Tải bản đầy đủ (.doc) (137 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC KỸ NĂNG ỨNG PHÓ với STRESS TRONG HOẠT ĐỘNG học tập của học VIÊN đào tạo CHÍNH TRỊ VIÊN ở TRƯỜNG sĩ QUAN CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.35 KB, 137 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ
Chính trị viên
Điểm trung bình
Kỹ năng ứng phó
Nhà xuất bản
Sĩ quan Chính trị

Chữ viết tắt
CTV
ĐTB
KNƯP
Nxb
SQCT

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang
3


2
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI
STRESS TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA
HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CHÍNH TRỊ VIÊN Ở
TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.2. Đặc điểm hoạt động học tập của học viên đào tạo chính
trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị


1.3. Biểu hiện của kỹ năng ứng phó với stress trong hoạt
động học tập của học viên đào tạo chính trị viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng ứng phó với stress
trong hoạt động học tập của học viên đào tạo chính trị
viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP TÂM LÝ - XÃ
HỘI PHÁT TRIỂN KỸ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI
STRESS TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CHO
HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CHÍNH TRỊ VIÊN Ở
TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ
2.1. Thực trạng kỹ năng ứng phó với stress trong hoạt động
học tập của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ
quan Chính trị
2.2. Biện pháp tâm lý - xã hội phát triển kỹ năng ứng phó
với stress trong hoạt động học tập cho học viên đào
tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

13
13
22

25

32

42


42

71
88
90
93

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Stress là một vấn đề luôn được sự quan tâm nghiên cứu bởi nhiều nhà
khoa học và nhiều lĩnh vực khác nhau như sinh lý học, tâm lý học, xã hội


3
học… Trong quá trình tồn tại và phát triển, ở mỗi giai đoạn lứa tuổi khác
nhau, con người đều phải đối mặt với những vấn đề khó khăn, phức tạp nảy
sinh trong hoạt động thực tiễn, do đó các cá nhân đều có thể bị stress. Với sự
phát triển của xã hội hiện đại, môi trường sống và môi trường làm việc luôn
đặt ra những yêu cầu cao về phẩm chất, năng lực nên nguy cơ bị stress của
mỗi cá nhân ngày càng cao. Stress là một hiện tượng diễn ra khá phổ biến và
không thể tránh khỏi trong cuộc sống của con người.
Ở một mức độ nhất định, stress có thể huy động tối đa nguồn năng
lượng dự trữ, tạo điều kiện thuận lợi cho con người hoạt động đạt hiệu quả.
Tuy nhiên, nếu stress thái quá, thường xuyên kéo dài sẽ tác động tiêu cực
đến tâm - sinh lý, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả hoạt động và chất
lượng cuộc sống. Khi bị stress, cá nhân thường có biểu hiện: nhức đầu, đau
cổ, đau lưng, tức ngực, khó thở, hoa mắt, chóng mặt, khẩu vị thay đổi, chán
ăn, mệt mỏi... Stress làm giảm tư duy phê phán, khả năng phân phối chú ý,
giảm sút trí nhớ, quyết định thiếu chính xác, mất bình tĩnh... Ngồi ra, khi

bị stress, họ thường đột nhiên lo buồn, cáu gắt, giận dữ, thậm chí, những
người bị stress q nặng cịn có thể dẫn đến những hành vi thiếu kiềm chế,
mất kiểm sốt mang tính chất phá hoại, nguy hiểm cho bản thân và xã hội.
Do vậy, tìm cách ứng phó với stress có hiệu quả, phù hợp với điều kiện khách
quan và khả năng của bản thân là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả hoạt động, chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân.
Học viên đào tạo CTV ở Trường SQCT có độ tuổi từ 18 đến 25. Ở lứa
tuổi này, học viên có sự phát triển khá hoàn thiện về mặt thể chất nhưng phần
lớn họ còn chưa ổn định về mặt cảm xúc. Thực tế hoạt động học tập tại Nhà
trường cho thấy, trong những thời điểm nhất định và đối với mỗi cá nhân, học
viên đều bị stress ở những mức độ khác nhau nhưng khả năng khắc phục, loại
bỏ tác động tiêu cực của stress ở học viên còn nhiều hạn chế. Kết quả là tinh
thần giảm sút, học tập khó tiến bộ, thậm chí có những hành vi “bất mãn” với


4
cuộc sống,… Mặt hạn chế này do nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân chủ
quan lẫn nguyên nhân khách quan, trong đó phải kể đến học viên cịn thiếu kỹ
năng sống, đặc biệt là KNƯP với stress. Do vậy, nếu có KNƯP với stress, học
viên có thể đương đầu và từng bước làm giảm ảnh hưởng của stress đối với
bản thân góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động.
Trong lĩnh vực quân sự, hiện nay đã có một số đề tài, bài báo nghiên cứu
về stress và cách giải tỏa, khắc phục stress ở các môi trường hoạt động, đối
tượng khác nhau trong đó có lứa tuổi học viên đào tạo sĩ quan cấp phân đội.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về KNƯP với stress trong hoạt hoạt động học tập
còn khá ít ỏi. Vì vậy, việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về KNƯP với
stress trong hoạt động học tập của học viên đào tạo CTV ở Trường SQCT
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động học tập, rèn luyện cũng như nâng cao chất
lượng đào tạo của Nhà trường đang trở thành một yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết.
Từ những phân tích ở trên, chúng tơi lựa chọn vấn đề: “Kỹ năng ứng

phó với stress trong hoạt động học tập của học viên đào tạo chính trị viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị” làm đề tài nghiên cứu trong khuôn khổ luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Tâm lý học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
* Tình hình nghiên cứu kỹ năng ứng phó với stress ở nước ngồi
Stress và ứng phó với stress là những vấn đề thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Những nghiên cứu chủ yếu đi vào các
vấn đề liên quan như: cách ứng phó, hành vi ứng phó.
Folkman và Lazarus (1980) đã xây dựng trắc nghiệm “Cách ứng phó”.
Trắc nghiệm đo hai kiểu ứng phó cơ bản nhất là: 1. Kiểu ứng phó tập trung
cảm xúc: đây là kiểu ứng phó chú ý nhiều đến cảm xúc cá nhân, kiểu ứng phó
này có mục đích làm giảm sự căng thẳng trong các tình huống mà con người
gặp phải; 2. Kiểu ứng phó tập trung giải quyết vấn đề: là kiểu ứng phó hướng
vào việc giải quyết vấn đề hay định hướng để thay đổi hoàn cảnh. Có thể nói,


