BỘ NƠNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NƠNG THƠN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG CƠ GIỚI NINH BÌNH
GIÁO TRÌNH
MƠN HỌC: CHĂM SĨC SỨC KHỎE TÂM THẦN
NGHỀ: CƠNG TÁC XÃ HỘI
TRÌNH ĐỘ: CAO ĐẲNG
Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐTCĐCGNB ngày…….tháng….năm
2018
của Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình
1
Ninh Bình, năm 2018
TUN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thơng tin có thể được
pháp dùng ngun bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham
khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh
doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
2
LỜI GIỚI THIỆU
Giáo trình Chăm sóc sức khỏe tâm thần được biên soạn trên cơ sở tn thủ
các nội dung chính trong chương trình khung của Nhà nước, có tham khảo các tài
liệu của các tác giả có uy tín và đặc biệt được cập nhật các chủ trương, chính
sách, các văn bản pháp luật mới nhất của Đảng và Nhà nước. Giáo trình là tài
liệu học tập, tham khảo chính trong đào tạo nghề Cơng tác xã hội.
Giáo trình được biên soạn làm 5 chương.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
CHƯƠNG II: CÁC TRIỆU CHỨNG TÂM THẦN
CHƯƠNG III: CÁC HỘI CHỨNG TÂM THẦN
CHƯƠNG IV: CÁC BỆNH TÂM THẦN
CHƯƠNG V: CHĂM SĨC SỨC KHỎE TÂM THẦN TẠI CỘNG ĐỒNG
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do chưa có nhiều kinh nghiệm, thời
gian cịn hạn chế nên giáo trình khơng thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót,
rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cơ giáo và các em học
sinh, sinh viên.
Ninh Bình, ngày…....tháng…...năm 2018
Tham gia biên soạn:
1. Nguyễn Thị Lành
2. Phạm Thu Phương
3
MỤC LỤC
4
GIÁO TRÌNH MƠN HỌC
Tên mơn học: Chăm sóc sức khỏe tâm thần
Mã số mơn học: MH 32
Vị trí, tính chất, vai trị và ý nghĩa của mơn học:
Vị trí mơn học: Mơn học Chăm sóc sức khỏe tâm thần là mơn học chun
ngành quan trọng của chương trình đào tạo nghề Cơng tác xã hội liên quan tới
hoạt động bảo vệ và cung cấp dịch vụ xã hội cho đối tượng bị tâm thần.
Tính chất của mơn học: Là mơn học chun mơn nghề tự chọn.
Mục tiêu mơn học:
Kiến thức:
+ Trình bày được khái niệm, thuật ngữ, lịch sử phát triển, phân loại bệnh theo
hệ thống phân loại;
+ Nhận biết được tổng quan về các triệu chứng, hội chứng và các loại bệnh
tâm thần;
+ Trình bày được ngun nhân, tác hại, các quan điểm nhận thức về các
loại bệnh tâm thần và các dịch vụ, chính sách, pháp luật trong chăm sóc người bị
tâm thần.
Kỹ năng:
+ Áp dụng kiến thức đã học trong tham vấn, biện hộ, thương thuyết, làm
việc nhóm, huy động cộng đồng trong trợ giúp người bị bệnh tâm thần;
+ Hỗ trợ, giúp đỡ người bị bệnh tâm thần và rối loạn tư duy để học có
cách ứng xử tốt hơn.
5
Năng lực tự chủ và trách nhiệm:
+ Nhìn nhận đúng đắn hơn về các trường hợp bị bệnh tâm thần;
+ Tích cực tun truyền, vận động, phối hợp với gia đình và xã hội trong
can thiệp và giúp đỡ người bị bệnh tâm thần.
Nội dung mơn học:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Mã chương: MH32CH01
Mục tiêu:
Kiến thức:
+ Trình bày được những hiểu biết về các thuật ngữ: tâm thần học, tâm
bệnh học, sức khoẻ tâm thần, triệu chứng, hội chứng, chẩn đốn lâm sang, rối
loạn tâm thần.
Kỹ năng: Vận dụng kiến thức đã học trong hoạt động chăm sóc và trợ
giúp các đối tượng xã hội có hiệu quả.
Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Cảm thơng và tích cực tun truyền,
vận động, phối hợp với gia đình và xã hội trong can thiệp và giúp đỡ người bị
bệnh tâm thần.
Nội dung chính:
1. Các khái niệm cơ bản.
Điên loạn tâm thần ln là chủ đề được mọi người quan tâm. Nhìn thấy
một người điên người ta vừa cảm thấy sợ lại vừa cảm thấy tị mị muốn quan
tâm. Có nhiều người cảm thấy thương hại người điên đó.
Chức năng tâm lý cơ bản của con người là định hướng, điều khiển, kiểm
tra và điều chỉnh các hoạt động chủ thể. Nhờ có tâm lý con người mới có thể
nhận biết được thế giới khách quan tác động vào đối tượng, tạo ra những sản
phẩm để thoả mãn nhu cầu của bản thân, xã hội. Nhờ có tâm lý – ý thức con
6
người khơng chỉ hoạt động để thoả mãn nhu cầu tức thì mà cịn cải tạo hiện
thực, xây dựng thế giới theo cách của mình.
Theo tâm lý học các hiện tượng tâm lý con người là sự phản ảnh hiện
thực khách quan vào não. Nếu ví các hiện tượng tâm lý như là những hình ảnh
được sao chụp, phản chiếu thì não như là tấm gương , là bộ máy sao chụp để
cho ra những hình ảnh đó. Đối tượng nghiên cứu của tâm lý học là các hiện
tượng tâm lý, các quy luật của những hiện tượng này và cơ chế tạo nên chúng.
Bộ não con người có cấu trúc phức tạp và hoạt động rất tinh vi. Do vậy khi não
bị tổn thương thì các hiện tượng khách quan cũng bị phản ánh một cách méo mó,
sai lệch.
Tổn thương não có thể xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau, từ những
tổn thương có thể nhìn thấy như trường hợp chấn thương sọ não, u não cho đến
những trường hợp chưa nhìn thấy được như tâm thần phân liệt, rối loạn cảm
xúc…Rối loạn tâm thần cũng có thể xuất hiện khi những hoạt động phức tạp
của não bộ bị mất đồng bộ, mất nhịp nhàng, hậu quả của một tác động từ bên
ngồi cơ thể .
