Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Luận án tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa mắt trong kho tàng ca dao người việt và thơ ca việt nam 1945 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 177 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
---------------

ĐỖ THỊ HƯƠNG BƯỞI

TÍN HIỆU THẨM MỸ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA “MẮT”
TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT
VÀ THƠ CA VIỆT NAM 1945 -1975

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----------------

ĐỖ THỊ HƯƠNG BƯỞI

TÍN HIỆU THẨM MỸ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA “MẮT”
TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT
VÀ THƠ CA VIỆT NAM 1945-1975
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Trọng Phiến


HÀ NỘI - 2021


i

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nghiên cứu, số liệu trình bày trong luận án là trung
thực, những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai cơng
bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả luận án

Đỗ Thị Hương Bưởi


ii

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Tổ Ngôn ngữ, Khoa Ngữ văn,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã chỉ bảo, hướng dẫn, góp ý tận tình đối với tơi
trong q trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Trân trọng cảm ơn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho tôi được học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tơi xin chân thành bày tỏ lịng kính trọng và tri ân sâu sắc đến Thầy
giáo - Giáo sư Tiến sĩ Hoàng Trọng Phiến, người Thầy đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ, động viên tơi trong q trình nghiên cứu và hồn thành luận án.
Tơi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc tới các Thầy, Cơ là các nhà nghiên
cứu chuyên ngành Ngôn ngữ học, hiện đang công tác tại Hội Ngôn ngữ học Việt
Nam, Viện Ngôn ngữ học - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Khoa Ngôn ngữ học Trường Đại học KHXH & NV - ĐHQGHN, Viện Từ điển học và Bách khoa thư

Việt Nam… đã quan tâm và có những ý kiến quý báu giúp tơi hồn thành luận án.
Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân yêu trong gia đình, đồng
nghiệp đã động viên, khích lệ, giúp đỡ tơi trong suốt thời gian qua.
Mặc dù bản thân tôi đã rất nỗ lực, cố gắng, nhưng khó tránh khỏi những hạn
chế, thiếu sót, vì vậy, tơi kính mong Q Thầy, Cơ đóng góp ý kiến để luận án được
hồn thiện hơn.
Hà Nội, 15 tháng 02 năm 2021
Người viết

Đỗ Thị Hương Bưởi


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii
MỤC LỤC ................................................................................................................. iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN .................................................v
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................1
I. Lý do chọn đề tài .......................................................................................................1
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................2
III. Đối tượng, ngữ liệu nghiên cứu .............................................................................2
IV. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................4
V. Những đóng góp của luận án...................................................................................7
VI. Bố cục của luận án .................................................................................................8
NỘI DUNG................................................................................................................................... 9
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN .... 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ...........................................................................9
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu về tín hiệu thẩm mỹ .....................................................9

1.1.2. Lịch sử nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ trong ca dao và thơ ca Việt Nam
1945 -1975 ...........................................................................................................19
1.2. Cơ sở lí luận.........................................................................................................23
1.2.1. Lý thuyết trường nghĩa ..............................................................................23
1.2.2. Lý thuyết tín hiệu thẩm mỹ ......................................................................35
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................................56
CHƯƠNG 2. KHẢO SÁT TÍN HIỆU THẨM MỸ THUỘC TRƯỜNG NGHĨA
“MẮT” TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT VÀ THƠ CA VIỆT NAM
1945 - 1975 .................................................................................................................................. 58
2.1. Dẫn nhập ..............................................................................................................58
2.2. Thống kê, phân loại THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao
người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975..............................................................58


iv

2.3. Hình thức ngơn ngữ biểu đạt của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho
tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975 ...........................................64
2.3.1. Hằng thể của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao
người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975 .........................................................65
2.3.2. Các biến thể của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao
người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 -1975 ........................................................66
2.4. Tổng hợp kết quả khảo sát ..................................................................................78
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................................84
CHƯƠNG 3. Ý NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA TÍN HIỆU THẨM MỸ “MẮT”
TRONG KHO TÀNG CA DAO NGƯỜI VIỆT VÀ THƠ CA VIỆT NAM
1945 -1975 .......................................................................................................... 86
3.1. Dẫn nhập ..............................................................................................................86
3.2. Nghĩa từ vựng (nghĩa gốc) của mắt ..........................................................................86
3.3. Sơ lược về ý nghĩa biểu trưng của THTM mắt trong đời sống văn hóa, văn học 87

3.4. Ý nghĩa biểu trưng của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao
người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975..............................................................93
3.4.1. THTM “mắt” biểu trưng cho đặc điểm hình thức của con người.............94
3.4.2. THTM “mắt” thể hiện đời sống tâm hồn của con người ........................102
3.4.3. THTM “mắt” biểu trưng cho trí tuệ của con người ................................141
Tiểu kết chương 3 .....................................................................................................147
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 148
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CƠNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ................................................................................................................................. 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................... 152
PHỤ LỤC .............................................................................................................................. PL-1


v

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
1

BTKH

Biến thể kết hợp

2

BTTV

Biến thể từ vựng

3


BTQH

Biến thể quan hệ

4

CBH

Cái biểu hiện

5

CĐBH

Cái được biểu hiện

6

HT

Hằng thể

7

KH

Kí hiệu

8


TH

Tín hiệu

9

THNN

Tín hiệu ngơn ngữ

10 THTM

Tín hiệu thẩm mỹ

11 THVC

Tín hiệu văn chương

12 Ts

Tần số xuất hiện

13 YNBT

Ý nghĩa biểu trưng

14 YNTM

Ý nghĩa thẩm mỹ


15 VD

Ví dụ


1
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Tín hiệu thẩm mỹ là một trong những phương tiện biểu hiện quan trọng nhất
của hoạt động sáng tạo nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng. Với tư cách là một
phương tiện đặc thù nhằm truyền tải những thông tin thẩm mỹ, ngôn ngữ trong tác
phẩm văn chương vừa được sử dụng như những THTM, vừa là cái biểu đạt cho các
THTM. Đến lượt mình, tác phẩm văn chương cũng chính là THTM.
Nghiên cứu THTM là một công việc cần thiết đối với người làm cơng tác
nghiên cứu văn học nói chung, nghiên cứu ngơn ngữ nói riêng. Tác phẩm văn chương
tồn tại với tư cách là một hệ thống tín hiệu. Để hiểu và đánh giá đúng đắn, có cơ sở
khoa học một tác phẩm văn học cụ thể rất cần sự khảo sát, đánh giá hệ thống các tín
hiệu thẩm mỹ trong tác phẩm đó.
Nghiên cứu THTM đã có nhiều cơng trình, riêng THTM thuộc trường nghĩa
“mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975 chưa được
nghiên cứu. Lựa chọn THTM “mắt” làm đối tượng nghiên cứu vì mắt là nét đẹp tiêu
biểu của người con gái Việt Nam, mắt gợi tả tâm hồn, tình cảm của con người Việt
Nam trong ca dao và thơ ca, ghi lại đặc điểm tâm hồn, tư duy văn hóa văn học của con
người Việt Nam ở thời kì xã hội phong kiến và xã hội hiện đại; mắt trở thành một hình
tượng thẩm mỹ đã đi vào tâm thức con người Việt Nam như một thứ cửa sổ chiếu dọi
tâm hồn con người.
2. Về trường từ vựng - ngữ nghĩa, nhiều vấn đề đã được các nhà nghiên cứu
quan tâm, giải quyết: các từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể người, từ chỉ tên riêng của người,
chỉ quan hệ thân tộc, xưng hô, chỉ y phục; chỉ sự vật, chỉ động vật, thực vật; chỉ hiện
tượng tự nhiên, khí tượng, chỉ hướng vận động; chỉ màu sắc…

Một số cơng trình khơng chỉ dừng ở trong phạm vi ngơn ngữ, mà cịn xem xét
các mối tương giao giữa ngơn ngữ học với sử học, văn hóa học, xã hội học… Một số
cơng trình đã quan tâm nghiên cứu khả năng hành chức của một trường nghĩa trong
thực tế sử dụng ngơn ngữ, trong tác phẩm văn học. Đó là các vấn đề như: các tính từ
chỉ màu sắc trong thơ Tố Hữu, các từ chỉ hiện tượng tự nhiên - khí tượng trong ca
dao và thơ Nguyễn Trãi, chỉ không gian trong ca dao, chỉ cây cối trong thơ Việt
Nam, trường nghĩa “lửa”, “nước” trong tiếng Việt…, chỉ “động vật” trong truyện
đồng thoại Việt Nam…


