Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.33 KB, 11 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
<b>Bách Việt</b> (chữ Hán: 百越/百粵; bính âm: bǎi yuè) là một thuật ngữ lỏng lẻo bao hàm
các dân tộc Việt cổ không bị Hán hóa hoặc bị Hán hóa một phần đã từng sống ở vùng đất
mà ngày nay thuộc lãnh thổ phía nam Trung Quốc và miền Bắc Việt Nam giữa thiên kỷ I
TCN và thiên niên kỷ I CN[1][2]<sub>. Đây cũng là từ cổ chỉ vùng đất mà các dân tộc này đã </sub>
sinh sống. Trong tiếng Trung Quốc cổ, các chữ (越, 粵, 鉞) đã thường được dùng thay
thế nhau cho nghĩa "Việt". Từ <i>Bách Việt</i> lần đầu tiên thấy chép là trong Sử Ký (Ngô Khởi
Truyện) của Tư Mã Thiên [3] .
1 Nguồn gốc
2 Đặc điểm và phân loại
3 Dòng di cư của người Hán và chiếm đất
4 Di sản của Bách Việt
5 Cách dùng hiện đại
6 Chú thích
7 Xem thêm
8 Liên kết ngồi
Bình gốm có vân khắc hình con quỳ
<i>Việt</i> với nghĩa "một trăm bộ lạc Việt". Sách Hán thư (漢書) viết: "Trong vịng bảy hoặc
tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê (thuộc vùng Bắc Chiết Giang), ở đâu cũng có
Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình." Nhà sử học Trung Quốc La Hương Lâm
(羅香林) đã cho rằng các dân tộc này có cùng tổ tiên với nhà Hạ. Tuy nhiên, các di chỉ
khảo cổ học có niên đại thuộc thời đại Đồ Đá Mới (<i>Neolithic</i>) tại Quảng Tây và ở miền
Bắc Việt Nam, đặc biệt là các ngơi mộ chum được tìm thấy nhiều ở Việt Nam và một số
ở Quảng Tây, cho thấy thổ dân bản xứ có nguồn gốc ở phía Nam và có quan hệ gần gũi
với các nền văn hóa Hịa Bình (9000-5600 TCN) và Bắc Sơn (8300-5900 TCN) ở Việt
Nam [3]<sub>.</sub>
Các nhà ngôn ngữ dân tộc học cho rằng phát âm của từ 越(Việt, Yue, Yueh) có thể có
liên quan đến một loại sợi cây gai dầu (<i>hemp</i>) được làm tại nơi mà nay là Chiết Giang.
Chính chữ Việt (越) có liên quan đến chữ "việt" ( 鉞- cái rìu lớn, một thứ binh khí thời
xưa), thường được coi là biểu tượng của hồng gia hoặc quyền lực hồng đế. Nhiều rìu đá
đã được tìm thấy tại vùng Hàng Châu, và cịn có bằng chứng rằng loại rìu đó là một phát
minh của vùng đất phía Nam. Cổ sử Trung Quốc gọi tên là Việt lần đầu tiên trong lịch sử,
Việt là tên một loại vũ khí độc đáo của người Việt cổ đồng thời cũng có nghĩa là vượt,
vượt sơng Hồng Hà xuống lưu vực phía Nam.
Các sách cổ nói đến nhiều nhóm người Việt, trong đó có Câu Ngơ (句吳), Ư Việt (於越),
Dương Việt (揚越), Mân Việt (閩越), Nam Việt (南越), Đông Việt (東越), Sơn Việt (山
越), Lạc Việt (雒越, người Kinh ở Việt Nam ngày nay) và Âu Việt (甌越, hay còn gọi là
Tây Âu - 西甌). Đa số những cái tên này tồn tại được đến các thời đế chế sơ khai ở Trung
Quốc và có thể được giải thích gần đúng là các nhóm văn hóa.
Theo huyền sử Việt Nam, một trăm người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ là tổ của
Nhận thấy các điểm khác biệt quan trọng giữa các nhóm tộc Việt, các học giả Trung
Quốc đã cố gắng phân loại các nhóm Việt khác nhau, thường dựa trên phép gọi tên của
các học giả Hán cổ hơn. Ở phía Nam vùng Quảng Đơng, Quảng Tây, vùng đất mà từ thời
nhà Tần đã thường được gọi là Lĩnh Nam, người Hán đã xác định các nhóm với tên
Dương Việt, Nam Việt, Tây Âu, Lạc Việt, U Việt, Điền Việt, Dạ Lang, v.v.. Vào đầu thời
nhà Hán, Bách Việt được chia thành các nhóm, trong đó: Đơng Âu (東甌), Mân Việt (閩
越), Nam Việt (南越), Tây Âu (西甌), Lạc Việt (雒越, 駱越, 貉越) là các nhóm chính.
