Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới ở huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.18 KB, 101 trang )

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

DƯƠNG TRẦN VIỆT

HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC
CHO XÂY DỰNG NƠNG THƠN MỚI
Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014


2

BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

DƯƠNG TRẦN VIỆT

HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC
CHO XÂY DỰNG NƠNG THƠN MỚI
Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN MINH
KHẢI


HÀ NỘI - 2014


3
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
An ninh trật tự
Ban chấp hành
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cơng nghiệp-Tiểu thủ cơng nghiệp-Xây dựng
Cơ sở hạ tầng
Cơ sở vật chất
Giao thông nông thôn
Giá trị sản xuất
Hội đồng nhân dân
Hợp tác xã
Khoa học - Công nghệ
Khoa học - Kỹ thuật
Khoa học - kỹ thuật và công nghệ
Kinh tế - xã hội
Mục tiêu Quốc gia
Ngân sách Nhà nước
Nông thôn mới
Trung học cơ sở
Thương mại - Dịch vụ
Sản xuất kinh doanh
Ủy ban nhân dân
Văn hóa - Thể thao - Du lịch


Chữ viết tắt
ANTT
BCH
BNN&PTNT
CNH, HĐH
CN-TTCN-XD
CSHT
CSVC
GTNT
GTSX
HĐND
HTX
KH-CN
KH-KT
KH-KT&CN
KT-XH
MTQG
NSNN
NTM
THCS
TM-DV
SXKD
UBND
VH-TT-DL


4
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1


1.1.
1.2.

Trang
3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC CHO XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Khái niệm nông thôn và nông thôn mới

12
12

Khái niệm về nguồn lực và nội dung huy động các

nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới
1.3.
Kinh nghiệm huy động các nguồn lực cho xây dựng
nông thôn mới ở một số địa phương ngoại thành Hà
Nội và bài học kinh nghiệm cho huyện Thường Tín
Chương 2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG CÁC NGUỒN LỰC
CHO XÂY DỰNG NƠNG THƠN MỚI Ở HUYỆN
THƯỜNG TÍN
2.1.
Khái qt về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của
huyện Thường Tín.
2.2.
Đánh giá thực trạng huy động các nguồn lực cho xây
dựng nơng thơn mới ở huyện Thường Tín

Chương 3 MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG
CÓ HIỆU QUẢ CÁC NGUỒN LỰC CHO
XÂY DỰNG NƠNG THƠN MỚI Ở HUYỆN

17

THƯỜNG TÍN
Mục tiêu huy động các nguồn lực cho xây dựng nông
thôn mới ở huyện Thường Tín giai đoạn 2011 – 2020
Giải pháp huy động có hiệu quả các nguồn lực cho
xây dựng nơng thơn mới ở huyện Thường Tín

59

3.1.
3.2.

KẾT ḶN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

20

31
31
35

59
61
86

87
91


5

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong mọi thời kỳ cách mạng, nông nghiệp, nông thôn và nông dân
luôn là một vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt với một nước
nông nghiệp như Việt Nam. Thực tế đã cho thấy, sự phát triển kinh tế của một
nước không những phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế của các vùng đơ thị mà
cịn phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của các vùng nông thôn. Trong thời kỳ
đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách nhằm phát
triển tồn diện và vững chắc cho khu vực nông thôn; đặc biệt, trong giai đoạn
hiện nay, khi q trình đơ thị hóa các vùng nơng thơn đang diễn ra nhanh
chóng thì vấn đề xây dựng và phát triển nông thôn là một chủ trương đúng
đắn và phù hợp với tình hình thực tế của nước ta. Sau những năm thực hiện,
chủ trương này đã mang lại sự thay đổi rất lớn ở các vùng nông thôn Việt
Nam. Hiện nay, chủ trương về xây dựng NTM đã và đang tiếp tục được triển
khai, đồng bộ và có hiệu quả ở tất các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Thường Tín là một huyện ngoại thành của thành phố Hà Nội, có nhiều
tiềm năng và thế mạnh để phát triển KT-XH, nhất là phát triển về lĩnh vực
dịch vụ và nông nghiệp. Mặt khác, tuy là huyện ngoại thành nhưng các khu
đô thị trên địa bàn huyện chiếm tỉ lệ diện tích và dân số rất ít, dân cư hiện vẫn
đang sinh sống ở các vùng nông thôn và gắn với hoạt động sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu. Để phát huy tiềm năng, thế mạnh là một vùng chuyên canh
cây nông nghiệp và phát triển KT-XH, cải thiện đời sống nhân dân thì việc
quán triệt và triển khai thực hiện huy động các nguồn lực cho chương trình
xây dựng NTM là một hướng đi đúng và hết sức cần thiết.

