Tải bản đầy đủ (.doc) (193 trang)

Phát triển văn hóa pháp luật của sĩ quan trẻ trong quân đội nhân dân việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (805.77 KB, 193 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng nghiên cứu sinh. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và khơng trùng lặp với
các cơng trình khoa học đã được cơng bố!
Tác giả luận án

Lê Xuân Thanh


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến phát triển văn hoá
pháp luật của sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay
1.2.
Khái quát kết quả chủ yếu của các cơng trình đã cơng bố
và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA SĨ QUAN TRẺ
TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
2.1.


Quan niệm về văn hoá pháp luật và phát triển văn hóa pháp
luật của sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam
2.2.
Tính quy luật phát triển văn hóa pháp luật của sĩ quan trẻ
trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA SĨ QUAN TRẺ
TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY
3.1.
Thực trạng phát triển văn hóa pháp luật của sĩ quan trẻ
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
3.2.
Nhân tố tác động và xu hướng phát triển văn hóa pháp luật
của sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Chương 4 YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN
VĂN HÓA PHÁP LUẬT CỦA SĨ QUAN TRẺ
TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY
4.1.
Yêu cầu cơ bản phát triển văn hóa pháp luật của sĩ quan
trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
4.2.
Giải pháp cơ bản phát triển văn hóa pháp luật của sĩ
quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

5
9

9
24
29
29
53

74
74
99

115
115
124
159
161


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4

Chữ viết đầy đủ
Quân đội nhân dân
Sĩ quan trẻ
Văn hóa pháp luật

Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
QĐND
SQT
VHPL
XHCN

162
173


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Phát triển VHPL là cơ sở, nền tảng để xây dựng, phát triển lối sống theo
pháp luật của mọi thành viên trong xã hội. Trong sự nghiệp xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta, phát triển VHPL có vai trị rất
quan trọng đối với q trình hình thành, phát triển hồn thiện nhân cách con
người mới với “lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật” [18, tr.50].
Phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam trực tiếp hình thành ý
thức, hành vi tự giác, lối sống tích cực, phong cách làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật nhà nước, kỷ luật qn đội, góp phần hồn thành tốt chức trách,
nhiệm vụ của họ ở đơn vị cơ sở. Đồng thời, là tiền đề để xây dựng, phát triển,
nâng cao trình độ VHPL trong quân đội, đáp ứng ngày càng vững chắc sự
nghiệp xây dựng quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện
đại” trong giai đoạn hiện nay.
Phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam trong những năm vừa

qua đã đạt được những kết quả tương đối tích cực, song vẫn còn tồn tại một số
bất cập, hạn chế nhất định. Những bất cập, hạn chế đó dẫn đến trình độ VHPL
của SQT có mặt cịn yếu kém: Trình độ tri thức pháp luật của một bộ phận
không nhỏ SQT chưa sâu sắc; tình cảm pháp luật cịn mờ nhạt; hành vi ứng xử,
chấp hành pháp luật chưa tự giác, lối sống theo pháp luật của một số SQT chưa
thường xuyên và vững chắc; kỹ năng áp dụng pháp luật, kỷ luật vào thực hiện
chức trách, nhiệm vụ của SQT có nội dung cịn lúng túng. Những hạn chế, yếu
kém đó do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân
chủ quan của SQT là cơ bản.
Hiện nay, phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam là một vấn
đề có tính cấp thiết hơn bao giờ hết. Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng, phát
triển văn hóa, con người của Nhà nước pháp quyền XHCN, yêu cầu nhiệm vụ
của quân đội trong sẵn sàng chiến đấu và đánh thắng chiến tranh vũ khí công


6

nghệ cao, đòi hỏi ý thức, hành vi chấp hành pháp luật nhà nước, kỷ luật quân
đội của SQT phải trở thành VHPL. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch thực
hiện âm mưu, hoạt động “diễn biến hịa bình” đã và đang xuyên tạc, phủ nhận
những chuẩn mực VHPL của Nhà nước pháp quyền XHCN, nhằm lôi kéo các
tầng lớp nhân dân, trong đó có SQT sống bng thả, vơ kỷ cương, pháp luật, kỷ
luật, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa”. Phát triển VHPL của SQT sẽ tạo ra khả năng “miễn dịch” cao trước những
âm mưu thâm độc đó của các thế lực thù địch, góp phần tiếp tục củng cố và phát
huy hơn nữa phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong nhân cách người cán bộ trẻ ở đơn vị
cơ sở thời kỳ mới.
Nghiên cứu về VHPL đã được luận bàn trong nhiều cơng trình khoa học
dưới các góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình khoa học
nào nghiên cứu trực tiếp vấn đề phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt

Nam hiện nay dưới góc độ triết học.
Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Phát triển văn hóa pháp luật
của sĩ quan trẻ trong Qn đợi nhân dân Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Phân tích, luận giải một số vấn đề về lý luận, thực tiễn và đề xuất giải
pháp cơ bản phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài phát triển VHPL
của SQT trong QĐND Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, luận giải một số vấn đề lý luận về phát triển VHPL của SQT
trong QĐND Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng, dự báo những nhân tố tác động và xu hướng phát
triển VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam hiện nay.
- Xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp cơ bản phát triển VHPL của
SQT trong QĐND Việt Nam hiện nay.


7

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề bản chất về phát triển VHPL của
SQT trong QĐND Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận, thực tiễn về phát triển VHPL của SQT giữ chức vụ cán bộ cấp phân đội ở
một số đơn vị bộ binh đủ quân ở miền Bắc (Sư đoàn 3 - Quân khu 1, Sư đoàn
316 - Quân khu 2, Sư đoàn 395 - Quân khu 3, Sư đoàn 312 - Quân đoàn 1, Sư
đoàn 325 - Quân đoàn 2, Trung đoàn 692 - Sư đoàn 301 - Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà
Nội), thời gian từ năm 2010 đến nay.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận: Là hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, các văn bản
pháp luật của Nhà nước về văn hóa và pháp luật; các nghị quyết, chỉ thị của
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc Phòng, Tổng cục Chính Trị, Đảng ủy các đơn
vị chủ lực về giáo dục pháp luật, rèn luyện kỷ luật trong quân đội, về văn hóa
và một số thành tựu của các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
* Cơ sở thực tiễn: Là tài liệu tổng kết, số liệu thống kê của các cơ quan,
đơn vị về giáo dục pháp luật, rèn luyện kỷ luật, xây dựng VHPL; kết hợp với
kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả về thực trạng phát triển VHPL
của SQT giữ chức vụ cán bộ cấp phân đội ở một số đơn vị bộ binh đủ quân ở
miền Bắc (Sư đoàn 3 - Quân khu 1, Sư đoàn 316 - Quân khu 2, Sư đoàn 395 Quân khu 3, Sư đoàn 312 - Quân đoàn 1, Sư đoàn 325 - Quân đoàn 2, Trung
đoàn 692 - Sư đồn 301 - Bộ Tư lệnh Thủ đơ Hà Nội) hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu: Hệ thống phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được sử dụng xuyên suốt
trong toàn bộ nội dung của luận án. Phương pháp lịch sử và lôgíc được sử
dụng trong nhiều nội dung của luận án nhưng chủ yếu nhất là luận giải quan
niệm phát triển VHPL và tính quy luật phát triển VHPL của SQT. Phương pháp
phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, khái quát hoá và trừu tượng hố
được sử dụng trong tồn bộ các nội dung của luận án. Trong đó, phương pháp


8

khái quát hóa và trừu tượng hóa được sử dụng đậm độ trong luận giải quan
niệm về VHPL và phát triển VHPL của SQT. Phương pháp so sánh được sử
dụng chủ yếu vào phân tích sự khác biệt về VHPL với những chủ thể khác
trong quan niệm về VHPL và phát triển VHPL của SQT, thực trạng phát triển
VHPL của SQT hiện nay. Phương pháp điều tra xã hội học, trao đổi được sử
dụng chủ yếu trong đánh giá thực trạng phát triển VHPL của SQT hiện nay.
Phương pháp chuyên gia được sử dụng trong toàn bộ nội dung của luận án.

