Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Luận văn tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục đào tạo ở học viện chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.25 KB, 99 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN THỊ THANH

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN THỊ THANH

TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO
Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 01 14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ph¹m văn sơn


H NI - 2014


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1.
Một số khái niệm cơ bản
1.2.
Nội dung tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng
giáo dục - đào tạo ở các trường đại học
1.3.
Các nhân tố tác động tới tổ chức hoạt động tự đánh giá
chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị
Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA TỔ CHỨC HOẠT
ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC - ĐÀO TẠO Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
2.1.
Khái qt tình hình tổ chức hoạt động tự đánh giá chất
lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị
2.2.
Thực trạng và nguyên nhân của tổ chức hoạt động tự
đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện
Chính trị
Chương 3 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC HOẠT
ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG GIÁO
DỤC - ĐÀO TẠO Ở HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
3.1.
Những yêu cầu tổ chức hoạt động tự đánh giá chất

lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị
3.2.
Biện pháp tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng
giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị
3.3.
Khảo nghiệm sự cần thiết, tính khả thi của hệ thống
các biện pháp tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng
giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3

13
13
20
31

37
37

40

59
59
63

80
87

90
93


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo đại học đang là yêu cầu cấp
bách, là vấn đề được quan tâm hàng đầu của ngành giáo dục đại học và của
toàn xã hội. Đó là phương thức cơ bản để tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng
cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực hiện Luật Giáo dục 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và
Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8 năm 2006 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục, Bộ Giáo
dục và Đào tạo đang triển khai đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo
dục, tiếp tục đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, giảng viên, tăng cường
cơ sở vật chất, đẩy mạnh công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục
ở các cấp học và trình độ đào tạo nhằm nhanh chóng tạo bước chuyển biến
lớn về chất lượng giáo dục. Công tác đánh giá và kiểm định chất lượng giáo
dục được triển khai trong vài năm gần đây, đã có những tác động tích cực đến
chất lượng giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân.
Đánh giá chất lượng là một khâu không thể thiếu trong quá trình đào
tạo đại học. Nó đóng vai trị phản hồi trong quá trình đào tạo, đồng thời là cơ
sở quan trọng để có những quyết định đúng đắn cho việc điều chỉnh, nâng cao
hiệu quả của từng thành tố trong hệ thống đào tạo và xác định các điều kiện
bảo đảm chất lượng đào tạo đại học.
Tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở các trường đại học là một
trong những công đoạn đầu tiên trong tổng thể các hoạt động kiểm định chất
lượng giáo dục - đào tạo; phản ánh tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chủ

thể đối với hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học theo phạm vi chức năng,
nhiệm vụ mà cơ sở đào tạo đảm nhiệm. Đồng thời, thông qua tự đánh giá chất
lượng giáo dục - đào tạo để phát hiện những ưu điểm và hạn chế, từ đó phát


4

huy và điều chỉnh quá trình đào tạo phù hợp với tơn chỉ mục đích và nâng cao
chất lượng đào tạo của các cơ sở, tạo điều kiện cho các bước kiểm định, đánh
giá chất lượng tiếp theo của hệ thống các cấp từ trên xuống.
Nằm trong hệ thống học viện, nhà trường của quốc gia, từ năm 2009
Học viện Chính trị đã thành lập cơ quan Khảo thí và Đảm bảo chất lượng giáo
dục- đào tạo và đi vào hoạt động theo đúng chức năng nhiệm vụ. Đây là cơ
quan tham mưu giúp lãnh đạo, chỉ huy Học viện lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức
các hoạt động về khảo thí, thanh kiểm tra huấn luyện và đảm bảo chất lượng
giáo dục - đào tạo, trong đó có nhiệm vụ tự đánh giá chất lượng giáo dục đào tạo đang được triển khai và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên,
công tác tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo đôi lúc
chưa được lãnh đạo, chỉ huy các cấp, lực lượng sư phạm và cơ quan chức
năng quan tâm, nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan
trọng của nó, một số điều kiện bảo đảm cho cơng tác này chưa được coi trọng,
đầu tư một cách thích đáng. Vì thế, hoạt động tự đánh giá tuy đã được triển
khai song chưa đạt kết quả như mong muốn, trong đó, cách thức, biện pháp tổ
chức triển khai chưa được nghiên cứu thấu đáo; công tác tập huấn, bồi dưỡng
kĩ năng tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo cho các lực lượng tham gia
chưa thường xuyên, chưa đi vào chiều sâu, thiếu tính chuyên nghiệp; việc tổ
chức lực lượng và công tác phối hợp hiệp đồng trong hoạt động tự đánh giá
chưa thật chặt chẽ…
Từ những lí do trên, để tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng
giáo dục - đào tạo của Học viện có những bước chuyển biến mạnh mẽ và
đi vào chiều sâu, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, tiếp

tục khẳng định vị thế, uy tín của Học viện đối với quân đội và xã hội, thì
việc nghiên cứu, luận giải về công tác tổ chức hoạt động tự đánh giá chất
lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị hiện nay là vấn đề có tính
cấp thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả lựa chọn:


5
"Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện
Chính trị" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý
giáo dục.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, hoạt động đánh giá chất lượng giáo dục
luôn đồng hành với công tác dạy và học ở các cơ sở giáo dục. Đánh giá chất
lượng nhằm mục đích giám sát q trình dạy và học từ đó đưa ra những quyết
sách về quản lí, dự đốn các kết quả đào tạo và khơng ngừng cải tiến nâng cao
chất lượng giáo dục có nhiều nội dung khác nhau trong đó có đánh giá các yếu
tố điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục và đánh giá chất lượng sản phẩm
giáo dục. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chất lượng sản phẩm giáo dục chịu
ảnh hưởng của nhiều yếu tố, chất lượng đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, các
trang thiết bị trường học và tổ chức các hoạt động giáo dục của nhà trường.
Ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Australia,
Hàn Quốc... kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục và đào tạo đã được triển
khai nghiên cứu từ thập niên 70 của thế kỷ trước. Trong các cuốn sách (đã
được dịch sang tiếng Việt) của một số tác giả ở các nước trên đều cho rằng:
đánh giá chất lượng có mục đích giám sát q trình giáo dục, từ đó các nhà
quản lý có thể dự đoán kết quả, đưa ra những quyết định, những điều chỉnh kịp
thời để nâng cao chất lượng giáo dục. Và họ cho rằng, kiểm định và đánh giá
chất lượng giáo dục cần được thực hiện đồng bộ ở cả hai phương diện: kiểm
định, đánh giá sản phẩm giáo dục và kiểm định, đánh giá các yếu tố đảm bảo
chất lượng giáo dục của nhà trường. Một trường đại học trong thời đại ngày

nay, muốn phát triển và hội nhập quốc tế phải có chính sách, mục tiêu và quy
trình đảm bảo chất lượng; do đó cơng tác kiểm định, đánh giá chất lượng giáo
dục được tiến hành đồng thời ngay trong quá trình đào tạo. Cơ quan kiểm định
là các đơn vị độc lập với cơ quan quản lý và triển khai giáo dục, từ đó các kết
quả kiểm định, đánh giá có giá trị khách quan, loại trừ được các yếu tố chủ


6

quan, tuỳ tiện do bệnh thành tích. Đối với giáo dục đại học, chất lượng giáo
dục chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố cấu thành nhà trường như: hoạt động
quản lý, đội ngũ giáo viên, học viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học và
tổ chức, quản lý giáo dục...do đó đánh giá chất lượng giáo dục đại học cần đánh
giá đầy đủ các yếu tố đó.
Ở các nước phát triển đã tiến hành kiểm định chất lượng giáo dục
trường đại học để công nhận chất lượng của từng trường, tiêu biểu là Hoa Kỳ,
Canađa, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc...Các nước này đã xây dựng
những bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục với các tiêu chí cụ thể để
xác định mức độ đạt được của các cơ sở giáo dục.
Ở Việt Nam, về phương diện nghiên cứu lý thuyết đã có nhiều tác giả
đề cập đến kiểm định, đánh giá chất lượng giáo dục cả ở bậc học phổ thông và
giáo dục đại học như: Nguyễn Cơng Khanh “Về tiêu chuẩn kiểm định khố
đào tạo giáo viên tiểu học”, tác giả đã giới thiệu nội dung các tiêu chuẩn và
tiêu chí kiểm định chất lượng khoá đào tạo giáo viên tiểu học: tiêu chuẩn 1mục tiêu, tổ chức và quản lý ; tiêu chuẩn 2-chương trình và các hoạt động đào
tạo; tiêu chuẩn 3-đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo; tiêu chuẩn 4-người học
và công tác hỗ trợ trường học; tiêu chuẩn 5-thư viện, trang thiết bị dạy học và
cơ sở vật chất hỗ trợ khố đào tạo; tiêu chuẩn 6-cơng tác tài chính phục vụ
khố đào tạo; tiêu chuẩn 7-cơng tác đánh giá sinh viên tốt nghiệp khoá đào
tạo và tư vấn việc làm.
Trong cuốn sách “Kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học” tác giả

Nguyễn Đức Chính đã bàn về kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học
Việt Nam và kiểm định chất lượng trong giáo dục đại học thế giới. Ngoài việc
cung cấp cơ sở khoa học về kiểm định, đảm bảo chất lượng và các mơ hình
quản lý chất lượng giáo dục đại học, tác giả còn giới thiệu về Bộ tiêu chí đánh
giá chất lượng và điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo trong các trường đại


7

học Việt Nam và hướng dẫn tiến hành quy trình kiểm định chất lượng. Bộ tiêu
chí đánh giá gồm 26 tiêu chí với hơn 120 chỉ số đánh giá bao qt tồn bộ 8
lĩnh vực hoạt động chính của một trường đại học được xây dựng trên cở sở lý
luận khoa học tiên tiến và cơ sở phân tích xử lý số liệu điều tra khảo sát của
47 trường đại học thuộc các nhóm ngành đào tạo. Độ tin cậy và giá trị của bộ
tiêu chí đã được hội đồng khoa học nhà nước đánh giá rất cao và đã được Bộ
Giáo dục và Đào tạo sử dụng như một tài liệu tham khảo chính để thiết kế
cơng cụ đánh giá chất lượng và điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo của các
trường đại học trong năm 2005.
Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục, cùng với trung tâm kiểm
định chất lượng giáo dục Đại học Quốc gia Hà Nội đã triển khai nghiên cứu
đề tài cấp nhà nước về “Xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng dùng cho
các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam”.
Tác giả Nguyễn Văn Phán đã nghiên cứu về “Giải pháp công tác tự
đánh giá chất lượng giáo dục- đào tạo ở Học viện Chính trị hiện nay”, trên cơ
sở luận giải những vấn đề lý luận liên quan, tác giả nhấn mạnh tự đánh giá là
một khâu trong chu trình bảo đảm chất lượng giáo dục mà cơ sở giáo dục nào
cũng phải thực hiện. Tác giả cũng đã đề xuất một hệ thống biện pháp tương
đối toàn diện để thực hiện công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục-đào tạo
trong các nhà trường quân đội.
Tác giả Nguyễn Tất Thành trong nghiên cứu “Quản lý hoạt động tự

