Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội đèn sọ ở xã phù lỗ, huyện sóc sơn, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.93 MB, 84 trang )

BỘ NỘI VỤ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỄ HỘI ĐỀN SỌ
Ở XÃ PHÙ LỖ, HUYỆN SĨC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Khóa luận tốt nghiệp ngành : QUẢN LÝ VĂN HÓA
Người hướng dẫn

: TS. QUANG THỊ NGỌC HUYỀN

Sinh viên thực hiện

: TRẦN MẠNH CƯỜNG

Mã số sinh viên

: 1405QLVA007

Khóa

: 2014-2018

Lớp

: ĐH QLVH 14A

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu độc lập của tơi. Những nội
dung trình bày trong luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi đảm bảo tính trung
thực và chưa từng được ai cơng bố dưới bất kỳ hình thức nào. Các số liệu sử
dụng phân tích, kết quả nghiên cứu của người khác đều được tơi trích dẫn đầy
đủ, rõ ràng.
Tơi xin hồn toàn chịu trách nhiệm với nhà trường về lời cam đoan này!
Hà Nội, tháng 2 năm 2018
Tác giả khóa luận

Trần Mạnh Cƣờng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên hướng dẫn TS. Quang Thị Ngọc
Huyền, các thầy cô trong khoa Văn hóa – Thơng tin và Xã hội, trường Đại học
Nội Vụ Hà Nội, Phịng Văn hóa – Thơng tin huyện Sóc Sơn, ban quản lý di tích
đền Sọ(đền Tam Tổng) đã cung cấp các thông tin, tạo những điều kiện tốt nhất
để tơi có thể thực hiện khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn chân thành tới bác Trần Văn Từ
(Ủy viên ban quản lý di tích đền Sọ) đã đóng góp cho tơi những kiến thức văn
hóa, lịch sử vơ cùng quý báu và những ý kiến xác đáng, để tôi có thể hồn thành
khóa luận này. Tơi xin chân thành cảm ơn!
Tác giả khóa luận

Trần Mạnh Cƣờng


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT


Chữ viết tắt

Chữ đầy đủ

VH

Văn hóa



Quyết định

VHTT

Văn hóa thơng tin

VHTT & DL

Văn hóa thơng tin và du lịch

CNH

Cơng nghiệp hóa

HĐH

Hiện đại hóa

GS


Giáo sư

UBND

Ủy ban nhân dân

SL

Sắc lệnh

NXB

Nhà xuất bản

Tr

Trang

CT

Chỉ thị

TW

Trung Ương

KM

Kilomet


BTC

Ban tổ chức

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hiệp quốc


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................1
1.Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 3
3.1. Mục đích nghiên cứu................................................................................... 3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................ 4
6. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 4
7. Bố cục của khóa luận ..................................................................................... 4
CHƢƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỄ
HỘI VÀ TỔNG QUAN KHU DI TÍCH ĐỀN SỌ Ở XÃ PHÙ LỖ, HUYỆN
SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...........................................................................5
1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................. 5
1.1.1. Khái niệm về lễ hội ............................................................................... 5

1.1.2. Khái niệm về giá trị văn hóa ................................................................. 6
1.2. Một số quan điểm về bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội.............................. 7
1.2.1. Quan điểm về bảo tồn ......................................................................... 7
1.2.2. Bảo vệ nguyên trạng ............................................................................. 8
1.2.3. Bảo tồn trên cơ sở kế thừa .................................................................... 8
1.2.4. Quan điểm về phát huy ......................................................................... 9
1.3. Các văn bản pháp luật liên quan đến bảo tồn và phát huy các giá trị của lễ
hội ..................................................................................................................... 10
1.3.1. Các văn bản của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội .. 10


1.3.2. Các văn bản do huyện Sóc Sơn ban hành nhằm bảo tồn và phát huy lễ
hội đền Sọ...................................................................................................... 12
1.4. Tổng quan về khu di tích đền Sọ .............................................................. 12
1.4.1. Khái quát vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn ..... 12
1.4.2. Quá trình hình thành đền Sọ ở Phù Lỗ ............................................... 14
1.4.3. Đặc điểm về kiến trúc, cảnh quan, không gian tại đền Sọ.................. 16
1.4.4. Truyền thuyết gắn liền với các vị thần được thờ tại đền Sọ ............... 17
Tiểu kết chương 1: ........................................................................................... 19
CHƢƠNG 2:THỰC TRẠNG BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỄ HỘI
ĐỀN SỌ Ở XÃ PHÙ LỖ, HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......... 20
2.1. Các giá trị của lễ hội đền Sọ ..................................................................... 20
2.1.1. Giá trị lịch sử....................................................................................... 20
2.1.2. Giá trị cố kết cộng đồng ...................................................................... 21
2.1.3. Giá trị giáo dục.................................................................................... 21
2.1.4. Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa tâm linh .................................. 22
2.1.5. Giá trị bảo tồn và làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc ................. 23
2.1.6. Giá trị phát triển kinh tế địa phương ................................................... 25
2.2. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội đền Sọ ................................... 27
2.2.1. Tuyên truyền về các giá trị lễ hội đền Sọ ........................................... 27

2.2.2. Sưu tầm, phục dựng giá trị truyền thống mai một .............................. 29
2.2.3. Đầu tư cơ sở vật chất cho lễ hội.......................................................... 29
2.2.4. Xã hội hóa hoạt động tổ chức lễ hội ................................................... 30
2.2.5. Cơ chế phối hợp bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội đền Sọ................. 32
2.2.5.1. Phối hợp với thành phố Hà Nội ....................................................... 32
2.2.5.2. Phối hợp với nhân dân địa phương .................................................. 32
2.6. Đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội đền Sọ ... 34
2.6.1.Các kết quả đã đạt được ....................................................................... 34
2.6.2. Những hạn chế, bất cập....................................................................... 37
2.6.3. Nguyên nhân ....................................................................................... 39
2.6.3.1. Nguyên nhân khách quan ................................................................. 39