Trong những năm vừa qua, huyện Thường Tín đã tích cực, chủ động
triển khai thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng NTM trên địa bàn
toàn huyện. Với sự cố gắng nỗ lực của cấp ủy, chính quyền và sự ủng hộ nhiệt
tình của nhân dân địa phương, phong trào xây dựng NTM ở huyện đã thu
được nhiều kết quả vững chắc. Các nguồn lực của Nhà nước và nhân dân đã
được huy động và sử dụng khá hiệu quả. Bộ mặt nông thôn đã có những thay


6

đổi cơ bản về mọi mặt, nhất là hệ thống đường giao thông nông thôn, trường
học, cơ sở y tế, các thiết chế văn hóa ở cơ sở... Đặc biệt, đã có những xã đạt
chuẩn 19/19 tiêu chí về xây dựng NTM theo kế hoạch và trở thành điển hình
tiêu biểu để nhân rộng trên địa bàn huyện và Thành phố.
Tuy nhiên, ngoài những kết quả đã đạt được, quá trình thực hiện xây
dựng NTM ở huyện Thường Tín vẫn còn một số hạn chế như: Hệ thống cơ sở
hạ tầng ở nơng thơn cịn yếu kém, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu, mục
tiêu xây dựng NTM trong thời gian tiếp theo. Hiện tượng ô nhiễm môi trường,
nguồn nước ở khu vực nơng thơn có xu hướng gia tăng, chưa có hướng giải
quyết dứt điểm, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân. Việc huy động
các nguồn vốn cho chương trình xây dựng NTM vẫn cịn một số bất cập, thiếu
hợp lý, thậm chí có những địa phương triển khai thực hiện không sát với chỉ
đạo của trên, gây bức xúc trong nhân dân...
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, cần đề ra những chủ trương, biện
pháp hợp lý nhằm đưa phong trào xây dựng NTM tiếp tục phát triển nhanh và
bền vững. Trong đó, việc huy động có hiệu quả các nguồn lực để góp phần đẩy
mạnh chương trình xây dựng NTM ở huyện Thường Tín trong thời gian tới đã
trở thành vấn đề hết sức quan trọng và cấp thiết, đòi hỏi phải có sự vào cuộc của
cả hệ thống chính trị và sự ủng hộ nhiệt tình của mọi người dân trên địa bàn.
Góp phần giải quyết các vấn đề nêu trên, với góc độ là một người nghiên cứu,

tác giả đã lựa chọn đề tài: "Huy động các nguồn lực cho xây dựng nơng thơn
mới ở huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sỹ kinh tế,
chuyên ngành kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng NTM là chủ trương mới, hoàn toàn đúng đắn của Đảng và
Nhà nước. Tuy mới triển khai trong một thời gian chưa dài nhưng đã trở
thành vấn đề hết sức quan trọng, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà
quản lý, các nhà khoa học trong và ngoài nước. Những năm vừa qua đã có
nhiều cơng trình được cơng bố có liên quan đến xây dựng NTM, đặc biệt là
vấn đề huy động nguồn lực cho xây dựng NTM:


7

- Tăng Minh Lộc (2007), Những chủ trương giải pháp phát triển nông
thôn bền vững – công bằng trong tiến trình CNH, HĐH của Việt Nam đến
năm 2020, Bài phát biểu tại hội nghị toàn thể ISG ngày 07/11/2007, Hà Nội.
Trong bài phát biểu của mình, với góc độ là một trong những người trực tiếp
đảm nhiệm công tác quản lý nhà nước về thực hiện chương trình nơng thơn
mới, tác giả đã đề cập thực trạng vấn đề phát triển nông thôn Việt Nam hiện
nay và những định hướng phát triển theo hướng hiện đại, bền vững trong thời
gian tiếp theo. Trong đó, tác giả đã tập trung đánh giá cao sự tác động của
những nguồn lực cần thiết huy động và giải pháp hợp lý trong quá trình huy
động xây dựng NTM ở Việt Nam.
- Tưởng Kiến Trung (2009), Nguồn gốc, những kinh nghiệm quý báu
và ý nghĩa của phong trào xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc; Agriculture
policy development in Korea and current issues, Ministry for Food,
Agricuture, Forestry and Fisheries, Korea. Dựa vào kết quả nghiên cứu, khảo
sát của mình, tác giả đã chỉ ra những nét tương đồng trong quá trình triển khai
chương trình xây dựng NTM ở Hàn Quốc và Việt Nam. Song, tác giả đã tập

trung làm rõ những kinh nghiệm trong quá trình huy động các nguồn lực cho
xây dựng NTM ở Hàn Quốc từ những nguồn lực thế mạnh của địa phương
cũng như các nguồn lực hỗ trợ từ Chính phủ đã mang lại thành công rất lớn.
Đây được coi là một trong những kinh nghiệm hết sức bổ ích, có ý nghĩa tham
khảo đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng NTM thời gian tiếp theo.
- Quản Hải Yến và cộng sự (2010), “Kinh nghiệm xây dựng nông thôn
mới hiện đại tại thôn Hoa Tây tỉnh Giang Tô”, Tạp chí Nơng nghiệp & Nơng
thơn, số tháng 7/2011, Hà Nội. Theo đánh giá của các tác giả, thôn Hoa Tây –
tỉnh Giang Tô – Trung Quốc tuy là một địa phương nhỏ nhưng có đầy đủ
những đặc trưng cơ bản của nông thôn Trung Quốc và đã đạt nhiều kết quả
vững chắc. Có nhiều vấn đề mới được rút ra và trở thành những quy định của
chính phủ đó là: Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước được đầu tư chủ yếu dùng
làm đường, cơng trình thủy lợi… một phần dùng để hỗ trợ xây nhà ở cho dân.
Đối với nhà ở nông thôn, nếu địa phương nào ngân sách lớn, nông dân chỉ bỏ