5
các tác giả đã nêu ra được các cách ứng phó với stress cơ bản của con người
nhằm hạn chế, loại bỏ tác động tiêu cực của stress. Tuy nhiên, trên thực tế,
các cách thức ứng phó của con người không đơn giản chỉ là hai cách như
Folkman và Lazarus đã nêu, nó mang tính phức tạp, phong phú. Vì vậy, một
trắc nghiệm khác được ra đời, đó là trắc nghiệm “Ứng phó” của Carver,
Sheiner, và Weintraub (1989). Các tác giả đưa ra 5 thang đo về cách ứng phó
tập trung vào vấn đề, 5 thang đo về cách ứng phó tập trung vào cảm xúc, 3
thang đo về cách ứng phó khơng tích cực [Dẫn theo 8].
Trong cơng trình nghiên cứu về kỹ năng ứng phó của trẻ vị thành niên
(1988), Nezu và Ronan chỉ ra rằng: nếu vị thành niên khơng có kỹ năng
phịng ngừa những tác động của hồn cảnh có thể dẫn đến stress, trầm cảm và
lo âu. Các tác giả cũng chỉ rõ: Để giải quyết được các vấn đề, trẻ vị thành niên
cần có niềm tin dựa vào năng lực, xác lập được những KNƯP với những hồn

cảnh khó khăn của bản thân [ Dẫn theo 8].
Có thể nói, những nghiên cứu về ứng phó với các tình huống trong
cuộc sống thu hút được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa
học. Tuy nhiên, những nghiên cứu về KNƯP với stress còn chưa nhiều,
chúng tơi tìm thấy một số tác giả nói về vấn đề này. Đó là:
Thang đo về KNƯP của Erica Frydenberg và Ramon Lewis (1993)
dùng cho trẻ vị thành niên và thậm chí cả những đối tượng lớn hơn. Thang đo
này là công cụ lâm sàng cho phép đánh giá hành vi ứng phó của trẻ vị thành
niên và được thực hiện nhằm thu thập thông tin về 18 cách ứng phó của trẻ vị
thành niên với các hồn cảnh khó khăn.
Trong tác phẩm “Kỹ năng ứng phó với stress” (2007), Kumarmahi đã
nêu bật các vấn đề liên quan đến KNƯP như: 3 bước của q trình ứng phó là
nhận diện tác nhân (biết được gì), quy trách nhiệm (làm như thế nào) và hành
động (làm gì); đỉnh 3 phương pháp ứng phó là ứng phó tích cực, làm việc có ý
nghĩa và ứng phó hợp với tơn giáo. Từ đó, tác giả nhấn mạnh, KNƯP với


6
stress cần thiết phải có các kỹ năng sau: kỹ năng tư duy tích cực, kỹ năng ra
quyết định và giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tương tác xã hội
và kỹ năng tự điều chỉnh [ Dẫn theo 8].
Khi tìm hiểu về các nghiên cứu trực tiếp về KNƯP với stress trong
hoạt động học tập, hiện nay chúng tơi chỉ tìm thấy một cơng trình đó là:
Nghiên cứu cách ứng phó với những vấn đề liên quan đến trường học của
học sinh các châu lục (đại diện là vùng Bắc Mĩ gồm Canađa và Mĩ, Đức
(Châu Âu), Malaysia (Châu Á)) của C.A. Essau và Thommsdorff vào năm
1996. Qua nghiên cứu của các tác giả cho thấy: biểu hiện của các cách
ứng phó tập trung cảm xúc hay cách ứng phó tập trung vấn đề của học
sinh các châu lục rất khác nhau, đặc biệt là những thể hiện về mặt cảm
xúc. Nghiên cứu không những chỉ ra xu hướng ứng phó của học sinh với

những vấn đề trong nhà trường đại diện cho các châu lục khác nhau mà
còn đặt ra vấn đề ứng dụng phương pháp thống nhất trong nghiên cứu
giao thoa văn hóa [ Dẫn theo 8].
* Tình hình nghiên cứu kỹ năng ứng phó với stress ở Việt Nam
Những nghiên cứu về KNƯP với stress nói chung và stress trong học tập,
rèn luyện của học viên trong môi trường hoạt động quân sự nói riêng là khá ít ỏi.
Năm 2008, Đỗ Thị Thu Hồng với đề tài nghiên cứu “Kỹ năng ứng phó
với những khó khăn trong cuộc sống của học sinh trung học cơ sở tại Hà Nội”
đã nêu lên các loại khó khăn mà học sinh trung học cơ sở của hai trường được
khảo sát gặp phải. Từ đó, tác giả đặt câu hỏi: Như vậy khó khăn trong học tập
ở đây phải chăng là những áp lực học tập và những kì vọng cao của bố mẹ?.
Tuy nhiên, tác giả không cho người đọc thấy được khái niệm KNƯP với khó
khăn và biểu hiện cụ thể của kỹ năng này.
Trong cơng trình “Nghiên cứu ngun nhân dẫn đến stress trong học
tập của học viên Đại học Quốc gia Hà Nội” của Nguyễn Hữu Thụ và các
cộng sự (2009) đã cho thấy: Sinh viên bị stress là do nhiều nguyên nhân,


7
trong đó ngun nhân từ mơi trường học tập được xem là nguyên nhân chủ
đạo, trực tiếp. Qua đó, tác giả tập huấn cách ứng phó với stress trong học tập
cho sinh viên, góp phần nâng cao hiệu quả học tập của sinh viên [26].
Năm 2011, với đề tài “Kỹ năng ứng phó với căng thẳng của học sinh
trường Trung học cơ sở Tứ Minh - Thành phố Hải Dương”, Nguyễn Thị Minh
Hải không làm rõ bản chất của KNƯP với căng thẳng mà đi sâu phân tích các
biện pháp ứng phó với căng thẳng (từ lý luận đến thực tiễn) bao gồm: nhóm
biện pháp điều chỉnh nhận thức của bản thân; nhóm biện pháp điều chỉnh lối
sống; nhóm biện pháp tìm đến các hoạt động phong phú đa dạng; nhóm biện
pháp tìm về gia đình; nhóm biện pháp hoạt động xã hội.
Nhìn chung, những nghiên cứu về stress đã thu được những kết quả

đáng kể, những kết quả nghiên cứu này đang góp phần làm rõ hơn cơ sở lý
luận và thực tiễn ảnh hưởng của stress đối với hoạt động học tập nói riêng,
trong cuộc sống nói chung ở một số đối tượng cụ thể.
Trong Quân đội, tuy chưa có một cơng trình nghiên cứu có tính chất hệ
thống về KNƯP với stress; song, đã có nhiều nhà tâm lý học quân sự quan
tâm đến vấn đề stress trong hoạt động qn sự.
Trong cơng trình nghiên cứu: “Ngăn ngừa tác động tiêu cực của căng
thẳng tâm lý trong hoạt động quân sự”, tác giả Ngô Minh Tuấn đã cho rằng,
hoạt động quân sự là một loại hình hoạt động đặc biệt của con người, đó là
hoạt động có sự nỗ lực rất lớn về thể lực, tinh thần, cùng các phẩm chất tâm lý
khác ở quân nhân, thậm chí hy sinh cả xương máu của mình trong q trình
hoạt động, nó thường tạo ra stress làm ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu suất hoạt
động quân sự của quân nhân. Bên cạnh đó, trong giai đoạn hiện nay, các mâu
thuẫn, xung đột tâm lý trong quan hệ giữa các quân nhân, quân nhân với nhân
dân địa phương, xô xát, ẩu đả, cố ý gây thương tích, tự thương… ngày càng