đánh giá chất lượng giáo dục các trường dạy nghề quân đội hiện nay” đã
nghiên cứu và đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động tự đánh giá chất lượng
giáo dục các trường dạy nghề quân đội nhằm nâng cao chất lượng đào tạo ở
các trường dạy nghề quân đội hiện nay.
Về phương diện thực tiễn, từ năm 2002 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quan
tâm xây dựng cơ quan kiểm định chất lượng giáo dục, từ đây hệ thống kiểm


8

định chất lượng giáo dục ở nước ta được hình thành và đi vào hoạt động. Cụ thể
như: tháng 1/2002 thành lập Phòng Kiểm định chất lượng đào tạo thuộc Vụ Đại
học và Sau đại học; tiếp đó Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục
được thành lập theo Nghị định số 85/2003/NĐ-CP ngày 18/7/2003 của Chính
phủ. Tiếp đó là Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và Nghiên cứu phát triển
giáo dục của Đại học Quốc gia Hà Nội; và Trung tâm Khảo thí - Đánh giá chất
lượng giáo dục của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập.
Cùng với sự ra đời các tổ chức, ngày 2/12/2004, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã ban hành Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học với
10 tiêu chuẩn và 53 tiêu chí bao hàm hầu hết các hoạt động của trường đại
học.Và mới đây, Quyết định số 65/2007/QĐ-BGĐT về tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng giáo dục trường đại học và Thông tư số 37/2012/TT-BGDĐT ngày 30
tháng 10 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một
số điều của Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 11 năm 2007
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định về tiêu chuẩn đánh
giá chất lượng giáo dục trường đại học ra đời, đây là cơ sở pháp lý để triển khai
hoạt động kiểm định chất lượng ở các cơ sở đào tạo đại học. Trong Quân đội
cũng đã có Quyết định số 1737/QĐ-TM ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Tổng
Tham mưu trưởng về việc thành lập phòng (ban) khảo thí và đảm bảo chất lượng
giáo dục - đào tạo thuộc học viên, trường trong quân đội; Hướng dẫn số

832/HD-NT về cơng tác khảo thí và đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo đối
với các học viện, trường sĩ quan, đại học, cao đẳng trong quân đội.
Các cơng trình nghiên cứu lý thuyết về kiểm định, đánh giá chất lượng
giáo dục đạo học và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn về lĩnh vực này của một
số trường đại học nước ta như trình bày trên, đã tạo nền tảng cho việc nghiên
cứu cơ sở lý luận, kế thừa học tập kinh nghiệm để triển khai hoạt động tự
đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo ở Học viện Chính trị hiện nay.


9
Tóm lại, các nghiên cứu trên đã đề cập đến kiểm định chất lượng giáo
dục trên nhiều khía cạnh khác nhau như:
Làm rõ cơ sở lý luận về kiểm định chất lượng giáo dục, xây dựng các
tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục và các nhân tố tác động tới chúng. Một
số cơng trình nghiên cứu đã đề cập đến tự đánh giá chất lượng giáo dục đại
học và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn về lĩnh vực này của một số trường đại
học nước ta như đã trình bày ở trên đã tạo nền tảng cho việc nghiên cứu cơ sở
lý luận và thực tiễn kinh nghiệm để triển khai hoạt động tự đánh giá chất
lượng giáo dục ở các học viện, nhà trường trong quân đội hiện nay.
Tuy nhiên, tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục-đào tạo
nói chung, ở các học viện, nhà trường quân đội nói riêng chưa được tác giả
nào nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tự đánh giá
chất lượng giáo dục, đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động tự đánh giá chất
lượng giáo dục - đào tạo nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào
tạo ở Học viện Chính trị.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng

giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị.
Khảo sát, đánh giá thực trạng về công tác tổ chức hoạt động tự đánh giá
chất lượng giáo dục - đào tạo ở Học viện Chính trị.
Đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo
dục - đào tạo ở Học viện Chính trị đáp ứng yêu cầu đặt ra.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Hoạt động đảm bảo chất chất lượng giáo dục đào tạo ở Học viện Chính trị.


10
Đối tượng nghiên cứu: Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo
dục - đào tạo.
Phạm vi và giới hạn nghiên cứu:
Về phạm vi nội dung: Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo
dục - đào tạo ở Học viện Chính trị theo chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục
- đào tạo các trường đại học.
Về phạm vi, đối tượng khảo sát: Học viên, cán bộ quản lý giáo dục và
giảng viên của Học viện Chính trị.
Phạm vi, giới hạn thời gian nghiên cứu: Các số liệu điều tra khảo sát
chủ yếu tính từ năm 2009 đến nay. Đó cũng là thời gian cơ quan Khảo thí và
Đảm bảo chất lượng giáo dục - đào tạo của Học viện được thành lập.
5. Giả thuyết khoa học
Quản lý hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục-đào tạo ở Học viện
Chính trị có vai trị rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục
của nhà trường. Trong quá trình tổ chức hoạt động tự đánh giá, nếu chủ thể
quản lý thực hiện khoa học, hợp lý các tác động để nâng cao nhận thức, trách
nhiệm của các lực lượng liên quan đến hoạt động tự đánh giá; thực hiện chặt
chẽ các khâu xây dựng kế hoạch, lựa chọn và phối hợp sử dụng lực lượng một
cách khoa học; quan tâm tới việc thực hiện quy trình tự đánh giá và thường
xun kiểm tra, kiểm sốt quá trình này thì hoạt động tự đánh giá chất lượng

giáo dục sẽ khơng ngừng được nâng cao, góp phần nâng cao chất lượng giáo
dục-đào tạo ở Học viện Chính trị.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin; quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ


11
Chí Minh; các văn kiện nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới
và nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo; đồng thời dựa trên các quan điểm,
nguyên tắc phương pháp của khoa học quản lý giáo dục, lý luận về tự đánh
giá chất lượng giáo dục - đào tạo.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được nhiệm vụ của đề tài, tác giả đã sử dụng kết hợp các
phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn, cụ thể là:
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
Hệ thống hóa, khái quát hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, cơ quan chức năng về đảm bảo chất lượng giáo dục; kiểm
định, đánh giá, tự đánh giá chất lượng giáo dục.
Nghiên cứu các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, Cục
Nhà trường; các tài liệu có liên quan đến quản lý hoạt động tự đánh giá chất
lượng giáo dục ở các nhà trường trong Quân đội.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Sử dụng phương pháp trưng cầu ý kiến đối với cán bộ, giảng viên và
học viên trong Học viện.
Sử dụng phương pháp quan sát các hoạt động liên quan đến tự đánh giá
chất lượng giáo dục đào tạo trong Học viện.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu sản phẩm đào tạo; Phương pháp tổng
kết kinh nghiệm tự đánh giá của một số cơ sở đào tạo trong và ngoài quân đội,

cùng với một số phương pháp hỗ trợ khác như: sử dụng toán thống kê để xử
lý số liệu...
7. Ý nghĩa, giá trị của đề tài nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hệ thống hóa và phát triển
cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở
Học viện Chính trị.


12
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu tổ chức tiến
hành có hiệu quả tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở
Học viện Chính trị, cũng như các trường cao đẳng, đại học.
8. Cấu trúc của đề tài
Đề tài được kết cấu gồm: Mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận và kiến
nghị, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục.


13

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG TỰ ĐÁNH GIÁ
CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm tổ chức
Tổ chức là một hoạt động xã hội, một trong những loại hình lao động
quan trọng trong các hoạt động của con người. Do cách tiếp cận khác nhau
nên việc mơ tả, giải thích có thể khác nhau nhưng về bản chất đều hướng tới
làm rõ lý luận, thực tiễn và các kỹ thuật làm cơ sở cho hoạt động tổ chức.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và Đảng ta từ lâu đã khẳng
định vị trí, vai trị của tổ chức và cơng tác tổ chức trong sự phát triển của xã

hội và con người. Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng Nga, V.I.Lênin đã rút ra
kết luận: “Trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, giai cấp vơ sản khơng có
vũ khí nào khác hơn là tổ chức” và khi đã giành được chính quyền, toàn bộ
nhiệm vụ của đảng cầm quyền là “…tổ chức, tổ chức và tổ chức”. Lê Duẩn đã
từng định nghĩa: “Tổ chức, nói rộng ra là cơ cấu tồn tại của sự vật, hiện
tượng. Sự vật và hiện tượng không thể tồn tại mà khơng có một hình thức liên
kết nhất định các yếu tố thuộc nội dung. Tổ chức, vì vậy, là thuộc tính của bản
thân các sự vật và hiện tượng” [13, tr.28]. Tổ chức là thuộc tính của sự vật,
nói cách khác sự vật ln tồn tại dưới dạng tổ chức nhất định. Định nghĩa trên
có ý nghĩa rất sâu sắc, bao quát cả phần tự nhiên và xã hội lồi người. Trong
xã hội lồi người có con người (cộng đồng) là có tổ chức. Vì vậy, có thể nói
tổ chức là hình thức tập hợp, liên kết các thành viên trong xã hội (cá nhân, tập
thể) nhằm đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng, lợi ích của các thành viên, cùng
nhau hành động vì lý tưởng, mục tiêu chung.
Công tác tổ chức là những việc làm để tập hợp nhiều người lại với
nhau, xây dựng cơ cấu bộ máy làm việc, định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách


14
nhiệm của từng người, từng bộ phận trong tổ chức, đề ra chương trình, kế
hoạch và cách thức hành động của các thành viên, để tổ chức hoạt động được
nhịp nhàng, ăn khớp với nhau và đạt hiệu quả… Để giúp cho mọi người cùng
làm việc với nhau nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu cần phải xây dựng và
duy trì một cơ cấu nhất định về những vai trị, nhiệm vụ và vị trí cơng tác. Vì
vậy,việc xác định vai trò, nhiệm vụ là chức năng tổ chức trong quản lý. Vai
trò của một bộ phận hay một cá nhân bao hàm bộ phận hay cá nhân đó hiểu rõ
cơng việc mình làm nằm trong một phạm vi nào đó, nhằm mục đích hoặc mục
tiêu nào, cơng việc của họ ăn khớp như thế nào với các cá nhân hoặc bộ phận
khác và những thông tin cần thiết để hồn thành cơng việc.
Như vậy, tùy theo cách tiếp cận và quan điểm khác nhau, người ta có

thể đưa ra các khái niệm khác nhau, nhưng về bản chất tổ chức hoạt động là
sự tác động có định hướng, có mục đích, có kế hoạch và có hệ thống của chủ
thể tổ chức lên đối tượng tổ chức thông qua việc lập kế hoạch, chỉ đạo, tổ
chức và kiểm tra các hoạt động của tổ chức nhằm đạt được mục tiêu đã định.
Tổ chức hoạt động bao giờ cũng là tổ chức hoạt động của một hệ, một
đơn vị cụ thể; trong tổ chức hoạt động bao giờ cũng có các thành phần: chủ
thể tổ chức, mục tiêu tổ chức và đối tượng tổ chức; về bản chất, là cách thức
tác động (triển khai, điều khiển, chỉ huy) hợp quy luật khách quan của chủ thể
tổ chức, nhằm làm cho các công việc, nhiệm vụ đạt hiệu quả mong muốn và
đạt mục tiêu đề ra.
Tổ chức hoạt động có các chức năng cơ bản: Thứ nhất, chức năng lập
kế hoạch: là một quá trình từ việc xác định mục tiêu và hoạch định các biện
pháp thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Thứ hai, chức năng tổ chức: là đảm bảo
tất các các hoạt động và các tiến trình được sắp xếp, giúp cho một tổ chức có
thể đạt được các mục tiêu đề ra. Thứ ba, chức năng lãnh đạo, điều khiển: là
việc thực hiện các công việc lãnh đạo, điều hành, dẫn dắt, hỗ trợ của các nhà