2.6.3.2. Nguyên nhân chủ quan .................................................................... 40
Tiểu kết chương 2: ........................................................................................... 40
CHƢƠNG 3:GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO TỒN VÀ PHÁT
HUY GIÁ TRỊ LỄ HỘI ĐỀN SỌ Ở XÃ PHÙ LỖ, HUYỆN SÓC SƠN, ........ 42
THÀNH PHỐ HÀ NỘI ............................................................................................ 42
3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục nâng cao nhận thức cho
người dân về các giá trị của lễ hội đền Sọ ....................................................... 42
3.1.1. Nhận thức đối với người làm công tác quản lý................................... 42
3.1.2. Nhận thức đối với cộng đồng dân cư .................................................. 43
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội
đền Sọ ............................................................................................................... 45
3.2.1. Tăng cường thực hiện phân cấp quản lý nhà nước về lễ hội .............. 45
3.2.2. Thực hiện tốt công tác quy hoạch không gian lễ hội đền Sọ .............. 47
3.2.3. Đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội . 48
3.2.4. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý lễ hội............ 51
3.2.5. Tăng cường chỉ đạo, giám sát, kiểm tra về công tác tổ chức lễ hội ... 52
3.3. Phát huy các giá trị lễ hội đền Sọ .............................................................. 53

3.3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về các giá trị của lễ hội đền Sọ ...... 53
3.3.2. Kết hợp lễ hội truyền thống cùng các yếu tố hiện đại nhằm phát triển
đa dạng phong phú, quảng bá lễ hội đền Sọ. ................................................ 55
Tiểu kết chương 3: ........................................................................................... 57
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................... 62
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 64


MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh hoạt văn hoá cổ truyền tiêu
biểu của nhiều cộng đồng ở nước ta cũng như trên thế giới. Nó là “tấm gương”
phản chiếu bức tranh trung thực đời sống văn hoá của mỗi dân tộc. Lễ hội ra đời,
tồn tại gắn với quá trình phát triển của nhiều cộng đồng nói chung và làng xã
người Việt nói riêng, nó phản ánh nhiều giá trị trong đời sống kinh tế-xã hội,
văn hóa của cộng đồng. Một trong những giá trị tiêu biểu của lễ hội các làng xã
người Việt là giá trị văn hoá và liên kết cộng đồng qua tơn giáo, tín ngưỡng.
Chính giá trị ấy là một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho lễ hội có
sức sống lâu bền, tồn tại với lịch sử của các cộng đồng làng xã cho đến hôm nay.
Những năm gần đây, trong bối cảnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội
nhập quốc tế của nước ta, văn hóa truyền thống nói chung và văn hóa lễ hội tiếp
tục được duy trì, làm phong phú hơn đời sống văn hóa của người dân Việt Nam.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực, tốt đẹp khi phục hồi và phát huy lễ hội
cổ truyền trong đời sống đương đại, thì cũng khơng ít các vấn đề nảy sinh khiến
xã hội cần phải nhìn nhận lại và tìm cách khắc phục các hạn chế đó. Có thể thấy
rằng, mọi hành động của con người đều bắt đầu từ nhận thức, chỉ khi chúng ta
nhận thức đúng về giá trị của lễ hội cổ truyền thì việc phục hồi và phát huy nó
trong đời sống đương đại mới có thể đem lại hiệu quả mong muốn.
Sóc Sơn là mảnh đất của những anh hùng đã làm nên những chiến công

hiển hách. Với truyền thuyết về Thánh Gióng đánh thắng giặc Ân thể hiện lòng
yêu nước bất diệt của con người Việt. Nơi đây chứa đựng lòng tự hào của những
con người yêu nước, những con người giản dị nhưng chứa đầy tình cảm yêu
thương. Lễ hội đền Sọ mang đậm những nét văn hóa truyền thống của lễ hội Việt
Nam, lịng tự hào của dân tộc chứa đựng yếu tố “ thiêng” và ý niệm sâu sắc. Lễ
hội tại đây thấm sâu bởi những giá trị văn hóa lâu đời, kết tinh từ những ước mơ,
nguyện vọng chân chính, tạo nên một khơng gian văn hóa đặc sắc và đa dạng.
Lễ hội truyền thống đền Sọ có ý nghĩa quan trọng trong đời sống vật chất
cũng như tinh thần của người dân nơi đây, cũng như nhân dân ở địa phương
1


khác. Lễ hội cũng là nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ những giá trị văn hóa vật
chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân; là hình thức giáo dục, chuyển giao
cho các thế hệ sau biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền
thống quý báu của dân tộc. Với ý nghĩa to lớn và ảnh hưởng đến đời sống con
người, vấn đề đặt ra là quản lý, tổ chức lễ hội như thế nào để phát huy hết giá trị
của lễ hội, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam theo đúng chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước. Những năm gần đây, khi nhu cầu
sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân ngày càng cao, sự giao lưu văn hóa
diễn ra mạnh mẽ khiến cho nhiều hiện tượng văn hóa có sự biến đổi nhanh
chóng. Xu hướng thương mại hóa lễ hội, hiện tượng lợi dụng niềm tin tôn giáo
để mưu lợi, tổ chức các trị chơi thiếu lành mạnh, mang tính ăn thua như: cờ bạc,
cá độ, xóc thẻ, bói tốn… Việc xả rác bừa bãi gây ô nhiễm môi trường, bày bán
hàng rong gây mất an ninh trật tự, vấn đề an toàn thực phẩm,... là những hình
ảnh xấu, làm mất đi khơng gian văn hóa của lễ hội, làm ảnh hưởng tới ý nghĩa
thiêng liêng trong lễ hội, từ đó khiến việc quản lý lễ hội trở thành một vấn đề
cần được quan tâm.
Là một sinh viên chuyên ngành Quản lý văn hóa nên tơi rất quan tâm đến
các vấn đề về lễ hội. Trên cơ sở lý do trên tôi đã quyết định chọn đề tài “Bảo tồn

và phát huy giá trị lễ hội đền Sọ ở xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà
Nội cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một vài tổ chức, cá nhân có những cơng trình nghiên cứu về di tích
đền Sọ và khẳng định giá trị văn hóa của đền Sọ. Tuy nhiên , các cơng trình nghiên
cứu chủ yếu đi vào tìm hiểu chung về lễ hội đền Sọ, lịch sử di tích; còn đối với
quản lý lễ hội đền Sọ vẫn là những khái quát chung, thiếu tính chuyên sâu.
Cụ thể là cơng trình nghiên cứu: Lễ hội đền Sọ( đền Tam Tổng) xã Phù
Lỗ - Sóc Sơn – Hà Nội của tác giả Đỗ Thị Thu Nga trong bài khóa luận tốt
nghiệp của trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Trong bài viết của mình, tác giả
Thu Nga đã so sánh sự khác biệt trong diễn trình tổ chức lễ hội xưa và nay.