Một nhân viên cơng tác xã hội khơng chỉ cần nắm vững những kiến thức
về trợ giúp cá nhân, trợ giúp nhóm, phát triên cộng đồng…cịn cần phải có
những kiến thức liên quan đến tâm bệnh của thân chủ nhìn từ góc độ Y học.
Tâm thần học là khoa học chun nghiên cứu các bệnh tâm thần riêng biệt
và phương pháp điều trị chúng.
Theo chúng tơi cụm từ tâm bệnh/tâm bệnh học tương đương với cụm từ
tâm thần/tâm thần học.
Như phần trên chúng tơi đã nói cụm từ tâm thần học /tâm thần có hàm
nghĩa tương đương với cụm từ tâm bệnh học. Do đó trong giáo trình này chúng
tơi muốn nghiêng về tìm hiểu tâm thần học theo hướng của tâm bệnh học.
Sức khoẻ tâm thần: theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới: sức khoẻ
bao gồm sự khoẻ mạnh về thể chất, tâm lý, xã hội. Có thể hiểu sức khoẻ tâm
thần vừa là một bộ phần cấu thành vừa là một lĩnh vực mang tính độc lập tương
đối. Trong trường hợp này chúng tơi hiểu cụm từ sức khoẻ tâm thần tương
đương với cụm từ sức khoẻ tâm lý.
7
Sức khoẻ tâm thần ở cộng đồng được hiểu là:
1. Một cuộc sống thật sự thoải mái.
2. Đạt được niềm tin vào giá trị bản thân, vào phẩm chất và giá trị của
người khác.
3. Có khả năng ứng xử bằng cảm xúc, hành vi hợp lý trước mọi tình huống.
4. Có khả năng tạo dựng, duy trì và phát triển thoả đáng các mối quan hệ.
5. Có khả năng tự hàn gắn để duy trì cân bằng khi có các sự cố gây mất
thăng bằng, căng thẳng (stress).
Lâm sàng: tại giường. Ý muốn nói đến cơng việc thăm khám ngay tại
giường bệnh.
Triệu chứng: Dấu hiệu của trạng thái bệnh lý hoặc của một bệnh được
thể hiện ra bên ngồi.
Hội chứng: là sự kết hợp nhất định của một số triệu chứng. Từng triệu
chứng khơng tồn tại độc lập mà trong sự kết hợp với các triệu chứng khác.
Những đặc điểm lâm sàng của hội chứng, sự thay đổi hội chứng là cơ sở cho
việc chẩn đốn bệnh.
Chẩn đốn lâm sàng: nhận định mang tính kết luận của thầy thuốc về
bệnh.Chẩn đốn có nhiều loại: chẩn đốn triệu chứng, chẩn đốn hội chứng,
chẩn đốn bệnh, chẩn đốn sơ bộ, chẩn đốn xác định…
Rối loạn phản ánh thực tại do những biến đổi hoạt động của não.
2. Lịch sử phát triển ngành tâm thần học và chăm sóc sức khỏe tâm thần
2.1. Sự phát triển của tâm thần học trên thế giới
2.1.1. Thời thượng cổ
Bệnh tâm thần cũng như mọi loại bệnh tật khác có lẽ xuất hiện ngay từ khi
bắt đầu có lồi người, quan niệm sơ khai cho rằng đây là loại bệnh bị ma ám
hoặc do sự giận dữ của thần thánh.
Trong kinh Ayur veda của người Hindu vào thế kỷ 14 TCN có mơ tả một
người đàn ơng háu ăn, bẩn thỉu, trần truồng, khơng có trí nhớ, đi lại một cách
khó khăn.
8
Trong kinh Cựu ước viết khoảng năm 700 TCN cũng đề cập đến một
người có tên là Nebuchadnezzar đã bị tước quyền làm người, ăn như bị, tóc mọc
như lơng vũ đại bàng, bàn tay, bàn chân có móng như chim.
Trong các tư liệu trên người ta miêu tả người điên như một người mất
phẩm giá, khơng tự chăm sóc bản thân, bị khinh bỉ…
Hypocrat một thầy thuốc Hy Lạp được tơn vinh là người cha của nền Y
học hiện đại cho rằng hiện tượng điên là do mất cân bằng thể dịch.
2.1.2. Thời trung cổ
Dưới sự thống trị của thiên chúa giáo và chế độ phong kiến, những bệnh
nhân tâm thần được coi như là hiện thân của quỷ dữ hoặc alf nhưng tên phù thuỷ
chống lại ý chúa. Vì vậy những người bị bệnh tâm thần bị truy nã khắp nơi bị
trừng phát hết sức dã man, bị trói buộc bằng gong cùm, xiềng xích bị tra tấn vơ
cùng dã man. Nhiều người tâm thần bị thiêu sống, bị dìm xuống nước, treo cổ,
hành hình…
Vào thế kỷ XII những cơ sở đầu tiên dành cho những bệnh nhan tâm thần
được xây dựng. Đó là những trại tập trung kín trong các tu viện. Một số nơi khác
xây dựng các trại tập trung dành riêng cho những người điên với chế độ quản lý
hà khắc và tàn bạo, man rợ.
2.1.3. Thời kỳ cuối thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX
Số phận bi thảm của người tâm thần kéo dài suốt thời kỳ thượng cổ và
trung cổ cho đến cuối thể kỷ XVIII mới được cải thiện.
Năm 1793, Philippe Pinel ( 1745 1826) là người đầu tiên đã xố bỏ xiềng
xích trói buộc cho những người bệnh tâm thần tại 2 trại người “điên” Bicretre và
Salpetriere ở Pháp. Ơng đã cải tiến chế độ săn sóc cứu trợ cải thiện hồn cảnh
sinh hoạt, phân loại sắp xếp người bệnh theo mức độ bệnh nặng hay nhẹ,
chống những hành vi ngược đãi, tàn bạo, khinh thường người bệnh.
Ơng u cầu đổi tên những trại người điên thành các bệnh viên tâm thần.
Những tưởng và hành độngc cải cách tiến bộ của ơng đã lan sang các nước khác
trên thế giới.
Thời kỳ này có nhiều thầy thuốc tâm thần nổi tiếng như: K Kkahlbaum
( 1828 1899), Emil Kraepelin (1856 1926) đã dày cơng quan sát và đúc kết những
9
quy luật tiến triển và kết thúc của bệnh tâm thần, quy luật đó vạch ra ranh giới
của từng bệnh riêng biệt, đặc biệt là các nghiên cứu của X.X Korxakov về rối
loạn tâm thần do rượu năm 1887, mở đường cho những nghiên cứu khác về rối
loạn tâm thần thực tổn.