1. <i>Đơng Âu</i>, sống ở vùng trước là lãnh thổ của các nước Ngô và Việt. (ngày nay là
vùng Ôn Châu (溫州), Chiết Giang, Trung Quốc)
2. <i>Mân Việt</i>, cũng nằm trong lãnh thổ cũ của nước Việt (tỉnh Phúc Kiến ngày nay),
được cho là tổ tiên của người Mân ở Trung Quốc hiện đại (những người nói tiếng
Mân Nam)
3. <i>Nam Việt</i>, trong địa bàn tỉnh Quảng Đông ngày nay, về sau phát triển vào địa bàn
tỉnh Quảng Tây và vùng phía Nam. Họ được cho là tổ tiên của người Quảng Đông
hiện đại.
4. <i>Tây Âu</i>, trong vùng ngày nay là miền Tây tỉnh Quảng Đông và miền Nam tỉnh
Quảng Tây
5. <i>Lạc Việt</i>, khu vực miền Bắc Việt Nam ngày nay, là tổ tiên của người Việt Nam
hiện đại.
Cho đến gần đây, các học giả Trung Quốc mới bắt đầu cố gắng phân biệt các nhóm một
cách nghiêm túc hơn. Trong khi nhiều học giả vẫn dựa quá nhiều vào việc trích dẫn các
sách cổ, các kết quả khảo cổ học gần đây đã bắt đầu đơn giản hóa q trình phân tích.
Một số học giả [5][6]<sub>liệt kê các đặc điểm văn hóa của các nhóm tộc Việt như sau:</sub>
1. Tục cắt tóc ngắn và xăm mình
2. Xây nhà sàn
3. Trang phục đặc trưng bởi quần ngắn hoặc váy quấn (<i>kilt</i>) và đầu đội khăn xếp
(<i>turban</i>)
4. Chế độ ăn nhiều sò hến và ếch
5. Tục nhổ răng, thường là răng nanh hoặc răng cửa trên
6. Tục lệ người cha tham gia q trình đỡ đẻ, sau đó chăm sóc con nhỏ để người mẹ
quay lại với việc làm đồng
7. Đúc và sử dụng trống đồng trong các nghi lễ
8. Bói bằng xương chim, đặc biệt là xương gà
9. Thờ vật tổ, đặc biệt là chim, bị sát, và cóc/ếch
10. Tục táng trên vách đá
11. Sử dụng nhiều đến thuyền bè và điêu luyện về thủy chiến
12. Hình dáng hình học của đồ gốm sứ
13. Kỹ thuật dệt phát triển cao
Việt Nam, sử dụng rìu đá có vai, cịn người ở vùng biển phía Bắc và xa phía Tây Nam
Trung Quốc thì khơng.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng cách phân chia hữu ích nhất là chia các tộc Việt thành
hai nhánh:
<i>Nhóm Bắc</i>, phân bố khắp vùng Trung và Bắc Quảng Đông, nối với vùng Bắc và
Đông Quảng Tây, và trong thời kỳ đầu cịn trải dài lên phía Bắc tới Phúc Kiến,
Giang Tây, Chiết Giang và Nam Giang Tơ.
<i>Nhóm Nam</i>, với địa bàn trải dài tới vùng mà ngày nay là Tây Nam Quảng Đông,
Nam và Tây Quảng Tây, và Bắc Việt Nam.
Các kết quả khảo cổ học có hỗ trợ cho cách phân chia đơn giản này. Các cổ vật đặc trưng
cho nhóm thứ nhất, nhóm Bắc, bao gồm đồ gốm hình học (<i>geometric pottery</i>), xẻng đá
lớn (<i>large stone shovel</i>), và đồ đồng kiểu Sở. Đặc điểm của nhóm thứ hai, nhóm Nam, là
các đồ đồng kiểu tây nam, việc sử dụng các loại dụng cụ đồ đá đa dạng, hầu như không
thấy đồ gốm hình học và xẻng đá lớn [7]<sub>. Nhóm phía Nam bắt đầu từ Việt Nam và kéo dài </sub>
theo vùng ven biển lên tới Quảng Đông. [8]<sub> Phát triển từ các nhóm văn hóa thời Đồ Đá Cũ</sub>
bản địa, sự tiếp nối của nhóm này đã được ghi nhận. Đó là các xã hội phát triển cao với
một nền tảng nông nghiệp và một bộ đầy đủ các loại đồ gốm và đồ đá. Một điểm khác
biệt rõ nét khác để phân tách hai nhóm chính là sự phát triển của một trong những loại cổ
vật quan trọng nhất của khu vực: trống đồng được tìm thấy chủ yếu ở các vùng Vân Nam,
Quảng Tây, và miền Bắc Việt Nam. Xem thêm bài Trống đồng.