8

ra một phần, còn lại là nguồn lực từ ngân sách. Sự hỗ trợ tích cực này đã động
viên rất lớn các tầng lớp nhân dân, nhất là những vùng nơng thơn hăng hái
đóng góp các nguồn lực cùng nhà nước thực hiện chương trình xây dựng NTM.
- Từ Tinh Minh và cộng sự (2010), “5 kinh nghiệm quý báu trong
q trình xây dựng nơng thơn mới của tỉnh Triết Giang”, Tạp chí Nơng
nghiệp & Nơng thơn, số tháng 4/2011, Hà Nội. Tác giả đã đi sâu đánh giá
và khái quát thành 5 kinh nghiệm cơ bản từ quá trình xây dựng nơng thơn
mới ở Triết Giang. Do có sự hỗ trợ nguồn lực từ ngân sách nhà nước nên
các địa phương đều thực hiện phương châm tài chính hỗ trợ Tam nông tại
Trung Quốc tập trung 3 mục tiêu là nông nghiệp gia tăng sản xuất, nông
thôn phát triển, và nông dân tăng thu nhập. Định hướng phát triển tài chính
hỗ trợ tam nơng ở Trung Quốc là nơng nghiệp hiện đại, nơng thơn đơ thị

hóa và nơng dân chun nghiệp hóa.
- Phạm Hà (2011), “Xây dựng nơng thơn mới: Hướng đi mới cho
Quảng Ninh”, Tạp chí Nơng nghiệp, số ngày 30/11/2011, Hà Nội. Qua khảo
sát thực tiến ở Quảng Ninh, tác giả đã khẳng định: Với quyết tâm cao, sự vào
cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận trong nhân dân, tỉnh Quảng
Ninh đã huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân trong tham gia thực
hiện Chương trình xây dựng nơng thơn mới. Mặc dù mới triển khai chương
trình trong một thời gian ngắn, nhưng các vùng nơng thơn trên địa bàn tỉnh đã
có những thay đổi đáng mừng; đặc biệt, đã xuất hiện nhiều điểm sáng, nhiều
cách làm hay từ thực tiễn các địa phương. Xây dựng nông thôn mới một cách
cơ bản, quyết liệt là hướng đi tất yếu của Quảng Ninh trong thời gia tiếp theo.
- Vũ Kiểm (2011), “Xây dựng nơng thơn mới ở Thái Bình”, Tạp chí
Phát triển nơng thôn, số tháng 6/2011, Hà Nội. Trong những năm vừa qua,
thực hiện chủ trương CNH, HĐH của Đảng, tỉnh Thái Bình đã có khá nhiều
các khu cơng nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và khu chế xuất. Tuy nhiên, do đặc
điểm về địa lý nên Thái Bình vẫn là một tỉnh có thế mạnh về nơng nghiệp, đa
số dân cứ vẫn sống ở khu vực nơng thơn. Để góp phần cải thiện đời sống nhân
dân, làm thay da đổi thịt bộ mặt nông thôn nhất thiết phải triển khai quyết liệt


9

các biện pháp và huy động tối đa các nguồn lực để xây dựng NTM. Đã có
nhiều biện pháp hữu hiệu được triển khai; tuy nhiên, theo đánh giá của tác giả
thì chính cơng tác dồn điền đổi thửa, một nhiệm vụ trọng tâm trong q trình
xây dựng nơng thơn mới ở Thái Bình hiện nay đã được thực hiện khá tốt với sự
tham gia của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, nhất trí cao của ngừi dân.
Việc dồn điền, đổi thửa đã tác động rất tích cực đến tâm tư, tình cảm của nhấn
dân, làm cơ sở cho hình thành các cánh đồng mẫu lớn, tạo ra hiệu quả kinh tế
cao từ chính những cánh đồng xưa nay vốn chỉ để canh tác lúa và một số loại