2.1.4. Nửa đầu thế kỷ XX
Ở hầu hết các nước trên thế giới tâm thần học ngày càng phát triển mạnh
mẽ, có những tiến bộ trong lĩnh vực tổ chức cứu chữa bệnh nhân tâm thần.
Những nghiên cứu về phản xạ có điều kiện của Paplop, các nghiên cứu
về bệnh mất trí nhớ tuổi già Alzheimer (1907) đã mở đường cho những hiểu biết
quan trọng về cơ chế hoạt động tâm thần, có cơ sở sinh lý hoạt động thần kinh
cao cấp, cùng với nghiên cứu chụp não bơm khí của Dandy, nghiên cứu điện não
của H. Berger là những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của tâm thần học.
Năm 1911, E Bleuler – Nhà tâm thần học nổi tiếng Thuỵ Sĩ đã đặt lại tên
cho hội chứng sa sút sớm thành tâm thần phân liệt. Cũng như E. Kraepelin, E
Beuler tin rằng bệnh nhân tâm thần phân liệt khơng bao giờ hồi phục được. Có
lẽ một phần là do những bệnh nhân của ơng ta bị giam giữ hàng chục năm trong
các nhà thương điên Thuỵ Sĩ mà khơng được điều trị gì. Đối với cơng chúng, cho
đến ngày nay tâm thần phân liệt vẫn mang ấn tượng là một bệnh khơng hồi
phục, khơng chữa khỏi và tâm thần phân liệt đồng nghĩa với một bản án hơn là
một bệnh.
Để xây dựng nhà thương điên để điều trị người bệnh tâm thần, đặc biệt là
những trường hợp loạn thần, đã làm cho ngành tâm thần tách biệt khỏi ngành y.
Vào cuối thế kỷ 19 một nhánh Tâm thần học đã trỗi dậy và phát triển mạnh mẽ,
tách khỏi các nhà thương điên để chun tâm chăm sóc người bệnh tâm căn.
Nhánh này chịu ảnh hưởng rất mạnh của những nghiên cứu, quan niệm về thơi
miên ( vấn đề thời sự lúc bấy giờ). Nổi bật nhất là những nghiên cứu và sử
dụng thôi miên của Trường phái Pari do giáo sư J.Charcot (Bệnh viện
Salpeetriere) dẫn đầu. Cũng trong trường phái Pari cịn phải kể đến P.Janet. Ơng
đã phát triển lý thuyết phân li – nghĩa là sự chia cắt tư duy ra khỏi các hoạt động
khác. Lý thuyết này nhằm lí giải bệnh hysteria và qn tâm căn.
10
Trong nửa đầu thế kỷ 20 nhân vật nổi bật trong Tâm thần học chính là
Freud. Ơng cũng là người đầu tiên nghiên cứu chứng rối loạn ngơn ngữ và bại
não ở trẻ em, tiếp đó là những rối loạn tâm căn. Tuy nhiên những đóng góp lớn
của ơng là những nghiên cứu về vơ thức: cơ chế kìm nén những xung động vơ
thức, cơ chế phịng vệ, cơ chế hình thành nhân cách…Cũng khơng ngạc nhiên
khi tình dục hình thành yếu tố trung tâm trong học thuyết của Freud khi nó mới
được khai sinh và nó cũng mở ra một thời kỳ phóng khống về tình dục trong văn
học nghệ thuật, khoa học.
2.1.5. Nửa cuối thế kỷ XX đến nay
Cả hai cuộc chiến tranh thế giới nhất là cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
đã ảnh hưởng rất nhiều đến ngành tâm thần học:
Tỷ lệ cao những bệnh nhân bị “sốc đạn pháo” trong chiến tranh thế giới
thứ nhất cho thấy rối loạn tâm thần có thể xuất hiện trên một tập thể, khơng chỉ
đối với những người có yếu tố di truyền .
Bất cứ ai bị tác động bới các sang chấn đều có thể xuất hiện rối loạn tâm
thần kéo dài.
W Rivers, một thầy thuốc tâm thần, một nhà nhân chủng học người Anh
đã khởi xướng một loạt nghiên cứu lâm sàng, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu rối
loạn stress sau sang chấn.
Một khía cạnh tích cực do chiến tranh thế giới hai mang lại là sự phát triển
các kỹ thuật đánh giá tâm lý đối với các tân binh. Kết quả các nghiên cứu về số
liệu tâm thần trong thanh niên đã kích thích sự phát triển dịch tễ học tâm thần.
Cũng do trong chiến tranh thế giới hai số lượng bệnh binh tâm thần tăng
đột ngột. Do nhu cầu điều trị số lượng lớn như vậy các thầy thuốc chun khoa
tâm thần qn đội đã sáng tạo ra liệu pháp tâm lý nhóm. Chỉ cần một thầy thuốc
có thể quản lí, chăm sóc cả nhóm bệnh nhân. Mặt khác trong liệu pháp tâm lý
nhóm bệnh nhân học hỏi lẫn nhau cách kiểm sốt và chiến thắng bệnh tật. Liệu
pháp này cũng có tác dụng phá vỡ sự độc đốn cứng nhắc của các bệnh viện tâm
thần.
Các liệu pháp tâm lý cá nhân cũng phát triển mạnh trong thời gian này. Từ
đầu thế kỷ này một loạt các liệu pháp tâm lý thực sự nở hoa trong giai đoạn này
11
như: liệu pháp hành vi, liệu pháp phân tích tâm lý, liệu pháp khách hàng là trung
tâm, liệu pháp hiện sinh…Bản thân mỗi trường phái lại phát triển một cách hết
sức linh hoạt.
Thời gian này cũng là sự phát triển của các liệu pháp sinh học, đặc biệt là
liệu pháp hố dược phẩm. Năm 1938, Celeti và Bini đã phát minh ra liệu pháp
gây co giật bằng điện. Đây là liệu pháp đơn giản, hiệu quả nhanh đối với hội
chứng trầm cảm nặng. Liệu pháp sốc điện đã được chấp nhận trên tồn thế giới
và vẫn đang được sử dụng cho đến ngày nay với nhiều cải tiến hiệu quả điều
trị và độ an tồn vẫn cịn có những hiểu lầm từ phía cơng chúng.
Năm 1949, J Cade đã phát hiện tác dụng điều trị và phịng ngừ của lithium
đối với rối loạn cảm xúc lưỡng cực.
