng với nhau. “Khi cả thiên hạ đều coi “mỹ” là đẹp
tất nghĩ ra xấu, ai cũng nghĩ “thiện’ là tốt tất nghĩ ra xấu” (Đạo đức kinh).
Cũng là đại diện nữa của Lão giáo –Trang Tử đã tiếp thu và phát triển
xa hơn những quan niệm mỹ học của Lão Tử. Theo Trang Tử, cái đẹp cũng là
một biểu hiện của “đạo”. Con người nhận thức cái đẹp từ thiên nhiên. Bản
thân thiên nhiên là nguồn gốc của cái đẹp. Con người là một phần tử nhỏ của
thiên nhiên do đó trong bản chất của con người cũng có cái đẹp. Nhưng Trang
Tử cho rằng những nhận xét của con người về cái đẹp là không đúng với chân
lý, chúng là chủ quan và tương đối. Ơng phủ nhận tính chân lý của cái đẹp
gắn liền với nhận thức con người bằng cảm xúc với thế giới bao quanh mình.
Ơng cho rằng khơng tìm ra được sự khác nhau giữa thực và giả, giữa đẹp và
xấu vì khơng có tiêu chuẩn cho những phạm trù này do chỗ chúng gắn bó lẫn
nhau và chi phối lẫn nhau. Vì vậy, Trang Tử có sự mâu thuẫn trong quan
niệm mỹ học của mình khi vừa công nhận sự tồn tại của cái đẹp trong thiên
nhiên vừa đề ra luận điểm cho rằng cái đẹp là tương đối, không thể nhận thức
được.


12
Đối lập hoàn toàn với tư tưởng của Nho giáo và Lão giáo là Mặc giáo.
Những quan niệm mỹ học của các đại diện thuộc trường phái Mặc giáo nổi
bật lên do thái độ tiêu cực đối với nghệ thuật và cái đẹp. Đại diện trước nhất
và tiêu biểu nhất của Mặc giáo là Mặc Tử. Dù hồn tồn khơng phủ nhận sự
tồn tại của cái đẹp và khả năng tác động của nó vào con người bằng cảm xúc,
chủ yếu qua nghệ thuật nhưng Mặc Tử lại đấu tranh quyết liệt chống việc trau

dồi nghệ thuật. Là đại diện của tầng lớp thợ thủ công sống trong cảnh thiếu
thốn, ông cho rằng cái đẹp là một sự xa hoa q chừng, khơng cần thiết. Ơng
phủ nhận cái đẹp vì nó chẳng đem lại lợi ích vật chất gì cho con người. Cái
đẹp, theo Mặc Tử, là phần thu nhập của bọn nhà giàu, là bằng chứng cho cảnh
thừa thải, cảnh hủ hóa, là nguyên nhân thống khổ của nhân dân lao động.
Nhưng quan niệm này thể hiện sự bi quan của Mặc Tử. Ơng khơng nhận thấy
một điều: dù cuộc sống có thiếu thốn về mặt vật chất thì con người cũng ln
có nhu cầu về cái đẹp và chính họ đã tự sáng tạo ra cái đẹp để thưởng thức từ
những hoạt động rất đời thường trong cuộc sống của mình.
Tóm lại, cái đẹp trong lịch sử tư tưởng mỹ học Trung Quốc được xây
dựng trên cơ sở liên kết các hiện tượng thống nhất với nhau bằng sự tương
đồng nội tại giữa Đạo và Đức mà Đức là nội dung cịn Mỹ là hình thức thể
hiện. Ở đây, cái đẹp không phải là sản phẩm của một cá tính sáng tạo hay của
những điều kiện xã hội mà là sự biểu hiện những chiều sâu bí ẩn. Bản thân sự
huyền bí đó cũng đã là một sự tuyệt diệu, là đẹp, là tuyệt mỹ.
1.1.2. Bản thể của cái đẹp trong lịch sử triết học phương Tây
Khác với phương Đông cổ đại, những quan niệm mỹ học ở Hy Lạp và
La Mã cổ đại sớm trở thành những học thuyết rõ ràng cùng với những học
thuyết về triết học. Tư tưởng mỹ học Hy Lạp cổ đại xuất hiện như là sự
nghiền ngẫm triết học về cái đẹp của những trường phái khác nhau, thậm chí