hoa màu. Đây chính là nền tảng và động lực cho các địa phương triển khai thực
hiện các tiêu chí khác trong q trình xây dựng hệ tiêu chí về NTM hiện nay.
- Bùi Hải Thắng (2011), “Một số khó khăn khi xây dựng nơng thơn mới
và giải pháp khắc phục”, Báo dân trí-Điện tử, ngày 12/4/2011, Hà Nội. Tác
giả khẳng định: Xây dựng NTM là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
nhằm thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao đời sống mọi mặt cho nhân dân và
được nhân dân đồng tình ủng hộ. Tuy nhiên, qua thực tiễn triển khai chương
trình này đã xuất hiện nhiều khó khăn, bất cập cần tập trung giải quyết. Ở mỗi
khu vực, vùng có những khó khăn khác nhau, trong đó những khó khăn trong
nhận thực của người dân và việc huy động các nguồn lực tại chỗ là những vấn
đề nổi cộm. Tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần giúp các địa
phương tham khảo trong hạn chế, khắc phục những khó khăn đó.
- Nam Bắc (2014), “Sáng tạo trong xây dựng nông thôn mới ở Hà Nội”,
Báo Nhân dân điện tử, số ra ngày 12/9/2014. Như nhiều địa phương khác, Hà
Nội đã chủ động triển khai thực hiện chương trình xây dựng nơng thơn mới,
Tuy nhiên, với đặc điểm riêng có là thủ đơ nhưng mới được mở rộng địa giới
hành chính nên vẫn có một địa bàn rộng lớn cần tập trung các nguồn lực để
thực hiện chương trình. Thực tế, Hà Nội là địa phương duy nhất có riêng một
chương về xây dựng NTM trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Ðại hội Ðảng
bộ thành phố nhiệm kỳ 2010-2015, với mục tiêu đến năm 2015, có 40% số xã
đạt chuẩn NTM. Thành ủy có Chương trình 02 về "Phát triển nông nghiệp,
xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân". Hội đồng


10

nhân dân thành phố có đề án, cấp thành phố, huyện, xã đều có kế hoạch chi
tiết. Ở cấp thành phố và huyện, ngồi Ban Chỉ đạo, cịn có tổ công tác với
thành viên là đại diện các sở, ban, ngành, có nhiệm vụ hướng dẫn, giúp các xã
khảo sát, đánh giá đúng thực trạng, xây dựng và xác định rõ những nội dung

của từng tiêu chí. Các kế hoạch, đề án đều rõ người, rõ việc, rõ thời hạn.
Thành phố tổ chức 518 lớp tập huấn cho gần 35 nghìn cán bộ từ cấp thơn đến
cấp thành phố, với các nội dung chủ yếu là công tác lập quy hoạch, xây dựng
đề án, làm thế nào để huy động các nguồn lực. Cùng với đó, Hà Nội đã phát
huy vai trò tiền phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên với phương
châm: "Ðảng viên đi trước", làm tốt những việc khó để nhân dân theo sau.
Đây chính là sự sáng tạo của Hà Nội trong quá trình triển khai xây dựng NTM
trong thời gian vừa qua.
- Hồng Vân - Triệu Hoa - Tuấn Kiệt (2014), “Giải pháp gỡ khó khăn,
thúc đẩy xây dựng nơng thơn mới ở Hà Nội”, Báo Tuổi trẻ Thủ đô online, số
ra ngày 04/9/2014. Theo đánh giá, sau gần 4 năm xây dựng NTM, nơng thơn
Hà Nội đã có những thay đổi vượt bậc. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế
tiếp tục khó khăn, 60 xã phấn đấu về đích năm 2014 và 161 xã về đích năm
2015 đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn. Để có bước đột phá
mạnh mẽ trong xây dựng NTM thời gian tiếp theo cần triển khai đồng bộ các
giải pháp, tuy nhiên tập trung vào một số giải pháp quan trọng như coi trọng
công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận sâu rộng trong nhân dân là vấn đề
cốt yếu tạo sức lan tỏa rộng khắp và chọn khâu đột phá là đấu giá đất, chuyển
đổi cơ cấu kinh tế.
- Võ Lâm (2014), “Xây dựng nơng thơn mới ở Hà Nội có nét riêng”,
Báo Hà Nội mới, số ra ngày 28/6/2014. Theo nhận định của lãnh đạo Thành
phố Hà Nội, sau hơn 3 năm thực hiện, Chương trình 02 về "Phát triển nơng
nghiệp, xây dựng nông thôn mới, từng bước nâng cao đời sống nông dân giai
đoạn 2011-2015" đã đem lại nhiều kết quả quan trọng, làm thay đổi bộ mặt
nông thôn ở ngoại thành Hà Nội. Thành phố đã có 50 xã hồn thành 19/19
tiêu chí xây dựng nơng thơn mới. Cơng tác dồn điền đổi thửa đã đạt 96,1%