Hướng tới một phân loại cụ thể hơn, các nhà học giả khác đã sử dụng cách chia ba để
phân tách các nhóm văn hóa Việt. Ba nhóm này bao gồm:
1. Nhóm Nam Việt: phân bố tại miền Trung và miền Bắc Quảng Đơng, và trong thời
kỳ đầu cịn bao gồm cả Phúc Kiến, Chiết Giang, và Nam Giang Tô. (trùng với
2. Nhóm Tây Âu, cịn gọi là Âu Việt (甌越): phân bố ở các vùng Quế Giang (桂江)
và Tây Giang (西江) của Quảng Tây.
3. Nhóm Lạc Việt: phân bố ở Tây Nam Quảng Đơng kéo tới Đông Nam Quảng Tây
và Bắc Việt Nam.
Kiếm bằng đồng xanh có hình đầu người Lạc Việt
Từ thế kỷ 9 trước Cơng ngun, hai nhóm Việt ở phía Bắc, Câu Ngơ và Ư Việt, bị ảnh
hưởng ngày càng nhiều bởi láng giềng Trung Hoa ( Người Hán) ở phía Bắc. Hai nước
này, một nước có lãnh thổ ở phía Nam Giang Tơ, nước kia ở vùng Bắc Chiết Giang. Giới
quý tộc lãnh đạo học chữ Hán, tiếp nhận các thể chế chính trị và kỹ thuật quân sự Trung
Hoa. Người ta đã cho rằng sự thay đổi về văn hóa này là do tể tướng nước Ngô là Ngô
Thái Bá (吳太伯) - một vương tử của nhà Chu đã chạy về phía Nam lánh nạn. Vùng đất
đầm lầy ở phía Nam đã mang lại cho Câu Ngô và Ư Việt những đặc điểm độc đáo. Họ
không chú trọng vào làm ruộng mà dựa nhiều hơn vào nghề thủy sản (<i>aquaculture</i>). Giao
thơng đường thủy có tầm quan trọng lớn ở phía Nam, do đó hai nước này đã tiến lên trình
độ cao về kỹ thuật đóng tàu thuyền và kỹ thuật thủy chiến. Họ còn nổi tiếng với những
thanh bảo kiếm.
Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, hai nước này, bấy giờ có tên là Ngơ và Việt, đã tham gia
ngày càng sâu vào chính trị Trung Hoa. Năm 512 TCN, Ngô đánh Sở - nước lớn nhất ở
miền Trung sông Dương Tử. Một chiến dịch tương tự đã diễn ra vào năm 506, lần này
Ngô chiếm được kinh đô của Sở - thành Dĩnh (郢). Cũng năm đó, chiến tranh nổ ra giữa
Ngơ và Việt và tiếp diễn thêm 3 thập kỷ nữa. Năm 473 TCN, Việt Vương Câu Tiễn (雒句
踐- Lạc Câu Tiễn) cuối cùng đã đánh bại nước Ngô và được các nước phía Bắc là Tề và
Trong suốt thời nhà Hán, có hai nhóm Việt được nhắc đến, đó là Nam Việt ở phía cực
Nam, sống chủ yếu tại các vùng Quảng Đông, Quảng Tây, và Việt Nam; và nhóm Mân
Việt ở phía Đơng Bắc, tập trung tại sông Mân Giang (閩江) ở vùng Phúc Kiến ngày nay.