2


Đồng thời, tác giả đưa ra những giá trị văn hóa mà lễ hội đền Sọ tác động tới
văn hóa – kinh tế - xã hội ở xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn.
Tuy nhiên, có thể thấy lễ hội là vấn đề được tác giả quan tâm trên bình
diện chung về lí luận, mơ tả q trình chuẩn bị, diễn trình của lễ hội đền Sọ, tìm
hiểu và làm rõ các giá trị đa dạng mà lễ hội đem lại. Những vấn đề về quản lí lễ
hội cũng đã được tác giả quan tâm để chỉ ra thực trạng chung trong cơng tác
quản lí qua đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lí nhà nước, góp
phần bảo tồn giá trị của lễ hội trong bối cảnh hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị của
lễ hội cũng như đánh giá thực tiễn công tác bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội
đền Sọ (Đền Tam Tổng) thời gian qua, đề xuất các quan điểm và các giải pháp
bảo tồn và phát huy các giá trị lễ hội đền Sọ tại xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn,
thành phố Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội

nhập quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về giá trị lễ hội, bảo tồn và phát huy
giá trị lễ hội.
- Đánh giá thực trạng công tác bảo tồn và phát huy giá trị của Đền Sọ ở xã
Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn và
phát huy các giá trị lễ hội đền Sọ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội đền Sọ
(đền Tam Tổng)
* Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về không gian: Lễ hội đền Sọ, xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, thành
phố Hà Nội.
3


- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2017 trở về trước
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, ngồi ra cịn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu: lịch sử, logic, tổng hợp, phân tích, thống kê, phân loại,
so sánh.
- Chú trọng, khảo sát điều tra, điền dã.
6. Đóng góp của đề tài
- Đề tài đóng góp thêm về tư liệu nghiên cứu cho lễ hội đền Sọ.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn của
đề tài có thể được ứng dụng trong thực tiễn đối với đền Sọ.
7. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Khóa luận

gồm có 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận về bảo tồn, phát huy giá trị lễ hội và tổng quan
khu di tích đền Sọ ở xã Phù Lỗ,huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
Chương 2. Thực trạng bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội đền Sọ
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội
đền Sọ

4


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỄ HỘI VÀ
TỔNG QUAN KHU DI TÍCH ĐỀN SỌ Ở XÃ PHÙ LỖ, HUYỆN SÓC SƠN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về lễ hội
Cụm từ “Lễ hội” vốn được ghép bởi hai từ Hán - Việt, đó là Lễ và Hội, do
vậy lễ hội thường có hai phần, phần lễ và phần hội. Lễ và hội là một thể thống
nhất không thể tách rời. Lễ là phần tín ngưỡng (tế, rước), là phần đầu tiên khi
tiến hành lễ hội. Lễ là cốt lõi, là phần quan trọng nhất mang tính thiêng liêng tơn
kính, là nghi lễ thờ cúng thần, thánh được coi là linh hồn của lễ hội. Hội là các
hiện tượng sinh hoạt văn hóa cộng đồng, nảy sinh, tích hợp và bảo lưu trong mơi
trường tín ngưỡng tơn giáo, nếu mơi trường tín ngưỡng tơn giáo bị loại bỏ thì
bản thân các sinh hoạt văn hóa cũng khơng thể tồn tại.
Mỗi vùng miền, mỗi quốc gia lại có hình thức tổ chức lễ hội khác nhau.
Chính vì thế mà đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về hình thái sinh hoạt văn
hóa này. Sau đây là một số khái niệm về lễ hội, điển hình như:
Theo điều 4, Luật Di sản văn hóa thì lễ hội được xem là di sản văn hóa
phi vật thể : di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng

truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác,
bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn
truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề
thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về
trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác.
Tác giả Đoàn Văn Chúc lý giải lễ hội như sau: Lễ (cuộc lễ) là sự bày tỏ
kính ý đối với một sự kiện xã hội, hay tự nhiên, tưởng tượng hay có thật, đã qua
hay hiện tại, được thực hành theo nghi điểm rộng lớn, và theo phương thức thẩm
mỹ, tùy thuộc cấp nhóm xã hội có nhiệm vụ cử hành, nhằm biểu hiện giá trị của
đối tượng được cử lễ. Hội là cuộc vui chơi bằng vô số hoạt động giải trí cơng
5


cộng, diễn ra tại một địa điểm nhất định vào dịp cuộc lễ kỷ niệm một sự kiện tự
nhiên xã hội nhằm diễn đạt sự phấn khích, hoan hỉ của công chúng dự lễ [9,
tr.132]
Lễ hội theo học giả Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hố sử cương thì
gọi là đại hội (vào đám hay vào hội) [1, tr.255]. Về sau nhiều học giả đã thay
thuật ngữ này bằng các thuật ngữ tương đương. Tuy nhiên, trong các công trình
nghiên cứu qua tên sách, tên bài viết đã có nhiều cách gọi khác nhau: tác giả
Toan Ánh trong cuốn "Nếp cũ hội hè đình đám” thì quan niệm rằng hội hè đình
đám là những cuộc tổ chức hội họp tại các thôn xã nhân dịp vào đám và trong
dịp vào đám này có nhiều trị mua vui cho dân thơn giải trí [2, tr.9].
Theo tác giả Ngơ Đức Thịnh, “Lễ hội là một trong những hiện tượng sinh
hoạt văn hóa cổ truyền tiêu biểu của nhiều tộc người ở nước ta cũng như trên thế
giới. Nó là tấm gương phản chiếu khá trung thực đời sống văn hóa của mỗi dân
tộc” [18, tr.7].
Tác giả Vũ Ngọc Khánh cho rằng: “Lễ hội cũng gọi là hội lễ, là hình thức
sinh hoạt văn hóa xã hội của một tập thể, một tổ chức thuộc giới, nghề, ngành
hoặc tôn giáo trong phạm vi một địa phương hoặc trong cả nước” [11, tr.79].