Phương pháp tiếp cận hoạt động - giá trị - nhân cách được sử dụng vào
tiếp cận khái niệm, bản chất của văn hóa, VHPL, VHPL của SQT, phát triển
VHPL và tính quy luật phát triển VHPL của SQT. Phương pháp tiếp cận hệ
thống và cấu trúc được sử dụng chủ yếu vào tiếp cận cấu trúc VHPL của SQT,
cấu trúc quá trình phát triển VHPL của SQT.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Bản chất, nội dung khoa học của quan niệm về VHPL và phát triển VHPL
của SQT trong QĐND Việt Nam.
- Tính quy luật phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam.
- Một số giải pháp cơ bản phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt
Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
* Ý nghĩa lý luận: Góp phần khái quát, bổ sung, phát triển một số vấn đề lý
luận khoa học về VHPL và phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam.
* Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp luận cứ khoa
học đáp ứng yêu cầu cấp thiết để phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt
Nam thời kỳ mới. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy, phổ biến, giáo dục pháp luật, kỷ luật, VHPL trong quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu, 4 chương (08 tiết), kết luận, danh mục các cơng
trình khoa học đã cơng bố của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


9

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến phát triển
văn hoá pháp luật của sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân

dân Việt Nam hiện nay
1.1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến lý luận phát triển văn hoá
pháp luật của sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Nghiên cứu về văn hóa được khu biệt trong lĩnh vực pháp luật chỉ xuất hiện
khi pháp luật ra đời và trở thành công cụ để quản lý nhà nước. Khi nhà nước xuất
hiện, ở cả phương Đông và phương Tây, người ta đã bàn nhiều đến các phương
thức quản lý đất nước, trong đó có “pháp trị”. Sáng tạo ra các giá trị, chuẩn mực
pháp luật và cách dùng pháp luật để cai trị đất nước là thể hiện những khía cạnh
của VHPL. Qua đó, khái niệm về VHPL đã được khái quát với những nội hàm
nhất định. Tuy nhiên, nghiên cứu về VHPL một cách cơ bản, có hệ thống và làm
cho thuật ngữ này được dùng như một khái niệm phổ biến của một chuyên ngành
khoa học chỉ được bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX với những tên tuổi
như Lawrence M.Friedman, Watson, David Nelken.
Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, xây dựng quân đội
“cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” (một số quân, binh chủng
tiến thẳng lên hiện đại), nghiên cứu về VHPL đã được sự quan tâm của nhiều nhà
khoa học, dưới nhiều góc độ tiếp cận để đưa ra quan niệm, cấu trúc, đặc trưng, vai
trò, con đường, cách thức xây dựng, bồi dưỡng, phát triển, nâng cao VHPL.
Tác giả Nguyễn Duy Lãm (chủ biên) (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý
thông dụng [52]. Trong cuốn sách này, dưới góc độ của khoa học Luật học, với
cách định nghĩa nhấn mạnh các yếu tố cấu thành, tác giả đã quan niệm VHPL là:
Một bộ phận cấu thành văn hóa nói chung. Nó là thể thống nhất của tri
thức pháp luật, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi xử sự tích cực
đối với pháp luật. Một người có trình độ văn hóa pháp lý là người đó có
đầy đủ ba yếu tố, tồn tại trong thể thống nhất về tri thức, tình cảm và
hành vi tích cực pháp luật. Nếu có tri thức pháp luật nhưng lại khơng có


10


tình cảm đúng đắn đối với pháp luật và do đó khơng có hành vi tích cực
pháp luật thì người đó khơng thể gọi là người có VHPL [52, tr.404].
Với quan niệm trên, VHPL được xét theo bình diện văn hóa cá nhân gắn
với chủ thể nhất định, được cấu thành từ ba yếu tố cơ bản là tri thức pháp luật,
tình cảm pháp luật và hành vi tích cực pháp luật. Các yếu tố có quan hệ chặt
chẽ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, nếu thiếu một trong ba yếu tố
trên sẽ khơng có VHPL. Đây là cơ sở để luận án kế thừa trong cách tiếp cận
VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam theo bình diện văn hóa cá nhân gắn
với đặc thù hoạt động của họ trong lĩnh vực pháp luật, kỷ luật; đồng thời chỉ
ra các yếu tố và quan hệ giữa các yếu tố đó trong cấu trúc VHPL của SQT.
Tác giả Lê Đức Tiết (2005), Văn hóa pháp lý Việt Nam [113]. Trong cuốn
sách này, dưới góc độ của khoa học Luật học, tiếp cận văn hóa pháp lý đi từ cách
tiếp cận nền văn hóa theo cách tiếp cận hệ thống và cấu trúc, tác giả cho rằng:
Văn hóa pháp lý là một dạng, một bộ phận cấu thành nền văn hóa dân
tộc. Cũng như các dạng, thành phần văn hóa khác, văn hóa pháp lý bao
gồm trong nó ba yếu tố: Ý thức pháp luật của Nhà nước, của dân tộc, của
các cộng đồng và của các công dân qua các thời kỳ lịch sử; nền pháp luật
bao gồm pháp luật thành văn và chưa thành văn được xây dựng nên qua
các thời kỳ lịch sử; trình độ, kỹ năng, nghệ thuật sử dụng pháp luật với
vai trò là vũ khí bảo vệ quyền con người, quyền công dân, là công cụ
quản lý thống nhất của Nhà nước, của xã hội, là mực thước xử sự đúng
pháp luật của mọi công dân [113, tr.34-35].
Trên cơ sở các yếu tố của văn hóa pháp lý, tác giả khẳng định Việt Nam có
nền văn hóa pháp lý lâu đời; phân tích sâu sắc vai trị của văn hóa pháp lý đối với
việc nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và xây
dựng nếp sống văn minh, thanh lịch trong nhân dân. Quan niệm trên về văn hóa
pháp lý là cơ sở để luận án kế thừa trong quá trình luận giải về quan niệm VHPL.
Tác giả Hồng Thị Kim Quế và Ngơ Huy Cương (2012), Văn hóa pháp
luật - Những vấn đề lý luận cơ bản và ứng dụng chuyên ngành [93]. Trong