2
Nghiên cứu trường nghĩa trong thực tế sử dụng ngôn ngữ (trong đời sống, trong
tác phẩm văn học) cũng là xem xét ngôn ngữ trong hoạt động hành chức để thấy được
giá trị của ngôn ngữ đối với đời sống con người.
3. Từ cách tiếp cận ngôn ngữ học, chúng tôi chọn đề tài THTM thuộc trường
nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975 nhằm
phát hiện giá trị ý nghĩa thẩm mỹ “mắt” trong tri nhận mang tính tư duy văn hóa dân tộc,
trong đời sống tâm hồn dân tộc ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Thực hiện luận án này sẽ
đóng góp ngữ liệu cụ thể vào lý thuyết THTM và gợi mở cách phân tích ngơn ngữ đối
với việc giảng dạy ngôn ngữ văn chương trong nhà trường hiện nay.
II. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Mục đích nghiên cứu
- Vận dụng lý thuyết về THTM để khảo sát tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường
nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975 góp
phần tìm hiểu đặc điểm sử dụng ngơn ngữ, thi pháp ca dao, thi pháp thơ ca Việt
Nam 1945-1975.
- Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp vào việc giảng dạy, học tập ca dao, thơ ca
Việt Nam trong nhà trường phổ thông. Những năm qua, cùng với yêu cầu chung của
công cuộc cải cách giáo dục, những yêu cầu về việc đổi mới phương pháp giảng dạy,
phân tích tác phẩm văn học cũng được đặt ra cấp bách trong nhà trường phổ thông.

2. Nhiệm vụ
Luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau đây:
- Hệ thống hóa, có phản biện các lý thuyết về trường nghĩa, tín hiệu thẩm mỹ có
liên quan đến đề tài THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người
Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975.
- Thống kê, phân loại THTM thuộc trường nghĩa “mắt” kho tàng ca dao người
Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975, xác định tần số xuất hiện, phân tích các cách kết
hợp của các nhóm THTM hằng thể và các biến thể.
- Tìm hiểu ý nghĩa thẩm mỹ của THTM “mắt”, chỉ ra được nét thống nhất và
khác biệt về cách sử dụng và ý nghĩa thẩm mỹ của THTM thuộc trường nghĩa “mắt”
trong ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975.
III. Đối tượng, ngữ liệu nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca
Việt Nam 1945-1975.


3
Trường nghĩa “mắt” là một trong những trường nghĩa hoạt động rất phong phú
trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Ở trường nghĩa này, chúng tôi chỉ tập trung vào tìm
hiểu các từ có chức năng kiến tạo nghĩa thẩm mĩ được dùng để biểu thị các hình
tượng nghệ thuật trong ca dao và thơ ca. Đây là một trường từ vựng ngữ nghĩa có số
lượng nhiều trong các tiểu trường chỉ cơ thể người trong tiếng Việt và có các nghĩa
biểu trưng phong phú.
Khơng phải mọi tín hiệu ngơn ngữ thuộc trường nghĩa “mắt” nào cũng được đưa
vào thơ đều trở thành chất liệu thơ, thành THTM. Ngay những THTM xuất hiện trong
văn chương, tần suất, ý nghĩa của chúng cũng khác nhau ở từng giai đoạn, từng tác
giả, từng thời kì sáng tác của cùng một tác giả. Vì thế, hàm lượng giá trị thẩm mỹ của
chúng khơng đồng đều nhau và trong tiến trình vận động chung của cả hệ thống, các
đại lượng trong bản thân mỗi THTM ấy cũng không ngừng biến đổi. Đối tượng khảo

sát có tính đa dạng, phức tạp nên chúng tơi chỉ tập trung vào những đơn vị có tần suất
cao nhất trong toàn bộ kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945-1975.
Và, ở thơ ca Việt Nam 1945 -1975, chúng tôi chỉ chọn tác phẩm thơ của một số nhà
thơ tiêu biểu.
3. Ngữ liệu nghiên cứu
Tài liệu khảo sát về ca dao là cuốn Kho tàng ca dao người Việt do Nguyễn
Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên (1995) [116] gồm bốn tập. Ngồi ra chúng tơi
cịn tham khảo thêm một số tài liệu khác như: Hợp tuyển ca dao Việt Nam của Hội văn
hoá dân gian Việt Nam, Tục ngữ - Ca dao - Dân ca Việt Nam do Vũ Ngọc Phan chủ
biên (2009) [74]. Ngữ liệu có được là 1.122/11.825 bài có tín hiệu “mắt”.
Tài liệu khảo sát về thơ Việt Nam 1945 - 1975 là cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ
XX, phần thơ ca Việt Nam 1945-1975, quyển bốn, tập VII [117], VIII [118], IX [119]
của nhóm tác giả PGS.TS. Lưu Khánh Thơ (chủ biên), PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp,
PGS.TS. Nguyễn Bích Thu, ThS. Đồn Ánh Dương biên soạn và tuyển chọn. Trong
đó, luận án sẽ tập trung nghiên cứu THTM thuộc trường nghĩa “mắt” của các tác giả
tiêu biểu cho thời kỳ này là: Tố Hữu, Quang Dũng, Hồng Cầm, Vũ Cao, Nơng Quốc
Chấn, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy. Về tiêu chí lựa chọn, chúng tôi hướng đến tác giả
ở các phạm vi khác nhau: có tác giả tiêu biểu cho cả hai thời kỳ kháng chiến chống
Pháp, chống Mỹ, có tác giả trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, có tác giả là
gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ chống Mỹ, có tác giả là gương mặt đại diện cho
đồng bào dân tộc thiểu số. Ngữ liệu thơ có 306 bài trong tổng số 415 bài thơ có xuất
hiện tín hiệu “mắt”.


4
IV. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này chúng tơi vận dụng các phương pháp chính sau đây:
1- Phương pháp phân tích thành tố nghĩa: luận án vận dụng phương pháp này
nhằm nhận diện tín hiệu “mắt” trong tổ chức câu ca dao, thơ ca đồng thời làm cơ sở
cho việc phân tách THTM thuộc trường nghĩa “mắt” thành các THTM trong các tiểu

trường. Ngoài ra, đây cũng là phương pháp được vận dụng để phân tích các hướng
chuyển nghĩa của từ của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người
Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
2 - Phương pháp phân tích trường nghĩa: áp dụng lí thuyết trường vào việc
nghiên cứu nghĩa, là biểu hiện của xu hướng ngôn ngữ học hiện đại nhằm xác định hệ
thống ngữ nghĩa của ngôn ngữ. Trong luận án này, phương pháp phân tích trường
nghĩa sẽ được bàn kĩ hơn trong Chương I khi chúng tôi làm rõ các lí thuyết về trường
nghĩa. Phương pháp phân tích trường nghĩa được vận dụng trước hết nhằm xác định
các đơn vị ngôn ngữ thuộc trường nghĩa “mắt”, nhận diện từ ngữ trung tâm, ngoại vi
của mỗi tiểu trường. Trên cơ sở đó tìm ra đặc điểm hoạt động cũng như ý nghĩa thẩm
mỹ của THTM “mắt” trong ca dao và thơ ca; đồng thời phát hiện mối liên hệ giữa
nghĩa gốc và nghĩa chuyển của “mắt” (còn gọi là nghĩa gốc và nghĩa phái sinh).
3 - Phương pháp phân tích ngơn cảnh
Ngơn cảnh là một mơi trường phi ngơn ngữ trong đó ngơn ngữ được sử dụng.
Các nhà ngơn ngữ phân biệt hai loại ngơn cảnh: ngơn cảnh tình huống và ngơn cảnh
văn hóa. Ngơn cảnh tình huống là ngôn cảnh của một hiện tượng ngôn ngữ, của một
văn bản, của một trường hợp cụ thể của ngôn ngữ. Ngơn cảnh văn hóa là ngơn cảnh
của ngơn ngữ với tư cách là một hệ thống các quan hệ được lựa chọn. Ngơn cảnh tình
huống là thế giới xã hội và tâm lí mà trong đó, ở một thời điểm nhất định người ta sử
dụng ngơn ngữ. Nó có thể bao gồm sự hiểu biết về vị trí, thời gian và không gian, sự
hiểu biết về phép xã giao trong xã hội và sự hiểu biết về mã ngôn ngữ được dùng (nói
hoặc viết), sự hiểu biết về nội dung giao tiếp và bối cảnh giao tiếp (trường học, nhà
máy, phịng thí nghiệm…). Ngơn cảnh tình huống bao gồm cả sự chấp nhận ngầm của
người nói và người nghe về tất cả các quy ước, các niềm tin và các tiền đề được coi là
đương nhiên của các thành viên trong cộng đồng. Ngơn cảnh văn hóa bao gồm hàng
loạt nhân tố văn hóa như phong tục, tập quán, chuẩn tắc hành vi, quan niệm giá trị, sự
kiện lịch sử, những tri thức về tự nhiên và xã hội, chính trị và kinh tế. Tiền ước là
những hiểu biết chung về lịch sử, văn hóa, tập quán, khả năng lĩnh hội thơng tin bằng
tiếng nước ngồi (hoặc tiếng mẹ đẻ) của những người tham gia giao tiếp. Tri thức nền