8
gia tăng làm ảnh hưởng đến hoạt động quân sự. Từ đó, tác giả đề ra một số
biện pháp cơ bản để giảm căng thẳng tâm lý cho quân nhân [13, tr. 103-107].
Khi bàn về: “Vai trò của tâm lý học quân sự trong đối phó và khắc
phục stress của quân nhân ở đơn vị cơ sở”, tác giả Nguyễn Đình Gấm đã nêu
lên các mức độ stress; nguyên nhân và tác động ảnh hưởng của stress với hoạt
động của quân nhân, từ đó tác giả đã đưa ra cách đối phó và khắc phục stress
ở quân nhân ở đơn vị cơ sở [13, tr. 311-314].
Nói về stress ở học viên nhà trường quân đội, các tác giả Nguyễn Minh
Thức và Nguyễn Đạt Đạm bước đầu đã có những lý giải khá phong phú về
nguyên nhân, ảnh hưởng của stress tới quá trình học tập, rèn luyện của học
viên và những giải pháp khắc phục stress cho học viên trong các nhà trường
quân đội [13, tr. 335-340].

Những nghiên cứu của các tác giả về stress trong Quân đội đã bước đầu
có những kết quả phân tích nhất định về những ảnh hưởng của stress đối với
quá trình học tập, rèn luyện của quân nhân. Tuy nhiên, những nghiên cứu về
stress trong hoạt động quân sự vẫn chưa nhiều và mang tính chun sâu, đặc
biệt là vẫn chưa có một cơng trình nghiên cứu cụ thể mang tính hệ thống về lý
luận và thực tiễn về KNƯP với stress của học viên trong các nhà trường quân
đội nói chung, học viên đào tạo CTV ở Trường SQCT nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về KNƯP với stress trong hoạt
động học tập của học viên đào tạo CTV ở Trường SQCT, đánh giá thực trạng
KNƯP với stress trong hoạt động học tập của học viên, trên cơ sở đó đề xuất
những biện pháp tâm lý - xã hội cơ bản nhằm phát triển KNƯP với stress
trong hoạt động học tập cho học viên trong quá trình đào tạo tại Nhà trường.
* Nhiệm vụ nghiên cứu


9
Làm rõ một số vấn đề lý luận về KNƯP với stress trong hoạt động học
tập của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường SQCT.
Khảo sát, đánh giá thực trạng KNƯP với stress trong hoạt động học tập
của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường SQCT.
Đề xuất biện pháp tâm lý - xã hội cơ bản nhằm phát triển KNƯP với stress
trong hoạt động học tập cho học viên đào tạo chính trị viên ở Trường SQCT.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Học viên đào tạo CTV, giảng viên, cán bộ quản lý học viên ở
Trường SQCT.
* Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện KNƯP với stress trong hoạt động học tập của học viên đào

tạo CTV.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu KNƯP với stress trong hoạt động học tập của
học viên đào tạo CTV ở Trường SQCT (đối tượng đào tạo 5 năm từ nguồn
học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông và quân nhân tại ngũ).
Các số liệu nghiên cứu được xác định trong khoảng thời gian từ tháng
12 năm 2019 đến tháng 3 năm 2020.
5. Giả thuyết khoa học
Trong hoạt động học tập ở Trường SQCT, học viên đào tạo CTV gặp
phải stress ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, KNƯP với stress trong hoạt
động học tập của học viên đào tạo CTV ở Trường SQCT cịn có những hạn chế
nhất định. Nếu đánh giá được thực trạng kỹ năng hiện có của học viên thì có
thể đề xuất được những biện pháp khả thi nhằm phát triển KNƯP với stress cho
học viên, tạo chuyển biến tích cực trong việc nâng cao chất lượng hoạt động
học tập của học viên tại trường, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận


10
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác giáo
dục - đào tạo, nhiệm vụ quốc phòng an ninh, vấn đề xây dựng quân đội nhân dân
Việt Nam trong tình hình mới; Cơ sở nguyên tắc phương pháp luận chủ yếu của
tâm lý học mácxít như: nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng của các
hiện tượng tâm lý người, nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý - ý thức với hoạt
động, nguyên tắc tiếp cận nhân cách... Đồng thời, luận văn được thực hiện trên
cơ sở các kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý học trong nước và trên thế giới.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của tâm lý

học và các khoa học liên ngành. Kết hợp chặt chẽ giữa các phương pháp
nghiên cứu lý luận với các phương pháp nghiên cứu thực tiễn, trong đó tập
trung vào một số phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Nghiên cứu, phân tích các tài liệu
có liên quan nhằm thu thập hệ thống cơ sở lý luận của luận văn, nghiên cứu các
phương pháp, số liệu để định hướng làm cơ sở cho việc nghiên cứu luận văn.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến các nhà nghiên cứu, các chuyên
gia tâm lý học trong và ngoài Quân đội về những vấn đề liên quan đến luận văn.
- Phương pháp quan sát: Nhằm chính xác hóa và bổ sung số liệu
nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng để thấy được những biểu hiện
của stress ở học viên thông qua cử chỉ, điệu bộ, hành vi…
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Đây là phương pháp cơ bản của
luận văn nhằm đánh giá thực trạng của vấn đề nghiên cứu. Tác giả sử dụng
hai mẫu bảng hỏi (bảng hỏi dành cho học viên và bảng hỏi dành cho giảng
viên, cán bộ quản lý học viên).
- Phương pháp tạo đàm, phỏng vấn: Là phương pháp bổ trợ, tác giả
tiến hành phỏng vấn trực tiếp một số học viên, giảng viên, cán bộ quản lý


11
nhằm chính xác hóa những thơng tin thu được từ phương pháp điều tra bằng
bảng hỏi hoặc bổ sung những thông tin mới cần thiết cho việc nghiên cứu.
- Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học: Phương pháp này
được sử dụng để tính tốn, xử lý số liệu thu thập được bằng các phương pháp
nêu trên. Các cơng thức tốn học được sử dụng trong luận văn: Tính tỷ lệ
phần trăm, tính điểm trung bình, cơng thức tính hệ số tương quan Spearman.
7. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn luận giải một cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn
về KNƯP với stress trong hoạt động học tập của học viên đào tạo CTV ở
Trường SQCT. Đề xuất các biện pháp tâm lý - xã hội nhằm phát triển KNƯP

với stress trong hoạt động học tập cho học viên, từ đó góp phần nâng cao chất
lượng giáo dục - đào tạo của Nhà trường.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để cán bộ lãnh đạo - quản lý,
giảng viên hiểu về stress, KNƯP với stress trong hoạt động học tập của học
viên đào tạo CTV, từ đó biết phối hợp các lực lượng, các cấp để ngăn ngừa
stress cho học viên, phát triển KNƯP với stress cho học viên góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động học tập của học viên.
8. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm: mở đầu; 2 chương (6 tiết); kết luận; kiến nghị; danh
mục tài liệu tham khảo; phụ lục.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KỸ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI STRESS TRONG
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA HỌC VIÊN ĐÀO TẠO CHÍNH TRỊ VIÊN Ở
TRƯỜNG SĨ QUAN CHÍNH TRỊ