11


diện tích, tương đương 73.704/76.000 héc ta. Sau dồn điền, đổi thửa, đời sống
nông dân được nâng cao, việc ứng dụng công nghệ vào sản xuất thuận tiện,
năng suất trồng trọt cao hơn. Trong 5 năm qua, tổng vốn đầu tư cho khu vực
nơng thơn, ngoại thành tồn thành phố là 50.000 tỷ đồng, nhưng số vốn đầu tư
trực tiếp phát triển nơng nghiệp, nơng thơn đang cịn thấp, chưa tương xứng
với nhu cầu và khả năng phát triển của nơng nghiệp, nơng thơn Hà Nội. Nơng
dân cũng đã đóng góp cùng thành phố xây dựng nơng thơn mới lên tới 1.844
tỷ đồng, trong đó có 420 tỷ đồng tiền mặt... Để có kết quả đó, trước hết là vì
cơ chế, chính sách hợp lịng dân, được nhân dân đồng thuận. Thứ hai là, cán
bộ thực hiện cơ chế, chính sách đó một cách trách nhiệm. Thứ ba là, phương
thức thực hiện có nhiều sáng tạo, phù hợp với yêu cầu thực tế địa phương, tiết
kiệm tối đa kinh phí nhưng lại có hiệu quả cao.
Để tiếp tục thực hiện Chương trình 02 trong thời gian tới, cần phải làm
tốt cơng tác dự báo tình hình KT-XH, tiếp tục tun truyền nâng cao nhận
thức của cán bộ, nhân dân về xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, lãnh đạo các
sở, ngành phải tham mưu với lãnh đạo thành phố để cân đối, điều tiết nhằm
tăng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Kết quả nghiên cứu của các cơng trình đã tổng quan là khá tồn diện và
sâu sắc; tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu, luận giải một cách cơ
bản, hệ thống về vấn đề huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thơn mới
ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội dưới góc độ khoa học kinh tế chính
trị. Do đó, đây vẫn là một trong những “khoảng trống” khoa học để tác giả đi
sâu nghiên cứu và làm rõ. Đây là những cơ sở chính để tác giả lựa chọn và
quyết tâm nghiên cứu thành công đề tài “Huy động các nguồn lực cho xây
dựng nông thôn mới ở huyện Thường Tín, Thành phố Hà Nội” theo đúng
mã số chuyên ngành khoa học kinh tế chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về huy động
các nguồn lực cho xây dựng NTM, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm huy động



12

có hiệu quả các nguồn lực cho xây dựng NTM trên địa bàn huyện Thường
Tín, thành phố Hà Nội.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nguồn lực cho xây dựng NTM và huy
động các nguồn lực cho xây dựng nơng thơn mới.
- Phân tích đánh giá thực trạng huy động các nguồn lực cho xây dựng
nơng thơn mới trên địa bàn huyện Thường Tín (Kết quả; hạn chế; nguyên
nhân và những vấn đề đặt ra).
- Đề ra những giải pháp chủ yếu nhằm huy động các nguồn lực cho q
trình xây dựng nơng thơn mới trên địa bàn huyện Thường Tín.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn
mới.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về huy động các nguồn lực cho xây dựng nơng thơn
mới trong phạm vi huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội, thời gian từ năm
2010 đến nay. Tuy nhiên, để vấn đề nghiên cứu có tính hệ thống, đề tài có đề
cập đến một số nội dung liên quan trong khoảng thời gian trước năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước và chính quyền
Thành phố Hà Nội, đặc biệt là của huyện Thường Tín về huy động các nguồn
lực cho xây dựng nông thôn mới ở huyện Thường Tín và các lý luận kinh tế
khác để tiếp cận, giải quyết vấn đề.

* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng hệ phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị như
trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lơgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê,


13

so sánh, đồng thời có sử dụng phương pháp điều tra xã hội học để hoàn thành
mục tiêu nghiên cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa về lý luận
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu về
giải quyết hoàn thiện các tiêu chí xây dựng NTM, đồng thời cũng là tài liệu
tham khảo cho các cơ quan chức năng trong việc thấy rõ vấn đề huy động
các nguồn lực cho xây dựng nơng thơn mới, góp phần hồn thiện các tiêu chí
trong xây dựng nơng thơn mới ở mọi nơi và phục vụ cho sự nghiệp CNH,
HĐH nói chung.
* Ý nghĩa về thực tiễn
Luận văn có thể là tài liệu cho các cấp, các ngành ở huyện Thường Tín
tham khảo, xây dựng quy hoạch phát triển có hiệu quả chương trình huy
động các nguồn lực cho nơng thơn, xóa đói giảm nghèo và đẩy lùi các tệ nạn
xã hội, thay đổi bộ mặt nơng thơn trong q trình xây dựng NTM trên địa bàn
huyện hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung của luận văn kết cấu gồm 3 chương (7 tiết).


14


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HUY ĐỘNG
CÁC NGUỒN LỰC CHO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Khái niệm nông thôn và nông thôn mới
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nông thôn
* Khái niệm
Nông thôn được coi như là khu vực địa lý nơi đó sinh kế cộng đồng gắn
bó, có quan hệ trực tiếp đến khai thác, sử dụng môi trường và tài nguyên thiên
nhiên cho hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Nông thôn là một hiện tượng xuất hiện đồng thời với sự ra đời của
nước Việt. Tại Việt Nam, nông thôn dường như mang những nét rất đặc thù
so với các nước khác trên thế giới, thể hiện ở văn hóa làng xã và các đặc
điểm xã hội tiềm ẩn trong mỗi chặng đường phát triển. Nếu như khái niệm
đô thị được đề cập khá nhiều trong các văn bản pháp luật của các quốc gia
trên thế giới cũng như ở Việt Nam thì khái niệm nông thôn dường như được
quan tâm một cách khiêm tốn hơn. Các nghiên cứu từ trước đến nay đã cho
thấy một điều rằng, các nhìn nhận về nơng thôn luôn đi theo hướng xác định
những nội dung của nơng thơn chứ ít khi đưa ra một định nghĩa chung đầy
đủ về nông thôn.
Theo quan điểm chung, nông thôn là khái niệm chỉ hệ thống cộng đồng
xã hội lãnh thổ được hình thành trong q trình phân cơng lao động xã hội mà
ở đó mật độ dân cư tương đối thấp; lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao,
mối quan hệ cộng đồng chặt chẽ. Do vậy, lối sống, phương thức sống của
cộng đồng dân cư nông thôn khác biệt với cộng đồng dân cư thành thị. Nông
thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, ở đó,
người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Ở Việt Nam, “cho đến
năm 2009, có đến 70,4% dân số sống ở vùng nơng thơn, trong khi tỷ lệ này
vào năm 1999 là 76,5%” [34, tr.45]. Con số đó những năm trước cịn lớn hơn
nhiều. Chính vì thế cuộc sống và tổ chức nơng thơn ảnh hưởng rất mạnh mẽ