Năm 1952, Jean delay và Pierre Denniker ở Pari đã phát hiện ra thuốc an
thần, kể từ đó danh mục các thuốc này ngày càng kéo dài hơn.
Những phát hiện quan trọng về dược lí trong thời gian gần đây như sự ra
đời của thuốc chống trầm cảm thế hệ mới, các thuốc ức chế tài hấp thu
serotonin có ít tác dụng phụ và giảm thiểu nguy cơ tử vong khi dùng q liều…
đã cải thiện rất nhiều về điều trị tâm thần.
Các dịch vụ tâm thần đã có những thay đổi đáng kể. Các bệnh viện tâm
thần xuất hiện đã phá vỡ hệ thống nhà thương điên. Những bệnh viện này đã
đạt dến đỉnh cao vào những năm 50 của thế kỷ 20. Đây là những bệnh viện
được xây dựng với quy mơ lớn, có sức chứa khoảng hơn một ngàn bệnh nhân
được xây dựng xa khu dân cư đơ thị.
Từ năm 1960, tâm thần học có một bước chuyển quan trọng về xây dựng
mơ hình tổ chức cứu chữa bệnh tâm thần và chăm sóc sức khoẻ tâm thần trên cơ
sở lồng ghép với y tế cộng đồng như:
Khơng xây dựng bệnh viện tâm thần lớn và tập trung nữ mà xây dựng các
bệnh viện tâm thần cỡ nhỏ, trung bình 100 500 giường bệnh ở gần khu vực
dân cư.
Giải toả các cơ sở nội trú gị bó, đưa tối đa bệnh nhân tâm thần trở về với
gia đình, giảm giường bệnh nội trú.
12
Với các chính sách trên đã xuất hiện hai loại mơ hình tổ chức chăm sóc
sức khoẻ tâm thần.
Khu vực tâm thần học ở Pháp.
Khu vực dịch tễ học ở Mỹ.
Khu vực tâm thần hoc được xác định bởi 4 tiêu chuẩn:
+ Về địa lý: là khu vực quản lý một số dân cư nhất định
+ Về bệnh: các bệnh tâm thần, nghiện rượu, nghiện mat
+ Về chính sách y tế: phát hiện sớm, phịng bệnh và chăm sóc sau khi ra
viện.
+ Thực hiện chăm sóc SKTT: có nhiều bộ mơn tham gia như bác sĩ tâm
thần, cán bộ tâm lý lâm sàng, cán sự xã hội, y tá tâm thần.
Mỗi khu vực có một khoa nội trú 50 giường tại một bệnh viện tâm thần
gần nhất.
Xây dựng các khu tâm thần nhằm 3 mục đích:
Làm cho mọi cơng dân có thể được chăm sóc có chất lượng ở gần nơi
mình ở nhất.
Tránh việc nằm viện hoặc tái nằm viện bằng cách hướng các cố gắng
vào việc phịng bệnh và điều trị sau đợt nằm viện.
Cải thiện các điều kiện nằm viện và nhất là chuyển các nhân viên gác
bệnh thành y tá.
Trong các khu tâm thần chúng có khu tâm thần trẻ em.
Khu vực dịch tễ học:
Khu vực dịch tễ học được thành lập ở Mỹ năm 1963, quản lý một khu vực
địa lý với 200.000 dân. Nhiệm vụ cũng tương tự như khu vực tâm thần của
Pháp. Đây là mơ hình chăm sóc sức khoẻ tâm thần tiên tiến.
Tỷ lệ giường bệnh tâm thần 1/1.000 dân
Về nhân lực: có ê kíp tâm thần hồn chỉnh gồm bác sĩ tâm thần chun
khoa sâu các loại, cử nhân tâm lý lâm sàng, cán sự xã hội và y tá tâm thần.
Kinh phí cho chăm sóc sức khoẻ tâm thần là rất lớn, theo nghiên cứu gần
đây ở Mỹ năm 1990 kinh phí cho bệnh nhân tâm thần là 148 tỷ đơ la, cho lạm
dụng rượu là 99 tỷ đơ la, cho nghiện ma t là 67 tỷ đơ la.
13
Kinh phí dành cho bệnh trầm cảm bằng kinh phí cấp cho các bệnh nhân
tim mạch.
Trong khu vực Asean, mạng lưới chăm sóc sức khoẻ tâm thần cũng có
nhiều bước phát triển nhất định. Như ở Thái Lan ngồi hệ thống các cơ sở điều
trị tâm thần họ cịn có hình thức chăm sóc sức khoẻ tâm thần học đường, bao
gồm thành phần: giáo viên, nhà tâm thần học và cha mẹ học sinh.
2.2. Lịch sử phát triển tâm thần học ở Việt Nam
Cũng như trong lịch sử lồi người, ở nước ta bệnh tâm thần xuất hiện từ
khi con người ở trong bộ lạc, thị tộc đầu tiên. Khi có bệnh nhân tâm thần là có
thầy thuốc và có phương pháp chữa bệnh. Tuy nhiên do việc biên soạn, ấn lốt
của ơng cha ta chưa phát triển, việc lưu trữ gặp nhiều khó khăn, qua nhiều thời
kỳ chiến tranh dựng nước và giữ nước đến nay các tài liệu sưu tầm được q ít.
Danh y Tuệ Tĩnh đã nghiên cứu các bệnh thuộc tâm, các chứng mất ngủ,
điên cuồng, kém trí nhớ. Ơng đã có những khái niệm phân biệt điên và cuồng.
Điên là cười và nói năng rối loạn, do tâm huyết khơng đủ mà phát ra nên điều trị
bằng an thần dưỡng huyết. Cuồng là nói sai, làm sai, khơng cịn lí trí, chạy nhảy,
làm càn do đàm hoả thịnh mà phát ra, nên điều trị bằng thanh hoả hạ đàm, lợi đại
tiện khơng ăn no. Ơng đã dùng thuốc nam, cây cỏ để trị bệnh lo sợ, bực tức,
cuồng nhiệt, cười nói vơ cớ, nói về ma quỷ…
Hải Thượng Lãn Ơng đã bàn luận nhiều về y lý, tâm và thần, phương
pháp tiết dục, phương pháp an thần bổ tâm, an thần dưỡng tâm. Ơng đã sử dụng
cách chữa bằng tính chí để chữa cho các bệnh nhân rối loạn thất tình mà sinh ra.