12
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Stress
Từ “stress” lần đầu tiên được sử dụng ở thế kỷ 14 để chỉ những khó
khăn, nghịch cảnh hoặc phiền não. Theo tiếng Latinh, stress được bắt nguồn
từ “strictus” và một phần của từ “stringere” có nghĩa là căng thẳng, bất hạnh,
đè nén… Trong tiếng Anh, stress có nghĩa là nhấn mạnh. Stress được dùng
trong vật lý học để chỉ sức nén mà vật liệu phải chịu, sau đó, thuật ngữ này
được sử dụng trong y học và tâm lý học. Stress được xem như là một sự tác
động của những tình huống, hồn cảnh khó khăn vào một cá thể hay như một
sự phản ứng của cá thể trước những kích thích đó. Một số nhà nghiên cứu coi
stress là sự tương tác đặc biệt giữa kích thích - phản ứng mà trong đó cá nhân
cảm thấy bị đe dọa. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi tiếp

cận khái niệm cũng như những biểu hiện của stress dưới góc độ Tâm lý học.
Do đó, dưới đây chúng tơi trình bày một số quan niệm tiêu biểu như sau:
Trong tác phẩm “Stress từ bệnh học tâm thần đến cách tiếp cận điều
trị” của Ferreri (chủ biên - 1997) do Nguyễn Việt dịch, biên soạn, Bruce
Singh và Sidney Bloch cho rằng: “Stress đề cập tới các hoạt động hoặc các
tình huống, gây ra cho con người những yêu cầu về cơ thể và tâm lý quá mức
và đe dọa gây mất thăng bằng” [8, tr. 111].
Trong cơng trình nghiên cứu chung của Phạm Minh Hạc, Trần Trọng
Thuỷ và Lê Khanh, các tác giả đã nêu lên thành phần quan trọng của stress là
xúc cảm và một số nguyên nhân cơ bản gây ra stress ở con người khi cho
rằng: “Stress là những xúc cảm nảy sinh trong những tình huống nguy hiểm,
hẫng hụt, hay trong những tình huống phải chịu đựng những nặng nhọc về thể
chất và tinh thần hoặc trong những điều kiện phải quyết định hành động
nhanh chóng và trọng yếu” [10, tr. 156].
Theo tác giả Nguyễn Thành Khải: “Dưới góc độ của tâm lý học, có thể
hiểu stress là trạng thái căng thẳng về tâm lý mà con người cảm nhận được


13
trong quá trình hoạt động cũng như trong cuộc sống” [17, tr. 20]. Với cách
tiệp cận này, tác giả chưa chỉ ra được nguồn gốc gây ra stress ở mỗi cá nhân.
Với cách tiếp cận đề cập đến vai trò của yếu tố nhận diện và thái độ của
con người trong stress, trong tác phẩm “Cảm xúc căng thẳng trong lao động”,
tác giả Tơ Như Kh quan niệm: “Stress chính là những phản ứng không đặc
hiệu xảy ra một cách chung khắp, do các yếu tố có hại về tâm lý xuất hiện
trong các tình thế mà con người chủ quan thấy là bất lợi hoặc rủi ro, ở đây vai
trị quyết định khơng chủ yếu do các tác nhân kích thích, mà do sự đánh giá
chủ quan về tác nhân đó” [20, tr. 33].
Như vậy, do mỗi tác giả, cơng trình nghiên cứu đề cập đến một hoặc vài
khía cạnh, bình diện khác nhau của stress nên hiện nay còn tồn tại nhiều quan

điểm về stress. Tuy nhiên, hầu hết các quan điểm đều nhấn mạnh đến các yếu tố
khó khăn, phức tạp từ bên ngồi tác động vào cá nhân; chủ thể khơng có hoặc ít
khả năng, năng lực để thích nghi, đối phó mà chưa đề cập đến những căng thẳng
xuất hiện do sự không được thỏa mãn nhu cầu bên trong của chính chủ thể.
Nhu cầu là trạng thái tâm lý đòi hỏi phải được thỏa mãn để tạo ra sự cân
bằng trong đời sống tâm lý cá nhân. Nội dung nhu cầu mang tính chủ quan
nhưng đối tượng thỏa mãn nhu cầu lại thuộc vào điều kiện, hồn cảnh khách
quan. Trong nhiều trường hợp, có những nhu cầu bị kìm nén buộc chủ thể phải
nỗ lực, cố gắng để vượt qua mong muốn chủ quan dẫn đến trạng thái căng thẳng
xuất hiện và tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất, tinh thần của cá nhân.
Trên cơ sở kế thừa các quan điểm khác nhau và từ sự phân tích ở trên, chúng
tơi quan niệm: “Stress là trạng thái tâm lý căng thẳng xuất hiện do các hồn cảnh,
tình huống khó khăn, phức tạp gây ra hoặc khi không được thỏa mãn nhu cầu, trực
tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, tinh thần và hoạt động của con người”.
Với cách tiếp cận như trên, stress là một tình trạng của cơ thể đang chịu
một sức ép hay áp lực mạnh về nhiều mặt (sinh lý, tâm lý) vượt quá sức chịu
đựng của bản thân chủ thể và được biểu hiện qua các dấu hiệu cơ thể. Stress
như một quá trình tương tác giữa con người và môi trường, là nỗ lực của cơ


14
thể để thích nghi, là mọi đáp ứng, phản ứng của con người với những tác động
vào người đó.
Những tác nhân gây ra stress hoặc góp phần gây ra stress là từ những
kích thích (sức ép) đa dạng từ bên ngồi hoặc do chính bản thân gây ra (tự tạo
áp lực, không được thỏa mãn nhu cầu của bản thân...). Khi có các tác động, do
nhận thức của cá nhân lý giải về nguồn gốc gây ra stress ra sao và nhận thức
về khả năng, tiềm lực của bản thân cũng như các nguồn lực sẵn có để ứng phó
mà stress xuất hiện ở những mức độ khác nhau.
Stress gây ra những hậu quả và ảnh hưởng đến sức khỏe con người

biểu hiện ở các mặt thể chất (uể oải, khơng muốn ăn…), tâm lý (q trình
nhận thức, cảm xúc, hành vi) và hoạt động của cá nhân (học tập, cuộc sống
thường ngày…). Những hậu quả đó ở mức độ như thế nào sẽ tùy thuộc vào
khả năng ứng phó với stress của mỗi cá nhân.
Như vậy, stress là một trạng thái căng thẳng xuất hiện trong cuộc sống
thực tại của cá nhân, đòi hỏi cá nhân phải huy động những tiềm lực nhất định
của bản thân hoặc sự giúp đỡ của người khác để giải quyết nhằm tạo ra sự cân
bằng, lành mạnh trong đời sống tâm lý.
1.1.2. Kỹ năng ứng phó với stress
* Kỹ năng
Kỹ năng là một vấn đề phức tạp và được các nhà nghiên cứu bàn luận
khá nhiều. Cho đến nay, khái niệm “kỹ năng” vẫn cịn tồn tại nhiều quan niệm
do góc độ tiếp cận khác nhau.
Khi bàn về khái niệm “kỹ năng”, L. Đ.Lêvitôv - nhà tâm lý học Liên
Xô cho rằng: “Kỹ năng là sự thực hiện có kết quả một động tác nào đó hay
một hoạt động phức tạp hơn bằng cách lựa chọn và áp dụng những cách thức
đúng đắn, có tính đến những điều kiện nhất định”. Theo ơng, người có kỹ
năng hành động là người phải nắm được và vận dụng đúng đắn các cách thức