Như vậy, ta thấy rằng lễ hội là một hình thái sinh hoạt văn hóa cộng đồng
của mỗi quốc gia dân tộc chứa đựng những nét văn hóa sâu sắc của dân tộc đó. Lễ
là phần nghi thức tín ngưỡng mang yếu tố thiêng thể hiện những ước mơ, hi vọng
của con người mong muốn tới thần linh. Hội là sinh hoạt văn hóa, tơn giáo, nghệ
thuật của cộng đồng xuất phát từ nhu cầu cuộc sống nhằm thỏa mãn nhu cầu giải trí,
nhu cầu thiết yếu của con người bao gồm các trị chơi, văn hóa nghệ thuật,...Lễ và
hội đan xen vào nhau tạo thành một thể thống nhất không thể tách rời.
1.1.2. Khái niệm về giá trị văn hóa
Tác giả Ngơ Đức Thịnh cho rằng: “Giá trị văn hóa là sự đánh giá mang
tính cộng đồng đối với những hiện tượng, sản phẩm văn hóa do con người tạo ra
trong bối cảnh xã hội nhất định. Những giá trị đó được coi là tốt đẹp, là có ích,
đáp ứng nhu cầu của con người trong mọi thời đại. Một khi những giá trị đó
hình thành và được định hình thì nó có tác dụng chi phối những nhận thức, quan
6


niệm, hành vi, tình cảm của con người trong mỗi cộng đồng ấy” [19, Tr.15]. Giá
trị văn hóa về thực chất là sự khẳng định của con người đối với sự tồn tại vật
chất và tinh thần trong đời sống xã hội, quan hệ, trật tự của mình, hành vi, thái
độ của mình, khích lệ con người sống và phát triển theo thang giá trị mà cộng
đồng xã hội tôn vinh.
Giá trị văn hoá do con người trong mỗi xã hội sáng tạo ra trong quá trình
lịch sử, nhưng một khi hệ giá trị văn hố đã hình thành thì nó lại có vai trị định
hướng cho các mục tiêu, phương thức và hành động của con người trong các xã
hội ấy. Như thế, khi nói bản chất của giá trị hay nói tới vai trị định hướng, chi
phối, điều tiết của hệ giá trị thì về thực chất chúng ta đang nói tới mối quan
hệ đa chiều của con người. Cũng như văn hoá, giá trị được sản sinh từ các mối
quan hệ con người với tự nhiên, với xã hội.
Có thể thấy rằng, giá trị văn hóa là tất cả những gì con người đúc kết
trong cuộc sống, mang tính sáng tạo đem lại những giá trị nhân văn cao cả, có

ích cho cộng đồng.
1.2. Một số quan điểm về bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội
1.2.1. Quan điểm về bảo tồn
Theo cuốn sách Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và biến đổi của
Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh khái niệm về bảo tồn được hiểu như là :
“Những nỗ lực nhằm gìn giữ các giá trị, bản sắc văn hóa tốt đẹp vốn có của mỗi
dân tộc, quốc gia và bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng
theo dạng thức vốn có của nó. Bảo tồn là không để mai một, “không để bị thay
đổi, biến hóa hay biến thái”. Như vậy, trong nội hàm của thuật ngữ này, khơng
có khái niệm “cải biến”, “nâng cao” hoặc “phát triển”. Hơn nữa, khi nói đối
tượng bảo tồn “phải được nhìn là tinh hoa”, chúng ta đã khẳng định giá trị đích
thực và khả năng tồn tại theo thời gian, dưới nhiều thể trạng và hình thức khác
nhau của đối tượng được bảo tồn" [20, Tr. 12].

7


1.2.2. Bảo tồn nguyên trạng
Từ những năm 1964, các nguyên tắc bảo tồn đã được giới nghiên cứu
khoa học toàn cầu quan tâm bằng việc tổ chức Hội đồng Quốc tế các di tích và
di chỉ (ICOMOS) cơng bố Hiến chương Venice về bảo tồn và trung tu di tích, di
chỉ. Hiến chương này nhấn mạnh việc bảo tồn đòi hỏi phải giữ gìn tính ngun
trạng, khơng được phép thêm hay bớt đi mà phải bảo tồn nguyên gốc.
Bảo tồn nguyên trạng văn hóa vật thể ở dạng “tĩnh” là vận dụng thành quả
khoa học kỹ thuật công nghệ cao, hiện đại đảm bảo giữ nguyên trạng hiện vật
như sự vốn có về kích thước, vị trí, đường nét màu sắc, kiểu dáng. Khi cần phục
nguyên các di sản văn hóa vật thể cần sử dụng hiệu quả các phương tiện kỹ thuật
như: đồ họa kỹ thuật vi tính cơng nghệ 3D theo khơng gian ba chiều; chụp ảnh;
băng hình video; xác định thành phần chất liệu của di sản văn hóa vật thể. Sau
khi tiến hành bảo tồn nguyên vẹn, phải so sánh đối chiếu số liệu với nguyên mẫu

đã được lưu giữ chi tiết để không làm biến dạng di sản văn hóa vật thể.
Cơng ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO giải thích
rằng bảo tồn là “ các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản
văn hóa phi vật thể, bao gồm việc nhận diện, tư liệu hóa, bảo vệ, phát huy,củng
cố, truyền dạy, đặc biệt là thơng qua hình thức giáo dục chính thức hoặc khơng
chính thức cũng như việc làm sống lại các phương diện khác nhau của loại hình
di sản này” [5, tr 84].
1.2.3. Bảo tồn trên cơ sở kế thừa
Bảo tồn trên cơ sở kể thừa (bảo tồn trong dạng “động”) tức là bảo tồn các
hiện tượng văn hóa trên cơ sở kế thừa. Các di sản văn hóa vật thể sẽ được bảo
tồn trên tinh thần giữ gìn những nét cơ bản của di tích, cố gắng phục chế lại
nguyên trạng di sản văn hóa vật thể bằng nhiều kỹ thuật cơng nghệ hiện đại. Đối
vói các di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn “động” trên cơ sở kế thừa là bảo tồn
các hiện tượng văn hóa đó ngay chính trong địi sống cộng đồng. Bởi lẽ, cộng
đồng không những là môi trường sản sinh ra các hiện tượng văn hóa phi vật thể
mà cịn là nơi tốt nhất để giữ gìn, bảo vệ, làm giàu và phát huy văn hóa phi vật
thể trong đời sống xã hội theo thời gian. Các hiện tượng văn hóa phi vật thể tồn
8


tại trong ký ức cộng đồng, nương náu trong tiếng nói, trong các hình thức diễn
xướng, trong các nghi lễ, nghi thức, quy ước dân gian.
Đó là việc xã hội thừa nhận các tài năng dân gian, tôn vinh họ trong cộng
đồng, tạo điều kiện tốt nhất để trong hoàn cảnh có thể, để họ sống lâu, sống khỏe
mạnh, phát huy được khả năng của họ trong quá trình bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống, cần phải phục hồi các giá trị văn hóa một cách
khách quan, sáng suốt, tin cậy, chứ không thể chủ quan tùy tiện. Tất cả những
giá trị văn hóa phi vật thể phải được kiểm chứng qua nhiều phương pháp nghiên
cứu có tính chất chun mơn cao, có giá trị thực chứng, thuyết phục thông qua
các dự án điều tra, suu tầm bảo quản, biên dịch và xuất bản các dấu tích di sản