15
quản lý đối với các nhân viên trong tổ chức nhằm đạt được mục tiêu trong kế
hoạch đã được xác lập. Thứ tư, chức năng kiểm tra: là việc thiết lập được các
tiêu chuẩn, quy trình kiểm tra, đo lường và phân tích các kết quả các nhà quản
lý xác định được là tổ chức có đạt được các mục tiêu đề ra hay khơng, và có
được liên kết chặt chẽ với việc lập kế hoạch hay không, và nếu khơng đạt
được thì phải cải thiện việc thực hiện nhằm tăng cơ hội đạt được mục tiêu.
1.1.2. Khái niệm tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo
Để có cơ sở tìm hiểu về tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo, thì
cũng cần làm rõ một số vấn đề về kiểm định chất lượng. Bởi lẽ, tự đánh giá là
một khâu, một nhiệm vụ của quá trình kiểm định chất lượng giáo dục.
Kiểm định chất lượng giáo dục trường là hoạt động đánh giá mức độ

đáp ứng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục do Bộ Giáo dục và Đào
tạo quy định đối với trường ở từng trình độ đào tạo.
Kiểm định chất lượng là một hệ thống tổ chức và biện pháp để đánh giá
và công nhận chất lượng đào tạo và các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo
theo các chuẩn mực được quy định. Nói cách khác, đó là quá trình đánh giá
bên ngồi dựa vào kết quả tự đánh giá của cơ sở giáo dục đại học hay ngành
đào tạo để cơng nhận mức độ đáp ứng mục đích, mục tiêu đào tạo của cơ sở
đó. Thực chất của kiểm định là: Chứng nhận cơ sở đào tạo đạt được những
tiêu chuẩn cơ bản về nguồn lực và các chỉ số chất lượng. Là sự bảo đảm với
công chúng rằng cơ sở đào tạo đạt được những chuẩn mực chất lượng cơ bản.
Những chương trình đào tạo và cơ sở đào tạo đạt chuẩn sau khi kiểm định sẽ
được thông báo công khai cho người học, người sử dụng lao động và toàn xã
hội như một bằng chứng bảo đảm cho chất lượng đào tạo của các cơ sở và các
chương trình đào tạo đó. Việc kiểm định chất lượng đào tạo của một cơ sở
đào tạo có nội dung quan trọng là đánh giá hệ thống quản lý chất lượng của
cơ sở đó và chứng minh được rằng hệ thống quản lý chất lượng là có hiệu


16
quả. Mục đích của kiểm định chất lượng khơng chỉ là đảm bảo nhà trường có
trách nhiệm đối với chất lượng đào tạo mà còn mang lại động lực cải tiến và
nâng cao chất lượng chương trình đào tạo cũng như chất lượng toàn trường.
Đặc trưng của kiểm định chất lượng là có thể được tiến hành ở phạm vi
trường hoặc chương trình đào tạo. Đây là một hoạt động hồn tồn tự nguyện.
Kiểm định chất lượng khơng thể tách rời công tác tự đánh giá. Các chuẩn mực
đánh giá rất mềm dẻo và được biến đổi cho phù hợp với sự mệnh của từng
trường. Kiểm định chất lượng cấp trường và kiểm định chương trình khơng
chỉ tập trung đánh giá các yếu tố đầu vào mà còn tập trung vảo cả quá trình
đào tạo và chất lượng học viên khi ra trường.
Trong kiểm định chất lượng giáo dục, quy trình diễn ra bao gồm các

bước: Một là, tự đánh giá. Hai là, đánh giá ngoài. Ba là, chứng nhận và cơng
bố kết quả kiểm định. Trong đó, tự đánh giá (self-evaluation) là khâu đầu tiên
trong tổng thể các hoạt động kiểm định chất lượng. Tự đánh giá chất lượng
giáo dục - đào tạo còn gọi là đánh giá trong, là hoạt động đánh giá nội bộ do
tập thể nhà trường thực hiện theo những quy trình và nội dung có tính chuẩn
mực. Tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo là một phần, một khâu của
quá trình đánh giá, cùng với đánh giá ngoài tạo nên đánh giá hoàn chỉnh.
Tự đánh giá là nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ sở đào tạo trong quá trình
hình thành, phát triển, nó được thực hiện trong q trình tổ chức kiểm định
các cơ sở đào tạo đại học theo chủ trương, chính sách, kế hoạch triển khai của
cơ quan có thẩm quyền.
Từ kết quả nghiên cứu các tài liệu, các văn bản pháp quy về công tác
kiểm định chất lượng ở các nhà trường đại học, có thể hiểu: Tự đánh giá là
quá trình các nhà trường đại học căn cứ vào bộ tiêu chuẩn kiểm định chất
lượng giáo dục để tiến hành tự xem xét, nghiên cứu và báo cáo về tình trạng
chất lượng, hiệu quả các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, từ đó điều