5
là sự hiểu biết và khả năng cảm nhận các hiện tượng văn hóa của cả hai bên người
nói và người nghe, là cơ sở đảm bảo thành công cho việc giao tiếp bằng ngôn ngữ
[30, tr.44].
M.A.K. Halliday cho rằng sự lựa chọn hình thức ngơn ngữ bị chi phối bởi mơi
trường văn hóa. Vì thế, ơng kết hợp ngơn ngữ với xã hội để nghiên cứu. Theo ông biến
thể ngơn ngữ có liên quan đến ngơn cảnh … nghĩa của từ và nghĩa của câu bị quy định
bởi ngôn cảnh. Ngôn cảnh lại chi phối bởi chế độ xã hội. Chế độ xã hội chi phối hệ
thống hành vi, trong đó có hành vi ngơn ngữ [Dẫn theo 30, tr.45].
Phương pháp phân tích ngơn cảnh được vận dụng trong luận án nhằm giải thích
nghĩa hàm ẩn cịn gọi là nghĩa biểu trưng của “mắt”. Ở đây chúng tôi dùng thao tác
phân tích theo trục hệ hình (thay thế) và trục kết hợp. Từ đó xem xét nghĩa ẩn dụ của
THTM “mắt”.
Phương pháp phân tích ngữ cảnh ngơn ngữ để tìm hiểu những biến thể quan
hệ của THTM “mắt” trong mỗi lần xuất hiện so với THTM hằng thể.
4 - Phương pháp miêu tả: là hệ thống những thủ pháp nghiên cứu được vận
dụng để thể hiện đặc tính của các hiện tượng ngôn ngữ trong một giai đoạn phát triển
nào đó.
Phương pháp miêu tả quan sát, miêu tả ngơn ngữ như một hệ thống - cấu trúc ở
mọi bình diện, cấp độ, thuộc tính…của các đơn vị ngơn ngữ, những mối liên hệ, quan
hệ, cách thức tổ chức và trật tự tôn ti… trên nguyên tắc: phân biệt đơn vị ngơn ngữ
(khách quan) và đơn vị phân tích (chủ quan do người nghiên cứu đặt ra).
Trong luận án này, phương pháp miêu tả được vận dụng để quan sát, miêu tả
THTM “mắt” với các đơn vị định danh cho mắt, các đặc tính của mắt, các mơ hình cấu
trúc ngôn ngữ của các biến thể kết hợp của mắt. Đây là phương pháp chính cùng với
phương pháp phân tích thành tố nghĩa để giải quyết các vấn đề của luận án. Từ những
nguồn ngữ liệu đã thu thập, chúng tơi tiến hành phân tích miêu tả đặc điểm ngữ nghĩa
và nghĩa biểu trưng của THTM thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng ca dao người
Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.

5 - Dựa trên các phương pháp nghiên cứu được vận dụng, luận án đã sử dụng
một số thủ pháp nghiên cứu sau:
- Thủ pháp thống kê: trong bất kì một cơng trình nghiên cứu nào có sử dụng
một khối lượng tư liệu lớn, người ta không thể bỏ qua việc xử lí các số liệu về mặt
thống kê toán học. Những khái niệm cơ bản cần được nắm vững khi dùng thủ pháp
này là: tần số, tần xuất, độ phân bố, độ dài văn bản, hạng… Số lần xuất hiện của một


6
yếu tố nào đó trong văn bản được khảo sát là tần số của yếu tố ấy. Đem tần số chia cho
tổng số các yếu tố của văn bản ta sẽ được xác suất của yếu tố đó. Khi so sánh hai
yếu tố với nhau, yếu tố nào có tần số lớn hơn thì có hạng lớn hơn. Độ phân bố dùng
để nghiên cứu tính phổ biến của một yếu tố, từ có độ phân bố lớn hơn là từ được
dùng rộng rãi hơn, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau hơn. Một từ xuất hiện với tần
số không cao nhưng được phân bố rộng rãi ở nhiều tác giả, nhiều tác phẩm vẫn quan
trọng hơn một từ có tần số cao nhưng chỉ tập trung ở một nhà văn, một tác phẩm hay
một thể loại.
Luận án đã dùng các thao tác thống kê nhằm phát hiện tần số xuất hiện và khả
năng hoạt động của mắt trong ca dao và thơ ca ở những văn cảnh xuất hiện cụ thể,
dưới dạng hằng thể, biến thể các tiểu trường, gồm các từ gọi tên mắt và các bộ phận
của mắt, các từ chỉ hoạt động trạng thái, tính chất của mắt; vận dụng các khái niệm tần
số, tần xuất, độ phân bố...
- Thủ pháp thay thế: thay thế một đơn vị ngôn ngữ bằng một đơn vị ngôn ngữ
khác cùng cấp độ trong khi cấu trúc vẫn giữ nguyên. Đây là một phép thử để xem xét
khi yếu tố biểu đạt này thay thế yếu tố khác trong cùng một cấp độ có làm thay đổi
hình thức biểu đạt khơng. Hai đơn vị ngơn ngữ có thể sử dụng trong những cấu trúc
tương tự, trong cùng ngữ cảnh và có cùng tiêu chí phân bố gọi là hai đơn vị có khả
năng thay thế cho nhau.
Trong luận án, thủ pháp thay thế được vận dụng khi nghiên cứu các mơ hình
cấu trúc, các kiểu kết hợp của THTM “mắt” để thấy được cách dùng THTM “mắt” có

sự phù hợp góp phần biểu đạt ý nghĩa thẩm mỹ trong các ngôn cảnh cụ thể.
- Thủ pháp phân loại, hệ thống hoá nhằm phân xuất các nhóm, các loạt đơn vị
ngơn ngữ và các phạm trù vốn có đối với đơn vị ngơn ngữ nào đó; bao gồm việc xác
định, phân chia, phân loại thành các nhóm, các loại, hệ thống con, hệ thống lớn các
đơn vị ngôn ngữ và cả việc xác định các phạm trù, các mặt, các thuộc tính của các đơn
vị này.
Trong luận án này, chúng tôi dùng thủ pháp phân loại, hệ thống hoá để phân
xuất THTM “mắt” thành các tiểu trường, các nhóm nhỏ (ví dụ: nhóm hằng thể, biến
thể từ vựng, biến thể kết hợp... để thuận lợi cho việc nghiên cứu khả năng hoạt động
của THTM “mắt” trong kho tàng ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
- Thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp: nguyên tắc chung của thủ pháp này là
phân chia cấu trúc phức tạp ra thành những bộ phận tối đa chủ yếu là ở hai phần: phần


7
hạt nhân và phần phụ thuộc, tức phần cơ bản và phần kèm theo. Phân tích thành tố trực
tiếp có giá trị đối với việc phân tích những kết cấu phức tạp cho nên nó được vận dụng
trước hết vào cú pháp
Thủ pháp phân tích thành tố trực tiếp được chúng tôi vận dụng trong việc
nghiên cứu kết cấu cú pháp trong các mơ hình cấu trúc là các kiểu kết hợp của THTM
“mắt”. Ở đây, tổ hợp của các từ, các nhóm từ có mối liên hệ trực tiếp với THTM
“mắt” được xem như một kết cấu. Mỗi mô hình kết cấu được thể hiện như một chuỗi
các đơn vị giữ vai trò nhất định trong ngữ pháp. Các bộ phận của mỗi mơ hình kết cấu
có thể là từ (định danh mắt hoặc các hoạt động, trạng thái của mắt) hoặc các nhóm từ,
các đơn vị nhỏ được hiểu là các thành tố trực tiếp của nó. Phân tích thành tố trực tiếp
khơng cho ta một bức tranh tĩnh về mơ hình cấu trúc các kiểu kết hợp của THTM
“mắt” mà cho ta một sự phân tích động, được xây dựng như một chuỗi các bước phân
tích mơ hình kết hợp của THTM “mắt”
- Ngồi ra, luận án còn sử dụng thao tác so sánh hai thể loại văn bản: ca dao
và thơ ca.