Q trình Hán hóa các dân tộc này được thực hiện bởi sự kết hợp giữa sức mạnh quân sự
đế quốc và định cư của người Hán. Các khó khăn về vận tải và thủy thổ phương Nam đã
làm cho việc chiếm đất và cuối cùng là đồng hóa các dân tộc Việt diễn ra một cách chậm
chạp. Khi người Hán đến tiếp cận với các dân tộc Việt địa phương, họ thường giành lấy
quyền kiểm soát lãnh thổ hoặc khuất phục dân địa phương bằng bạo lực. Khi Hai Bà
Trưng khởi nghĩa vào năm 40, tướng Mã Viện của nhà Hán đã đem một lực lượng gồm
10.000 quân đến đánh dẹp. Trong khoảng từ năm 100 đến 184 đã có không dưới 7 cuộc
nổi dậy bằng quân sự, nhà Hán đã thường phải dùng đến các hoạt động phòng vệ mạnh.
Khi dân nhập cư người Hán tăng dần, các tộc Việt dần dần bị buộc phải chuyển đến
những vùng đất xấu hơn ở khu vực miền núi. Tuy nhiên, không giống với các dân tộc du
mục ở miền Trung Á, chẳng hạn người Hung Nô hoặc người Tiên Ti (鮮卑), các dân tộc
Việt chưa bao giờ là mối đe dọa lớn đối với sự bành trướng hay quyền kiểm sốt của
người Hán. Đơi khi, họ thực hiện các cuộc tấn công quy mô nhỏ vào vùng định cư của
người Hán - các nhà sử học truyền thống của Trung Quốc gọi đây là "các cuộc nổi loạn".
Về phần mình, người Hán coi các dân tộc Việt là những tộc người rất kém văn minh và
có xu hướng gây chiến lẫn nhau.
Tuy nhiên, dưới đời nhà Tần và nhà Hán, các tộc Bách Việt vẫn cư ngụ ở vùng đất cũ của
họ với các tổ chức xã hội và chính trị của riêng họ, sự cai trị của chính quyền người Hán
chỉ là trên danh nghĩa. Từ thế kỉ 4, khi Trung Quốc bắt đầu bị các tộc du mục phương
Bắc đánh chiếm - những người đã chiếm được toàn bộ vùng Bắc Trung Quốc và thiết lập
Ngũ Hồ thập lục quốc và Bắc triều, chiến tranh đã gây ra những đợt lớn dân di cư từ phía
Bắc về đổ về Nam Trung Quốc. Điều này đã tăng tốc q trình Hán hóa( Giao thoa văn
hóa giữa người Việt và người Hán) ở vùng Nam Trung Quốc, dân cư địa phương đã dần
dần bị nhập vào văn hóa Hán hoặc phải rời đi nơi khác. Theo thời gian, từ "Bách Việt" đã
Trong khi hầu hết các dân tộc Việt cuối cùng đã bị đồng hóa vào nền văn hóa Hán, người
Việt Nam, hậu duệ của nhóm Lạc Việt, đã giữ được bản sắc dân tộc của mình và cuối
cùng đã thốt khỏi sự thống trị của Trung Hoa vào thế kỷ 10. [9]
các dân tộc khác ở phía nam. Vào thời nhà Đường, từ "Việt" đã gần như trở thành một
địa danh hơn là một từ mang tính văn hóa. Chẳng hạn, trong thời Ngũ Đại Thập Quốc,
một nước tại vùng ngày nay là tỉnh Chiết Giang đã dùng tên nước là Ngô Việt. Cũng
giống như vậy, từ "Việt" trong "Việt Nam" có gốc từ chữ "Việt" (越) này.
Ảnh hưởng của văn hóa Việt đối với văn hóa Trung Hoa chưa được người Hán khẳng
định một cách chính thức, nhưng rõ ràng ảnh hưởng đó là đáng kể. Các ngơn ngữ của
những quốc gia cổ như Ngô và Việt đã hình thành nền tảng cho tiếng Ngơ hiện đại (吳語
- Ngơ văn) và ở một mức độ nào đó cũng là nền tảng cho tiếng Mân (閩方言) - các ngôn
ngữ của vùng Phúc Kiến. Các nhà nhân học ngôn ngữ cũng đã khẳng định rằng một số
lượng lớn các từ trong tiếng Trung Quốc có nguồn gốc từ các từ Việt cổ. Một ví dụ là từ
"giang" (江), nghĩa là "sơng". Các con sơng ở phía Bắc Trung Quốc đều được gọi là "hà"
(河), trong khi các con sơng ở phía Nam Trung Quốc được gọi là "giang" (江). Dấu vết
của ngôn ngữ Việt, đặc biệt là cấu trúc "tính từ đi sau danh từ" (ngược lại với tiếng Trung
Quốc) vẫn còn lại trong các tác phẩm văn thơ kinh điển của Trung Quốc như Kinh Thi[10]<sub> ,</sub>
và trong tên gọi của các vị thần/vương truyền thuyết mà người Trung Quốc coi là của họ
như <i>Thần Nông</i>, <i>Đế Nghiêu</i>, <i>Đế Thuấn</i>, <i>Đế Khốc</i>[11]<sub>.</sub>
Ở một mức độ nào đó, một số dấu vết cịn lại của các dân tộc Việt và văn hóa của họ cịn
có thể được thấy trong một số dân tộc thiểu số ở Trung Quốc, đặc biệt là người Tráng, và
nhiều dân tộc ở Việt Nam.