Do ảnh hưởng của tơn giáo và phong kiến nên tổ tiên ta khơng thốt khỏi
những quan điểm duy tâm thần bí về bệnh tâm thần. Quan niệm bệnh nhân tâm
thần là do ma quỷ, do âm khí, do tà thuật, nên chữa bệnh bằng cúng tế, lên đồng,
đuổi ma quỷ bằng uống tàn hương nước thải, đánh bằng roi dâu, tạt nước tiểu
vào mặt… vẫn cịn tồn tại ở một số địa phương.
Thời kỳ thực dân Pháp đơ hộ
Trong thời kỳ thực dân Pháp thống trị , việc điều trị bệnh tâm thần chưa
được quan tâm. Mơn tâm thần học chưa có trong chương trình giảng dạy ở
trường đại học Y, khơng có bác sĩ tâm thần nào. Những nhà thương điên thực
14
chất chỉ là nơi trơng nhốt bệnh nhân, với những căn buồng chật hẹp hơi thối,
bẩn thỉu. Nhiều bệnh nhân chết mà khơng có tên tuổi chỉ được gọi bằng những
con số.
Dưới thời Pháp thuộc ở nước ta có hai cơ sở tâm thần xây dựng theo kiểu
tập trung. Ở miền Nam, có bệnh viện Tâm thần Biên Hồ xây dựng từ năm 1915
với nhiều đợt tu bổ thêm, nơi này là nơi thu dung các bệnh nhân tâm thần khu
vực miền nam. Ngồi bắc có trại tâm thần Vơi (Lạng Giang, Bắc Giang) xây
dựng năm 1939, thời kỳ phát xít Nhật chiếm đóng đã phá huỷ hồn tồn. Tháng
12 năm 1956 thành lập khoa Tâm – thần kinh ở bệnh viện Bạch Mai này là Bệnh
viện tâm thần trung ương
1.
Từ năm 1954 đến năm 1975, miền Bắc nước ta hồn tồn giải phóng, Đảng
và chính phủ đã quan tâm xây dựng cải tạo nhiều cơ sở tâm thần trở thành bệnh
viện tâm thần từ địa phương đến trung ương. Các trường đại học y đều có
chương trình giảng dạy mơn Tâm thần, nhiều trường có bộ mơn tâm thần học.
Do nhu cầu chữa bệnh cấp thiết của nhân dân, trong thời gian chiến tranh
các cơ sở bệnh viện tâm thần và trạm tâm thần đã phát triển ở nhiều tỉnh và
thành phố. Sau ngày đất nước thống nhất các cơ sở tâm thần ở miền Bắc được
củng cố và phát triển thêm ở nhiều tỉnh thành. Ở các tỉnh miền Nam mới giải
phóng các cơ sở tâm thần dần dần theo mơ hình như ở miền Bắc. Hệ thống
củng tổ chức cứu chữa bệnh tâm thần ngày càng được củng cố và phát triển.
Được sự quan tâm của Đảng, Chính phủ, sự giúp đỡ của nhiều tổ chức quốc tế
nên ngành tâm thần nước ta đã trưởng thành vượt bậc cả về đội ngũ cán bộ
giảng dạy và đội ngũ cán bộ chun khoa, cả về cơ sở vật chất kỹ thuật.
Hiện nay hệ thống nội trú trong cả nước có 22 bệnh viện tâm thần (phần
lớn phía bắc, ở phía nam có 5 bệnh viện) và 20 khoa tâm thần năm trong các
bệnh viện đa khoa. Tổng số giường bệnh là 5000, ngồi ra cịn có 1.800 giường
cho bệnh nhân tâm thần mạn tính, sa sút nặng thuộc quản lý của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội.Cả nước cũng có 42 trạm tâm thần. Số quận huyện có
tổ chức khám bệnh tâm thần là 20%. Nhiều tỉnh đã có 80%số huyện có phịng
khám tâm thần với 1 2 thầy thuốc hoạt động.
3. Ngun nhân và phân loại các dạng bệnh tâm thần
15
3.1. Ngun nhân.
Các ngun nhân chủ yếu thường được nêu ra bao gồm:
3.1.1. Các ngun nhân thực tổn.
Chấn thương sọ não.
Nhiễm khuẩn thần kinh (Viêm não, giang mai thần kinh, ...)
Nhiễm độc thần kinh (Nghiện các chất, nhiễm độc nghề nghiệp...).
Các bệnh mạch máu não.
Các tổn thương não khác (U não, teo não, xơ rải rác, ...)
Các bệnh cơ thể ảnh hưởng đến hoạt động của não.
3.1.2. Các ngun nhân tâm lý.
Chủ yếu các stress tâm lý – xã hội tác động vào các nhân cách có đặc điểm
riêng, gây ra:
Các rối loạn tâm căn.
Các rối loạn liên quan đến stress.
Các rối loạn dạng cơ thể.
3.1.3. Các ngun nhân cấu tạo thể chất bất thường và phát triển tâm thần bệnh lý
Chậm phát triển tâm thần.
Nhân cách bệnh.
3.1.4. Các ngun nhân chưa rõ ràng (Hay các ngun nhân nội sinh).
Do có sự kết hợp phức tạp của nhiều ngun nhân khác nhau (Di truyền,
chuyển hố, miễn dịch, cấu tạo thể chất, ...) nên khó xác định ngun nhân chủ
yếu. Các rối loạn tâm thần thường gọi là nội sinh như:
Bệnh tâm thần phân liệt.
Rối loạn cảm xúc lưỡng cực.
Động kinh ngun phát.
3.2. Phân loại
Cách chia thứ nhất: Rối loạn tâm thần được chia thành 3 nhóm chính:
Rối loạn tâm căn (rối loạn lo âu, rối loạn trầm cảm, rối loạn phân li…)
Rối loạn ranh giới (rối loạn nhân cách, chậm phát triên trí tuệ…)
Loạn thần (tâm thần phân liệt, động kinh tâm thần…)
Cách chia thứ hai: Rối loạn tâm thần bao gồm:
16
Rối loạn tâm thần khơng loạn thần
Rối loạn tâm thần có loạn thần
Loạn thần được hiểu là nhóm các triệu chứng thể hiện ở hầu hết các rối
loạn tâm bệnh nặng dạng như tâm thần phần liệt, hưng cảm, rối loạn giảm/mất
khả năng thích ứng, khơng phân biệt được hiện tượng thực và khơng thực. Ở
cấp độ thao tác, loạn thần là nhóm các triệu chứng chung thường thấy ở những
rối loạn nặng. Nghĩa hẹp loạn thần là có hoang tưởng, ảo giác, cảm xúc khơng
phù hợp.