11

cuốn sách này, trên cơ sở tiếp cận văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất,
tinh thần được hình thành và sáng tạo trong hoạt động của con người, được
lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ cộng đồng này sang cộng đồng
khác tạo thành truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc bên cạnh những giá trị
chung của nhân loại, các tác giả đã cho rằng: VHPL là hệ thống các yếu tố,
giá trị vật chất và tinh thần thuộc lĩnh vực tác động của pháp luật được thể
hiện trong ý thức và hành vi của con người. Với cách quan niệm trên, VHPL
được cấu thành từ hai yếu tố: Ý thức pháp luật và hành vi pháp luật.
Tác giả Vũ Văn Thường (2011), Bồi dưỡng văn hóa pháp luật cho học viên
đào tạo sĩ quan ở các nhà trường Quân đội hiện nay [110]. Trong cuốn sách này,
dưới góc độ của khoa học Chính trị học, với cách tiếp cận hệ thống và cấu trúc đi
từ pháp luật đến văn hóa và mối quan hệ giữa văn hóa và pháp luật trong hoạt động
pháp luật, tác giả đã đưa ra quan niệm VHPL, chỉ ra cấu trúc VHPL của học viên
đào tạo sĩ quan ở các nhà trường Quân đội. Tác giả quan niệm, “VHPL là tổng thể
những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật,
được thể hiện ở tính tích cực, nhân đạo và tiến bộ của các đạo luật, thiết chế xã hội,
trong nhận thức, hành vi, thói quen và nhu cầu ứng xử theo pháp luật của mỗi cá
nhân” [110, tr.20]. Từ phân tích đặc điểm của học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà
trường Quân đội, quan niệm về VHPL biểu hiện ở cấp độ cá nhân, tác giả đã quan
niệm “VHPL của học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà trường Quân đội là tổng thể
những giá trị tích cực, nhân đạo và tiến bộ trong ý thức pháp luật và hành vi chấp
hành pháp luật nhà nước, kỷ luật quân đội của học viên” [110, tr.24]. Từ đó, tác giả
chỉ ra cấu trúc VHPL của học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà trường Quân đội: Ý
thức và hành vi chấp hành pháp luật. Dưới góc độ của Chính trị học, tác giả đã chỉ
ra con đường hình thành, phát triển VHPL của học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà
trường Quân đội. Đồng thời, tác giả đã đưa ra quan niệm bồi dưỡng VHPL cho
học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà trường quân đội.



12

Tác giả Vũ Văn Ninh (2003), Nâng cao trình đợ văn hoá pháp luật của
học viên đào tạo đại học cấp phân đội ở Học viện Chính trị Quân sự [79].
Trong đề tài này, với cách tiếp cận đi từ quan niệm văn hóa, pháp luật và mối
quan hệ giữa văn hóa và pháp luật trong sự phát triển của xã hội, nhân cách
con người, tác giả đã quan niệm:
VHPL là một phương diện của văn hóa bao gồm tổng thể những giá trị
nhân đạo, tiến bộ, tích cực của hệ thống quy phạm pháp luật và thiết chế
xã hội được sáng tạo trong lịch sử; các giá trị đó còn được thể hiện trong
các hoạt động ở xã hội có giai cấp thẩm thấu vào nhận thức và hành vi
của mỗi cá nhân, biến thành kinh nghiệm, thói quen và nhu cầu thường
trực trong ứng xử các quan hệ pháp luật của họ [79, tr.10].
Văn hóa pháp luật được biểu hiện thơng qua nhiều hình thức và cấp độ
khác nhau: Cấp độ giai cấp, cấp độ xã hội, cấp độ cá nhân. Ở cấp độ cá nhân,
tác giả cho rằng, “VHPL biểu thị ở tri thức và tình cảm pháp luật, khả năng,
trình độ ứng xử, nếp sống và hành động theo pháp luật cũng như năng lực
thúc đẩy người khác làm theo” [79, tr.10].
Từ việc làm rõ quan niệm VHPL, quan niệm và cấu trúc trình độ
VHPL, đặc điểm của học viên đào tạo đại học cấp phân đội ở Học viện
Chính trị Quân sự, tác giả đã đưa ra quan niệm về trình độ VHPL của học
viên đào tạo đại học cấp phân đội ở Học viện Chính trị Qn sự.
Cơng trình của tác giả Vũ Văn Thường và Vũ Văn Ninh nêu trên là cơ sở
để luận án kế thừa trong cách tiếp cận đi từ quan niệm về văn hóa, pháp luật,
VHPL nói chung, VHPL xét ở góc độ cá nhân, đặc điểm hoạt động pháp luật
và kỷ luật của SQT để đưa ra quan niệm về VHPL và phát triển VHPL của
SQT trong QĐND Việt Nam.
Trong đề tài khoa học của Đại học Luật Hà Nội (1999), Văn hóa pháp luật

và phát triển văn hóa pháp luật ở nước ta hiện nay [9], dưới góc độ của Luật học
với cách tiếp cận giá trị, đề tài đã quan niệm: “VHPL là những giá trị nhân đạo,


13

tiến bộ, tích cực của một hệ thống pháp luật trong xã hội, được thể hiện trong các
bộ luật, đạo luật và thiết chế xã hội nhằm bảo đảm thực hiện nó. Đồng thời, các giá
trị đó cịn được thẩm thấu vào nhận thức và hành động của mỗi cá nhân, biến thành
nhu cầu thường trực trong ứng xử của họ” [9, tr.49]. Quan niệm trên đây nhấn
mạnh đến các giá trị văn hóa của pháp luật và vai trị của chúng đối với nhận thức,
hành động của con người trong quá trình thực hiện hành vi pháp luật.
Tác giả Lê Thanh Thập (2010), Quan hệ tương tác giữa văn hóa pháp luật
và văn hóa quản lý [106]. Trong bài biết này, tác giả đã chỉ ra ý thức pháp luật là
một yếu tố quan trọng biểu hiện nội dung bên trong của VHPL, đồng thời phân
tích những đặc điểm riêng của cán bộ quản lý là những người thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ quản lý như: Ra quyết định, điều khiển, tổ chức phối hợp hành
động trong bộ máy quản lý nhằm bảo đảm cho tổ chức đạt được những mục đích
của mình với hiệu quả cao nhất. Gắn với đặc điểm đó, VHPL của cán bộ quản lý
bao gồm trong đó tri thức, tâm lý, tình cảm, kỹ năng sử dụng pháp luật và kỹ năng
xử lý các quan hệ pháp luật nhằm đạt hiệu quả quản lý cao nhất. Đây là cơ sở để
luận án kế thừa trong cách tiếp cận đặc điểm hoạt động của SQT và phân tích
những nét đặc thù về VHPL của họ được biểu hiện qua từng yếu tố cấu thành.
Tác giả Lê Minh Tâm (1998), Vấn đề văn hóa pháp luật ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay [97]. Trong bài viết này, dưới góc độ của Luật học với
cách tiếp cận giá trị, tác giả đã quan niệm:
VHPL là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần mà con người đã
sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật bao gồm hệ thống các quy phạm
pháp luật được ban hành trong các thời kỳ lịch sử, những tư tưởng, quan
điểm, luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc, những tác phẩm VHPL, những

kinh nghiệm và thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực
thi pháp luật [97, tr.18].
Quan niệm này chia VHPL thành hai nhóm giá trị vật chất và giá trị tinh
thần; liệt kê một loạt những yếu tố thuộc VHPL như những tư tưởng, quan điểm,