Có 2 loại so sánh thường được sử dụng trong nghiên cứu ngôn ngữ: (1) So
sánh bên trong 1 ngôn ngữ (đơn vị, phạm trù thuộc các cấp độ, bình diện khác
nhau…); (2) so sánh bên ngồi 2 hoặc nhiều hơn 2 ngơn ngữ. Trong luận án, chúng tôi
sử dụng chủ yếu loại so sánh bên trong 1 ngôn ngữ (đơn vị, phạm trù thuộc các cấp độ,
bình diện khác nhau…); ở cấp độ đơn vị từ vựng đối với những từ thuộc trường nghĩa
“mắt” trong hai loại hình văn học: văn học dân gian và văn học viết, trong kho tàng ca
dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
V. Những đóng góp của luận án
5.1. Về ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề về
chức năng ngôn ngữ, bản chất TH ngôn ngữ, trường nghĩa và THTM, ngôn ngữ văn
chương...
Đây cũng là cơng trình đầu tiên khảo sát cụ thể các đơn vị đại diện của trường
từ vựng - ngữ nghĩa “mắt” trong thơ ca dân tộc từ bình diện ngơn ngữ thơng thường
đến bình diện ngơn ngữ nghệ thuật, từ các ý nghĩa thông thường trong hệ thống, đến
các ý nghĩa nghệ thuật cụ thể, mới mẻ, sinh động.
5.2. Về ý nghĩa thực tiễn
Luận án đã chỉ ra những nghĩa biểu trưng của mắt - cửa sổ tâm hồn của người
Việt Nam trong sáng tạo ngôn ngữ nghệ thuật đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Luận


8
án cung cấp thêm ngữ liệu của THTM “mắt” vào việc nghiên cứu từ vựng - ngữ nghĩa
tiếng Việt và sự phát triển tư duy thẩm mỹ của con người Việt Nam.
Những kết quả đó cịn đóng góp vào việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập ca
dao, thơ ca Việt Nam trong nhà trường phổ thơng. Đặc biệt có thể coi những ngữ liệu,
những biện giải trong luận án như là những tham khảo cung cấp thêm cách nhìn mới từ
góc độ bản chất ngơn ngữ - văn hóa - nghệ thuật của các từ - THTM “mắt” giúp biên
soạn phần mục này trong một cuốn từ điển về Ngơn ngữ - Văn hóa - Dân tộc học.
VI. Bố cục của luận án

Căn cứ vào mục đích nghiên cứu và cách triển khai đề tài, luận án được kết cấu
thành ba chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận.
Chương 2: Khảo sát tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa “mắt” trong kho tàng
ca dao người Việt và thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
Chương 3: Ý nghĩa biểu trưng của tín hiệu thẩm mỹ thuộc trường nghĩa “mắt”
trong kho tàng ca dao người Việt và trong thơ ca Việt Nam 1945 - 1975.
- THTM “mắt” biểu trưng cho đặc điểm hình thức của con người.
- THTM “mắt” biểu trưng cho đời sống tâm hồn của con người.
- THTM “mắt” biểu trưng cho trí tuệ của con người.


9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu về tín hiệu thẩm mỹ
Gần đây vấn đề tín hiệu thẩm mỹ đã được nhiều học giả trong và ngồi nước
quan tâm nghiên cứu. Đã có một số cơng trình hướng đến việc nghiên cứu các THTM
trong tác phẩm văn học có tính xâu chuỗi trong hàng loạt tác phẩm, trong tiến trình
lịch sử văn học góp phần cho người đọc hình dung được đặc điểm hình thức, ngữ
nghĩa của THTM đó trong tiến trình lịch sử văn học cũng như đặc trưng văn hóa của
dân tộc được thể hiện qua việc sử dụng các THTM đó. Có thể kể đến các cơng trình
như: THTM chỉ khơng gian trong ca dao, hoa trong thơ Dương Thuấn, trăng trong thơ
Hàn Mặc Tử, cây trong thơ Việt Nam…
1.1.1.1. Các nghiên cứu về tín hiệu thẩm mỹ trên thế giới
Khái niệm tín hiệu thẩm mỹ (cịn gọi là ký hiệu thẩm mỹ) ra đời gắn với
khuynh hướng cấu trúc trong nghiên cứu mỹ học và nghệ thuật những năm giữa thế kỉ
XX với các cơng trình của Iu.A.Philipiep [50] , M.B.Khrapchenco [57]. Ngồi ra cịn

nhiều tác giả khác bàn đến THTM như: R. Jacobson [53], [54], [52]; R.C. Hjelmslev
[82]; R.Barther [9], Iu.M.Lotman [51], A.Belưi, V.I.Proopp, M.Bakhtin, B.X.Likhasôp,
E.Cassires, S.Langer, …
Cho đến nay, chúng tơi chưa tìm thấy một định nghĩa nào trọn vẹn và hồn
chỉnh về Tín hiệu thẩm mỹ (THTM). Thuật ngữ “aesthetic signal”, “signe esthetique”
được dịch là THTM và Kí hiệu thẩm mỹ (KHTM). Sử dụng KHTM có các tác giả:
M.B.Khrapchenco, Kasêvich, Cassirer, Langer… Các tác giả dùng THTM: Stêpanơp,
Philipiep…
Tuy nhiên, về tên gọi có thể khác nhau nhưng nội hàm khái niệm nhìn chung
đều thống nhất về chức năng. Đó là những yếu tố thuộc phương tiện biểu hiện của
nghệ thuật. Chúng dù có tính chất vật thể hay phi vật thể thì cũng có ý nghĩa thẩm mỹ
(YNTM) và việc sử dụng chúng phải nhằm mục đích thẩm mỹ.
Trước hết phải nói tới quan niệm của các nhà ngôn ngữ học tiêu biểu của thế kỉ
XX như R.Jakobson, R.Barthes, Yu.Lotman, Tz.Todorov, R.C.Hjelmslev… về
THTM. Vinogradop đã xem ngôn ngữ trong tác phẩm văn học như là một tổng thể các
tín hiệu thẩm mỹ, được cấu tạo lại từ ngơn ngữ chung. Vì vậy, những vấn đề bản chất
của ngôn ngữ nghệ thuật không tách rời những vấn đề của tín hiệu học và lí thuyết cấu
trúc - chức năng. Theo R.C.Hjelmslev [Dẫn theo 20, tr.441] nếu coi hệ thống tín hiệu