Phân loại các rối loạn tâm bệnh ln ln là một vấn đề thời sự trong tâm
thần học. Cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong phân loại các rối loạn
tâm thần. Ngay cả đến định nghĩa thế nào là bệnh tâm thần, thế nào là rối loạn
tâm thần, thế nào là khơng bình thường về mặt tâm thần cũng vẫn là cuộc thảo
luận trong tâm thần học. Có nhiều cách diễn đạt khác nhau trong vấn đề này.
Các triệu chứng và hội chứng rối loạn tâm thần cịn nhiều bất đồng, đặc biệt là
những ý kiến về đơn vị bệnh lý và danh pháp các bệnh đó. Cho đến nay thay vì
dùng tràn lan bệnh tâm thần người ta đã thay bằng cụm từ rối loạn tâm thần.
Năm 1882, Kandinxki là người đầu tiên đã khởi thảo bảng phân loại các
bệnh tâm thần. Tuy bảng phân loại cịn rất sơ khai, song đã khẳng định rằng các
rối loạn tâm thần là một nhóm các đơn thể bệnh. Đến năm 1898 nhà tâm thần
học người Đức là E.Kraepelin mới thống nhất các triệu chứng rối loạn tâm thần
riêng lẻ vào một thể bệnh nhất định. Căn cứ vảo bảng tiêu chuẩn lâm sàng
giống nhau mà Ơng đưa ra một bảng phân loại các bệnh tâm thần dựa trên
ngun tắc phân chia theo các đơn thể bệnh riêng biệt. Người ta coi đây là bảng
phân loại các bệnh tâm thần đầu tiên trên thế giới. Cho đến những năm gần đây,
một số quốc gia vẫn sử dụng bảng phân loại bệnh và làm nền tảng bổ sung
mới.
Tuy vậy ở một số nước khác, các nhà tâm thần học nhận thấy cách phân
chia đơn lẻ thể bệnh có tính chất gượng ép, vì các triệu chứng rối loạn tâm thần
rất đa dạng và có những đơn thể bệnh có q nhiều ngun nhân, q nhiều
dạng cảnh. Họ chủ trương chỉ phân loại các triệu chứng, hội chứng bệnh là đủ
và cho rằng khơng có những đơn thể bệnh tâm thần mà chỉ có những hội chứng
17
tâm thần. Cho đến gần đây vẫn có nhà tâm thần học cho rằng bệnh tâm thần chỉ
có một với nhiều cách biểu hiện lâm sàng khác nhau. Do đó hiện nay vẫn tồn tại
hai trường phái khác nhau về phân loại bệnh tâm thần. Một phái chủ trương hội
chứng luận, một phái chủ trương phân bệnh luận. Tuy nhiên trong từng trường
phái cũng khơng thống nhất với nhau cách phân chia các nhóm thể.
Tình trạng hỗn độn đó đưa đến những hậu quả bất lợi cho sự phát triển
tâm thần học như: khơng có nội dung cụ thể, khơng có quy định giới hạn rõ ràng,
khơng có sự hiểu biết lẫn nhau nói chung giữa các nước.
Hiện nay chúng ta đã và đang sử dụng bảng phân loại bệnh quốc tế lần thứ
10 vào trong chẩn đoán và phân loại bệnh (ICD10 Intemational statistical
clasissfication of diseases and related health problems tanh revision)
Các rối loạn tâm thần được ghi mã trong chương F.
F00 F09 Các rối loạn tâm thần thực tổn bao gồm cả rối loạn tâm thần
triệu chứng:
F00 Mất trí trong bệnh Altheimer
F01 Mất trí trong bệnh mạch máu
F02 Mất trí trong các bệnh lý khác được xếp loại ở chỗ khác
F03 Mất trí khơng biệt định
F04 Hội chứng qn thực tổn, khơng do rượu và các chất tác động tâm thần
khác
F05 Sảng khơng do rượu và các chất tác động tâm thần khác
F06 Các rối loạn tâm thần khác do tổn thương não và các rối loạn chức
năng não và bệnh cơ thể
F07 Các rối loạn hành vi và nhân cách do bệnh lý não, tổn thương não và
rối loạn chức năng não
F09 Rối loạn tâm thần triệu chứng hoặc thực tổn khơng biệt định
F10 – F19 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất tác động
tâm thần:
F10 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng rượu
F11 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất có thuốc phiện
F12 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng cần sa
18
F13 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các thuốc an dịu hoặc các
thuốc ngủ
F14 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng cocain
F15 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất kích thích khác
bao gồm cafein
F16 Cácrối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các chất gây ảo giác.
F17 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng thuốc lá
F18 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng các dung mơi dễ bay hơi
F19 Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng nhiều loại ma túy và
sửdụng các chất tác động tâm thần khác
F20 F29 Bệnh tâm thần phân liệt, các rối loạn loại phân liệt và các rối
loạn hoang
tưởng
F20 Bệnh tâm thần phân liệt
F21 Các rối loạn loại phân liệt
F22 Các rối loạn hoang tưởng dai dẳng
F23 Các rối loạn loạn thần cấp và nhất thời
F24 Các rối loạn hoang tưởng cảm ứng
F25 Các rối loạn phân liệt cảm xúc
F28 Các rối loạn loạn thần khơng thực tổn khác
F29 Bệnh loạn thần khơng thực tổn khơng biệt định.