14

luận điểm, nguyên lý, nguyên tắc, những tác phẩm VHPL, những kinh nghiệm
và thói quen tích lũy được trong quá trình xây dựng và thực thi pháp luật.
Tác giả Hồng Thị Kim Quế (2010), Văn hố pháp luật giao thơng - các
giá trị chân, thiện, mỹ, ích [92]. Trong bài viết này, trên cơ sở quan niệm chung
về văn hóa, dưới góc độ Luật học, tác giả cho rằng, “có thể hiểu VHPL là hệ
thống các yếu tố, các giá trị vật chất và tinh thần thuộc lĩnh vực tác động của
pháp luật được thể hiện trong ý thức và hành vi của con người” [92, tr.13].
Theo cách quan niệm này, VHPL được cấu thành bởi hai yếu tố: Ý thức pháp
luật và hành vi chấp hành pháp luật.
Tác giả Phạm Duy Nghĩa (2008), Góp phần tìm hiểu văn hóa pháp luật [76].
Trong bài viết này, tác giả cho rằng, VHPL là một thuật ngữ có mối liên hệ phổ
biến, tùy theo góc độ tiếp cận mà được mặc định hình hài của nó để xây dựng tiêu
chí đánh giá. Từ cách nhìn VHPL có mối liên hệ phổ biến với các khoa học khác,
dưới góc độ Luật học, tác giả quan niệm: “Văn hóa pháp luật là một cách nhìn về
luật pháp, đặt pháp luật trong những tương quan đa chiều với khoa học hành vi,
cách nghĩ, cách ứng xử, tôn giáo, niềm tin, các đặc tính nhân học của các cộng
đồng và tộc người” [76, tr.1]. Với cách quan niệm này, VHPL là cách nhìn nhận
của con người đối với pháp luật, bao gồm các yếu tố: Luật trên giấy, luật trong
hành xử thực tế, luật trong suy nghĩ và thái độ của các giai tầng trong xã hội. Quan
niệm trên là cơ sở để luận án kế thừa trong việc luận giải VHPL, VHPL của SQT
trong mối quan hệ đa chiều với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, quân đội.
Tác giả Phạm Công Trứ (2009), Văn hóa pháp luật của phóng viên - Thực

trạng và một số giải pháp [123]. Trong bài viết này, tác giả đã cho rằng: “VHPL
của phóng viên là tri thức, ý thức pháp luật của người phóng viên và những hành
vi xử sự hợp pháp luật trong mối quan hệ với hoạt động nghề nghiệp (báo chí)
của họ” [123, tr.17]. Trên cơ sở đó tác giả đã chỉ ra các yếu tố cấu thành VHPL
của phóng viên bao gồm: Kiến thức (tri thức pháp luật) của phóng viên; ý thức
pháp luật của phóng viên và hành vi hợp pháp của phóng viên. Đây là cơ sở để


15

luận án kế thừa trong cách tiếp cận đặc điểm hoạt động của SQT và phân tích
nét đặc thù về VHPL của họ được biểu hiện qua từng yếu tố cấu thành.
Tác giả Phạm Ngọc Thanh và Nguyễn Thị Thu Hà (2009), Văn hóa chính
trị và văn hóa pháp luật Việt Nam - từ lý luận đến thực tiễn [100]. Trong bài
viết này, các tác giả đã quan niệm: “VHPL được hiểu như là tổng thể những giá
trị vật chất và tinh thần mà con người đã sáng tạo ra trong lĩnh vực pháp luật,
đáp ứng nhu cầu của con người trong quá trình quản lý và phát triển xã hội”
[100, tr.11]. Với cách hiểu cơ bản trên, các tác giả đã chỉ ra tổng thể các giá trị
bao gồm: Hệ thống các quy phạm pháp luật, những tư tưởng, quan điểm, hệ
thống lý luận, truyền thống, thói quen ứng xử trong các quan hệ và hành vi
mang tính pháp lý. Văn hóa pháp luật khơng chỉ liên quan đến ý thức pháp luật,
hệ thống pháp luật mà còn gắn liền với trình độ và năng lực thực thi pháp luật,
với tất cả công cụ, phương tiện thực thi pháp luật, những cơ sở vật chất - kỹ
thuật của đời sống pháp luật. Quan niệm trên về VHPL là cơ sở để luận án kế
thừa trong quá trình luận giải về quan niệm VHPL.
Tác giả Ngọ Văn Nhân (2010), Về cấu trúc, vai trị và chức năng của
văn hóa pháp luật [77]. Trong bài viết này, trên cơ sở kế thừa các quan niệm
đã có và cũng đi từ cách tiếp cận văn hóa, tác giả cho rằng: “VHPL được cấu
thành từ các yếu tố: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và các thiết chế pháp
luật, hành vi pháp luật và lối sống theo pháp luật” [77, tr.24]. Cũng trong bài

viết này, tác giả đã chỉ ra vai trò của VHPL đối với đời sống xã hội và mỗi cá
nhân trong cộng đồng. Đồng thời, chỉ ra VHPL có chức năng nhận thức, chức
năng giáo dục, chức năng thực tiễn. Quan niệm trên về VHPL là cơ sở để luận
án kế thừa trong quá trình luận giải về quan niệm, cấu trúc VHPL và VHPL
của SQT trong QĐND Việt Nam.
Tiếp đến trong bài viết: Về khái niệm văn hóa pháp luật [78], tác giả Ngọ
Văn Nhân tiếp tục làm sâu sắc hơn nữa về VHPL. Tác giả cho rằng:
VHPL là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần về mặt pháp luật mà con
người đã, đang sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử của mình, thể hiện ở các lĩnh


16

vực hoạt động xây dựng, thực thi pháp luật, chứa đựng tính nhân văn, tiến bộ
vận động theo quy luật hướng tới Chân - Thiện - Mỹ nhằm đáp ứng, thỏa mãn
các nhu cầu, lợi ích của con người trong đời sống pháp luật [78, tr.29].
Khái niệm VHPL này được tác giả tiếp cận theo cách tiếp cận giá trị để làm
rõ nội hàm của nó là tổng hịa những giá trị vật chất và tinh thần về mặt pháp
luật, thuộc lĩnh vực pháp luật của đời sống xã hội. Đây là cơ sở để luận án kế
thừa trong quá trình phân tích những giá trị mang tính nhân văn, tiến bộ của từng
yếu tố cấu thành VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam.
Tác giả Lê Quốc Hùng (2011), Văn hóa pháp lý và nghệ thuật áp dụng
pháp luật trong đời sống xã hội [47]. Trong bài viết này, tác giả đã quan niệm:
“Văn hóa pháp lý là một bộ phận hợp thành của nền văn hóa dân tộc và bao
gồm các yếu tố: ý thức pháp luật, hệ thống pháp luật và trình độ, kỹ năng,
nghệ thuật áp dụng pháp luật trong đời sống xã hội” [47, tr.38]. Trên cơ sở chỉ
ra cấu trúc văn hóa pháp lý, tác giả đã phân tích một cách tương đối sâu sắc
các yếu tố cấu thành với những thành tố trong tính chỉnh thể của nó. Đây là cơ
sở để luận án kế thừa trong việc chỉ ra cấu trúc và phân tích cụ thể từng yếu tố
cấu thành VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam.