10
ngôn ngữ tự nhiên là hệ thống cơ sở (hệ thống tín hiệu thứ nhất) thì hệ thống ngơn ngữ
nghệ thuật là hệ thống tín hiệu thứ hai, được xây dựng trên cơ sở hệ thống thứ nhất, có
sự biến đổi về bản chất tín hiệu: hệ thống thứ nhất là hệ thống vật biểu (biểu nghĩa trực
tiếp), hệ thống thứ hai là hệ thống hàm nghĩa (biểu nghĩa gián tiếp). Như vậy, có thể
miêu tả bản chất tín hiệu học của ngôn ngữ nghệ thuật như sau:
Âm thanh
Cái biểu đạt: -------------------------------Ý nghĩa sự vật - lôgic
Ngôn ngữ nghệ thuật: -----------------------------------------------Cái được biểu đạt: Ý nghĩa thẩm mỹ
R.Jakobson trong Những vấn đề thi pháp học [52], đặc biệt là với bài viết Ngôn

ngữ học và thi học [54] đã bước đầu chỉ ra sự khác biệt về chức năng của tín hiệu ngơn
ngữ trong các phạm vi giao tiếp. R.Jakobson nhấn mạnh vào chức năng thơ (chức năng
thẩm mỹ) của ngôn ngữ như là “sự định hướng của thông báo (bằng các kí hiệu ngơn
ngữ) vào chính bản thân nó” [R.Jakobson, dẫn theo 20; tr.442] tạo nên đặc trưng của
hình thức biểu hiện mang tính thẩm mỹ. Trong bài nghiên cứu Thơ là gì [R.Jakobson,
dẫn theo 20; tr.442], R.Jakobson cũng khẳng định, trong thơ ca, đặc biệt là thơ ca hiện
đại, mọi tín hiệu ngơn ngữ tự nhiên đều có thể được sử dụng và cấu tạo lại, biến đổi về
bản chất tín hiệu và chức năng để thực hiện vai trị biểu đạt những ý nghĩa hình tượng thẩm mỹ theo mục đích của tác giả, trong đó hình thức tổ chức của các yếu tố ngôn từ
trong thơ khơng chỉ là phương tiện biểu đạt mà cịn có một giá trị tự thân (giá trị mỹ
học của bản thân hình thức).
Trong Cơ sở kí hiệu học [9], R.Barthes đã phân tích giá trị của các tín hiệu
trên các mối quan hệ bản chất nhất: quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt,
quan hệ trên trục lựa chọn (hệ hình) và quan hệ trên trục kết hợp (tuyến tính) của ngơn
ngữ [R.Barthes, dẫn theo 20, tr.443 ].
Yu.M.Lotman cho rằng “văn học nói bằng một ngơn ngữ đặc biệt được
xây chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên với tính cách là một hệ thống cấp hai” [Dẫn
theo 69, tr.64].
Về tương quan tín hiệu ngơn ngữ (THNN) với THTM - THVC đã được
L.Hjelmslev thể hiện trong quan niệm về thứ ngôn ngữ liên hội dựa theo sơ đồ [ Dẫn
theo 72, tr.28]:


11

TH ngôn ngữ
Cbh

Cbh

Âm thanh


Cđbh

Ý nghĩa ngôn ngữ

THTM
Cđbh

Ý nghĩa thẩm mỹ

Từ sơ đồ trên có thể hiểu hai mặt CBH và CĐBH của THNN lại trở thành CBH
cho một CĐBH mới là ý nghĩa thẩm mỹ của THTM trong tác phẩm văn học. Sự khác
biệt có tính “vượt cấp” này là do vai trò quyết định của chủ thể sáng tạo khiến cho
“giữa cách dùng ngôn ngữ hàng ngày và ngôn ngữ nhà văn có một vực thẳm khơng
qua được” [Ch.Bally, dẫn theo 86, tr.9]. P.Guiraud có bàn về sự sáng tạo lại ngôn ngữ
tự nhiên trong tác phẩm văn học cũng tương đồng với các ý kiến trên.
Trong Thi pháp học, Tz.Todorow đã chỉ rõ tầm quan trọng của những mối quan
hệ trong văn bản và liên văn bản trong việc xác định giá trị của văn bản nghệ thuật như
một sự liên kết, tương tác tín hiệu thẩm mỹ ở nhiều cấp độ khác nhau...[Tz.Todorow,
Dẫn theo 20, tr.444].
Trong quan niệm của trường phái kí hiệu học Mĩ, THTM được xác định là tín
hiệu trong nghệ thuật, là “tín hiệu miêu tả hoặc tạo hình” trong quan niệm của
Ch.Morris, Ch.Pierce. Họ xem nghệ thuật như một “ngôn ngữ đặc biệt”, khác với mọi
phương tiện truyền thống khác. Tính cấu trúc, tính phổ quát và sự tương ứng với các
quan hệ giá trị được họ xem là những đặc tính cơ bản của THTM.
Tín hiệu ngơn ngữ nghệ thuật là một tín hiệu phức hợp. Quan niệm này cũng
thống nhất với Roland Bather khi cho rằng đây chính là trường hợp mà “hệ thống thứ
nhất sẽ được dùng làm bình diện hoặc làm cái biểu đạt cho hệ thống thứ hai”. Các tác
giả cũng thống nhất với R.C.Hjelmslev khi gọi loại kí hiệu học này là ký hiệu học hàm
biểu; hệ thống thứ nhất là phương diện vật biểu, hệ thống thứ hai là phương diện hàm

biểu. Mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện của ngôn ngữ nghệ thuật
khơng phải là mối quan hệ mang tính võ đốn mà là mối quan hệ có lí do. Trước hết có
một mối tương quan chặt chẽ giữa ý nghĩa sự vật logic của một từ trong ngôn ngữ
nghệ thuật và ý nghĩa của hình tượng này.
Trường phái Prague với R.Jacobson đã quan tâm đến ngữ pháp và âm vị trên
bình diện kết học, Jacobson lưu ý đặc biệt đến tương quan giữa kết học với những vấn
đề biểu nghĩa. Vận dụng những phương pháp ngôn ngữ vào nghiên cứu thi ca, nhà
nghiên cứu xác định chức năng “nội chỉ” như mục đích tự thân đặc thù của thơ ca và
đưa ra phương thức xác định “chức năng thi ca” là “đem nguyên tắc tương đương của
trục tuyển lựa (trục ngữ nghĩa) chiếu lên trục kết hợp”. Phát triển ý tưởng vốn bắt
nguồn từ Saussure- xem hoạt động kí hiệu học như hiện tượng giao tiếp, Jacobson đưa


12
ra hồ sơ hoạt động biểu nghĩa với 6 thành tố: Ngữ cảnh (contex) - Thông điệp
(mesage) - Người phát (addresser) - Người nhận (addressee) - Tiếp xúc (contact) - Mã
(code). Với mơ hình này, thực chất, Jacobson đã triển khai cả những vấn đề dụng học
(Pragmatics) vốn chưa được quan tâm nhiều trong kí hiệu học trước đó [R.Jacobson,
Dẫn theo 56, tr.13].
Iu.M.Lotman, người sáng lập nên Trường phái kí hiệu học Tartu-Moskva từ đầu
những năm 1960 đã quan tâm tới việc xác định hệ thống mã của “ngữ pháp học văn
hóa” - mơ tả cấu trúc của những phương tiện kí hiệu văn hóa trong nhiều lĩnh vực khác
nhau và trong mọi thời đại [Iu.M.Lotman, Dẫn theo 56, tr.14]. Nhà nghiên cứu chủ
trương lấy văn bản làm trung tâm kiến tạo thế giới kí hiệu và xác định ba đặc điểm của
nó là tính biểu thị, tính phân giới và tính cấu trúc, đồng thời mở rộng quan niệm về văn
bản ra tồn bộ các lĩnh vực văn hóa, coi văn hóa nói chung cũng là một văn bản vơ
cùng phức tạp. Từ lí thuyết lấy văn bản làm trung tâm, từ cuối những năm 1970, Iu.M.
Lotman khai sinh cho kí hiệu học văn hóa và đi đến khái niệm kí hiệu quyển như “tồn
bộ khơng gian kí hiệu học xem như một cơ cấu thống nhất” [Iu.M.Lotman, Dẫn theo
56, tr.15].