văn hóa phi vật thể.
1.2.4. Quan điểm về phát huy
Xung quanh hoạt động phát huy di sản văn hóa phi vật thể cũng đặt ra
nhiều vấn đề. Song điều quan trọng hơn cả đối với việc phát huy những di sản
văn hóa phi vật thể nói chung và lễ hội cổ truyền nói riêng là làm sao khơi dậy ý
thức của cộng đồng, niềm tự hào của cộng đồng về di sản văn hóa phi vật thể, để
di sản ấy sống trong cộng đồng như bản chất của nó. Trong cơng tác phát huy,
vấn đề đặt ra là tuyên truyền, giáo dục trong cộng đồng, nhất là thế hệ trẻ những
hiểu biết về lễ hội cổ truyền với những giá trị văn hóa của nó. Chính đây là cây
cầu để chúng ta đưa lễ hội cổ truyền về với cộng đồng. Cộng đồng chính là nơi
sản sinh ra lễ hội và cũng chính là khơng gian cho lễ hội có thể sinh sổi nảy nở,
phát triển đến mức hưng thịnh nhất.
Phát huy trên cơ sở sàng lọc, duy trì và làm phong phú thêm những nét
đẹp văn hóa vốn có. Phát huy giá trị văn hóa là những hành động hướng đích
nhằm đưa sản phẩm văn hóa vào trong thực tiễn xã hội, trở thành tiềm năng và
nội lực góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, mang lại những lợi ích
vật chất và tinh thần cho con người.
Phát huy giá trị văn hóa – đó là những hành động hướng đích nhằm đưa
giá trị văn hóa vào trong thực tiễn xã hội với tư cách vừa là mơi trường an tồn
để bảo tồn và làm giàu các giá trị văn hóa, vừa là năng lực nội sinh và tiềm năng
9


mang lại những lợi ích về vật chất và tinh thần cho con người, góp phần thúc
đẩy sự phát triển xã hội.
1.3. Các văn bản pháp luật liên quan đến bảo tồn và phát huy các giá trị
của lễ hội
1.3.1. Các văn bản của Đảng và Nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội
Lễ hội là hoạt động văn hóa xã hội mang tính tổng thể của một cộng đồng
người, là nơi thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc, là nơi lưu giữ các giá trị từ đời

này sang đời khác. Hơn nữa, lễ hội cũng là nơi thể hiện tinh thần cố kết cộng
đồng, nâng cao mối quan hệ xã hội, là dịp để nhân dân được thư giãn, giải trí,
sáng tạo văn hóa. Lễ hội được tạo ra nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, nhu cầu
tín ngưỡng sau những ngày nơng vất vả, được thể hiện lịng thành kính của nhân
dân với thần linh giúp con người có thêm những niềm tin, những năng lượng
hứng khởi để tái tạo sức lao động.
Xuất phát từ thực tiễn đó mà Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm tới công
tác tổ chức, quản lý văn hóa nói chung và lễ hội nói riêng. Vì lễ hội đã mang lại
những giá trị văn hóa tích cực cho cộng đồng, góp phần vào cơng cuộc xây dựng
nền “văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Do vậy, việc gìn giữ,
bảo tồn, phát huy các giá trị của di sản văn hóa dân tộc luôn luôn là nhiệm vụ,
mục tiêu quan trọng hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Các cấp, các ngành từ
Trung ương đến cơ sở cần có sự quan tâm trong sự nghiệp phát triển văn hóa
nước nhà. Đặc biệt hơn, văn hóa là mặt trận nhằm bảo vệ gốc rễ của mọi lĩnh
vực trong xã hội.
Có rất nhiều các văn bản có liên quan đến vấn đề bảo tồn và phát huy giá
trị lễ hội có thể kể tới như:
Tại Đại hội VII (tháng 6 năm 1991), trong Báo cáo chính trị đã nhấn mạnh
“Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa nghệ thuật, ngơn ngữ, chữ viết và thuần
phong mỹ tục của các dân tộc, tôn tạo các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh”. (đây
là chủ trương, đường lối của Đảng không phải là văn bản pháp luật).
Trong điều 30, Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 1992 quy định rõ rằng: “Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa
10


Việt Nam: dân tộc, hiện đại, nhân văn, kể thừa và phát huy những giá trí của nền
văn hiến các dân tộc Việt Nam, tư tưởng, đaọ đức, phong cách Hồ Chí Minh;
tiếp thu tỉnh hoa văn hóa nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân
dân. Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa. Nghiêm cấm truyền bá tư

tưởng và văn hóa phản động, đồi trụy; bài trừ mề tín, hủ tục.” Giờ đã được thay
thế bằng Hiến pháp ban hành năm 2013.
Đến Hội nghị Trung ương 5 (Khóa VIII) diễn ra vào tháng 7 năm 1998,
Đảng ra nghị quyết về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam 20 tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, khẳng định vai trò của văn hóa trong tiến trình lịch sử
dân tộc và tương lai đất nước “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội Luật Di sản văn
hóa được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ IX thơng qua ngày 14/06/2001, có hiệu
lực từ ngày 01/01/2002 là cơ sở pháp lý cao nhất nhằm bảo tồn, phát huy giá trị di
sản văn hóa nói chung, lễ hội nói riêng. Năm 2009, Quốc hội đã thơng qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa. Tại Điều 25 của Luật này
quy định: Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội
truyền thống thơng qua các biện pháp sau đây: Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ
chức lễ hội; Khuyến khích việc tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian
truyền thống gắn với lễ hội; Phục dựng có chọn lọc nghi thức lễ hội truyền thống;
Khuyến khích việc hướng dẫn, phổ biến rộng rãi ở trong nước và nước ngoài về
nguồn gốc, nội dung giá trị truyền thống tiêu biểu, độc đáo của lễ hội.
Chỉ thị số 27/1998/CT-TW ngày 12/1/1998 của Bộ Chính trị khóa VIII về
việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
Chỉ thị số 14/1998/TC-TTg ngày 28/03/1998 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội đã dẫn
đến việc ra đời
Thông tư số 04/1998/TTg-BVHTT ngày 11/07/1998 của Bộ Văn hóa –
Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) hướng dẫn thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.