15

đến toàn xã hội. Ngay cả những Việt kiều sống xa quê hương nhiều năm vẫn
giữ nhiều nét văn hóa đặc trựng của nông thôn Việt Nam.
Xét về mặt tổ chức xã hội, làng xã và quốc gia Việt Nam là hai đối
tượng quan trọng nhất đối với người Việt và được tổ chức chặt chẽ nhất.
Chính vì thế mà người Việt thường nói làng với nước đi đơi với nhau. Các hệ
thống trung gian như huyện, tỉnh khơng có vai trị quan trọng như thế. Việt
Nam có câu nói: “lệnh vua thua lệ làng” vì nghĩa này.
Hiện nay cịn có nhiều quan điểm khác nhau để phân biệt nơng thơn
với thành thị. Có quan điểm cho rằng chỉ cần dựa vào trình độ phát triển cơ sở
hạ tầng. Quan điểm khác lại cho rằng nên dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị
trường, phát triển hàng hóa để xác định vùng nông thôn. Với mỗi quan điểm
khác nhau lại có những khái niệm khác nhau về nơng thơn. Khái niệm nơng
thơn chỉ có tính chất tương đối và luôn biến động theo thời gian để phản ánh
biến đổi về kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trên thế giới.
* Đặc điểm về nơng thơn
Có thể nhận thấy đặc trưng cơ bản của cộng đồng dân cư nông thôn
khác thành thị ở những điểm sau:
Thứ nhất, dân cư là nông dân với hoạt động sản xuất nông nghiệp
(trồng trọt, chăn nuôi) chiếm tỷ trọng lớn. Mật độ dân cư thấp, sống gắn bó
chặt chẽ với mơi trường tự nhiên.
Thứ hai, tính cố kết cộng đồng cao. Ngồi sự gắn bó thơng qua quan hệ
làng xã, cư dân nơng thơn cịn gắn bó nhau thơng qua quan hệ thân tộc (dòng
họ). So với cộng đồng dân cư thành thị, cộng đồng dân cư nông thôn tiếp cận
với thông tin ít hơn, chậm hơn; tiếp cận với các dịch vụ giáo dục y tế, văn
hóa,… thấp hơn, phong tục tập quán lạc hậu hơn.
Thứ ba, ở nông thôn, quan hệ ứng xử xã hội của các thành viên trong
cộng đồng nặng về tục lệ truyền thống hơn là pháp lý được quy định bởi nhà

nước. So với thành thị, cộng đồng dân cư nơng thơn thường mang tính thuần
nhất hơn; hướng dịch chuyển xã hội cũng khác hơn. Những người có học vấn


16

cao, chuyên môn giỏi thường di động dọc và ra các thành phố. Số còn lại di
động ngang giữa các vùng và giữa các ngành, nghề.
Thứ tư, về văn hóa, ở nơng thơn văn hóa của cộng đồng dân cư mang
đậm nét dân gian. Đây là cái nôi nuôi dưỡng và lưu truyền những tập tục, tín
ngưỡng, văn hóa truyền thống.
Ngoài những đặc trưng cơ bản nêu trên, thực tiễn khu vực nơng thơn
Việt Nam cịn có những điều khác biệt như sau:
Một là, dân cư nông thôn Việt nam chủ yếu là nơng dân trồng lúa nước.
Bình qn ruộng đất thấp. Sản xuất trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt.
Giai cấp nông dân và dân cư nông thôn luôn phải đấu tranh khắc phục những
hậu quả thiên tai như gió bão, hạn hán,…
Hai là, Việt Nam là nước phải đương đầu với nhiều cuộc chiến tranh
xâm lược kéo dài, tàn khốc. Chính xã hội nơng thơn với cộng đồng làng xã đã
tạo thành những pháo đài kháng chiến bất khả xâm phạm, bảo tồn cả những
giá trị văn hóa truyền thống của xã hội Việt Nam.
Ba là, cộng đồng dân tộc Việt Nam bao gồm cả cộng đồng dân cư nông
thôn là cộng đồng đa sắc tộc và đa tơn giáo. Đây là cộng đồng dân cư có
truyền thống đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau.
- Bốn là, xã hội truyền thống ở nông thôn Việt Nam là xã hội của
những người tiểu nông, sản xuất nhỏ, ruộng đất ít, tư liệu sản xuất thủ cơng,
lạc hậu,.. do vậy tư tưởng ít nhiều bảo thủ, tầm nhìn hạn chế. Lợi nhuận thu
được từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và các ngành tiểu thủ công nghiệp
địa phương thường thấp. Dẫn đến thu nhập của người dân nông thôn thấp, tỷ
lệ nghèo cao.