15
hành động nhằm thực hiện hành động có kết quả. Như vậy, cá nhân có kỹ
năng khơng chỉ nắm lý thuyết về hành động mà phải vận dụng vào thực tế.
Theo từ điển Oxfort, “kỹ năng” là khả năng để làm tốt một cơng việc
nào đó thường có được qua đào tạo hoặc kinh nghiệm. Theo đó, kỹ năng được
hiểu là sự thành thạo, tinh thông về các thao tác, động tác trong q trình hồn
thành một cơng việc cụ thể nào đó [31].
Trong bài viết “Vai trị của kỹ năng trong sự phát triển con người”, tác giả
Đặng Thành Hưng quan niệm: “Kỹ năng là một dạng hành động được thực hiện
tự giác dựa trên tri thức về công việc, khả năng vận động và những điều kiện

sinh học - tâm lý khác của cá nhân (chủ thể của kỹ năng đó) như nhu cầu, tình
cảm, ý chí, tính tích cực cá nhân... để đạt được kết quả theo mục đích hay tiêu
chí đã định, hoặc mức độ thành công theo chuẩn hay quy định” [14, tr. 25].
Theo tác giả Thái Duy Tuyên, “Kỹ năng là sự ứng dụng kiến thức trong
hoạt động”. Như vậy, mỗi kỹ năng bao gồm một hệ thống thao tác trí tuệ và
thực hành, thực hiện trọn vẹn hệ thống thao tác này sẽ đảm bảo đạt được mục
đích đặt ra cho hoạt động. Điều đáng chú ý là sự thực hiện một kỹ năng luôn
luôn được kiểm tra bằng ý thức, nghĩa là khi thực hiện bất kỳ một kỹ năng
nào đều nhằm vào một mục đích nhất định.
Khẳng định vai trị của kỹ năng trong hoạt động thực tiễn của con
người, tác giả Vũ Dũng cho rằng: “Kỹ năng là năng lực vận dụng có kết quả
tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh hội để thực hiện
những nhiệm vụ tương ứng” [6].
Tóm lại, tuy có nhiều quan niệm khác nhau về kỹ năng nhưng các tác
giả đều có chung một quan niệm, đó là gắn kỹ năng với hoạt động của cá
nhân. Nó là phương thức hành động phù hợp với điều kiện, yêu cầu của hoạt
động và giúp mang lại hiệu quả của hoạt động.
Kế thừa các quan điểm trên, chúng tôi quan niệm:“Kỹ năng là sự vận


16
dụng tri thức, kinh nghiệm và phương thức hoạt động trong điều kiện, hồn
cảnh nhất định nhằm đạt mục đích đề ra”.
Như vậy, kỹ năng là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm và phương thức
hoạt động vào những trường hợp khác nhau nhằm đạt hiệu quả nhất định.
Sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm và phương thức hoạt động cũng như
việc tiến hành các thao tác hoạt động phải phù hợp với từng điều kiện, hoàn
cảnh của hoạt động và khả năng hiện có của bản thân.
Khi nói tới kỹ năng bao giờ cũng chứa đựng tính sáng tạo, linh hoạt của
bản thân chủ thể trong việc vận dụng những tri thức, kinh nghiệm và phương

thức hoạt động đã có vào từng tình huống cụ thể và đảm bảo cho hoạt động ấy
đạt được mục đích đề ra.
* Ứng phó
Trong Tiếng Anh, khái niệm ứng phó xuất phát từ từ “cope” có nghĩa là
đương đầu, đối mặt, thường là trong những tình huống bất thường, những tình
huống khó khăn và căng thẳng.
Từ điển Tiếng Việt giải thích, “ứng phó” có nghĩa là chủ động, sẵn sàng
đáp lại tình thế bất lợi một cách kịp thời.
Theo Lazarus và Folkman (1984) cho rằng, ứng phó là “những cố gắng
thay đổi khơng ngừng về nhận thức và hành vi để giải quyết những yêu cầu đặc
biệt từ bên trong hoặc bên ngoài. Những yêu cầu này được đánh giá là một
nhiệm vụ nặng nề hoặc vấn đề vượt quá tiềm lực của một con người”. Những
năm gần đây, thuật ngữ ứng phó đã được phổ biến hoá về ngữ nghĩa và sử dụng
trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, nhưng định nghĩa sự ứng phó trong
khoa học Tâm lý phải được hiểu là bao gồm cả những cố gắng để giải quyết sang
chấn tâm lý và sự tác động của chúng đem đến kết quả như thế nào? [33].
Theo Keil (2004), ứng phó là những nỗ lực về nhận thức và hành vi
được tiến hành để kiểm soát (làm giảm, đưa về mức tối thiểu, kiềm chế hoặc
thích ứng) những khó khăn cá nhân và những yêu cầu của hoàn cảnh nhằm


17
giúp cho cá nhân vượt qua được tác nhân gây căng thẳng của họ. Như vậy
ứng phó có hai chức năng ban đầu: Đấu tranh với những vấn đề gây ra căng
thẳng và điều chỉnh cảm xúc mà những vấn đề đó gây ra [33].
Hiện nay, trong Tâm lý học khi lý giải thuật ngữ “ứng phó” cũng tồn tại
nhiều hướng nghiên cứu khác nhau nhưng tựu trung, các tác giả đều coi ứng
phó là sự chủ động của cá nhân nhằm giải quyết thành công các vấn đề trước
những hồn cảnh, tình huống khó khăn hoặc bất ngờ. Hay nói cách khác, ứng
phó là những nỗ lực của cá nhân, bao gồm cả hành động bên ngoài và tâm lý

bên trong nhằm giải quyết những tình huống gây mệt mỏi hoặc vượt quá khả
năng của cá nhân, buộc cá nhân phải nỗ lực để giải quyết.
Từ những khía cạnh tiếp cận như trên, có thể hiểu ứng phó là cách mà
cá nhân thể hiện sự tương tác của mình với hoàn cảnh tương ứng và với
những khả năng tâm lý của họ. Khái niệm “ứng phó” bao trùm một phạm vi
rộng, bao gồm cả những phản ứng nội tâm trước hồn cảnh xảy ra (suy nghĩ
và tình cảm), cả những hành động bên ngoài nhằm đáp lại yêu cầu của hoàn
cảnh. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tơi quan niệm: “Ứng
phó là hành động có chủ đích nhằm giải quyết những tình huống cụ thể, giúp
cá nhân vượt qua và thích ứng với hồn cảnh sống nhất định”.
Như vậy, ứng phó là hành động để giải quyết nhiều tình huống của
cuộc sống và làm cho con người có thể thích ứng với hồn cảnh sống.
Ứng phó bao gồm tất các các dạng tương tác của chủ thể với những yêu
cầu của thế giới bên ngoài và nội tâm - nắm bắt làm chủ hay làm suy giảm, làm
quen với những u cầu của hồn cảnh có vấn đề. Ý nghĩa tâm lý của ứng phó là
ở chỗ làm thế nào để cho con người thích ứng nhanh chóng với những u cầu
của hồn cảnh, cho phép họ nắm bắt và làm chủ chúng, làm những tác động của
hoàn cảnh trở nên suy yếu giúp con người thích nghi và cải biến hồn cảnh đó.