17
chỉnh các nguồn lực và quá trình thực hiện nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo
đã đề ra.
Tự đánh giá có ý nghĩa quan trọng bởi vì nó chứng tỏ nếu nhà trường
làm được việc này là nhà trường có ý thức và khả năng thực hiện tính tự chủ và
tự chịu trách nhiệm của mình trong tồn bộ các hoạt động đào tạo, nghiên cứu
và dịch vụ xã hội theo chức năng mà cấp trên và xã hội giao cho nhà trường.
Tự đánh giá địi hỏi tính khách quan, trung thực và cơng khai. Các giải thích,
nhận định, kết luận đưa ra trong quá trình tự đánh giá phải dựa trên các thông
tin, minh chứng cụ thể, rõ ràng, đảm bảo độ tin cậy. Báo cáo tự đánh giá phải
bao quát đầy đủ các tiêu chí trong tiêu chuẩn đánh giá chất lượng nhà trường.
Mục đích của tự đánh giá là làm rõ thực trạng quy mô, chất lượng và

hiệu quả các hoạt động đào tạo, nghiên cứu và dịch vụ xã hội theo chức năng,
nhiệm vụ của nhà trường và phù hợp với tơn chỉ mục đích và sứ mạng của nhà
trường trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, nó
xác định và so sánh theo các tiêu chuẩn kiểm định Nhà nước hoặc hiệp hội đã
công bố xem đạt đến mức nào (cụ thể là đánh giá thực trạng các hoạt động tổ
chức quản lý và các điều kiện bảo đảm chất lượng cho đào tạo, nghiên cứu và
dịch vụ của nhà trường: từ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ cán bộ quản lí
và giáo viên, chương trình, giáo trình đào tạo... đến các nguồn kinh phí và dịch
vụ học viên xem đạt đến mức nào của các tiêu chuẩn địi hỏi).
Q trình tự đánh giá cũng xác định rõ tầm nhìn, các điểm mạnh, điểm
yếu, thời cơ, thách thức của cơ sở giáo dục đào tạo và đề xuất ra các chiến
lược, kế hoạch, biện pháp nhằm từng bước nâng cao chất lượng giáo dục-đào
tạo, nghiên cứu khoa học và dịch vụ của cơ sở đào tạo liên tục phát triển. Kiến
nghị với các cơ quan có trách nhiệm và thẩm quyền như bộ chủ quản hay lãnh
đạo địa phương chỉ đạo và cung cấp các biện pháp hỗ trợ cho nhà trường không
ngừng mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của mình.


18
Tự đánh giá có ưu điểm là do chính những thành viên của nhà trường
trực tiếp thực hiện. Họ là những người hiểu rõ trường đại học hay chương trình
đào tạo của họ hơn ai hết. Nhưng tự đánh giá thường thiếu khách quan và do
những người không chuyên thực hiện. Ngược lại, đánh giá đồng nghiệp hay
đánh giá bên ngồi là một q trình nhằm làm tăng thêm giá trị của kết quả tự
đánh giá. Đánh giá đồng nghiệp do các chuyên gia tốt nhất trong cùng một lĩnh
vực chun mơn triển khai thực hiện. Q trình đánh giá đồng nghiệp nhằm
làm sáng tỏ thêm những vấn đề chưa được đề cập đầy đủ trong báo cáo tự đánh
giá và nhằm tăng thêm tính giá trị của chính bản báo cáo tự đánh giá. Một biện
pháp để kiểm soát tính trung thực của báo cáo tự đánh giá và báo cáo của đoàn
chuyên gia đánh giá bên ngoài là công bố công khai hai báo cáo này trên các

thông tin đại chúng.
1.1.3. Khái niệm về tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo
dục - đào tạo ở trường đại học
Từ những khái niệm về tổ chức, tổ chức hoạt động và khái niệm tự
đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo, có thể đưa ra quan niệm về tổ chức
hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo như sau: Tổ chức hoạt
động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo là sự tác động có định
hướng, có mục đích và có hệ thống của chủ thể đối với q trình tự xem xét,
nghiên cứu trên cơ sở các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành thông qua việc lập kế hoạch, triển khai, điều
khiển, thực thi và kiểm tra nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động tự đánh giá
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo.
Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở các
trường đại học là một khâu rất quan trọng trong quá trình quản lý chất lượng
giáo dục. Thông qua hoạt động này nhằm giúp các nhà quản lý, chỉ huy rà
soát, xem xét, đánh giá thực trạng giáo dục - đào tạo của cơ sở đào tạo, từ đó
để điều chỉnh mục tiêu, kế hoạch đào tạo cho những năm tiếp theo.


19
Mục đích của tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào
tạo là nhằm điều khiển, hướng dẫn quá trình tự đánh giá đạt tới mục đích
đúng với quy trình, đạt được mục tiêu theo những tiêu chí, tiêu chuẩn đã xác
định. Trên cơ sở đó xác định và so sánh theo các tiêu chuẩn kiểm định của
Nhà nước đã công bố xem đạt được đến mức nào. Từ đó, xác định rõ tầm
nhìn, các điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ, thách thức của cơ sở đào tạo và đề
xuất ra các chiến lược, kế hoạch, biện pháp nhằm từng bước nâng cao chất
lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học.
Chủ thể tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở các
trường đại học là Thủ trưởng nhà trường, cơ quan Khảo thí và Đảm bảo chất

lượng giáo dục - đào tạo, các cơ quan chức năng, đơn vị và các khoa giáo viên.
Đối tượng của tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào
tạo ở các trường đại học là việc xác định, tổ chức thực hiện quy trình tự đánh
giá chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường và hoạt động của các lực
lượng tham gia vào hoạt động tự đánh giá.
Phương thức tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào
tạo là tổng hợp các cách thức, biện pháp tác động đến toàn bộ các hoạt động
giáo dục của các trường đại học, nhằm thực hiện có chất lượng hoạt động giáo
dục theo mục tiêu giáo dục- đào tạo đã đặt ra.
Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở các trường
đại học đòi hỏi sự nghiêm túc, chặt chẽ, tự giác, khách quan của mọi thành viên
các cơ quan, ban, ngành trong nhà trường để xem xét lại quá trình tổ chức các
hoạt động giáo dục và kết quả của công tác giáo dục trong thời gian qua. Tổ
chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo là cơ hội tốt để mọi cán
bộ, giảng viên, nhân viên đánh giá đúng chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà
trường, qua đó, rút ra được những điểm mạnh, điểm yếu, những vấn đề còn bất
cập cần khắc phục để từ đó đề ra các mục tiêu quản lý phù hợp hơn.