Lotman cũng cho rằng “Trong thế giới biểu tượng đa dạng của tác phẩm thi
ca, chúng ta tìm thấy một sự tổ chức ổn định nào đó, những yếu tố cố kết vừa là đại
diện cho sự thống nhất trong sáng tác đa diện của nhà thơ, vừa mang lại cho tác phẩm
của ông ta dấu ấn của một cá nhân” [51].
Các nhà nghiên cứu hậu cấu trúc Pháp từ những năm 1960 có những điểm
tương đồng với bước đi của Lotman và các nhà nghiên cứu Nga trong những cố gắng
khắc phục tính giản lược của khuynh hướng kí hiệu học cấu trúc thuần túy, củng cố
quan niệm về sự chồng xếp nhiều mã trong mối quan hệ đối thoại giữa các chủ thể
phát, nhận, và ngữ cảnh, truyền thống văn hóa, cũng như bối cảnh tiếp xúc...
Như vậy, các tác giả trên đã thống nhất ở điểm: một THTM cần hội đủ các
điều kiện: 1, cbh: các hình thức vật chất (chất liệu) nghệ thuật; 2, cđbh: YNTM; 3, chủ
thể sáng tạo (thế giới phát ngôn, tạo ngôn - tác giả; thế giới tiếp nhận, thụ ngôn –
công chúng, bạn đọc); 4, thuộc về một hệ thống THTM nhất định. Trong Ký hiệu, hay
biểu tượng cũng chứa đựng yếu tố văn hóa dân tộc, thời đại và dấu ấn của cá nhân
người sáng tác.
1.1.1.2. Các nghiên cứu về Tín hiệu thẩm mỹ ở Việt Nam
Ở nước ta, vấn đề tín hiệu và tín hiệu thẩm mỹ đã được nhiều nhà nghiên cứu
như Hoàng Tuệ, Hoàng Trinh, Đào Thản, Phan Ngọc, Đái Xuân Ninh, Trần Đình Sử,
Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Lai, Lại Nguyên Ân, Phương Lựu, Hoàng Trọng Phiến, Bùi
Minh Toán, Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa, Trương Thị Nhàn, Phạm Thị Kim
Anh… gần đây nhất có cơng trình Ký hiệu và liên ký hiệu của Lê Huy Bắc…


13
Người đặt cơ sở nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ là tác giả Đỗ Hữu Châu. Trong
bài viết “Những luận điểm về cách tiếp cận ngôn ngữ học các sự kiện văn học” [14],
Đỗ Hữu Châu cho rằng: cách tiếp cận văn học của ngôn ngữ học trước đây xuất phát
từ quan điểm thông thường: phương tiện của văn học là ngôn ngữ, cụ thể hơn là từ,
câu, ngữ âm… nghĩa là các sự kiện tự nhiên của các ngôn ngữ tự nhiên.
Từ sự phân tích ý nghĩa thực sự của phương tiện nghệ thuật, Đỗ Hữu Châu

cũng đưa ra những kiến giải cụ thể hơn về THTM ngôn ngữ: THTM là phương tiện sơ
cấp (primaire) của văn học. Ngôn ngữ thực sự của văn học là ngôn ngữ - THTM, cú
pháp - THTM. Rồi các tín hiệu thẩm mỹ đó mới được thể hiện bằng các tín hiệu ngơn
ngữ thơng thường (và cú pháp thơng thường)... Nói một cách tổng quát, các đơn vị
ngôn ngữ thông thường là cái biểu hiện của các THTM và ngữ pháp thông thường là
CBH của ngữ pháp THTM [13, tr.779, 780]. Theo Đinh Trọng Lạc thì Tín hiệu ngơn
ngữ - văn học ấy đóng vai trị là hệ thống tín hiệu thứ nhất làm cơ sở cho hệ thống thứ
hai - THTM [59, tr.137]. Trần Ngọc Thêm cho rằng đó là sự mã hóa hai bậc [89,
tr.163]. Nguyễn Lai cũng đề cập vấn đề này trong cơng trình của mình [63, tr.23-50].
Trong Nhập môn ngôn ngữ học, các tác giả Mai Ngọc Chừ, Nguyễn Thị
Ngân Hoa, Đỗ Việt Hùng, Bùi Minh Toán xuất phát từ quan niệm về Ngôn ngữ
nghệ thuật là ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương, xuất phát từ ngôn ngữ toàn
dân nhưng được tổ chức và cấu tạo lại, thực hiện chức năng thẩm mỹ trong toàn bộ
cấu trúc của tác phẩm và trong quan hệ với những nhân tố của hoạt động sáng tác
và tiếp nhận văn chương [20].
Theo tác giả Mai Ngọc Chừ, những mối liên hệ ngữ đoạn chính là các kết hợp
ngơn từ trong văn cảnh cụ thể mà phải dựa trên những kết hợp này chúng ta mới có thể
định tính được ý nghĩa và giá trị phong cách của các sự kiện lời nói. Trong phạm vi
ngơn ngữ nghệ thuật, đi vào những kết hợp khác nhau, một tín hiệu có sự biến đổi rõ
rệt về ý nghĩa và giá trị phong cách. Tác giả nêu ra ví dụ: trong thơ Hàn Mạc Tử, với
các kết hợp khác nhau, "trăng" biểu đạt những ý nghĩa mới, hoàn toàn khác biệt với
những liên tưởng thông thường, bộc lộ một giá trị phong cách độc đáo: Trời hỡi nhờ ai
cho khỏi đói/ Gió trăng có sẵn làm sao ăn?; Áo ta rách rưới trời không vá/ Mà bốn
mùa trăng mặc vải trăng... Trong những mối liên hệ rất khác nhau, thậm chí mang tính
chất bất thường trên ngữ đoạn, tác giả và độc giả đều có thể hướng tới những chiều
kích mới của đời sống (bao gồm cả hiện thực và tưởng tượng). Cũng chỉ trong những
kết hợp cụ thể (ở mọi cấp độ), diện mạo phong cách của các tín hiệu ngơn ngữ trong
các sự kiện lời nói mới có thể được bộc lộ trọn vẹn [20; tr.444].
Cũng theo các tác giả, những kết quả nghiên cứu của tín hiệu học đã cung cấp
cho phong cách học một cơ sở quan trọng để xác định giá trị của các tín hiệu ngơn ngữ

đã được lựa chọn và tổ chức trong cấu trúc của tác phẩm văn học phải được xác định


14
dựa trên bản chất tín hiệu và đặc trưng chức năng của ngôn ngữ trong phạm vi này,
đồng thời phải xem xét văn bản nghệ thuật như là tổng thể các tín hiệu thẩm mỹ
trong các mối quan hệ đặc thù. Tuy nhiên, từ quan điểm của phong cách học, cần
đặc biệt chú ý đến vai trò của chủ thể (tác giả) trong việc lựa chọn, tổ chức các
THTM để tạo nên cấu trúc văn bản nghệ thuật - không phải như những mơ hình phổ
qt mà như những thực thể riêng biệt, những sự kiện phong cách khác biệt về giá
trị. Ngôn ngữ nghệ thuật sử dụng các yếu tố ngôn ngữ tự nhiên nhưng tất cả các
THNN trong tác phẩm văn học đều được biến đổi về bản chất tín hiệu học và đặc
trưng chức năng. Ví dụ:
a) Trong giao tiếp hàng ngày: Trời trở gió đơng nên năm nay hoa đào nở sớm,
không chờ đến Tết được...
b) Trong Truyền Kiều (Nguyễn Du): Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào
năm ngối cịn cười gió đơng.
Xét mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt, tín hiệu hoa đào trong
hai ngữ cảnh trên được dùng để biểu đạt hai đối tượng khác nhau. Cách lựa chọn và tổ
chức tín hiệu trong hai ngữ cảnh trên cũng khác nhau: lời nói thơng thường a), cấu trúc
thơ b). Về chức năng, hoa đào trong trường hợp (a) chỉ mang chức năng thông báo chiếu vật cụ thể, hoa đào trong trường hợp (b) không chỉ thực hiện chức năng thông
báo - chiếu vật mà trước hết thực hiện chức năng thẩm mĩ: cấu tạo lời thơ, xây dựng
hình tượng. Vì vậy, hoa đào trong lời nói hằng ngày và hoa đào trong thơ hoàn toàn
khác biệt về bản chất và chức năng tín hiệu học. Đồng thời, từ hoa đào trong thơ Thôi
Hộ đến hoa đào trong Truyện Kiều của Nguyễn Du rồi đến Mấy chùm trước giậu hoa
năm ngối của Nguyễn Khuyến... ta thấy có những sự kiện phong cách ngơn ngữ nghệ
thuật có những nét khu biệt về đặc trưng dân tộc, thời đại và chủ thể [20; tr.446].
Bùi Minh Tốn trong “Ngơn ngữ với văn chương” đã đưa ra quan niệm về
THTM trong văn chương là loại tín hiệu có chức năng thẩm mỹ: biểu hiện cái đẹp,
truyền đạt và bồi dưỡng cảm xúc về cái đẹp. Nó cũng cần có hai mặt: cái biểu đạt và

cái được biểu đạt, nhưng cái được biểu đạt là ý nghĩa thẩm mỹ [98, tr.146]. Cũng theo
tác giả, trong nghệ thuật văn chương, chất liệu là ngôn ngữ hằng ngày của con người,
là các tín hiệu ngơn ngữ. Nhưng khi sáng tác, người nghệ sĩ đã dùng chất liệu ngơn
ngữ để tạo ra các tín hiệu thẩm mỹ trong văn chương. Mỗi tín hiệu trong văn chương
cũng có ý nghĩa và chức năng thẩm mỹ của nó [98, tr.147]. Về mối quan hệ giữa
THNN và THTM, tác giả Bùi Minh Toán đồng quan niệm với Đỗ Hữu Châu khi chia
sẻ ý kiến của L.Hjemslev khi cho rằng: “Trong tác phẩm văn học, cả cái hợp thể cái
biểu hiện và cái được biểu hiện của ngôn ngữ thông thường trở thành cái biểu hiện
cho một cái được biểu hiện mới” [98, tr.149]. Với quan niệm như thế, Bùi Minh Toán