Tác giả Nguyễn Thị Thường (2013), Văn hóa pháp luật trong nền kinh tế
thị trường Việt Nam [111]. Trong bài viết này, tác giả đã cho rằng: “VHPL là một
cách nhìn về luật pháp, đặt pháp luật trong những tương quan đa chiều với khoa
học văn hóa, khoa học hành vi, cách tư duy, ứng xử, tôn giáo, niềm tin, các đặc
tính nhân học của các cộng đồng và tộc người” [111, tr.19]. Quan niệm trên về
VHPL, pháp luật được đặt trong mối tương quan đa chiều với quy phạm xã hội
và các phương diện văn hóa khác của cộng đồng xã hội cũng như của tộc người.
Đây là cơ sở để luận án kế thừa trong việc luận giải VHPL, VHPL của SQT trong
mối quan hệ đa chiều với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội - quân sự.
Tác giả Lê Phương Đông (2006), Văn hóa pháp luật và việc nâng cao
trình đợ văn hóa pháp luật trong các trường đào tạo sĩ quan quân đội [30].
Trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra các yếu tố cấu thành VHPL bao gồm: Ý


17

thức pháp luật, hệ thống các phương tiện pháp luật và trình độ, khả năng sử
dụng pháp luật để thực hiện các hành vi hợp pháp. Sự biểu hiện đa dạng về
các khía cạnh của VHPL được phản ánh thông qua từng yếu tố cấu thành. Tuy
nhiên, sự biểu hiện tổng thể của VHPL chỉ có được thơng qua sự thống nhất
hài hồ và tương tác của tổng hịa các yếu tố đó. Đây là cơ sở để luận án kế
thừa trong việc chỉ ra cấu trúc và mối quan hệ giữa các yếu tố trong cấu trúc
hợp thành VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến thực trạng phát triển văn hoá pháp
luật của sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Tác giả Lê Đức Tiết (2005), Văn hóa pháp lý Việt Nam [113]. Trong cuốn sách
này, dưới góc độ của khoa học Luật học và trên cơ sở phân tích, luận giải những vấn
đề lý luận, tác giả đã nhận diện những biểu hiện hạn chế về văn hóa pháp lý Việt
Nam. Những hạn chế đó được biểu hiện trong tất cả các yếu tố cấu thành nền văn hóa
pháp lý Việt Nam. Đó là những hạn chế trong ý thức pháp luật của các tổ chức và cá

nhân trong xã hội; hạn chế yếu kém của hệ thống các văn bản pháp luật và các thiết
chế pháp luật; những hành vi chưa đúng mực, thậm chí vi phạm pháp luật của các tổ
chức, cá nhân trong xã hội, nhất là trong lĩnh vực công quyền.
Tác giả Vũ Văn Thường (2011), Bồi dưỡng văn hóa pháp luật cho học viên
đào tạo sĩ quan ở các nhà trường Quân đợi hiện nay [110]. Trong cuốn sách này,
dưới góc độ của khoa học Chính trị học và từ những vấn đề về lý luận, tác giả đã
làm rõ những vấn đề thực trạng bồi dưỡng VHPL cho học viên đào tạo sĩ quan ở
các nhà trường Quân đội hiện nay. Những ưu điểm và hạn chế của thực trạng bồi
dưỡng VHPL cho học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà trường Quân đội hiện nay đã
được đánh giá trên các nội dung: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, giáo
dục của các chủ thể (cấp ủy, chỉ huy, cán bộ quản lý, đội ngũ giảng viên); nội
dung, hình thức và biện pháp giáo dục, bồi dưỡng của các chủ thể; hành vi chấp
hành pháp luật nhà nước, kỷ luật quân đội và quy định của nhà trường của mỗi
học viên. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đã chỉ ra một số nguyên nhân của những ưu
điểm và nguyên nhân của những hạn chế của thực trạng bồi dưỡng VHPL cho học


18

viên đào tạo sĩ quan ở các nhà trường Quân đội hiện nay. Có cả nguyên nhân
khách quan và chủ quan. Từ đó, tác giả đã rút ra một số bài học kinh nghiệm bồi
dưỡng VHPL cho học viên đào tạo sĩ quan ở các nhà trường Quân đội hiện nay.
Tác giả Vũ Văn Ninh (2003), Nâng cao trình đợ văn hoá pháp luật của học
viên đào tạo đại học cấp phân đội ở Học viện Chính trị Quân sự [79]. Trong đề
tài này, tác giả đã đánh giá một cách khá chi tiết thực trạng VHPL và việc nâng
cao trình độ VHPL của học viên đào tạo đại học cấp phân đội ở Học viện Chính
trị Quân sự trên các nội dung: Về công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp
luật cho học viên; về công tác quản lý rèn luyện kỷ luật học viên; mức độ tự giác
học tập pháp luật của học viên; về xây dựng môi trường VHPL. Qua thực trạng,
tác giả đã chỉ ra những nhân tố tác động, mâu thuẫn và đặt ra một số yêu cầu cơ

bản cần giải quyết đối với việc nâng cao trình độ VHPL của học viên đào tạo đại
học cấp phân đội ở Học viện Chính trị Quân sự.
Tác giả Cao Thu Hằng (2016), Một số giải pháp nâng cao văn hóa pháp
luật ở Việt Nam hiện nay [36]. Trong bài viết này, tác giả đã chỉ ra một số mặt
hạn chế về VHPL của Việt Nam: Một số văn bản quy phạm pháp luật còn vi
phạm pháp luật; hành vi vi phạm của các tổ chức xã hội và cá nhân có nhiều biểu
hiện phức tạp và có xu hướng gia tăng; hiện tượng chưa thơng hiểu pháp luật ở
một bộ phận nhân dân,... Trên cơ sở đó tác giả cũng đã chỉ ra một số nguyên
nhân của hạn chế: Do truyền thống trọng tình hơn lý của người Việt; tâm lý, thói
quen sử dụng pháp luật trong sản xuất nơng nghiệp cịn hạn chế; ảnh hưởng của
chiến tranh, cơ chế quản lý mệnh lệnh hành chính, quan liêu, bao cấp; chưa đặt
vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong mối quan hệ với VHPL;
chưa đặt xây dựng VHPL trong mối quan hệ với văn hóa trong các lĩnh vực
khác; trình độ dân trí, chun mơn của các cá nhân trong xã hội cịn thấp; việc
xử lý vi phạm pháp luật còn thiếu tính nghiêm minh.
Thực trạng VHPL không chỉ được đánh giá với tính cách là một nền VHPL
của quốc gia mà còn được đánh giá ở những cá nhân và nhóm xã hội hoạt động
trong từng lĩnh vực với những tiêu chí cụ thể. Tác giả Nguyễn Văn Động