18
Từ hai khái niệm “kỹ năng” và “ứng phó” như đã phân tích ở trên,
chúng tơi xác định:“Kỹ năng ứng phó với stress là sự vận dụng tri thức, kinh
nghiệm và phương thức hoạt động trong việc nhận diện stress, xác định các
phương án ứng phó và thực hiện các phương án ứng phó nhằm giải quyết
stress, giúp cá nhân vượt qua và thích ứng với hồn cảnh sống nhất định”.
Từ quan niệm trên chúng ta thấy, KNƯP với stress là sự vận dụng các
tri thức, kinh nghiệm, cách thức, biện pháp của bản thân trong từng trường
hợp cụ thể giúp chủ thể vượt qua khó khăn, trở ngại trong hoạt động, thích
ứng với hoạt động và đem lại hiệu quả cho hoạt động cụ thể.

Kỹ năng được biểu hiện trong hành động và hoạt động của cá nhân qua
các thao tác. Để tiến hành các thao tác, chủ thể phải có tri thức nhất định (tính
nhận thức) về hoạt động cũng như tổ hợp các thao tác của hoạt động, thực
hiện nhuần nhuyễn các thao tác mà không mắc lỗi (tính thuần thục), tiến hành
các thao tác của hoạt động một cách sáng tạo, linh hoạt, có thể áp dụng được
ở đa dạng tình huống khác nhau (tính linh hoạt).
Để có KNƯP với stress, trước hết địi hỏi cá nhân phải có vốn tri thức
về stress, các phương án ứng phó cũng như những cách thức, thủ thuật để
vượt qua. Người có KNƯP với stress là cá nhân biết tiềm lực hiện có của bản
thân, dự đốn trước những thuận lợi và khó khăn có thể sẽ diễn ra trong quá
trình hoạt động, biết vận dụng tri thức, kinh nghiệm một cách linh hoạt trong
từng hoàn cảnh xác định,... Mặt khác, biết đặt ra ngay từ đầu mục đích ứng
phó, biết được những yếu tố bên ngồi góp sức vào q trình ứng phó của bản
thân để từ đó tìm được cách thức thích ứng và giảm nhẹ tác hại của stress đối
với hoạt động của bản thân.
1.1.3. Kỹ năng ứng phó với stress trong hoạt động học tập của học
viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị


19
Học viên đào tạo CTV ở Trường SQCT được tuyển chọn kỹ lưỡng cả
về phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ nhận thức. Đây là điều kiện thuận
lợi để học viên phát triển tồn diện trong mơi trường học tập, rèn luyện đặc
thù tại Nhà trường. Tuy nhiên, họ còn trẻ, những đặc điểm tâm, sinh lý lứa
tuổi ảnh hưởng rất lớn và là một trong những nguyên nhân khách quan gây ra
stress ở bản thân họ. Kinh nghiệm sống và những kỹ năng đối phó với các vấn
đề nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống nói chung, với stress nói riêng cịn
nhiều hạn chế. Do đó việc nắm rõ đặc điểm trên và phát triển cho học viên có
những kỹ năng cơ bản nhằm ứng phó với stress là một việc làm thiết thực
nhằm nâng cao chất lượng học tập, rèn luyện của học viên trong quá trình đào

tạo tại Nhà trường.
Hoạt động học tập, rèn luyện của học viên đào tạo CTV ở Trường
SQCT diễn ra trong môi trường hoạt động quân sự với mục tiêu vừa đào tạo
theo một chức danh nhất định vừa đáp ứng theo yêu cầu của bậc học đại học.
Quá trình học tập, rèn luyện diễn ra song song, đồng thời nhằm đào tạo học
viên trở thành cán bộ chính trị cấp phân đội có phẩm chất chính trị - tư tưởng,
lập trường giai cấp vững vàng, có lối sống đạo đức trong sạch, lành mạnh...,
có khả năng tiến hành hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị theo chức
trách, nhiệm vụ được giao, có tác phong của người lãnh đạo, chỉ huy bộ đội
sau khi tốt nghiệp. Mặt khác, học viên phải đáp ứng theo yêu cầu, đòi hỏi của
trình độ đại học cả về tri thức, phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học và
phương pháp tự học tập, tự nghiên cứu...
Trong quá trình học tập, rèn luyện tại Nhà trường, trước những yêu cầu
ngày càng cao về phẩm chất, năng lực địi hỏi học viên phải có kiến thức,
cách thức hoạt động thực tiễn khoa học, phù hợp để tránh nguy cơ bị stress,
dễ dàng, chủ động vượt qua stress nếu nó xuất hiện và gây hậu quả xấu với
chất lượng cuộc sống nói chung, chất lượng học tập, rèn luyện nói riêng.
Đồng thời, trên cương vị là cán bộ chủ trì cơng tác đảng, cơng tác chính trị ở


20
đơn vị sau này, với những KNƯP với stress đã được hình thành, phát triển
trong quá trình học tập tại Nhà trường sẽ là cơ sở tiền đề để học viên tiếp tục
giải quyết những khó khăn, trở ngại trong q trình cơng tác cũng như hướng
dẫn, giúp đỡ qn nhân thuộc quyền vượt qua stress, nâng cao hiệu quả hoàn
thành nhiệm vụ của cá nhân, của tập thể đơn vị.
Từ những phân tích ở trên, chúng tơi quan niệm: “Kỹ năng ứng phó với
stress trong hoạt động học tập của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường
Sĩ quan Chính trị là sự vận dụng tri thức, kinh nghiệm và phương thức hoạt
động trong việc nhận diện stress, xác định các phương án ứng phó và thực

hiện các phương án ứng phó nhằm giải quyết stress trong quá trình học tập,
giúp họ vượt qua, thích ứng với mơi trường học tập, rèn luyện tại Nhà
trường, đáp ứng với mục tiêu, yêu cầu đào tạo”.
Thực chất, KNƯP với stress trong hoạt động học tập của học viên đào
tạo CTV ở Trường SQCT là sự vận dụng tri thức và hệ thống các cách thức,
thao tác để ứng phó với stress xuất hiện trong quá trình học tập, rèn luyện
nhằm nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng với mơ hình nhân
cách đã được xác định theo mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Sự vận dụng KNƯP với stress trong hoạt động học tập phải đạt hiệu
quả là giúp chính bản thân học viên thích ứng với q trình đào tạo tại Nhà
trường thông qua việc giảm bớt tác động xấu có thể có của những trạng thái
căng thẳng tâm lý mà học viên gặp phải.
Kỹ năng ứng phó với stress trong hoạt động học tập của học viên
không phải là một phẩm chất có sẵn của nhân cách mà nó được hình
thành, phát triển trong suốt q trình học viên hoạt động thực tiễn quân sự
tại Nhà trường. Trên nền tảng tri thức về stress và những vấn đề có liên
quan, học viên rèn luyện thành thạo những cách thức, biện pháp ứng phó
và vận dụng chúng trong hoạt động thực tiễn đa dạng , phức tạp. Từ đó,
những kỹ năng ngày càng phát triển và hồn thiện.
1.2. Đặc điểm hoạt động học tập của học viên đào tạo chính trị viên
ở Trường Sĩ quan Chính trị