Năm là, xã hội nông thôn Việt nam đang được chia thành những khu
vực có đặc điểm phát triển kinh tế xã hội khá khác nhau, mỗi vùng có trình độ
phát triển khác nhau. Nơng thơn trải dài trên địa bàn rộng lớn nên chịu nhiều
ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên.
Sáu là, cơ sở hình thành và trình độ tiếp cận thị trường, trình độ sản
xuất hàng hóa cịn thấp so với thành thị (Do diện tích rộng, mức đầu tư cho


17

nơng thơn khơng lớn). Trong một chừng mực nào đó thì tính dân chủ, tự do và
cơng bằng xã hội thấp hơn thành thị.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của nông thôn mới
* Khái niệm nông thôn mới
Nông thôn mới trước hết là một vùng nông thôn vẫn mang những nét
đặc trưng vốn có của nơng thơn truyền thống, cả về quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất, cả về hình thái bên trong và bên ngồi (về cơ sở hạ tầng, về
quy hoạch bố trí nhà ở, hình thức nhà ở, đường làng ngõ xóm… và về quan hệ
xóm giềng, về phong cách sống của người dân nơng thơn). Tuy nhiên NTM là
vùng nơng thơn có những nét hiện đại mà nơng thơn truyền thống khơng có
được. Đó là việc canh tác theo kiểu hiện đại, sử dụng các công nghệ kĩ thuật
hiện đại vào trong sản xuất nơng nghiệp. NTM ngồi sản xuất nơng nghiệp cịn
phải phát triển mạnh các ngành sản xuất CN-TTCN và các ngành thương mại,
dịch vụ, du lịch… Ngoài sự thay đổi về mặt kinh tế, ở vùng nông thôn mới đời
sống văn hóa tinh thần của người dân cũng được nâng cao. Quyền tự do dân
chủ của người dân được phát huy cao độ, người dân được tham gia vào quá
trình lập và đề ra các quy hoạch, được đóng góp ý kiến vào việc xây dựng và
phát triển địa phương.
Do việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát
triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Liên

tục nâng cao trình độ KH-KT và cơng nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông
thôn, cải tiến và hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức đời sống nơng thơn,
tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn
minh tiến bộ. Hiện đại hóa nơng thơn khơng chỉ bao gồm cơng nghiệp hóa,
nâng cao trình độ KH-KT-CN và tổ chức trong các lĩnh vực khác của sản xuất
vật chất ở nông thôn, mà cũng bao gồm cả việc không ngừng nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần, phát triển hệ thống CSHT xã hội, hệ thống giáo dục
đào tạo, y tế và các dịch vụ phục vụ đời sống khác ở nơng thơn. Về bản chất
hiện đại hóa là q trình phát triển tồn diện có kế thừa ở nơng thơn. Hiện đại
hóa khơng có nghĩa là xóa bỏ tồn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ,


18

cũng khơng có nghĩa là phải đưa tồn bộ cơng nghệ thiết bị tiên tiến và hiện
đại vào nông thôn ngay một lúc mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện, từng
bước nâng cao trình độ KH-KT-CN và tổ chức, quản lý nền sản xuất và đời
sống xã hội ở nơng thơn lên ngang tầm với trình độ thế giới.
Hiện đại hóa nơng thơn là q trình khơng ngừng nâng cao trình độ
KH-KT-CN, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nơng nghiệp. Đây cũng là
q trình cần được thực hiện một cách liên tục và ln có những tiến bộ kỹ
thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất. Q trình CNH, HĐH
có liên quan mật thiết với nhau có những nội dung đan xen với nhau.
* Đặc điểm của nông thôn mới
NTM giai đoạn 2010 - 2020 bao gồm các đặc điểm sau: Kinh tế phát
triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được nâng cao;
Nông thôn phát triển theo quy hoạch, cơ cấu hạ tầng, kinh tế, xã hội hiện đại,
mơi trường sinh thái được bảo vệ; dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân
tộc được giữ gìn và phát huy; an ninh tốt, quản lý dân chủ và chất lượng hệ
thống chính trị.