19

(2008), Về việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình đợ văn hóa pháp lý của cá
nhân và nhóm xã hội ở nước ta hiện nay [31]. Trong bài viết này, tác giả đã
đưa ra một hệ thống tiêu chí rất cụ thể đánh giá trình độ văn hóa pháp lý của
cá nhân và nhóm xã hội ở nước ta: Sự nhận thức (hay sự hiểu biết) pháp luật
một cách đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc và toàn diện; tư tưởng pháp luật đúng đắn
và tiến bộ; thái độ và tình cảm đúng đắn đối với pháp luật; hành vi xử sự phù
hợp với pháp luật (hay hành vi xử sự theo pháp luật hoặc hành vi xử sự hợp
pháp); kỹ năng vận dụng pháp luật vào thực tiễn một cách thành thạo; tinh

thần, thái độ đối với việc xây dựng pháp luật, bảo vệ pháp luật và các hoạt
động quản lý nhà nước, quản lý xã hội khác. Các tiêu chí này theo tác giả nó
khơng hồn tồn bất biến mà ln có sự vận động, biến đổi để phù hợp với sự
phát triển của kinh tế - xã hội và trình độ dân trí.
Tác giả Phạm Cơng Trứ (2009), Văn hóa pháp luật của phóng viên - Thực
trạng và một số giải pháp [123]. Trong bài viết này, tác giả đã cho rằng, thực trạng
VHPL của phóng viên có nhiều biểu hiện tích cực. Tuyệt đại đa số các phóng viên
báo chí đều có một trình độ kiến thức và ý thức thức tìm hiểu, nghiên cứu về pháp
luật nhất định. Bởi quá trình học tập ở nhà trường họ đã được học tập, nghiên cứu
một số vấn đề về Nhà nước và pháp luật. Phóng viên thường là người có ý thức tự
giác tìm hiểu, học hỏi kiến thức tổng hợp về văn hoá - xã hội để đáp ứng địi hỏi
của nghề nghiệp, trong đó pháp luật cũng được nhiều phóng viên dành cho sự
quan tâm đặc biệt. Tuy nhiên, thực trạng VHPL của phóng viên vẫn còn những
hạn chế gắn với nghề nghiệp của họ. Một số ít phóng viên cịn vi phạm quy định
pháp luật và quy định về đạo đức nghề nghiệp, có thái độ hành nghề thiếu trung
thực, khách quan hoặc là lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi và làm trái pháp luật...
Những hạn chế trên là do phóng viên khơng phải là những người được đào tạo cơ
bản về pháp luật, nhất là hiểu biết sâu về từng ngành luật, nên trong bài viết hoặc
bài nói hay mắc những lỗi về căn cứ pháp luật. Qua đó, tác giả cho rằng nâng cao
VHPL của phóng viên là cần thiết ngồi ngun do từ thực trạng yếu kém, nó cịn


20

xuất phát từ phía chủ quan (từ nhiệm vụ của báo chí và trách nhiệm của người
phóng viên), phía khách quan (do yêu cầu của đất nước, của thời cuộc).
Tác giả Lê Phương Đơng (2006), Văn hóa pháp luật và việc nâng cao
trình đợ văn hóa pháp luật trong các trường đào tạo sĩ quan quân đội [30].
Trong bài viết này, từ cấu trúc của VHPL bao gồm: Ý thức pháp luật, hệ thống
các phương tiện pháp luật và trình độ, khả năng sử dụng pháp luật để thực

hiện các hành vi hợp pháp, tác giả đã đánh giá khá chi tiết thực VHPL và nâng
cao trình độ VHPL trong các trường đào tạo sĩ quan quân đội. Theo đó, thực
trạng nâng cao trình độ VHPL trong các trường đào tạo sĩ quan quân đội đã
đạt được những kết quả tích cực, song vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất
định. Đó là những hạn chế về phía học viên: Vẫn cịn một số học viên chưa có
tình cảm, niềm tin pháp luật vững chắc, ngại khó, ngại khổ, ngại học tập pháp
luật, tự do, tùy tiện, vô tổ chức, vi phạm pháp luật, kỷ luật quân đội và quy
chế đào tạo. Hạn chế về công tác giáo dục pháp luật cho học viên: Công tác
giáo dục nâng cao ý thức pháp luật ở một số đơn vị quản lý học viên chưa
được chú trọng, mang tính hình thức, chưa gắn kết với công tác giáo dục
chính trị và các hoạt động khác. Công tác kiểm tra, xử lý kỷ luật những hành
vi vi phạm cịn bị động và có biểu hiện bệnh thành tích. Từ thực trạng còn
những hạn chế trên, tác giả cho rằng, phải không ngừng củng cố và nâng cao
trình độ VHPL trong học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội.
Kết quả đạt được của những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến
thực trạng phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam nêu trên là cơ sở để
luận án kế thừa, bổ sung, phát triển trong việc xác định những nội dung đánh giá
thực trạng phát triển VHPL của SQT hiện nay.
1.1.3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát triển văn hoá pháp
luật của sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Tác giả Lê Đức Tiết (2005), Văn hóa pháp lý Việt Nam [113]. Trong cuốn
sách này, dưới góc độ của khoa học Luật học, trên cơ sở quan niệm, cấu trúc của
nền văn hóa pháp lý, những hạn chế còn tồn tại, tác giả đã đưa ra những giải


21

pháp cơ bản để nâng cao trình độ văn hóa pháp lý ở Việt Nam: Tăng cường giáo
dục ý thức pháp luật chuyên sâu cho công chức và rộng rãi cho nhân dân; coi
trọng cơng tác cập nhật hóa, hệ thống hóa và cơng khai hóa rộng khắp pháp luật

hiện hành; thực hiện sâu rộng nguyên tắc dân biết, dân bàn trong soạn thảo pháp
luật, coi trọng công tác phản biện khoa học các dự thảo pháp luật; khuyến khích
việc xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước và điều lệ hội, đoàn quần chúng;
xác định rõ và đề cao trách nhiệm cá nhân công chức; xây dựng và nhân rộng
các mẫu hình văn hóa pháp lý cao. Đây là hệ thống giải pháp để nâng cao trình
độ văn hóa pháp lý của Việt Nam với tư cách là VHPL cộng đồng quốc gia.
Tác giả Vũ Văn Thường (2011), Bồi dưỡng văn hóa pháp luật cho học viên
đào tạo sĩ quan ở các nhà trường Quân đội hiện nay [110]. Trong cuốn sách này,
trên cơ sở những vấn đề lý luận, thực trạng, tác giả đã đề xuất một số giải pháp cơ
bản, toàn diện từ nhận thức, giáo dục, quản lý rèn luyện của các chủ thể đến phát
huy vai trò của bản thân mỗi học viên và xây dựng môi trường. Cụ thể là: Nâng
cao nhận thức, phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng trong
bồi dưỡng VHPL cho học viên đào tạo sĩ quan; đổi mới, hồn thiện nội dung,
chương trình giáo dục đào tạo, tổ chức tốt các hình thức, phương pháp bồi dưỡng
kiến thức cơ bản, hệ thống về pháp luật cho học viên; quản lý chặt chẽ, duy trì
nghiêm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước, kịp thời đấu tranh ngăn chặn những
hiện tượng, hành vi vi phạm pháp luật; phát huy tính tích cực, chủ động của học
viên đào tạo sĩ quan trong tự giáo dục, rèn luyện bồi dưỡng VHPL; xây dựng và
phát huy vai trò môi trường VHPL ở các nhà trường quân đội.
Tác giả Vũ Văn Ninh (2003), Nâng cao trình đợ văn hố pháp luật của học
viên đào tạo đại học cấp phân đội ở Học viện Chính trị Quân sự [79]. Trong
đề tài này, trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực trạng, tác giả đã đề xuất
một số giải pháp cơ bản: Một là, đổi mới nâng cao chất lượng giáo dục pháp
luật cho học viên với mục đích giúp họ hình thành, làm sâu sắc thêm và từng
bước mở rộng tri thức pháp luật tạo nền tảng để nâng cao trình độ VHPL; Hai
là, xây dựng mơi trường VHPL cho học viên với mục đích xây dựng môi