13
đối lập nhau, suy cho cùng đều hướng về mục đích nhân sinh của triết học –
con người phải được hồn thiện về phẩm chất và cả về trí tuệ.
Trường phái mỹ học quan niệm cái đẹp là thực thể vật chất đã đi đến sự
phát hiện về tính quy định của thực tại cuộc sống đối với cái đẹp và nội dung
sáng tạo của nghệ thuật. Cái đẹp và nghệ thuật ln hướng về thực tại cuộc
sống vì thế chúng luôn chân thực và sinh động. Chẳng hạn như quan niệm của
những nhà triết học tự nhiên đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại về cái đẹp. Họ cho rằng

cái đẹp tức là cái đẹp có tính vũ trụ, là hòa điệu vào cái đẹp phổ biến của vũ
trụ. Cái đẹp là sự hòa hợp của những cái khác biệt, là sự hài hòa của những
cái đối chọi. Hay như Democritus xuất phát từ học thuyết nguyên tử của mình
đã cho rằng cái đẹp là sự kết hợp của các nguyên tử và coi thuộc tính chủ yếu
của cái đẹp là tính mực thước, tính thích ứng mọi mặt của sự vật. Tiêu biểu
nhất cho trường phái mỹ học này là Aristotle – bộ óc “bách khoa tồn thư”
của thời kỳ cổ đại Hy Lạp. Ông là người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng thẩm
mỹ thấy được tính chủ quan và tính khách quan của cái đẹp. Trên lập trường
duy vật, Aristotle đã có quan niệm về cái đẹp một cách tường minh. Theo
ông, vẻ đẹp là một tính chất tồn tại khách quan, một thuộc tính của bản thân
các đối tượng, các sự vật. Ông chú ý trước tiên tới những đặc trưng của cái
đẹp về mặt hình thức khi cho rằng những hình thức chủ yếu của cái đẹp là trật
tự (trong khơng gian), là tính tương xứng và tính chính xác, ngồi ra cịn có
thêm tính nhất quán và sự thống nhất trong cái đa dạng.
Ngược lại, trường phái mỹ học quan niệm cái đẹp là thực thể tinh thần
đã đi đến sự phát hiện về vai trị của thế giới lý tính đối với thực tại cuộc sống
nhưng lại tuyệt đối hóa vai trị của thế giới này nên đã làm cho cái đẹp chỉ ở
trong sự vọng tưởng và nghệ thuật phải có sự phù trợ của thần linh. Đại diện
tiêu biểu cho trường phái này là hai thầy trò Socrates và Plato. Socrates đã tạo
nên một bước ngoặt trong triết học Hy Lạp cổ đại khi ông chuyển sự quan


14
tâm của mình từ tự nhiên sang con người. Trong lĩnh vực thẩm mỹ, ơng nhấn
mạnh tính chủ quan của cái đẹp. Theo ông, cái đẹp là của con người, của tâm
hồn và cuộc sống con người. Ông là người đầu tiên tìm cách định nghĩa khái
niệm cái đẹp. Tư tưởng thẩm mỹ ở Socrates tự đề ra cho mình mục đích trả
lời khơng chỉ câu hỏi: “Cái gì đẹp” mà cả câu hỏi “Cái Đẹp là gì?” Theo ơng,
phạm trù Đẹp phải được gắn liền với khái niệm hợp lý. Do đó, cái đẹp là
tương đối: “bất cứ cái gì cũng tốt và đẹp. So với điều nó thích ứng tốt và