F30 F39 Rối loạn khí sắc (cảm xúc)
F30 Giai đoạn hưng cảm
F31 Rối loạn cảm xúc lưỡng cực
F32 Giai đoạn trầm cảm
F33 Rối loạn trầm cảm tái diễn
F34 Các trạng thái rối loạn khí sắc (cảm xúc) dai dẳng
F38 Các rối loạn khí sắc (cảm xúc) khác
F39 Rối loạn khí sắc (cảm xúc) khơng biệt định
F40 F48 Các rối loạn bệnh tâm căm có liên quan đến Stress và dạng cơ
thể
19
F40 Các rối loạn lo âu ám ảnh sợ
F41 Các rối loạn lo âu khác
F42 Rối loạn ám ảnh nghi thức
F43 Phản ứng Stress trầm trọng và rối loạn sự thích ứng
F44 Các rối loạn phân ly (di chuyển)
F45 Các rối loạn dạng cơ thể
F48 Các rối loạn tâm căn khác
F50 F59 Các hội chứng hành vi kết hợp với các rối loạn sinh lý và các
nhân tố cơ thể
F50 Các rối loạn ăn uống
F51 Các rối loạn giấc ngủ khơng thực tổn
F52 Loạn chức năng tình dục khơng do rối loạn hoặc bệnh thực tổn
F53 Các rối loạn hành vi và tâm thần kết hơp với thời kỳ sinh đẻ, khơng
phân loại ở nơi khác
F54 Các nhân tố tâm lý và hành vi kết hợp với rối loạn hoặc phân loại ở
nơi khác
F55 Lạm dụng các chất khơng gây nghiện
F59 Các hội chứng hành vi khơng biệt định kết hợp với các rối loạn sinh lý
và các nhân tố cơ thể
F60 F69 Các rối loạn nhân cách và hành vi ở người thành niên
F60 Các rối loạn nhân cách đặc hiệu
F61 Các rối loạn nhân cách hỗn hợp và các rối loạn nhân cách khác
F62 Các biến đổi nhân cách lâu dài mà khơng thể gán cho một tổn thương
não hoặc một bệnh não
F63 Các rối loạn thói quen và xung đột
F64 Các rối loạn về ưa chuộng giới tính
F66 Các rối loạn hành vi và tâm lý kết hơp với sự phát triển và định hướng
giới tính
F68 Các rối loạn khác về hành vi và nhân cách ở người thành mên
F69 Rối loạn khơng biệt định về hành vi và nhân cách ở người thành niên
F70 F79 chậm phát triển tâm thần
20
F70 Chậm phát triển tâm thần nhẹ
F71 Chậm phát triển tâm thần vừa
F72 Chậm phát triển tâm thần nặng
F73 Chậm phát triển tâm thần trầm trọng
F78 Chậm phát triển tâm thần khác
F79 Chậm phát triển tâm thần khơng biệt định
F80 F89 Các rối loạn về phát triển tâm lý
F80 Các rối loạn đặc hiệu về phát triển lời nói và ngơn ngữ
F81 Các rối loạn đặc hiệu về phát triển các kỹ năng ở nhà trường
F82 Các rối loạn đặc hiệu về phát triển chức năng vận động
F83 Các rối loạn hỗn hợp và đặc hiệu về phát triển
F84 Các rối loạn phát triển lan tỏa
F88 Các rối loạn khác của phát triển tâm lý
F89 Các rối loạn khơng đặc hiệu của phát triển tâm lý
F90 F99 Các rối loạn hành vi và cảm xúc thường khởi phát ở tuổi trẻ em
và thanh thiếu niên
F90 Các rối loạn tăng động
F91 Các rối loạn hành vi
F92 Các rối loạn hỗn hơp của hành vi và cảm xúc
F93 Các rối loạn cảm xúc với sự khởi phát đặc biệt ở tuổi trẻ em
F94 Rối loạn hoạt động xã hội với sự khởi phát đặc biệt ở tuổi trẻ em và
thanh thiếu niên
F95 Các rối loạn tic
F98 Những rối loạn hành vi và cảm xúc thường khởi phát ở trẻ em và
thanh thiếu niên
F99 Rối loạn tâm thần, khơng biệt định cách khác
21
CHƯƠNG 2: CÁC TRIỆU CHỨNG TÂM THẦN
Mã chương: MH32CH02
Mục tiêu:
Kiến thức: Trình bày được các triệu chứng rối loạn cảm giác, tri giác, tư
duy, cảm xúc, trí nhớ, hoạt động chủ yếu
Kỹ năng: Vận dụng kiến thức đã học trong việc trợ giúp các đối tượng xã
hội có hiệu quả
Năng lực tự chủ và trách nhiệm: Tích cực tun truyền, vận động, phối
hợp với gia đình và xã hội trong can thiệp và giúp đỡ người bị bệnh tâm thần.
Nội dung chính:
1. Các triệu chứng rối loạn cảm giác
1.1. Tăng cảm giác
Tăng cảm giác là tăng khả năng thụ cảm với những kích thích tự nhiên
(ngưỡng kích thích hạ thấp) mà trong trạng thái bình thường khơng nhận thấy.
Ánh sáng bình thường cũng làm cho người bệnh hoa mắt, màu sắc của các vật
xung quanh trở nên rực rỡ khác thường, hình thù của chúng đặc biệt rõ ràng.
Những tiếng động làm inh tai, tiếng đập cửa như súng nổ. Các mùi trở nên nồng
nặc, có tính chất kích thích, v.v...
Thường gặp trong trạng thái q mệt mỏi ở người bình thường, trạng thái
suy kiệt nặng, hội chứng suy nhược thần kinh, trong một số bệnh cơ thể cấp
tính và các biểu hiện ban đầu của một số bệnh loạn tàm thần cấp tính, sự phát
triển này đi trước một số trạng thái mù mờ ý thức.
1.2. Giảm cảm giác
Giảm cảm giác là giảm khả năng thụ cảm với những kích thích tự nhiên
(nói cách khác là ngưỡng kích thích tăng lên).
22
Tất cả mọi sự vật người bệnh tiếp thu một cách lờ mờ, khơng rõ rệt, xa
xăm như thể nhìn qua một màn sương mù, mờ mờ ảo ảo, khơng rõ hình thù.
Âm thanh nghe mờ nhạt, thiếu sự cộng hưởng, tiếng nói của những người
xung quanh trở nên khơng có bản sắc và khơng rõ của ai,v.v...
Thường gặp trong trạng thái trầm cảm và trong tổn thương đồi thị.
1.3. Loạn cảm giác bản thể, loạn nội cảm giác
Loạn cảm giác bản thể là những cảm giác rất đa dạng, rất lạ lùng và khó
tả, rất khó chịu và nặng nề trong các nội tạng. Người bệnh trở nên gị bó, nóng
ran, đè nén, đau xé, trào ra đảo lộn, ngứa ngáy, v.v...mà khơng xác định được
ngun nhân.
Chúng khác với tăng cảm giác xảy ra do kích thích bệnh lý của dưới vỏ
khuếch tán lên vỏ não do tăng cường các xung động từ những đầu ngoại biên
của các giác quan phân tích
Khác với giảm cảm giác là do sự hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất
bị suy yếu trong khi cịn bảo tồn được tối đa hệ thống tín hiệu thứ hai.
Trong khi đó loạn cảm giác bản thể là do sự ức chế hệ thống nội thụ cảm
có tác dụng áp đảo và điều chỉnh của cơ quan ngoại thụ cảm.