21
1.2.1. Là hoạt động lĩnh hội tri thức khoa học nói
chung, khoa học quân sự nói riêng đáp ứng mục tiêu,
yêu cầu đào tạo chính trị viên của Nhà trường
Với mục tiêu, yêu cầu đào tạo được xác định rõ ràng theo từng năm,
từng khóa học, học viên đào tạo CTV ở Trường SQCT không ngừng học tập,
tu dưỡng, rèn luyện để trở thành đảng viên - sĩ quan quân đội, người chủ trì

hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị ở các đơn vị cơ sở trong tồn
qn. Do vậy, trong suốt quá trình đào tạo tại Nhà trường, học viên phải học
tập, rèn luyện phong cách người lãnh đạo - quản lý đơn vị và đáp ứng yêu cầu
đào đạo ở trình độ đại học. Quá trình hồn thiện các phẩm chất, năng lực theo
mơ hình nhân cách đã xác định đòi hỏi học viên phải nỗ lực cao độ nhằm khắc
phục những khó khăn, vất vả để đạt được mục đích đề ra.
Đối tượng lĩnh hội trong hoạt động học tập của học viên rất đa dạng như:
hệ thống các mơn lý luận có tính trừu tượng cao yêu cầu học viên phải có
phương pháp học tập khoa học, phù hợp trong việc tiếp thu, lĩnh hội tri thức.
Mặt khác, học viên phải học tập các môn khoa học quân sự với yêu cầu cao
về kỹ thuật, động tác vận động và thể lực… Tất cả những nội dung mơn học
muốn chiếm lĩnh được địi hỏi sự cố gắng, nỗ lực không ngừng. Nếu không,
học viên rất dễ rơi vào tình trạng quá tải về tâm lý, thể lực, thậm chí rơi vào
các trạng thái tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình thực hiện nhiệm vụ của bản
thân nói riêng và tập thể học viên nói chung.
Quá trình học tập, rèn luyện tại Nhà trường là q trình hình thành và
chuyển hóa liên tục nhân cách người học viên (hạ sĩ quan - binh sĩ, thí sinh tốt
nghiệp Trung học phổ thông) trở thành người CTV. Mục đích học tập, rèn
luyện nhằm hình thành, phát triển các phẩm chất nhân cách người cán bộ lãnh
đạo, người chủ trì về chính trị và hoạt động cơng tác đảng, cơng tác chính trị
ở đơn vị cơ sở; đồng thời, hình thành, phát triển các phẩm chất nhân cách
người cán bộ chỉ huy quân sự và quản lý bộ đội.


22
1.2.2. Hoạt động học tập của học viên diễn ra trong mơi trường sư
phạm qn sự đặc thù, có tổ chức kỷ luật chặt chẽ và nghiêm minh
La một trong những trung tâm đào tạo đội ngũ sĩ quan chính trị cấp
phân đội cho tồn qn, đó là những cán bộ nòng cốt trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc nên môi trường sư phạm quân sự ở Trường SQCT có

đặc trưng riêng. Đây là mơi trường có tính nhân văn quân sự sâu sắc. Tính đặc
thù của mơi trường sư phạm qn sự cịn được thể hiện ở mục đích của q
trình học tập, rèn luyện của người học viên nhằm hình thành đầy đủ phẩm
chất và năng lực của người sĩ quan chính trị - người chủ trì hoạt động cơng tác
đảng, cơng tác chính trị ở đơn vị cơ sở, là linh hồn, hạt nhân đồn kết của đơn
vị. Đây là mục đích và nhiệm vụ rất nặng nề nhưng có ý nghĩa xã hội cao cả.
Trong toàn bộ thời gian đào tạo ở Nhà trường, học viên bắt buộc phải
thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu của kỷ luật, điều lệnh, điều lệ Quân đội
trên tất cả mác mặt của hoạt động thực tiễn từ học tập, rèn luyện, thực hiện
các mối quan hệ trong và ngoài đơn vị, cách ứng xử cấp trên, cấp dưới, đồng
chí, đồng đội… Từ đó buộc học viên phải điểu chỉnh hành vi xã hội của mình,
từ bỏ những thói quen sinh hoạt, nếp sống và những nhu cầu cá nhân khơng
cịn phù hợp với tính chất của hoạt động quân sự. Do vậy, nếu cá nhân khó hoặc
khơng thích ứng, thích nghi với điều kiện, hồn cảnh khó khăn, vất vả, cá nhân rất
dễ xuất hiện những trạng thái tâm lý tiêu cực, ảnh hưởng lớn đến hoạt động học
tập và rèn luyện của bản thân nói riêng, của tập thể học viên nói chung.
Hiện nay, trước những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường,
những biến đổi trong định hướng giá trị đã ít nhiều ảnh hưởng đến tâm tư,
tình cảm của học viên đối với nghề nghiệp qn sự. Điều đó địi hỏi học viên
phải nỗ lực ý chí, gạt bỏ những nhu cầu, lợi ích đi ngược với yêu cầu, mục
đích của hoạt động quân sự nhằm vượt qua những cám dỗ, nhu cầu khơng
chính đáng để hồn thành nhiệm vụ được giao. Đây cũng là một trong những
vấn đề chi phối, ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái tâm lý của học viên trong
quá trình học tập, rèn luyện tại Nhà trường.