ngược lại bất cứ cái gì cũng tồi và xấu so với điều nó thích ứng tồi”[95,tr.51].
Những tư tưởng của Socrates được môn đệ của ông là Plato tiếp tục
phát triển. Tuy nhiên, khác với Socrates, là người theo chủ nghĩa tương đối,
Plato đề xướng bản chất không tương đối của cái đẹp. Theo Plato, cái đẹp
không tồn tại ở thế giới này mà tồn tại ở thế giới của các ý niệm. Ông coi ý
niệm về cái đẹp là hồi ức về tiền kiếp lúc con người sống với thần linh. Trong
quan niệm của ông, cái đẹp hiện ra như là một ý niệm vĩnh cửu, bất biến, chết
cứng, cắt đứt với thế giới sinh động và biến đổi của các sự vật. Vì vậy, ơng
cho rằng cái đẹp là thuộc vương quốc của những ý niệm siêu trần thế và chỉ
có trí tuệ mới nhận thức nổi vương quốc này. Ông đã tiếp tục truyền thống
của Socrates ở chỗ cố phát hiện cho được chẳng những cái gì đẹp mà cịn cả
cái đẹp như thế nào. Nhưng ông lại phân biệt cái đẹp vật chất với cái đẹp tinh
thần và hạ thấp cái đẹp vật chất chân chính của cuộc sống.
Những quan niệm về cái đẹp trong tư tưởng thẩm mỹ Hy Lạp cổ đại có
một vai trị rất quan trọng trong q trình phát triển về sau này của mỹ học.
Chúng có thể được coi là những viên gạch đầu tiên cho quá trình phát triển
lịch sử tư tưởng thẩm mỹ của nhân loại. Nhờ có viên gạch đầu tiên ấy mà về
sau này, các quan niệm mỹ học khác nhau đã lần lượt bừng nở trong các thời
kỳ tiến triển lịch sử với đầy đủ gam màu của nó.


15
Cuộc đấu tranh giữa nô lệ và chủ nô trong xã hội cổ đại kết thúc với sự
thanh toán cả hai giai cấp đối địch. Trên sự đổ nát của thời đại, châu Âu mọc
lên những quốc gia mới và trong khn khổ của chúng, cuộc sống kinh tế,
chính trị và cả cuộc sống tinh thần vẫn tiếp tục phát triển. Ở thời kỳ mà châu
Âu coi là đen tối nhất của nhân loại – thời kỳ trung cổ – Kitơ giáo phát triển
đến mức đỉnh cao của nó và chi phối toàn bộ mọi hoạt động đời sống xã hội
trong đó có cả những tư tưởng về mỹ học. Đức tin Kitô giáo làm nên quan
niệm cái đẹp là cái đẹp toàn năng của Chúa.

Augustine (354 – 430) “cha của giáo hội” – là một trong những nhà lý
luận xuất sắc về nghệ thuật chính thống thời kỳ này, thừa nhận: Thế giới đẹp
bởi vì Chúa trời đã sáng tạo ra nó. Theo ơng, Chúa là nguồn gốc của mọi cái
đẹp và là cái đẹp cao quý nhất. Ông cho rằng cái đẹp có thể ngắm nghía được,
nghĩa là cái đẹp có tính hữu hình. Nó tượng trưng cho sự thống nhất siêu hình
học, cho sự phân bố nhịp nhàng các sự vật, cho ý nghĩa của các sự vật. Trong
bản chất sâu sắc của nó, cái đẹp là cái thiện và cái thực; nhưng thiện và thực
dưới hình thức cái đẹp khơng có ý nghĩa mà cái có ý nghĩa là nội dung tư
tưởng lồng vào cái đẹp, và cái đẹp là siêu cảm giác. Nó được thể hiện qua sự
thâm nhập của nhịp điệu hòa vào thế giới tùy theo ý muốn của Chúa.
Tiến xa hơn một bước so với Augustine khi cố tìm cách thơng qua việc
hịa hợp những sự vật cảm tính với ý niệm về Chúa trời để khẳng định cái đẹp
của thực tại, Thomas Aquinas trong quan niệm của mình về cái đẹp đã thể
hiện rõ sự cố gắng biện hộ cho cái đẹp của thế giới nhận thức bằng cảm tính.
Theo ơng, cái đẹp được quy định bởi những yếu tố hình thức như tính hồn
chỉnh, tính điều hịa và tính nổi bật. Ơng có khuynh hướng tìm cái đẹp là sự
nhận thức những gì đem lại niềm thích thú. Nó là hình thái được cảm thụ do
những cảm xúc cao nhất của con người. Tuy nhiên, ơng vẫn khơng thốt ra