15
đưa ra sơ đồ về mối quan hệ giữa THNN và THTM và quan hệ giữa hai mặt trong từng
loại tín hiệu đó như sau:
Tín hiệu thẩm mỹ trong văn chương
Cái biểu đạt
Cái được biểu đạt
Cái biểu đạt của tín hiệu Cái được biểu đạt của tín
ngơn ngữ
hiệu ngơn ngữ
Ý nghĩa thẩm mỹ
Âm thanh (chữ viết)
Ý nghĩa ngôn ngữ
Tác giả cũng nêu rõ THTM có thể tồn tại ở hai dạng thức: hằng thể và biến thể.
Theo đó, hằng thể là dạng đơn giản nhất về mặt hình thức (thường biểu hiện bằng một
từ). Mỗi hằng thể tập hợp quanh mình hàng loạt biến thể để tạo nên hệ thống. Biến thể
là dạng biểu hiện tuy khác biệt về hình thức biểu đạt (cái biểu đạt) với hằng thể nhưng
cùng chung hoặc có mối liên hệ mật thiết về ý nghĩa với hằng thể [98, tr.149]. Tác giả
cũng chỉ ra nguồn gốc và phương thức xây dựng THTM trong văn chương, các cấp độ,
tính chất của THTM trong tác phẩm văn chương... Quan điểm này của Bùi Minh Toán

cũng là những gợi ý để chúng tôi triển khai nghiên cứu đề tài của Luận án.
Trong cơng trình Ngơn ngữ văn chương [69], các tác giả Hoàng Trọng Phiến và
Hoàng Kim Ngọc với cái nhìn từ ngơn ngữ học và văn học đã cho rằng “Tính thẩm mỹ
của ngơn ngữ văn chương phải được nghiên cứu theo cách nhìn của tín hiệu thẩm mỹ
có cơ sở từ tín hiệu ngơn ngữ nói chung” [69, tr.57]. Các tác giả thống nhất với Lại
Nguyên Ân trong quan niệm về THTM: “Là những hệ thống vật chất truyền tải các
thông báo. Đại diện cho các hình thái hoạt động vật chất và các mối quan hệ của con
người, các hệ thống ngơn ngữ kí hiệu ở nghệ thuật trở thành “vật tải” các nội dung
khách quan can dự vào quá trình phản ánh thực tại bằng nghệ thuật” [107, tr.127]. Từ
đó, các tác giả khẳng định: THTM thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện nội dung
thẩm mỹ, phục vụ cho một tư tưởng thẩm mỹ nhất định, được nhận thức bởi một chủ
thể thẩm mỹ nhất định. Quan điểm của Hoàng Kim Ngọc và Hồng Trọng Phiến nêu
trên và những ví dụ về tính biểu trưng của THTM được trình bày trong cơng trình
cũng là những định hướng cho chúng tơi tìm hiểu THTM “mắt” trong luận án này.
Luận án Sự biểu đạt bằng ngơn ngữ các tín hiệu thẩm mỹ - khơng gian trong ca
dao của tác giả Trương Thị Nhàn [72] đã xác lập được một hệ thống khái niệm, đặc
trưng và các điều kiện của THTM, tạo ra cơ sở lí thuyết vững chắc về THTM để ứng
dụng vào các tác phẩm cụ thể. Tác giả đã đưa ra khái niệm về THTM và đã chỉ ra 9
đặc trưng của THTM bao gồm: tính đẳng cấu, tính tác động, tính biểu hiện, tính biểu
cảm, tính biểu trưng, tính trừu tượng và cụ thể, tính truyền thống và cách tân, tính hệ
thống, tính cấp độ.
Phạm Thị Kim Anh với “Tín hiệu thuộc trường nghĩa cây trong thơ Việt Nam”
(1) cũng dựa trên các ý kiến đã kế thừa và bổ sung thêm một số vấn đề về khái niệm


16
THTM. Tác giả cũng thống nhất quan điểm cho rằng THTM là yếu tố thuộc hệ thống
các phương tiện biểu hiện của nghệ thuật [2, tr.20]. Nói đến phương tiện nghệ thuật là
nói đến 2 mặt thể chất và tinh thần. Mặt thể chất là những hình thức vật chất được sử
dụng trong mỗi ngành nghệ thuật. Mặt tinh thần bao gồm nhiều loại nội dung ý nghĩa,

nhiều tầng khái qt hóa, trừu tượng hóa có tính thẩm mĩ [13]. Phạm Thị Kim Anh
cũng dẫn ra ý kiến của Đỗ Hữu Châu: THTM là phương tiện sơ cấp (primaire) của văn
học. Tác giả cũng thống nhất: một THTM cần hội đủ các điều kiện: 1, cbh: các hình
thức vật chất (chất liệu) nghệ thuật; 2, cđbh: YNTM; 3, chủ thể sáng tạo (thế giới phát
ngôn, tạo ngôn - tác giả; thế giới tiếp nhận, thụ ngôn - công chúng bạn đọc); 4, thuộc
về một hệ thống THTM nhất định.
Tác giả đưa ra thêm cách hiểu của mình để phân biệt 2 thuật ngữ. “Kí hiệu”
thiên về hình thức biểu hiện, nhẹ về lượng tin; giữa người phát và người nhận đã có sự
thống nhất chặt chẽ về CĐBH ; lượng tin của nó chỉ có tính đơn trị - cho ra một nghĩa
duy nhất, ổn định, không được phân biệt nữa. Thuật ngữ “kí hiệu” hay được sử dụng
trong lĩnh vực khoa học tự nhiên - kĩ thuật. “Tín hiệu” nặng về tải tin, về giao tiếp,
lượng tin - CĐBH chưa được định hình tuyệt đối mà có tính chất đa trị, còn tiếp tục
mở rộng phát triển; sự thống nhất nhau về CĐBH của tín hiệu giữa người phát - người
nhận chỉ có tính tương đối. Mức độ võ đốn trong quan hệ giữa CBH và CĐBH ở “tín
hiệu” là cao hơn hẳn “kí hiệu”. Tác giả cũng khẳng định, “biểu trưng”, “biểu tượng”
(symbol) gần nghĩa với “tín hiệu” hơn “kí hiệu” và thuật ngữ “tín hiệu” thường được
sử dụng trong các ngành khoa học xã hội. Sau khi đưa ra một số ý kiến khác nhau, tác
giả khẳng định: về tên gọi có thể khác nhau nhưng nội hàm khái niệm nhìn chung đều
thống nhất trên các phương diện: dù là KHTM hay THTM cũng đều là những yếu tố
thuộc phương tiện biểu hiện của nghệ thuật. Chúng dù có tính chất vật thể hay phi vật
thể thì cũng có YNTM và việc sử dụng chúng phải nhằm mục đích thẩm mĩ.
Trong cơng trình Ký hiệu và liên ký hiệu [4], tác giả Lê Huy Bắc cho rằng: Ký
hiệu tồn tại như một sự tổng hòa các mối quan hệ văn hóa. Khơng thể có bất cứ một ký
hiệu nào nằm ngồi văn hóa. Theo đó, ký hiệu không hề và không thể tồn tại như một
thực thể độc lập tuyệt đối, mang một nghĩa tự trị đơn nhất. Ngay từ lúc ra đời, ký hiệu
luôn được tri nhận trong các mối quan hệ văn hóa nhất định. Một ký hiệu vì thế đã trở
thành một tổ hợp ký hiệu trước và sau nó. Vậy nên, nó ln là một liên ký hiệu” (Lời
giới thiệu trang bìa cuối sách). Lê Huy Bắc đưa ra định nghĩa về Ký hiệu: Ký hiệu là
hệ thống khái niệm mang nghĩa về các sự vật hiện tượng trong tự nhiên và xã hội,
được con người sáng tạo, mã hóa, để chuyển tải thông điệp, phục vụ giao tiếp thông

qua một “hệ nghĩa” nhất định trong từng bối cảnh cụ thể [4, tr 12]. Tác giả cũng đưa
ra một mơ hình khái niệm như sau:


17

Ký hiệu (sign)
Nghĩa (meaning)
Cái biểu đạt (Signfy)/Hình thức (Form)
Mã xã hội
(Social code)
Cái được biểu đạt (signfied)/Nội dung (Content)
Trong mơ hình trên, tác giả đưa ra quan niệm giữa cái biểu đạt và cái được biểu
đạt phải có sự mã hóa. Cái biểu đạt chỉ là tín hiệu của bất cứ sự vật hiện tượng nào tồn
tại mà con người có thể tri nhận bằng các giác quan. Cái biểu đạt đó chỉ trở thành cái
được biểu đạt, mang nghĩa khi nhận được sự quy ước mã của cộng đồng… Như thế
bản thân cái “được biểu đạt” đã mang “nghĩa” nhờ sự mã hóa từ cái biểu đạt. “Nghĩa”
từ sự kết hợp của cái biểu đạt/cái được biểu đạt trong những ngữ cảnh sử dụng sẽ có
một hoặc nhiều nghĩa khác, trùng với hoặc là khác nó.
Trong mơ hình trên, Lê Huy Bắc quan niệm, nghĩa có cả trong “cái biểu đạt”,
trong sự “mã hóa” và cả trong “cái được biểu đạt”. Muốn xây dựng “cái biểu đạt” thì
trước hết cần có “nghĩa”, có nội dung của nó. Muốn “mã hóa” thì cần phải xác định
nghĩa trước thì mới có thể tiến hành quy ước mã. Đương nhiên, “cái được biểu đạt”
ln là “nghĩa”. Vì “nghĩa” có mặt ở mọi nơi như thế nên bất kỳ một ký hiệu nào về
bản chất cũng đều là liên ký hiệu.
Quan niệm của Lê Huy Bắc về Ký hiệu cũng là những gợi ý để chúng tôi tiếp
cận một cách nhiều chiều và đầy đủ hơn khi làm rõ hơn khái niệm, ý nghĩa cũng như
hoạt động của THTM được nghiên cứu trong luận án.
Trong cơng trình Phân tích phong cách ngơn ngữ trong tác phẩm văn học [46],
Đỗ Việt Hùng - Nguyễn Thị Ngân Hoa đã đưa ra quan niệm về tín hiệu ngôn ngữ nghệ

thuật (theo nghĩa hẹp) được xây dựng trên cơ sở tín hiệu ngơn ngữ tự nhiên. Ngơn ngữ
nghệ thuật lấy ngôn ngữ tự nhiên làm chất liệu biểu hiện. Do đó nếu coi ngơn ngữ tự
nhiên là hệ thống tín hiệu nguyên cấp (hệ thống tín hiệu thứ nhất) thì ngơn ngữ nghệ
thuật là hệ thống tín hiệu thứ cấp (hệ thống tín hiệu thứ hai). Cái biểu hiện của tín hiệu
ngơn ngữ nghệ thuật bao gồm cả hình thức ngữ âm và ý nghĩa sự vật lơ gic của ngôn
ngữ tự nhiên. Cái được biểu hiện là các lớp ý nghĩa hình tượng.
Hai tác giả cũng đề cấp đến hai phương thức cơ bản cấu tạo lại các THTM là ẩn
dụ và hoán dụ. Các tác giả cũng cho rằng hốn dụ hay ẩn dụ khơng phải chỉ là thủ
pháp chuyển nghĩa các THTM ở cấp độ từ vựng mà có thể chi phối tồn bộ cấu trúc
văn bản. Tồn bộ các tín hiệu ngơn ngữ đều được cấu tạo lại trong sự ảnh hưởng của
những thủ pháp này. Việc giải mã các THTM trong trường hợp đó, bắt buộc phải dựa
trên đặc điểm trường nghĩa của hệ thống tín hiệu. Các tác giả cho rằng trường nghĩa
của các THTM là một trong những dấu hiệu chỉ dẫn mối liên hệ giữa cấu trúc chìm và
cấu trúc nổi của tác phẩm. Các phương thức tổ chức lại THTM như ẩn dụ, hoán dụ


18
chính là những kiểu quan hệ cơ bản giữa các cấp độ của cái được biểu đạt: tương đồng
hay kế cận.
Về tính chất của THTM trong ngơn ngữ văn học, các tác giả đề cập các tính
chất: tính nhân loại, tính dân tộc, tính lịch sử; tính phi vật thể và phi trực quan; tính
hình tuyến. Hai chức năng cơ bản của THTM trong tác phẩm văn chương là chức năng
biểu hiện và chức năng tác động. Các tác giả cho rằng, trong phạm vi một thể loại văn
học, ở bình diện chủ thể, giá trị biểu hiện và những ý nghĩa của các THTM phải được
xét đến ở hai dạng biến thể: biến thể từ vựng - ngữ nghĩa và biến thể kết hợp. Xét các
biến thể từ vựng - ngữ nghĩa của các THTM tức là tìm hiểu thao tác lựa chọn của
người viết dựa trên mối quan hệ hệ hình (quan hệ hàng dọc, liên tưởng, là quan hệ giữa
các yếu tố có thể thay thế cho nhau được trong cùng vị trí của chuỗi lời nói) để từ đó
đánh giá về tính hệ thống của THTM trong tác phẩm văn học. Các biến thể kết hợp
đánh dấu thao tác phối hợp trên trục tuyến tính của tác giả trong sự biểu hiện hình

tượng nghệ thuật.
Mai Thị Kiều Phượng trong chuyên luận Tín hiệu thẩm mỹ trong ngôn ngữ văn
học [78] đã giới thiệu một hệ thống những khái niệm, nguyên tắc và phương pháp để
vận dụng lí thuyết tín hiệu học vào việc nghiên cứu vấn đề ngữ nghĩa của ngôn ngữ
văn học nghệ thuật thuộc bình diện dụng học dưới dạng phác thảo mang tính đại
cương hướng về tầm nhìn khoa học liên ngành.
Ngồi ra, có thể kể đến các cơng trình: Từ ngơn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ
thuật của Đào Thản [44]; các luận án “Tìm hiểu vấn đề tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Huy
Cận” của Bùi Thị Hồng, “Một số tín hiệu thẩm mỹ trong thơ Xuân Quỳnh” của Lê Thị
Tuyết Hạnh, Đặc điểm ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử từ góc nhìn tín hiệu thẩm mỹ của
Lưu Văn Din [25]; Tín hiệu thẩm mỹ và vấn đề nghiên cứu tín hiệu thẩm mỹ trong tác
phẩm văn chương [70] các luận văn và nhiều bài viết khác cũng góp phần khẳng định
thế mạnh của hướng nghiên cứu này.
Ngoài các thuật ngữ Ký hiệu, Tín hiệu, Tín hiệu thẩm mỹ, thuật ngữ biểu tượng,
mối quan hệ giữa biểu tượng và văn hóa cũng được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ,
nghiên cứu văn chương quan tâm. Có thể kể đến Đỗ Hải Phong với Lịch sử tiếp cận kí
hiệu học như phương pháp nghiên cứu văn hóa, Trần Lê Bảo với Giải mã biểu tượng
như một cách thức hữu hiệu trong việc tiếp cận văn hóa và văn học [56, tr.132], Lê
Lưu Oanh, Nguyễn Thị Châm với “Biểu tượng văn học dưới cái nhìn tự sự học theo lí
thuyết của Iu.M.Lotman”; chun khảo Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngơn ngữ và
tư duy của Nguyễn Đức Tồn [47] cũng đặt ra vấn đề về quan hệ hữu cơ giữa văn hóa
và ngơn ngữ, phương pháp nghiên cứu đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy, đặc trưng văn hóa - dân tộc của sự chuyển nghĩa và nghĩa biểu trưng...


×