22


trường VHPL lành mạnh trong đơn vị, qua đó bồi dưỡng nâng cao trình độ
VHPL cho học viên; Ba là, phát huy tính tích cực, tự giác học tập, rèn luyện
của học viên với mục đích nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của học
viên, làm cho việc nâng cao trình độ VHPL trở thành nhu cầu thường xuyên
trong quá trình đào tạo tại Học viện; Bốn là, xây dựng thói quen sống và hành
động theo pháp luật.
Tác giả Phạm Cơng Trứ (2009), Văn hóa pháp luật của phóng viên
-Thực trạng và một số giải pháp [123]. Trong bài viết này, trên cơ sở quan
niệm và thực trạng VHPL của phóng viên, tác giả đã đề xuất một hệ thống
giải pháp đồng bộ để phát triển, nâng cao trình độ VHPL của họ. Đó là hệ
thống giải pháp đối với người phóng viên; giải pháp đối với cơ quan có chức
năng trực tiếp quản lý báo chí; giải pháp đối với Hội nhà báo Việt Nam; giải
pháp đối với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước.
Tác giả Cao Thu Hằng (2016), Một số giải pháp nâng cao văn hóa pháp
luật ở Việt Nam hiện nay [36]. Trong bài viết này, trên cơ sở quan niệm về
VHPL, chỉ ra thực trạng VHPL ở Việt Nam còn tồn tại những hạn chế nhất
định, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao VHPL ở Việt Nam
hiện nay: Kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của
dân tộc; mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế và tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa VHPL của nhân loại; tăng cường hơn nữa cơng tác giáo dục VHPL; hồn
thiện hệ thống pháp luật và tăng cường kỷ cương thực thi pháp luật; xây dựng
VHPL phải được đặt trong mối quan hệ hài hòa với việc xây dựng các lĩnh
vực văn hóa cụ thể khác.
Tác giả Lê Phương Đơng (2006), Văn hóa pháp luật và việc nâng cao
trình đợ văn hóa pháp luật trong các trường đào tạo sĩ quan quân đội [30].
Trong bài viết này, trên cơ sở khẳng định VHPL được không ngừng nâng cao
thông qua công tác giáo dục, học tập pháp luật và thông qua công tác quản lý,
rèn luyện, tác giả đã đề xuất hai giải pháp cơ bản nhằm nâng cao trình độ
VHPL trong các trường đào tạo sĩ quan quân đội: Giáo dục nâng cao trình độ



23

hiểu biết về pháp luật, điều lệnh, kỷ luật quân đội, các quy chế và quy định
của học viện, nhà trường; coi trọng công tác xây dựng đơn vị chính quy và
rèn luyện toàn diện trong học viên.
Tác giả Đào Huy Hiệp (2014), Phát triển văn hóa kỷ luật cho chiến sĩ ở
các đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay [40]. Trong bài vết này, trên cơ sở
luận giải con đường hình thành văn hóa kỷ luật, tác giả đã đưa ra một số biện
pháp phát triển văn hóa kỷ luật cho chiến sĩ ở các đơn vị cơ sở trong quân đội
hiện nay: Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị cho chiến sĩ ở đơn vị cơ sở;
phát huy tốt vai trò của các tập thể quân nhân trong giáo dục, phát triển văn
hóa kỷ luật cho chiến sĩ ở đơn vị cơ sở; kết hợp giữa “xây” và “chống” trong
việc phát triển văn hóa kỷ luật cho chiến sĩ ở đơn vị cơ sở; phát huy vai trò
nêu gương và nâng cao năng lực quản lý, chỉ huy của đội ngũ cán bộ các cấp.
Tác giả Nguyễn Thành Chung (2017), Tăng cường bồi dưỡng văn hóa
pháp luật cho đợi ngũ trí thức nữ trong qn đội [5]. Trong bài viết này, tác
giả đã đề xuất một số giải pháp cơ bản như: Một là, nâng cao sự đồng thuận
về nhận thức của các tổ chức, các lực lượng đối với công tác tăng cường bồi
dưỡng VHPL cho đội ngũ trí thức nữ trong quân đội; Hai là, nâng cao hiệu
quả tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, kỷ luật cho đội ngũ trí thức
nữ trong quân đội; Ba là, tăng cường công tác quản lý, rèn luyện đội ngũ trí
thức nữ, kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và xử lý nghiêm những trường hợp vi
phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội; Bốn là, phát huy tính tích cực,
tự giác của bản thân trí thức nữ quân đội trong tự bồi dưỡng, nâng cao
VHPL của họ; Năm là, xây dựng và phát huy ảnh hưởng tích cực của môi
trường VHPL lành mạnh ở các cơ quan, đơn vị trong quân đội để bồi dưỡng
VHPL cho đội ngũ trí thức nữ.
Tác giả Nguyễn Mạnh Tường (2017), Văn hóa pháp luật trong xây dựng
nhân cách học viên đại học quân sự [131]. Trong bài viết này, tác giả đã đề

xuất một số nội dung, biện pháp cơ bản để nâng cao chất lượng bồi dưỡng
VHPL trong xây dựng nhân cách của học viên đào tạo sĩ quan ở các trường