11


Như vậy, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước trong

thời gian qua đã có tác dụng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, ngăn chặn tình
trạng xuống cấp của di tích lịch sử, tác động mạnh mẽ đến sự nghiệp xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực phát triển
ngành du lịch “một ngành công nghiệp khơng khói” mang lại lợi nhuận kinh tế
cao. Từ những quy định trên của Hiến pháp, Đảng ta đãvạch ra đường lối cụ thể
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiêntiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Đường lối này đã từng bước được cụ thể hóa vàpháp lý hóa qua các văn bản
quy phạm pháp luật của nhà nước và các cơquan chức năng có liên quan.
1.3.2. Các văn bản do huyện Sóc Sơn ban hành nhằm bảo tồn và phát huy lễ
hội đền Sọ
Trên cơ sở luật pháp của Đảng và Nhà nước hướng dẫn, chỉ đạo qua các
Thông tư, Nghị định, Chỉ thị về cơng tác văn hóa và lễ hội, huyện Sóc Sơn cũng
đã nghiêm túc triển khai thực hiện và lấy đó làm căn cứ để đưa ra các văn bản
hướng dẫn phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, đồng thời xây dựng
chính sách quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa nhằm mục đích phát triển
văn hóa phần vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Trong những năm vừa qua, nhằm quản lý tốt hơn các hoạt động văn hóa
trên địa bàn, huyện Sóc Sơn đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về
công tác bảo tồn và phát triển văn hóa, các di tích lịch sử trong đó có lễ hội, các
văn bản cụ thể như: Quyết định số 681/2005/QĐ-UBND ngày 10/03/2005 về
việc sửa đổi, bổ sung quy chế, quy ước, tiêu chuẩn nếp sống văn hóa. Cơng văn
số 365/2007/QĐ-UBND ngày 18/02/2007 của UBND huyện Sóc Sơn quy định
“V/v thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội”.
1.4. Tổng quan về khu di tích đền Sọ
1.4.1. Khái quát vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn
Phù Lỗ là một xã thuộc huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Xã
Phù Lỗ có diện tích 6.26 km², dân số năm 2017 là 17892 người, mật độ dân số
đạt 2810 người/km².

12



Xã Phù Lỗ hiện nay có mật độ khu dân cư tăng cao. Phù Lỗ là một xã nối
liền các xã, huyện lớn trong địa phương. Tại đây chứa nhiều con đường chính để
đi tới trung tâm thành phố. Xã gần sân bay Nội Bài, ga tàu hỏa Đơng Anh.
Chính vì vậy, khách du lịch trong nước tới miền Bắc cũng như khách nước
ngồi đều có thể sẽ chọn Sóc Sơn là nơi dừng chân của tín ngưỡng văn hóa đầu
tiên và tìm hiểu về các di tích văn hóa lịch sử tại nơi đây.
Địa giới hành chính của xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn:
 Phía Bắc giáp xã Mai Đình
 Phía Nam giáp 2 xã Ngun Khê và Xn Nộn của huyện Đơng Anh;
 Phía Đơng giáp xã Đơng Xuân;
 Phía Tây giáp xã Phú Minh.
Từ xưa, Phù Lỗ đã là một đầu mối giao thương lớn phía bắc Thăng Long,
nằm nơi giao điểm của hai con đường thiên lý, nay là Quốc lộ 2 và Quốc lộ 3.
Ngay từ đời vua Lê Nhân Tơng, niên hiệu Thái Hịa thứ bảy, 1449, nhà Lê đã
cho đào sơng Bình Lồ, tạo nên con đường thủy từ Lãnh Canh (Thái Nguyên), về
qua Phù Lỗ, thơng suốt đến Bình Than (giáp thị trấn Nam Sách, Hải Dương
ngày nay). Khu vực cầu Phù Lỗ là một bến bãi bằng phẳng từ xưa. Chợ Sọ (chợ
Phù Lỗ) từ hơn 5 thế kỷ trước đã được mở ngay bến sông, nổi tiếng thiên hạ,
như sách Đại Nam nhất thống chí đã ghi: Chợ họp mỗi tháng 6 phiên sầm uất,
trên bến nước dưới thuyền, với đủ loại hàng hóa nơng sản trong vùng và nơng
sản từ miền thượng du đưa về. Cùng với việc buôn bán phát đạt, từ lâu đời,
người Phù Lỗ có nghề làm hương thơm nổi tiếng. Hương Phù Lỗ sản xuất quanh
năm, nhưng rộ lên nhất là từ Rằm tháng Tám đến Tết Nguyên đán. Vùng quê
này có câu ca nói lên niềm tự hào về q hương của mình:
Hỡi cơ thắt bao lưng xanh
Có về Phù Lỗ với anh thì về
Phù Lỗ có cây bồ đề
Có ao tắm mát có nghề làm hương...


13


1.4.2. Quá trình hình thành đền Sọ ở Phù Lỗ
Đền Sọ (tức Đền Tam Tổng) của xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, TP. Hà Nội
được xây dựng vào năm 1474 niên hiệu Hồng Đức thứ 14. Khn viên di tích
đền Sọ được đặt tại Khu Phố Chợ - Xã Phù Lỗ - huyện Sóc Sơn – thành phố Hà
Nội. Đền Sọ xã Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn ở một vị trí giao thơng thuận lợi ngay
bên cạnh quốc lộ 3, cạnh chợ Phù Lỗ [A2, Tr 64]. Khách đến di tích có thể đi
theo đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài, hoặc theo cầu Chương Dương theo
quốc lộ 3 chừng 30 km.
Thời gian diễn ra lễ hội đền Sọ được tổ chức trong 3 ngày vào ngày 16, 17,
18 tháng 2 hàng năm. Chính hội đền Sọ vào ngày 16 tháng 2 nơi có rất nhiều sự
kiện tế thờ mang yếu tố “ thiêng”, mang yếu tố thánh thần trong truyền thuyết và
cảm ơn đức Thánh Gióng đã có cơng đánh đuổi giặc Ân, đem lại hịa bình cho
đất nước.
Cách đền Sọ chừng 1 km là miếu Ba Voi thờ Thánh Tam Giang soi bóng
bên dịng sơng Cà Lồ.
Trước năm 1921, Đền Sọ có 3 tổng: Phù Lỗ, Phù Xá, Xuân Nộn. Đền Sọ
thuộc quần thể Đền Sóc, gồm 3 đền (Đền Sọ, Đền Sóc, Đền Thanh Nhàn), 9
tổng và 52 làng xã. Hàng năm cứ đến ngày mùng 6 tháng giêng là ngày mở hội
của 3 đền trong 5 ngày với nghi lễ rước sách như tiến voi, tiến ngà voi, tiến thảo,
tiến trầu cau, tiến dò (hoa tre), tiến lễ….Trong hội có các trị chơi Bách Hỷ.
Đến năm 1921, Đền Sọ trùng tu lần thứ 3 thì 3, nhân dân Tam Tổng đền
họp và thống nhất ngày mở hội. Rồi lập bia 8 mặt trên đỉnh Núi Sóc, trong bia
có ghi: 3 đền, 9 tổng, 52 làng xã lấy Đền Sọ làm đầu. Vì vậy, đến ngày mùng 7
tháng giêng hàng năm. Đền Sọ được vinh dự lên Đền Sóc tại Phù Linh làm lễ
khai Hạ trong lễ hội đền Gióng tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn.
Năm 1922 lập Bia Đền Tam Tổng, nội dung trong bia có ghi: 3 tổng là