20
Tính chất tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo của
nhà trường là hoạt động thường xun, liên tục, địi hỏi nhiều cơng sức, thời
gian, có sự tham gia của nhiều bộ phận, cá nhân trong nhà trường. Khi tổ chức
hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục địi hỏi tính khách quan, trung thực và
cơng khai. Các giải thích, nhận định, kết luận đưa ra trong báo cáo tự đánh giá
phải dựa trên các số liệu cụ thể, rõ ràng, đảm bảo độ tin cậy, bao quát đầy đủ
trong các tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo.
1.2. Nội dung tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục đào tạo ở các trường đại học
Trong tồn bộ q trình tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo thì vấn
đề chính là phát huy một cách tối đa mọi tiềm năng, trí tuệ, sự năng động, sáng

tạo, tính tích cực hố của chủ thể và đối tượng quản lý giáo dục, cũng chỉ có như
thế thì chất lượng hoạt động tự đánh giá mới thực sự có hiệu quả; đúc rút ra được
những kinh nghiệm quý giá của quản lý hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo
dục - đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Nhờ thông qua
tự đánh giá mà chủ thể quản lý ở nhà trường biết được hiện trạng chất lượng
giáo dục - đào tạo của mình đang như thế nào cả về ưu điểm và hạn chế, khuyết
điểm. Từ đó, đề ra những phương cách cải tiến, nâng cao chất lượng các hoạt
động đào tạo, đồng thời cung cấp căn cứ để đăng ký kiểm định chất lượng đào
tạo nhằm xác định mức độ đáp ứng mục tiêu đào tạo đã đề ra.
Từ mục tiêu quản lý, chủ thể là thủ trưởng nhà trường; lãnh đạo, chỉ
huy các phòng, ban, khoa, đơnvị quản lý học viên, sinh viên; đặc biệt là Hội
đồng tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường thực hiện việc
xây dựng nội dung, kế hoạch, phương pháp quản lý; kiểm tra, đánh giá một
cách khách quan, khoa học, đồng bộ và có tính khả thi, đồng thời bảo đảm các
điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật, các trang thiết bị, đầu tư về tài lực, vật
lực nhằm gia tăng thúc đẩy quá trình tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo
đạt được hiệu quả cao.


21
Tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở trường
đại học là trách nhiệm của các cấp quản lý, được thực hiện trong quy trình tổ
chức kiểm định chất lượng trường theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, bộ chủ quản nhằm mục đích để kiểm sốt chất lượng đào tạo, trên cơ sở
đó để nâng cao chất lượng cơng tác giáo dục - đào tạo của nhà trường. Nội
dung tổ chức hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục- đào tạo ở trường đại
học bao gồm:
1.2.1. Xây dựng kế hoạch tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo
Để tổ chức thực hiện được hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục thì
việc xây dựng kế hoạch là hành động đầu tiên của người quản lí, là việc làm

cho tổ chức phát triển theo kế hoạch. Trong quản lí, đây chính là căn cứ mang
tính pháp lí quy định hành động của cả tổ chức.
Kế hoạch tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo là do Hội đồng tự
đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo xây dựng nhằm sử dụng có hiệu quả
thời gian và các nguồn lực của nhà trường để đảm bảo đạt được mục đích đề ra.
Kế hoạch tự đánh giá sau khi thông qua Hội đồng tự đánh giá phải được Giám
đốc (Hiệu trưởng) phê chuẩn. Trong kế hoạch tự đánh giá chất lượng giáo dục đào tạo phải thể hiện được mục đích, phạm vi, nội dung tự đánh giá của nhà
trường.
Mục đích của tự đánh giá là nhằm đảm bảo, nâng cao chất lượng đào tạo
và đăng ký kiểm định chất lượng với Bộ Giáo dục và Đào tạo, bộ chủ quản;
khảo sát, đánh giá thực trạng đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động đào tạo,
nghiên cứu khoa học, cơ sở vật chất và các vấn đề liên quan khác tại nhà
trường. Từ đó, xây dựng kế hoạch hành động để đảm bảo các nguồn lực nhằm
đáp ứng các tiêu chuẩn trường đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quy
định; xây dựng văn hoá chất lượng trong nhà trường; làm cho mọi cán bộ,


22
giảng viên, học viên, sinh viên, công nhân viên đều xác định rõ trách nhiệm
của bản thân trong việc nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Yêu cầu tự đánh giá, các cơ quan, đơn vị, nhóm chuyên trách và cá nhân
căn cứ vào chức trách, nhiệm vụ triển khai công tác tự đánh giá tại cơ quan,
đơn vị mình; lập các báo cáo theo yêu cầu và kế hoạch của Hội đồng tự đánh
giá; việc báo cáo tự đánh giá phải đảm bảo phân tích, nhận định, trên cơ sở
các thông tin và minh chứng chỉ ra được thực trạng những điểm mạnh, những
mặt còn tồn tại, nguyên nhân và kế hoạch hành động. Do vậy, yêu cầu các cơ
quan, đơn vị, nhóm cơng tác khi tự đánh giá phải khách quan, đúng thực chất.
Phạm vi tự đánh giá là đánh giá một cách tổng thể các hoạt động của nhà
trường trong 5 năm trở lại đây theo bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng trường
Đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các quy định, hướng dẫn tự đánh giá

của Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục.
Nội dung của tự đánh giá là căn cứ vào bộ tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng giáo dục trường đại học, ban hành kèm theo Quyết định số
65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 11 năm 2007 và Thông tư số
37/2012/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 65/2007/QĐBGDĐT ngày 01 tháng 11 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
và các tài liệu hướng dẫn khác, bao gồm 10 tiêu chuẩn với 61 tiêu chí.
1.2.2. Tổ chức, phối hợp, sử dụng các lực lượng cho hoạt động tự
đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo ở trường đại học
Tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo bao gồm nhiều lực lượng ở
các bộ phận khác nhau và việc thành lập thành Hội đồng tự đánh giá do Giám
đốc (Hiệu trưởng) quyết định thành lập. Các thành viên trong Hội đồng được
phân chia thành các nhóm cơng tác và được phân chia phụ trách tự đánh giá
các nhóm tiêu chí khác nhau. Chính vì vậy việc phối hợp, sử dụng các lực