24

đại học quân sự hiên nay: Một là, nâng cao nhận thức, phát huy vai trò, trách
nhiệm của các tổ chức, các lực lượng trong bồi dưỡng VHPL cho học viên
đào tạo sĩ quan để hoàn thiện nhân cách cho họ; Hai là, đổi mới, hồn thiện
nội dung, chương trình giáo dục đào tạo, tổ chức tốt các hình thức, phương
pháp bồi dưỡng kiến thức cơ bản, hệ thống về pháp luật cho học viên; Ba là,
phát huy tính tích cực, chủ động của học viên đào tạo sĩ quan trong tự giáo
dục, rèn luyện bồi dưỡng VHPL.
Kết quả đạt được của những cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến
giải pháp phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam nêu trên là cơ sở để
luận án kế thừa, bổ sung, phát triển trong việc đề xuất những giải pháp cơ bản,
khả thi nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả phát triển VHPL của SQT hiện nay.
1.2. Khái qt kết quả chủ yếu của các cơng trình đã công bố và những
vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
1.2.1. Khái quát kết quả chủ yếu của các cơng trình đã cơng bố
Mợt là, các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài đã luận giải
một số vấn đề lý luận về VHPL và phát triển VHPL. Qua các cơng trình khoa học tiêu
biểu liên quan đến đề tài, một số vấn đề lý luận về VHPL đã được tiếp cận chủ yếu
dưới góc độ của khoa học Luật học, khoa học Chính trị học... Quan niệm về VHPL đã
được định nghĩa với những nội hàm khác nhau, nhưng về cơ bản đều thống nhất với
nhau về sự khẳng định: VHPL là một bộ phận của văn hóa; đề cao giá trị nhân văn,
tiến bộ, tích cực trong lĩnh vực pháp luật. Dưới góc độ nghiên cứu của khoa học Luật
học, khoa học Chính trị học và bằng cách tiếp cận hệ thống và cấu trúc, phương
pháp liệt kê, tiếp cận giá trị, các tác giả đã đưa ra cấu trúc của VHPL; đồng thời chỉ
ra vai trò của VHPL đối với đời sống xã hội, hoàn thiện nhân cách, lối sống của

từng lớp khách thể cụ thể mà các cơng trình hướng đến nghiên cứu.
Những cơng trình tiêu biểu liên quan đến đề tài đã đưa ra quan niệm về
bồi dưỡng, phát triển, nâng cao VHPL với những nội hàm khác nhau. Đa số các
cơng trình quan niệm bồi dưỡng, phát triển, nâng cao VHPL theo hướng luận
giải những tác động từ bên ngồi vào. Bên cạnh đó, các cơng trình nghiên cứu
có liên quan đến đề tài đã có sự phân tích những nét đặc thù về VHPL và quan


25

niệm về bồi dưỡng, phát triển, nâng cao VHPL gắn với từng lớp khách thể cụ
thể trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là cơ sở để luận án luận giải
những nét đặc thù về phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam.
Những cơng trình tiêu biểu liên quan đến đề tài đã có những luận giải khác
nhau về cách thức, con đường liên quan đến tính quy luật phát triển VHPL. Đa
số các cơng trình tiêu biểu liên quan đến đề tài đã cho rằng, xây dựng, phát triển
VHPL phụ thuộc, chịu sự quy định bởi công tác giáo dục pháp luật; công tác
quản lý của Nhà nước, của các lực lượng quản lý xã hội, quản lý lĩnh vực hoạt
động mà đối tượng khách thể đó tham gia; phụ thuộc vào mơi trường; phụ thuộc
vào các chủ thể... Đây là cơ sở để luận án kế thừa, phát triển trong luận giải về
tính quy luật phát triển VHPL của SQT trong QĐND Việt Nam.
Hai là, các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài đã đánh
giá tương đối sâu sắc một số vấn đề về thực trạng VHPL, xây dựng, bồi
dưỡng, phát triển, nâng cao VHPL. Trên cơ sở cách tiếp cận lý luận về VHPL
(quan niệm, cấu trúc, đặc trưng, vai trị và tiêu chí), các cơng trình đã khái quát,
phân tích thực trạng VHPL với những nội dung rất phong phú làm tốt nên bức
tranh tồn diện về thực trạng VHPL không chỉ của nền VHPL Việt Nam với
tính cách nền VHPL của một nhà nước, mà còn là thực trạng sinh động về
VHPL của từng lớp khách thể cụ thể gắn với những nét bản sắc riêng về
VHPL. Các cơng trình đều đánh giá một cách tồn diện cả mặt tích cực và hạn

chế về VHPL; đồng thời chỉ ra những nguyên nhân của thực trạng. Trên cơ sở
phân tích, đánh giá thực trạng VHPL, xây dựng, bồi dưỡng, phát triển, nâng
cao VHPL, các cơng trình liên quan đến đề tài đã phát hiện ra những bất cập
cần phải khắc phục để phát triển, nâng cao trình độ VHPL.
Ba là, các cơng trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đề tài đã đề xuất
nhiều hệ thống giải pháp toàn diện nhằm giáo dục, bồi dưỡng, phát triển, nâng
cao VHPL. Khẳng định vai trò quan trọng của VHPL, trên cơ sở những vấn đề lý
luận và thực tiễn về VHPL, các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài dưới
góc độ tiếp cận chuyên biệt của từng khoa học đã đề ra những giải pháp khác
nhau nhằm giáo dục, bồi dưỡng, phát triển, nâng cao VHPL gắn với đặc thù của


26

từng lớp khách thể mà đề tài nghiên cứu. Theo đó, hệ thống các giải pháp đã chủ
yếu được đề xuất là từ công tác giáo dục pháp luật, công tác quản lý, phát huy
vai trò của các chủ thể, xây dựng mơi trường... Dưới góc độ tiếp cận của các
khoa học chuyên ngành ngoài triết học, hệ thống giải pháp được đề xuất và luận
giải của các cơng trình nghiên cứu đã được công bố liên quan đến đề tài là các
giải pháp mang tính cụ thể để giáo dục, bồi dưỡng, phát triển và nâng cao VHPL
cho từ lớp khách thể cụ thể mà đề tài lựa chọn nghiên cứu.
1.2.2. Những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài cho thấy,
nghiên cứu về VHPL và bồi dưỡng, xây dựng, phát triển, nâng cao VHPL đã
được các nhà khoa học luận giải dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, cho
đến nay, chưa có cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu một cách có hệ
thống, chuyên biệt, sâu sắc dưới góc độ triết học những vấn đề về “Phát triển
văn hóa pháp luật của sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”.
Đó là những vấn đề đặt ra để luận án tiếp tục giải quyết. Cụ thể là:
Một là, về mặt lý luận, luận án bổ sung, phát triển và làm sâu sắc cách

tiếp cận triết học quan niệm về VHPL và phát triển VHPL của SQT trong
QĐND Việt Nam, đồng thời luận giải tính quy luật phát triển VHPL của SQT
trong QĐND Việt Nam. Luận giải lý luận về phát triển VHPL dưới góc độ triết
học địi hỏi phải chỉ ra bản chất, cấu trúc của VHPL; quan niệm và tính quy
luật phát triển VHPL. Đây là cơ sở lý luận khoa học để nhận diện những biểu
hiện về mặt thực tiễn, qua đó xây dựng các giải pháp có tính khả thi cao nhằm
phát triển VHPL. Thực tiễn giáo dục, xây dựng đội ngũ SQT phát triển tồn
diện, trong đó có phát triển về VHPL hiện nay đang đặt ra những đòi hỏi phải
khái quát lý luận về phát triển VHPL của SQT. Mặt khác, qua tổng quan tình
hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách trực tiếp, tồn diện quan niệm về VHPL và phát triển VHPL của SQT,
cũng như tính quy luật phát triển nội tại của nó dưới góc độ triết học. Vì vậy, từ
địi hỏi của thực tiễn và việc cịn trống vắng những cơng trình nghiên cứu lý
luận về phát triển VHPL của SQT dưới góc độ triết học là vấn đề đặt ra để luận


×