Một số học giả cho rằng Kinh Dịch là sản phẩm của nền văn minh Thần Nơng ở phía
Nam sơng Dương Tử (nghĩa là thuộc vùng đất Bách Việt). Có người còn khẳng định cụ
thể hơn rằng đây là sản phẩm của người Âu Việt và Lạc Việt[12]<sub> </sub>[13]<sub> </sub>[14]<sub> </sub>[15]<sub> </sub>[16]<sub> , với các lập </sub>
luận chẳng hạn như: có thể thấy các khái niệm Kinh Dịch được mã hóa trên các họa tiết
trống đồng; một số tên quẻ cũng như diễn giải quẻ của người Trung Quốc từ xưa tới nay
đơi khi cịn rất mơ hồ...
Trong tiếng Trung Quốc hiện đại, các chữ "越" và "粵" là khác nhau. Chữ thứ nhất
thường được dùng để chỉ vùng đất nguyên thủy của Vương quốc Việt, một khu vực phía
bắc của Chiết Giang và Thượng Hải, đặc biệt là các khu vực xung quanh Thiệu Hưng và
Ninh Ba. Hát tuồng Chiết Giang, chẳng hạn, được gọi là "Việt kịch" (越劇). Chữ "越"
cũng được dùng để chỉ Việt Nam (越南). Chữ thứ hai "粵" (yuè) được dùng làm tên gọi
tắt của tỉnh Quảng Đông. Tiếng Quảng Đông, được sử dụng tại Quảng Đông, Quảng Tây,
Hồng Kông, Macau và trong nhiều cộng đồng Hoa kiều ở các nước trên thế giới, cịn
được gọi là "Việt ngữ" (粵語).
Trong chữ Hán-Nơm mà người Việt Nam sử dụng, chữ "越" cũng được dùng trong tên
Việt Nam - "越南".
<i>1.</i> <b>^ Meacham, William (1996). "Defining the Hundred Yue". </b><i>Bulletin of the </i>
<i>Indo-Pacific Prehistory Association</i><b>15</b>: 93–100.
/>
<i>2.</i> <b>^ Barlow, Jeffrey G. (1997). "Culture, ethnic identity, and early weapons systems:</b>
the Sino-Vietnamese frontier". trong Tötösy de Zepetnek, Steven; Jay, Jennifer
W.. <i>East Asian cultural and historical perspectives: histories and society—</i>
<i>culture and literatures</i>. Research Institute for Comparative Literature and
Cross-Cultural Studies, University of Alberta. 1–15. ISBN 978-0-921490-09-8.
<i>3.</i> <b>^ Meacham, William "Origins and Development of Yue Coastal Neolithic: A </b>
Microcosm of Cultural Change on the Mainland of East Asia," Berkeley:
University of California Press, 1983. Tác giả gọi nền văn hóa vùng nam Trung
Quốc là 'Bắc Sơn Nam Trung Quốc' (<i>South China Bacsonian</i>)
<i>4.</i> <b>^ Đại Việt Sử ký Toàn thư. Quyển I. Kỷ Hồng Bàng thị: "</b><i>Hùng Vương lên ngôi, </i>
<i>đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, </i>
<i>bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tơn, tức nước Chiêm Thành, nay là </i>
<i>Quảng Nam)</i>"
<i>5.</i> <b>^ Yu Tianji, Qin Shengmin, Lan Riyong, Liang Xuda and Qin Cailan (eds.) Gu </b>
Nan Yue Guo Shi., [The History of the State of Ancient Yue.] Nanning: Guangxi
Renmin Chubanshe, 1988., pp. 179-188.
<i>6.</i> <b>^ Chen Guoqiang, Wu Nianji, Jiang Bingzhao and Qin Tucheng, </b><i>Bai Yue Minzu </i>
<i>Shi</i>, [The History of the Bai Yue People.] Beijing: Zhongguo Shehui Kexue
Chubanshe, 1988, pp. 41-61.