16
khỏi xuất phát thần học của mình khi cho rằng cái đẹp cao nhất là cái đẹp
thuộc về Chúa và muốn nhận thức nó chỉ có cách là tự hịa mình vào Chúa.
Bắt đầu từ thời kỳ phục hưng, tồn bộ tư tưởng nói chung và tư tưởng
thẩm mỹ nói riêng của thời kỳ trung cổ bị lên án mạnh mẽ. Đó là thời kỳ mà
nhân loại bước sang một nền văn hóa mới với những tư tưởng hồn tồn trái
ngược hệ tư tưởng đã từng thống trị trong giai đoạn lịch sử “đêm trường trung
cổ”. Những tư tưởng thẩm mỹ của thời kỳ phục hưng đều hướng về con
người, thấm nhuần những nguyên lý khẳng định cuộc sống lạc quan và tích
cực của con người. Đặc biệt, các nhà nhân văn chủ nghĩa của thời kỳ này rất

chú ý tới vấn đề cái đẹp. Bởi vì họ quan niệm rằng con người có khát vọng
khơng gì dập tắt nổi là muốn thưởng thức cái đẹp. Và có thể nói, thời kỳ phục
hưng là nơi diễn ra cuộc đấu tranh chống lại khái niệm của giáo hội về cái
đẹp. Những nhà kinh viện chủ nghĩa nói rằng: chỉ những gì thuộc về thần linh
mới là đẹp, còn những nhà nhân văn chủ nghĩa thì lại nói: con người là đẹp.
Trong thời kỳ phục hưng, người ta cho rằng yếu tố chủ yếu trong khái
niệm cái đẹp là vẻ đẹp của thân thể con người, và cái đẹp gắn liền với những
tỷ lệ cân đối của cơ thể và với việc mơ tả đúng đắn những hình thức của hiện
thực. Những gì có tỷ lệ cân đối và hịa điệu đều đẹp cả. Leonardo de Vince
còn cho rằng đẹp nhất trong vạn vật là ở chỗ mô tả con người một cách chân
thực.
Bên cạnh đó, các nhà nhân văn chủ nghĩa còn ca ngợi cái đẹp thực tại
của thiên nhiên. Họ khơng hề tỏ ra hồi nghi tính thực tại của cái đẹp. Khi
Alberti đi tìm cơ sở khách quan của cái đẹp, ơng cho rằng cái đẹp hồn tồn
khơng phải là cái gì thuộc về một thế giới đâu đâu, nó khơng phải là sự phản
ánh của thần linh mà là một tính chất của sự vật tiếp nhận được bằng các giác
quan. Vì vậy, cái đẹp là sự hịa điệu giữa những bộ phận của một sự vật. Cái


17
đẹp bắt rễ ngay trong bản chất của các sự vật và từ ở bản chất sâu sắc của nó,
thế giới là đẹp. Do đó, cái đẹp nằm trong quy luật khách quan của thế giới.
Thời kỳ cận đại, cũng như triết học, mỹ học Tây Âu chia thành nhiều
trường phái ở Anh, Pháp, Đức, Nga… Tỏ ra là người tiếp tục truyền thống
của thời cổ đại và phục hưng, Boileau – nhà lý luận của chủ nghĩa cổ điển
Pháp, người phát ngôn cho những quan điểm mỹ học của chính thể chuyên
chính Pháp khoảng giữa thế kỷ XVII – đã có sự tìm tịi những cơ sở khách
quan của cái đẹp. Ơng nhận thức cái đẹp là hịa điệu và tính quy luật của vũ
trụ. Nhưng ơng lại cho rằng có một ngun lý tinh thần gì đó làm nguồn gốc
cho cái đẹp, nguyên lý này đối lập với vật chất và điều khiển vật chất. Ông

cũng tuyên bố dứt khốt rằng khơng có cái đẹp nằm ngồi chân lý. Tính sáng
tỏ là tiêu chuẩn của cái đẹp và phải do lý trí mới nắm giữ được nó, những sự
vật mà ta không hiểu được đều không đẹp…
Những quan niệm về cái đẹp trong mỹ học của Boileau là một khâu
quan trọng trong quá trình phát triển của mỹ học cổ điển và tư tưởng thẩm mỹ
của thế giới. Nó tạo nên tiền đề lý luận mỹ học cho giai đoạn mới – giai đoạn
khai sáng.
Thời kỳ khai sáng ở Pháp là sự chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách
mạng tư sản cần phải được tiến hành triệt để, không khoan nhượng ở nước
này mà người sáng lập là Voltaire và đại diện tiêu biểu nhất của thời kỳ này
chính là Denis Diderot (1713 – 1784). Với vốn tri thức bách khoa, với thị hiếu
thẩm mỹ tinh tế, với chí hướng chính trị rõ ràng, trên cơ sở triết học duy vật,
Diderot đã giải quyết xuất sắc những vấn đề mà triết học – mỹ học thuộc thời
đại mình đang đặt ra.
Trong quan niệm của mình, Diderot khẳng định: “Cái Đẹp là một thuật
ngữ chúng ta áp dụng vào vô vàn thực thể; song dù giữa các thực thể có sự
khác nhau thế nào đi nữa, nhất thiết hoặc là chúng ta áp dụng sai thuật ngữ