Thường gặp trong các hội chứng nghi bệnh, trong các trạng thái trầm cảm.
2. Các triệu chứng rối loạn tri giác
Tri giác là một q trình tâm lý, có khả năng tập hợp các đặc tính riêng lẻ
của sự vật hiện tượng, do các giác quan phản ánh, từ đó chúng ta nhận thức
được sự vật và hiện tượng một cách tồn bộ .
Tri giác là mức độ nhận thức cao hơn cảm giác, nó có tính chất tổng hợp
phức tạp chứ khơng phải là một tổng số đơn giản của các cảm giác. Tri giác cịn
tồn tại trong óc ta dưới dạng biểu tượng, cho nên ta có thể tri giác được sự vật
và hiện tượng khi chúng khơng cịn ở trước mắt ta nữa .
2.1. Tri giác nhầm
Tri giác nhầm (Một số tài liệu dùng thuật ngữ ảo tưởng) là tri giác sai lệch
về một sự vật hay một hiện tượng khách quan (sự vật có thật ở bên ngồi). Thí
dụ: " Trơng gà hố cuốc"
Tri giác nhầm có thể xảy ra trong điều kiện bình thường. Trong điều kiện
23
bệnh lý, tri giác nhầm dễ xuất hiện hơn.
2.1.1.Tri giác nhầm cảm xúc
Tri giác nhầm cảm xúc hay xuất hiện trong các trạng thái cảm xúc bệnh lý:
lo âu, sợ hãi, trạng thái trầm cảm, hoặc trầm cảm paranoid, trạng thái hưng
cảm. Trong trạng thái đó, chiếc áo treo ở góc buồng được người bệnh tri giác
thành như kẻ giết người đang đứng nấp. Tiếng thìa, tiếng đũa từ nhà ăn vọng
đến lại được người bệnh tri giác như là tiếng vũ khí sắp sửa hành hình.
2.1.2. Tri giác nhầm lời nói
Tri giác nhầm lời nói là tri giác sai lầm về nội dung thực tế câu chuyện. Lời
nói của những người xung quanh về một đề tài xa lạ, hồn tồn khơng có liên
quan gì đến người bệnh nhưng họ lại nghe ra thành những lời buộc tội, vạch
mặt, quở mắng, chửi bới, hăm doạ người bệnh.
Những tri giác nhầm tương tự, phát sinh trong trạng thái nghi ngờ, lo âu, sợ
hãi, căng thẳng, theo đặc điểm của nó, có thể được xem như là một biến thể của
tri giác nhầm cảm xúc.
Cần phân biệt tri giác nhầm lời nói với hoang tưởng liên hệ. Trong hoang
tưởng liên hệ, thường bệnh nhân khơng nghe rõ mà suy đốn câu chuyện qua thái
độ của người xung quanh hoặc bệnh nhân nghe rõ ràng câu nói nhưng tìm một ý
nghĩ thầm kín phía sau câu nói ấy theo trạng thái cảm xúc của mình.
2.1.3. Tri giác nhầm kỳ lạ
Là tri giác nhầm thị giác đa dạng, sinh động, phong phú và rất kỳ lạ, xuất
hiện khơng phụ thuộc vào cảm xúc của bệnh nhân mà ngược lại làm thay đổi
cảm xúc bệnh nhân.
Trong trường hợp có giảm trương lực hoạt động tâm thần và thụ động.
Người ta thường thấy những đường hoa văn trên tấm thảm, những chỗ nứt trên
tường, những hình đắp trên trần nhà, v.v... người bệnh lại trơng ra những người
ăn mặc khác thường, những vị anh hùng trong chuyện thần thoại, những qi
vật, những tồ nhà khổng lồ, những cảnh vật sặc sỡ nhiều màu sắc.
Cần phân biệt tri giác nhầm với sự nhận xét sai lầm và kết luận khơng
đúng đắn. Mảnh kính vỡ do mặt trời chiếu sáng chói lại bị nhận nhầm thành
vàng. Đây khơng phải là tri giác nhầm mà là một sự phán đốn sai lầm.
24
2.2. Ảo giác
2.2.1. Khái niệm
Ảo giác là tri giác về một sự vật khơng hề có trong thực tại khách quan, đó
là tri giác khơng có đối tượng.
Đối với người bệnh, ảo giác là một tri giác có thật chứ khơng phải là một
điều gì tưởng tượng. Trong ảo giác, người bệnh trơng thấy, nghe thấy, ngửi
thấy thật chứ khơng phải là tưởng tượng, hình dung ra.
Thí dụ: Griesinger đã trích dẫn: " Tơi nghe thấy những tiếng nói, bởi vì tơi
nghe thấy những tiếng nói. Việc ấy xảy ra như thế nào tơi khơng biết, nhiừĩg
những tiếng nói đó đối với tơi cũng rành rọt như tiếng nói của anh; nếu như tơi
tin được những lời nói của anh là thật thì cho phép tơi tin là có thật. Cả những
lời nói của anh, cả những lời nói kia tơi đều có thể cảm thấy ở mức độ như
nhau”.
Có một số cách phân loại ảo giác
Theo giác quan: ảo thị, ảo thính, ảo xúc giác, ảo khứu giác và ảo giác nội
tạng
Theo kết cấu: thơ sơ, phức tạp.
Theo nhận thức và thái độ của bệnh nhân đối với ảo giác.
+ Ảo giác thật (hallucination).
+ Áo giác giả (pseudo hallucination).
2.2.2. Các loại ảo giác
2.2.2.1. Ảo giác thật
Ảo giác thính giác (ảo thanh)
Ảo thanh gồm có ảo thanh thơ sơ và ảo thanh rõ rệt. ảo thanh thơ sơ: nghe
như tiếng chng, tiếng cịi, tiếng máy nổ, tiếng súng...cịn ảo thanh rõ rệt tức là
nghe thấy tiếng nói, tiếng trị chuyện. Tính chất của nó có thể là bình phẩm
hoặc ra lệnh. Nội dung cũng có thể rất đa dạng, từ phê bình, chế nhạo cho đến
mệt thị, chửi rủa. Tiếng nói có thể của một người hoặc nhiều người, có thể của
đàn ơng hoặc đàn bà hay trẻ con, có thể của người quen hoặc người lạ. Tiếng
nói cũng có thể là nói một mình hoặc đối thoại với người bệnh, ảo thanh cũng
có thể xảy ra liên tục hoặc từng thời gian.Ảo thanh có thể ảnh hưởng đến cảm
25