tổng Phù Lỗ, Phù Xá và Xuân Nộn. Ngày lễ hội qui định trong 5 ngày, bắt đầu
từ ngày 16 tháng 2 cho đến hết ngày 20 tháng 2 Âm lịch hàng năm. Sáng ngày
16 tháng 2 đi lên Đền Sóc làm lễ xin phụng nghinh Bình Hương ra kiệu rước về
đến Đền Mã làm lễ rồi trở về Đền Sọ làm lễ an vị. Sáng ngày 20 tháng 2 thì Đền
14


làm lễ giã hội. Hội có các trị chơi như: thò lò, quay đất, rồi mở lắc đĩa, ca sẩm
thanh minh nam nữ hát ví, đến tối thì hát chèo tuồng, đào. Các lễ nghi, lễ hội
vẫn được duy trì theo phong tục cổ truyền và được bổ sung các trị chơi vui khỏe
như cầu lơng, bóng chuyền, bơi, thể dục dưỡng sinh, múa trống, múa quạt, chọi
gà, múa lân, văn hóa văn nghệ của các đồn văn cơng của tam tổng tập luyện.
Năm 2010 nhân dân xã Phù Lỗ có dựng thêm một bia nữa có ghi bài thơ ca ngợi
Thánh Gióng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Dân ta phải bi t s ta
Cho tư ng g c tích nước nhà Việt Nam
Kể năm hơn b n ngàn năm
T tiên r c rỡ anh em thuận hòa
Hồng Bàng là T qu c ta
Nước ta lúc y g i là Văn Lang
Thi u niên ta r t v vang
Tr như Phù Đ ng ti ng vang muôn đ i
Tu i tuy chưa đ n chín, mư i
Ra tay c u nước d p lồi vơ lương
Có thể nói Đền Sọ được xây dựng năm 1474, trải qua bao giai đoạn lịch
sử của dân tộc, Đền Sọ bị mai một, tàn phá do chiến tranh và được nhân dân xã
Phù Lỗ xây dựng lại vào năm 1992 trên nền móng cũ. Đền Sọ vẫn giữ được sự
uy nghiêm, tơn kính vị anh hùng dân tộc Thánh Gióng. Với giá trị lịch sử to
lớn, Đền Sọ đã được công nhận là Di tích lịch sử quốc gia vào năm 1997, góp
cùng quần thể Đền Sóc được thế giới cơng nhận là Di sản văn hóa phi vật thể

của thế giới năm 2010
Tới năm 1997, khn viên di tích đền Sọ đã được cơng nhận là di tích lịch sử
văn hóa theo quyết định số 141-QĐ/VH ngày 23 tháng 1 năm 1997, vào sổ danh
mục số 2021 do Bộ trưởng Văn hóa – Thông tin ký ngày 18 tháng 2 năm 1997 [A1,
Tr 64].
Trước chiến tranh năm 1945, lễ hội đền Sọ được tổ chức với quy mô rất
lớn, du khách thập phương khắp nơi đổ về lễ hội, khuôn viên lễ hội rất rộng đủ
15


để đáp ứng lượng du khách thập phương đông đảo. Lễ hội đền Sọ nằm ở vị trí
giao thơng ngã 3 của trung tâm xã Phù Lỗ là nơi tiếp giáp huyện Đơng Anh,
trung tâm huyện Sóc sơn và Mai Đình, kinh phí tổ chức lễ hội được cả 3 nơi đầu
tư cũng như đứng ra tổ chức. Trong chiến tranh, lễ hội đền Sọ không thể tổ chức
do bị ảnh hưởng bởi chiến tranh tàn phá, khuôn viên đền bị thu hẹp do bom đạn.
Mọi hoạt động tham gia lễ hội bị dừng lại cho tới năm 1986. Sau khi chiến tranh
kết thúc, đất nước ta dần dần khôi phục kinh tế đất nước, đời sống nhân dân dần
ổn định, lễ hội đền Sọ - đền Tam Tổng được khôi phục sau nhiều năm gián đoạn
với quy mô nhỏ hơn và đang được sự giúp đỡ rất nhiều của nhà nước cùng nhân
dân để khôi phục từ năm 1988.
1.4.3. Đặc điểm về kiến trúc, cảnh quan, không gian tại đền Sọ
Đền Sọ được xây dựng bề thế từ thời Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng
Đức trên nền cũ của một ngôi đền nhỏ dưới thời Hùng Vương. Đây là cơng trình
kiến trúc độc đáo và kỳ cơng, phía nam nhìn ra sơng, tạo thế phong thủy kỳ vĩ,
linh thiêng. Đền trải qua 2 lần trùng tu lớn vào năm 1741 và 1921 do biến cố
của lịch sử, bị chiến tranh phá hoại nên Đền bị phá hủy rất nhiều. Dưới sự giúp
đỡ của chính quyền và đồng lịng của nhân dân Tam Tổng đã khôi phục lại đền
như ngày hôm nay. Tuy bị tàn phá nhưng những giá trị vật thể bên trong đền còn
rất cổ.
Đền Sọ xây dựng theo kiểu chữ đinh (


) với 5 gian đại tế và 3 gian hậu

cung. Đại tế được làm kiểu đầu hồi bít đốc, tay ngai có trụ biểu, mái lợp ngói ta.
Hai trụ biểu làm cao, uốn chop nụ hoa có các đặc tả tứ linh, tứ quý. Kết cấu tịa
đại tế theo kiểu 5 hàng chân cột, bốn vì giữa làm chồng cuốn kẻ chuyền, tiền kẻ
hậu bẩy, kẻ trường phía trước gối cột hiên trị bằng xi măng. Trước thềm có hiên
trị bằng xi măng. Trước thềm có hiên rộng suốt 5 gian, hậu cung có 3 gian, một
dĩ làm kiểu đầu hồi bít đốc với 4 vì kèo, 2 cột gỗ. Các vì kèo làm theo lối kèo
tuột gối lên quá giang, xà chồng gác trường hai bên. Ở gian áp đối hậu cung xây
ba bệ gạch, chính giữa là ban thờ Thánh Gióng, ban thờ mẫu mẹ và Long Vương
ở hai bên. Phía ngồi cịn có ban thờ Quan Quản. Trước đây hai phía ngồi sân
16