18
Cái Đẹp, hoặc là trong các thực thể ấy có một tính chất mà dấu hiệu là thuật
ngữ Cái Đẹp”[17,tr.117-118]. Cái đẹp là tất cả những gì chứa đựng trong bản
thân chúng, yếu tố thức tỉnh trong tâm trí con người, ý niệm về những quan
niệm này nọ; sự tiếp thu các quan hệ là cơ sở của cái đẹp.
Theo Diderot, có hai cái đẹp đối với chúng ta, một cái đẹp thực tế và
một cái đẹp được nhận thấy. Cái đẹp được nhận thấy là khi tất cả những gì gợi
dậy trong chúng ta ý niệm những tương quan. Nếu xem xét những tương quan
trong các phong tục, ta sẽ có cái đẹp đạo đức. Nếu xem xét những tương quan
trong văn chương, ta sẽ có cái đẹp văn chương. Nếu xem xét chúng trong các
bản nhạc, ta sẽ có cái đẹp âm nhạc. Nếu xem xét chúng trong các cơng trình

của tự nhiên, ta sẽ có cái đẹp tự nhiên. Nếu xem xét chúng trong các tác phẩm
cơ khí của con người, ta sẽ có cái đẹp nhân tạo. Nếu xem xét chúng trong việc
thể hiện các tác phẩm của nghệ thuật ta sẽ có cái đẹp mơ phỏng.
Cái đẹp thực tế, theo Diderot là cái đẹp mà ta phát biểu về một thực thể,
nghĩa là các bộ phận của chúng được cấu thành có sự trật tự, sự sắp xếp, sự
đối xứng và nghĩa là đã xem xét trong các tương quan của những thực thể
cùng loại.
Việc phân chia này của Diderot biểu hiện một sự cố gắng nhằm khắc
phục tính siêu hình trong quan niệm của ông cũng như trong quan điểm của
chủ nghĩa duy vật thời kỳ này nhưng không đạt được và không thể đạt được
kết quả tốt đẹp vì khơng vượt ra nổi giới hạn mà thời đại đã quy định.
Mỹ học khai sáng khơng chỉ gói gọn ở biên giới nước Pháp mà còn
được phát triển ở các nước khác như Anh, Đức… Chủ nghĩa khai sáng Đức
hình thành trong mâu thuẫn giữa hiện thực xã hội Đức đang lạc hậu về mặt
chính trị và kinh tế với sự tỏa sáng của tư tưởng triết học đang cố vượt ra khỏi
sự khủng hoảng và bế tắc của hệ tư tưởng Đức đương thời. Một trong những
người mở đầu cho sự phát triển mỹ học Đức trong thời kỳ khai sáng là


19
Baumgarten (1714 – 1762). Ông là người đầu tiên trong lịch sử lý luận triết
học về nghệ thuật đưa ra thuật ngữ “mỹ học” mà ai nấy đều dùng cho đến
hiện nay để chỉ ngành lý luận này. Thuật ngữ đó có nguồn gốc ngơn ngữ ban
đầu là một từ cổ Hy Lạp: Acsthetik – nghĩa là cảm thụ bằng cảm tính. Có
người dịch là “cảm tính học” hoặc “cảm giác học”. Từ thuật ngữ này,
Baumgarten đưa ra quan niệm mỹ học nghiên cứu hoạt động nhận thức thấp –
nhận thức cảm tính. Và ơng định nghĩa mỹ học là khoa học nghiên cứu sự
cảm thụ cái đẹp.
Theo Baumgarten, sự hoàn thiện là cơ sở của cái đẹp. Sự hoàn thiện
được nhận thức từ lý trí, tình cảm và ý chí. Trong sự hồn thiện đã bao hàm