23
lượng tham gia hoạt động tự đánh giá là rất quan trọng. Người quản lý tổ chức,
sử dụng lực lượng tham gia vào hoạt động tự đánh giá cần coi trọng quản lý
việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi cá nhân, bộ phận trong tổ chức,
phối hợp thực hiện cơng tác tự đánh giá. Trong đó:
Hội đồng tự đánh giá có chức năng triển khai tự đánh giá và tư vấn cho
Giám đốc (Hiệu trưởng) về các biện pháp nâng cao chất lượng các hoạt động của
nhà trường. Hội đồng tự đánh giá có các nhiệm vụ phổ biến chủ trương về việc
triển khai tự đánh giá; giới thiệu quy trình tự đánh giá, trao đổi kinh nghiệm tự
đánh giá và yêu cầu các đơn vị, cá nhân trong trường phối hợp thực hiện.
Để hoạt động tự đánh giá chất lượng giáo dục - đào tạo đạt chất lượng
nhà quản lý lựa chọn được các thành viên Hội đồng có phẩm chất, năng lực, có
kinh nghiệm trong công tác giáo dục- đào tạo. Đặc biệt, khi phân cơng các
nhóm cơng tác cần phải bố trí những người đang phụ trách đúng mảng công

việc mà họ đang làm, điều đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình thu thập
thơng tin minh chứng.
Các uỷ viên Hội đồng tự đánh giá có nhiệm vụ thực hiện và chịu trách
nhiệm về những công việc do Chủ tịch Hội đồng phân công.
Giúp việc cho Hội đồng tự đánh giá là Ban thư ký do trưởng đơn vị (bộ
phận) chuyên trách về đảm bảo chất lượng làm trưởng ban. Thành viên Ban
thư ký bao gồm các cán bộ của đơn vị (bộ phận) chuyên trách về đảm bảo
chất lượng và các cán bộ khác do Hội đồng đề cử. Các thành viên của Ban thư
ký được tổ chức thành các nhóm cơng tác chun trách (gọi là nhóm cơng
tác). Mỗi nhóm cơng tác có 4 - 5 người, phụ trách 1-2 tiêu chuẩn và do một
thành viên của Hội đồng phụ trách. Mỗi thành viên của Ban thư ký có thể
tham gia khơng q 2 nhóm cơng tác chun trách. Các đơn vị (bộ phận) liên
quan khác trong trường có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ các nhóm cơng tác
triển khai tự đánh giá.


24
Ban thư kí có nhiệm vụ giúp đỡ Hội đồng tự đánh giá trong tổ chức
hoạt động tự đánh giá và tổng hợp báo cáo tự đánh giá của các nhóm. Ban thư
ký có vai trị quan trọng trong thu thập và chuẩn bị các tài liệu cho các giai
đoạn tự đánh giá: thu thập minh chứng, thẩm định báo cáo tiêu chí, hồn thiện
báo cáo tự đánh giá, thẩm định báo cáo tự đánh giá. Chọn người vào ban thư
kí khơng chỉ là người có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình mà cịn phải có năng
lực tổ chức và năng lực soạn thảo văn bản.
Cần có sự phối hợp giữa các nhóm chun trách trong q trình tự đánh
giá, các buổi thảo luận chung giữa các nhóm chuyên trách, giữa các nhóm
chuyên trách với Hội đồng tự đánh giá về các báo cáo tiêu chí/tiêu chuẩn.
Hội đồng tự đánh giá được phép thuê chuyên gia tư vấn giúp Hội đồng
triển khai hoạt động tự đánh giá. Chuyên gia tư vấn phải có trình độ thạc sĩ trở
lên, có hiểu biết sâu về đảm bảo và kiểm định chất lượng giáo dục, tự đánh giá

và các kỹ thuật cần thiết cho tự đánh giá. Chuyên gia tư vấn có nhiệm vụ trong
quá trình triển khai tự đánh giá: Một là, tư vấn lựa chọn minh chứng thích hợp:
chuyên gia tư vấn hướng dẫn tìm minh chứng, giúp khẳng định minh chứng
hợp lí hay chưa hợp lí hoặc các minh chứng gián tiếp có thể chấp nhận được.
Hai là, hồn thiện các báo cáo tiêu chí: chuyên gia tư vấn sẽ góp ý cho bản
phác thảo báo cáo tiêu chí đầu tiên. Giúp người viết báo cáo tiêu chí viết đúng
các yêu cầu của một báo cáo tiêu chí. Cần lưu ý rằng, chun gia tư vấn khơng
nắm được nội tình của cơ sở đào tạo, chỉ có thể góp ý để viết đúng yêu cầu của
một báo cáo tiêu chí. Vì vậy, tốt nhất là nên tổ chức thẩm định báo cáo tiêu chí
chung có mặt tất cả các thành viên hội đồng tự đánh giá và ban thư kí. Vì qua
đó các thành viên mới góp ý được đầy đủ, chính xác hiện trạng, điểm mạnh,
điểm tồn tại và kế hoạch khắc phục hợp lí, đúng đắn cho từng báo cáo tiêu chí.
Cũng qua đó mọi thành viên đều biết viết thế nào là đạt yêu cầu, hiện trạng cơ
sở mình đã đáp ứng u cầu của tiêu chí đến đâu, điểm mạnh là gì, điểm yếu là


×