23
1.2.3. Hoạt động học tập của học viên đòi hỏi sự nỗ lực rất cao cả về
trí lực và thể lực
Xuất phát từ mục tiêu, yêu cầu đào tạo của các nhà trường quân đội nói

chung, Trường SQCT nói riêng là đào tạo ra những sĩ quan có bản lĩnh chính
trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực toàn diện về lãnh đạo, chỉ
huy, quản lý và huấn luyện bộ đội, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, do
vậy, nhiệm vụ học tập, rèn luyện của học viên hết sức nặng nề. Họ phải tiếp
thu một khối lượng lớn tri thức tồn diện cả về chính trị, quân sự, khoa học kỹ
thuật, nghiệp vụ công tác đảng, cơng tác chính trị… Đồng thời, phải rèn luyện
phong cách của người lãnh đạo, quản lý bộ đội, Bên cạnh đó, hình thức học
tập của học viên vơ cùng phong phú, vất vả. Ngồi q trình học lý thuyết
trên giảng đường, học viên phải thực hiện đồng thời các hình thức dạy học
khác như học chiến thuật ngồi thực địa, rèn luyện thể lực trên thao trường,
bãi tập, thực hành, thực tập, diễn tập… Do vậy, để hoàn thành nhiệm vụ, đòi
hỏi học viên phải cố gắng, nỗ lực rất cao về thể lực, trí lực thì mới có thể vượt
qua đáp ứng với mục tiêu, yêu cầu đào tạo của Nhà trường.
Mặt khác, bên cạnh nội dung, chương trình đào tạo chính khóa, học viên
cịn đồng thời tham gia các hoạt động ngoại khóa, tăng gia, sản xuất, tuần tra,
canh gác… Tất cả những hoạt động này bắt buộc mọi học viên phải thực hiện
theo chế độ, nền nếp quy định nhằm bổ sung, hoàn thiện phẩm chất, năng lực
đáp ứng với yêu cầu hoạt động thực tiễn trên cương vị cơng tác sau này.
Như vậy, để hồn thành nhiệm vụ học tập tại Nhà trường đòi hỏi học
viên phải có sự nỗ lực rất lớn về thể lực và trí tuệ, khắc phục mọi khó khăn về
điều kiện, mơi trường, hình thức học tập, rèn luyện để đáp ứng được mục tiêu,
yêu cầu đào tạo. Trong điều kiện như vậy, học viên cũng dễ bị căng thẳng về
tâm lý và nếu khơng có KNƯP kịp thời, hiệu quả sẽ ảnh hưởng rất lớn tới quá
trình thực hiện nhiệm vụ của cá nhân nói riêng và tập thể học viên nói chung.


24
1.3. Biểu hiện của kỹ năng ứng phó với stress trong hoạt động
học tập của học viên đào tạo chính trị viên ở Trường Sĩ quan Chính trị
Để xác định các nhóm kỹ năng thành phần của KNƯP với stress trong hoạt

động học tập của học viên, chúng tôi đã dựa vào đặc điểm hoạt động học tập, coi
stress là một vấn đề cần phải giải quyết để nâng cao chất lượng học tập và muốn
ứng phó được với stress trong hoạt động học tập, học viên phải có kỹ năng giải
quyết vấn đề. Từ đó, chúng tơi xác định, KNƯP với stress trong hoạt động học tập
của học viên là một kỹ năng phức hợp bao gồm các nhóm kỹ năng thành phần
như: Nhóm kỹ năng nhận diện stress; nhóm kỹ năng xác định các phương án ứng
phó và nhóm kỹ năng thực hiện các phương án ứng phó nhằm giải quyết stress
trong hoạt động học tập.
1.3.1. Nhóm kỹ năng nhận diện stress trong hoạt động học tập
Kỹ năng nhận diện stress trong hoạt động học tập là kỹ năng cơ sở, đầu
tiên giữ vai trò quan trọng để học viên có thể thực hiện q trình ứng phó với
stress hiệu quả. Để ứng phó được những tình huống gây stress trong hoạt
động học tập đòi hỏi mỗi học viên cần nhận diện đầy đủ và chính xác những
nguyên nhân gây ra stress, những biểu hiện của stress xuất hiện ở bản thân
trong quá trình học tập . Chỉ trên cơ sở nhận diện đúng, đủ, học viên mới có
thể xác lập, lựa chọn cách thức ứng phó phù hợp, hiệu quả với tình hình, điều
kiện cụ thể mà bản thân gặp phải trong hoạt động học tập.
Kỹ năng nhận diện stress trong hoạt động học tập của học viên được
biểu hiện ở những kỹ năng thành phần như sau :
* Kỹ năng nhận diện nguyên nhân gây ra stress trong hoạt động học tập
Trong hoạt động học tập, học viên có thể gặp phải những tình huống
gây ra stress cho bản thân. Đó có thể là từ yếu tố khách quan bên ngồi hoặc
xuất phát từ chính bản thân chủ thể. Vì vậy, việc nhận ra nguyên nhân gây ra
stress ở học viên là điều quan trọng giúp họ có căn cứ để loại trừ các tác nhân
gây hại và tìm ra cách thức ứng phó hiệu quả. Kỹ năng nhận diện nguyên
nhân gây stress trong hoạt động học tập của học viên được thể hiện ở mức độ


25
học viên biết nhận diện những nguyên nhân gây ra stress cơ bản dưới đây:

- Nhận diện nguyên nhân gây stress trong xác định xu hướng nghề nghiệp,
động cơ học tập: Sự đấu tranh trong nhận thức, thái độ đối với nghề nghiệp đang
theo đuổi với nhu cầu, nguyện vọng của bản thân, của gia đình, kỳ vọng của bạn
bè, xã hội; sự so sánh giữa môi trường học tập vất vả, gian khổ với sự tự do,
thoải mái của bạn bè đồng trang lứa đang theo học ở các trường dân sự…
- Nhận diện những nguyên nhân gây stress trong tìm tịi cách thức học
tập phù hợp với khả năng của bản thân và đòi hỏi của mục tiêu, yêu cầu đào
tạo: Những khó khăn về phương pháp trong việc nghe giảng trên lớp, thực
hành, tập bài, ôn luyện, thi kiểm tra đánh giá kết quả học tập của bản thân so
với các học viên trong lớp và đòi hỏi, yêu cầu của giảng viên; những khó
khăn trong sắp xếp kế hoạch sinh hoạt của cá nhân với kế hoạch học tập, rèn
luyện, thực hiện các hoạt động ngoại khóa của lớp, của Nhà trường…
- Nhận diện những nguyên nhân gây stress trong quá trình thực hiện
các nhiệm vụ học tập: Những mâu thuẫn trong khả năng của bản thân (khả
năng nhận thức, thể lực…) với yêu cầu, đòi hỏi của mơn học, hình thức rèn
luyện thể lực, ngoại khóa; q trình phối hợp, làm việc nhóm với các thành
viên khác trong thực hiện các hoạt động cùng nhau…
* Kỹ năng nhận diện biểu hiện của stress trong hoạt động học tập
Nhận diện được stress trong hoạt động học tập chính là nhận ra các biểu
hiện của stress cũng như mức độ của stress mà bản thân đang gặp phải. Những
biểu hiện của stress rất đa dạng, bao gồm cả về mặt cơ thể cũng như những
biểu hiện tâm lý cụ thể đang diễn ra trong hoạt động học tập của học viên. Kỹ
năng nhận diện biểu hiện của stress trong hoạt động học tập được thể hiện ở
mức độ học viên biết những biểu hiện cụ thể sau :
- Biểu hiện về mặt nhận thức: Khó tập trung; khơng muốn suy nghĩ gì
nữa; hay nhầm lẫn, kém minh mẫn; hay bị nhớ lẫn lộn; không biết quyết định
thế nào; hồi tưởng lại những sự buồn phiền gần đây nhất; không thể tập trung



×