sự thống nhất chân – thiện – mỹ. Từng mức độ nhận thức mà sự hoàn thiện
hiện ra là cái Chân, cái Thiện hay là cái Mỹ.
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, tư tưởng mỹ học Đức chuyển sang một
giai đoạn mới – giai đoạn duy tâm cổ điển với những cơng trình nghiên cứu
cơng phu của Kant, Hegel… Sự cống hiến cơ bản của những nhà triết học cổ
điển Đức là ở chỗ họ đã vận dụng phép biện chứng vào việc lý giải những vấn
đề chủ yếu về mỹ học trong đó có vấn đề về cái đẹp, mặc dù sự lý giải ấy dựa
trên một cơ sở duy tâm chủ nghĩa.
Immanuel Kant (1742 – 1804) là người khơi nguồn cho chủ nghĩa duy
tâm cổ điển Đức. Những quan niệm về mỹ học của ơng chủ yếu được trình
bày trong tác phẩm “Phê phán năng lực phán đoán”. Trong tác phẩm này,
Kant trình bày những đặc trưng cơ bản của con người, của mối quan hệ giữa
con người mục đích tự thân với các sự vật khách quan như là phương tiện
dành cho con người. Mối quan hệ ấy thể hiện dưới dạng phán đoán thẩm mỹ.
I. Kant cho rằng cái đẹp là từ cảm xúc thuần túy chủ quan và có thể xác
định bằng những khái niệm tiên nghiệm về mối quan hệ của một mặt nhận
thức không phải đến từ lý tính thuần túy thực tiễn hay là lý tính thuần tuý tư


20
biện mà chính là sở thích. Sở thích theo lý thuyết mới của Kant là một cảm
xúc mang tính phổ quát và tất yếu nhưng cũng mang tính tiên nghiệm. Do đó,
Kant tun bố: “Khơng có một khoa học về cái đẹp mà chỉ có sự phê phán về
cái đẹp (thường nghiệm hay siêu nghiệm về cái đẹp); khơng có khoa học
“đẹp” mà chỉ có nghệ thuật đẹp (mỹ thuật). Vì những gì liên quan đến khoa
học (về cái đẹp), ắt địi hỏi trong đó phải tiến hành một cách khoa học, tức
bằng cơ sở chứng minh, xem cái gì đó được gọi là đẹp hay khơng đẹp, song
phán đốn về tính đẹp, nếu thuộc về khoa học, thì khơng phải là phán đốn sở
thích. Cịn liên quan đến điểm thứ hai (khoa học đẹp), thì địi hỏi một khoa
học, xét như là một khoa học, phải là “đẹp”, là một điều hoang đường, khơng

thể có được”[20, tr.76].
Khi phân tích về cái đẹp, Kant chia thành bốn yếu tố. Yếu tố thứ nhất là
sự phán đốn sở thích về phương diện chất. Xét về phương diện này, Kant
cho rằng “Sở thích là một sự hài lịng hay khơng hài lịng mà khơng có bất kỳ
sự quan tâm nào. Đối tượng của một sự hài lòng như vậy gọi là Đẹp”[20,
tr.78]. Yếu tố thứ hai là sự phán đốn sở thích về phương diện lượng. Kant
nhấn mạnh đến điều kiện của sự hài lịng phổ biến là khi khơng có những điều
kiện riêng tư như là cơ sở cho sự hài lịng. Vì vậy “Đẹp là cái gì làm hài lịng
một cách phổ biến, độc lập với khái niệm”[20, tr.80]. Yếu tố thứ ba là sự phán
đốn sở thích về phương diện tương quan. Nghĩa là xét về sự phụ thuộc lẫn
nhau, về tính nhân quả và sự tương tác. Ở trong yếu tố này, Kant xét đoán cái
đẹp tự do (trong tính tự tồn cho mình) đối lại với cái đẹp phục tùng (cái đẹp
đơn thuần phụ thuộc) làm điều kiện của một khái niệm nhất định (tính hợp
mục đích). Cái đẹp tự do là cái đẹp tất nhiên khiến mọi người ưa thích, khơng
mảy may vụ lợi do hình thái thuần túy của chính nó. Vì vậy, nó khơng bao
hàm một khái niệm nào đòi hỏi đối tượng phải thế này hoặc thế nọ. Còn cái
đẹp phục tùng lại bao hàm khái niệm về sự hoàn mỹ của đối tượng. Nó được


×