<i>7.</i> <b>^ Yu Tianzi, Qin Shengmin, Lann Riyong, Liang Xuda, Qin Cailan (eds.) pp. </b>
194-8. Lu Mingtian, "Qin Han Qianhou Lingan Bai Yue Zhuyao Zhixide Fenbu ji
qi Zu Cheng." [The Distribution and Names of the Important Branches of the Bai
Yue Peoples of the Lingnan Before and After the Qin and Han.] pp. 143-159 in
Bai Yue Minzu Shi Yanjiu Huipian, [The Research Committee of the History of
<i>8.</i> <b>^ Meacham, pps. 147-177.</b>
<i>9.</i> <b>^ Khoảng thế kỷ 12-13, khi quân Mông Cổ diệt nước Đại Lý, dân nước này chạy </b>
về phía Nam và trở thành tổ tiên của người Thái hiện là sắc tộc chính tại Thái Lan
và Lào, và là dân tộc thiểu số tại Việt Nam và Miến Điện. Có thuyết cho rằng
những người này có tổ tiên là Bách Việt.
<i>10.</i><b>^ Một trong nhiều ví dụ: </b>
<i><b>Trung tâm</b> dao dao</i> (Thử ly: trong lòng nao nao)
<i>Tại bỉ <b>trung hà</b></i> (Bách châu: giữa dịng sơng)
<i>11.</i><b>^ Không phải "Nông Thần", "Nghiêu Đế", "Thuấn Đế" ....</b>
<i>12.</i><b>^ Kim Định, </b><i>Dịch Kinh linh thể</i>, [1]
<i>13.</i><b>^ Kim Định, </b><i>Gốc rễ triết Việt</i>, Ghi chú về Lạc Thư là sách của Lạc dân
<i>14.</i><b>^ Trần Quang Bình, </b><i>Kinh Dịch, sản phẩm văn hóa của nền văn minh Âu Lạc</i> [2]
<i>15.</i><b>^ </b><i>Kinh Dịch - di sản sáng tạo của Việt Nam?</i> Loạt bài trên Thanh Niên Online
Người Trung Quốc
o Người Quảng Đông
o Người Mân Nam (người "Phúc Kiến" và "Đài Loan")
o Người Khách Gia
o Người Triều Châu
o Người Choang
Nam Việt
Mân Việt
Tiếng Việt:
Bách Việt trên Bách khoa toàn thư VN
Văn minh cổ và nguồn gốc dân tộc Việt Nam
Bách Việt Trong Lòng Đại Việt - Nguyễn Xuân Phước
Tiếng Anh:
Đường di chuyển của người tiền sử theo Map of early human migration patterns
M175 theo Genographic project
Introduction to Yuet Culture
Origins Of The Zhuang: The Bai Yue
Lấy từ “
Thể loại:
Các dân tộc cổ của Trung Quốc
Người Việt
<b>Công cụ cá nhân</b>
Mở tài khoản
Đăng nhập
<b>Không gian tên</b>
Bài viết
Thảo luận
<b>Biến thể</b>
Đọc
Sửa
Xem lịch sử
<b>Tác vụ</b>
<b>Tìm kiếm</b>
<b>Xem nhanh</b>
Trang Chính
Nội dung chọn lọc
Tin tức
Bài viết ngẫu nhiên
Thay đổi gần đây
Quyên góp
<b>Tương tác</b>
Hướng dẫn
Giới thiệu Wikipedia
Cộng đồng
Thảo luận chung
Bàn giúp đỡ
<b>Gõ tiếng Việt (?) </b>
Tự động [F9]
Telex (?)
VNI (?)
VIQR (?)
VIQR*
Tắt [F12]
Các liên kết đến đây
Thay đổi liên quan
Các trang đặc biệt
Tạo một quyển sách
Tải về dưới dạng PDF
Bản để in ra
<b>Ngơn ngữ khác</b>
English
Espol
贛語
한국어
Italiano
日本語
Polski
Русский
Vahcuengh
粵語
中文
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 05:47, ngày 4 tháng 5 năm 2012.
Văn bản được phát hành theo Giấy phép Creative Commons
Ghi
công/Chia sẻ tương tự ; có thể áp dụng điều khoản bổ sung. Xem Điều khoản
Sử dụng để biết thêm chi tiết.