đền là hai dãy tả mạc và hữu mạc, mỗi dãy 10 gian – dùng cho các làng đặt kiệu
khi đi dự hội.
Các di vật đồ thờ của đền hiện còn: Hai ngai thờ sơn son thiếp vàng đủ cả
mâm, trong đó có một chiếc ỷ nghệ thuật thế kỷ XIX với những họa tiết trang trí
đầu rồng, các hình tứ linh, hoa lá. Bên trong Đền là hậu cung có tạc tượng
Thánh Gióng, tượng Giám Mã, hương án, đơi hạc gỗ cao gần 3m, gươm thờ, quả
chùy, bát bửu, biển lệch; bên ngoài Đền là 3 gian 2 dĩ có trang bị hồnh phi câu
đối, ngồi hè có 2 ơng vệ sỹ; phía đơng Đền có ơng quan quản trơng coi Đền;
phía nam có xây nhà giếng là nơi Thánh Gióng gội đầu rồi hóa về trời tại núi
Sóc thôn Vệ Linh, miệng giếng bằng đá xanh và nồi hương bằng đồng ghi ba
chữ Hán “Tam Tổng đền”. Ngoài sân Đền là sân để tế lễ với diện tích khá hẹp,
phía xung quanh sân là nơi bn bán làm ăn của bà con chợ Phù Lỗ. Trước đây
đền có diện tích là 3750 m2, hiện nay diện tích cịn lại là 1712m2. Đối diện đền
là Nhà Giếng nơi Thánh Gióng gội đầu trước khi hóa lên trời [A8,Tr 69].
1.4.4. Truyền thuyết gắn liền với các vị thần được thờ tại đền Sọ

Đền Sọ là một trong những hệ thống văn hóa dân gian ghi nhận về truyền
thuyết Thánh Gióng đánh thắng giặc Ân. Truyền thuyết dân gian ghi nhận tên kẻ
Sọ gắn liền với người anh hùng làng Gióng, hay Phù Đổng Thiên Vương từ thời
Hùng Vương thứ 6 đánh thắng giặc Ân. Đại Việt s ký toàn thư phần Ngoại kỷ
toàn thư, kỷ Hồng Bàng Thị ghi chép lại về Thánh Gióng như sau: Tục truyền
đ i Hùng Vương th 6, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn
và có ti ng là phúc đ c. Hai ơng bà ao ước có một đ a con. Một hôm bà ra
đồng th y 1 v t chân r t to, liền đặt chân mình lên ướm th để xem thua kém
bao nhiêu. Không ng về nhà bà thụ thai và 12 tháng sau sinh được 1 cậu bé
khôi ngô. Nhưng lạ thay! Đ a tr cho đ n khi lên ba mà vẫn không bi t, nói
cư i, cũng chẳng bi t đi, đặt đâu nằm đ y. Gặp lúc trong nước có tin nguy c p,
vua sai ngư i đi tìm ngư i có thể đánh lui được giặc. Ngày hơm y, đ a tr
bỗng nói được, bảo m ra m i s giả vào, nói: "Xin cho một thanh roi sắt, một
áo giáp sắt và một con ng a sắt, vua không phải lo gì". Trong những ngày
chuẩn bị vũ khí cho cậu bé tr ra trận đánh giặc, Gióng lớn nhanh như th i,
17


cơm ăn không th y no, áo vừa mặc đã bung chỉ, cậu bé ngày nào lớn lên trở
thành một chàng trai cư ng tráng, s c vóc phi thư ng. Vua ban cho thanh roi
sắt và ng a, chàng trai liền phi ng a vung roi xông pha ti n lên trước, quan
quân theo sau, đánh tan quân giặc ở chân núi Trâu. B n giặc giẫm đạp lên nhau
mà chạy tan tác. Thánh Gióng đu i theo, tới chân núi Sóc thì dừng. Đ a tr cởi
áo giáp, phi ng a lên tr i mà đi. Vua sai s a sang chỗ vư n nhà của đ a tr để
lập đền th , tu th i cúng t . Về sau, Lý Thái T phong là Xung Thiên Thần
Vương. (Đền th ở cạnh chùa Ki n Sơ, hương Phù Đ ng). Sau khi Thánh Gióng
nghỉ chân tại một ngọn núi tại Thanh Nhàn, rồi đi qua một cái Giếng tại ngồi
sân đền, ơng đã gội đầu sạch sẽ trước khi cưỡi ngựa sắt lên núi Sóc rồi hóa lên
trời. Cũng từ đó nhân dân quanh khu vực có Giếng đã lập đền Tứ Bất Tử Thánh
Gióng và cả thánh Tam Giang. Đền Sóc, đền Mã, đền Mát, đền Sọ trở thành một

hệ thống hoàn chỉnh về giai đoạn cuối của cuộc hành trình Phù Đổng Thiên
Vương đánh giặc Ân, về sự tồn tại trường tồn của người anh hùng Làng Gióng.
Hình tượng ấy đã đi vào tâm khảm của người Việt Nam từ bao đời nay.
Lễ hội luôn là một sự kiện quan trọng nhằm khơi dậy, nhắc nhở nhân dân
về truyền thống “uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là dịp tôn thờ, tôn vinh những
vị thần linh, người có cơng với làng, khai ấp, nhân vật trong thế giới truyền
thuyết, con người có thật trong lịch sử như những vị anh hùng chống giặc ngoại
xâm,… Những nhân vật đó đã ăn sâu vào tiềm thức, chi phối cuộc sống, sinh
hoạt của người dân, giúp nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lễ hội chính
là sự kiện để tưởng nhớ, tri ân công đức của các bậc thần linh.
Đền Sọ đã trở thành địa điểm sinh hoạt văn hóa truyền thống mang ý
nghĩa giáo dục cao, như nhắc nhở tới mọi người về cội nguồn dân tộc, cùng
nhau đồng lịng, đồn kết gìn giữ giá trị văn hóa lâu đời. Có thể thấy, vai trị của
lễ hội truyền thống rất quan trọng, không chỉ trong đời sống vật chất hằng ngày
mà lễ hội còn thể hiện ý nghĩa văn hóa tâm linh, những khn mẫu chuẩn mực
đạo đức để con người noi theo.

18


×