NTM nhằm mục tiêu phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế của quê hương,
đất nước trong giai đoạn hiện nay. Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi
mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã
đạt nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên, nhiều thành tựu đạt được chưa tương
xứng với tiềm năng và lợi thế: Nơng nghiệp phát triển cịn kém bền vững, sức
cạnh tranh thấp, chuyển giao KH-CN và đào tạo nguồn nhân lực cịn hạn chế.
Nơng nghiệp, nơng thơn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng như giao
thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, cấp nước… còn yếu kém, môi trường
ngày càng ô nhiễm. Đời sống vật chất, tinh thần của người nơng dân cịn thấp,
tỷ lệ hộ nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị còn lớn
phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Đất nước sẽ không thể phát triển nếu
nông nghiệp và nơng thơn cịn lạc hậu và đời sống nhân dân cịn thấp. Vì vậy,
xây dựng NTM là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự


19

nghiệp CNH, HĐH. Đồng thời, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho người dân sinh sống ở địa bàn nông thôn.
1.1.3. Phân biệt nông thôn và nông thôn mới
Về cơ bản nông thôn và NTM khơng khác nhau nhưng xét trên những
tiêu chí cụ thể thì 2 khái niệm này có nhiều điểm khác nhau. Khác với nông
thôn truyền thống, NTM là một vùng nông thôn với cơ cấu mới, mang
những nét đặc trưng của một vùng nông thôn phát triển mà biểu hiện cụ thể
đó là sự phát triển nền kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Ở đó nền sản xuất
khơng chỉ đơn thuần là sản xuất các ngành nơng nghiệp mà có sự phát triển
mạnh mẽ của các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch…
Ngày 16 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định
số 491/QĐ-TTg về bộ tiêu chí xã NTM bao gồm 19 tiêu chí, trong đó: Quy
hoạch (1 tiêu chí); Hạ tầng kinh tế - xã hội (8 tiêu chí); Phát triển kinh tế và tổ

chức sản xuất (4 tiêu chí); Văn hố - xã hội - mơi trường (4 tiêu chí) và hệ thống
chính trị (2 tiêu chí). Nội dung cụ thể của 19 tiêu chí là:
Về quy hoạch: (Phụ lục 1).
Về hạ tầng kinh tế - xã hội: (Phụ lục 2).
Về phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất: (Phụ lục 3).
Về văn hóa - xã hội - mơi trường: (Phụ lục 4).
Về hệ thống chính trị: (Phụ lục 5).
Riêng đối với tiêu chí cấp huyện được cơng nhận đạt chuẩn NTM phải
có 75% số xã trong huyện đạt chuẩn về nông thôn mới.
1.2. Khái niệm về nguồn lực và nội dung huy động các
nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Khái niệm về nguồn lực
Nguồn lực, theo nghĩa hẹp, nguồn lực thường được hiểu là tổng thể các
nguồn vật chất cho sự phát triển như tài nguyên thiên nhiên, tài sản vốn bằng
tiền…


20

Theo nghĩa rộng, nguồn lực được hiểu gồm tất cả những lợi thế, tiềm
năng vật chất và phi vật chất để phục vụ cho một mục tiêu phát triển nhất
định.
Nguồn lực thực hiện xây dựng NTM được hiểu là tổng thể các nguồn
vật chất tự nhiên, tiền, nhân lực, vật lực và giá trị của các yếu tố xã hội có
được từ các nguồn khác nhau (ngân sách trung ương và địa phương, đầu tư
và tín dụng từ cá nhân và tổ chức, dân cư và cộng đồng; nguồn tài trợ, cho
biếu tặng,…) có thể huy động vào xây dựng NTM
Huy động các nguồn lực cho xây dựng NTM là các giải pháp, cơ chế,
chính sách nhằm tìm kiếm, khai thác các nguồn lực kế trên cho hoạt động
xây dựng NTM một cách có lợi nhất cho cộng đồng địa phương và nâng

cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực.
1.2.2. Nội dung huy động các nguồn lực cho xây dựng nơng thơn
mới
Các nguồn lực được xem xét dưới nhiều góc độ. Có nghĩa là dưới nhiều
góc độ, người ta chia các nguồn lực thành các loại khác nhau để có thái độ
đúng đắn và có cách ứng xử với chúng thích hợp. Bất cứ một sự phát triển
nào cũng đều phải có một động lực thúc đẩy, để có thái độ đúng đắn và có
cách ứng xử với chúng thích hợp. Với cách nhận thức như vậy và trên quan
điểm thực tế thì bất cứ một sự phát triển nào cũng đều phải có một động lực
thúc đẩy, phát triển xây dựng NTM được dựa trên việc huy động tổng hợp các
nguồn lực:
* Nhân lực (nguồn lực con người)
Nguồn nhân lực (gắn với tài nguyên tri thức và tài nguyên thơng tin).
Trí tuệ của con người có giá trị đặc biệt và khơng thể tự có được mà con
người phải mất cơng, mất sức mới có. Muốn có trí tuệ, con người phải có thể
lực và trí lực cùng hồn cảnh thuận lợi.
Nguồn nhân lực huy động cho xây dựng NTM bao gồm: Huy động sức
lực của toàn thể nhân dân sinh sống tại địa bàn dân cư. Cần đẩy mạnh công tác
tuyên truyền để người dân hiểu được tinh thần và trách nhiệm của mình trong


21

công cuộc xây dựng NTM; chuyển giao kiến thức, đào tạo nghề, kỹ năng lao
động, trình độ chun mơn, kiến thức KH-KT cho người lao động nông thôn để
tạo ra năng lực làm việc; có kế hoạch phát triển nguồn nhân lực đáp ứng các
nhu cầu của từng ngành và lĩnh vực kinh tế; đào tạo các thế hệ học sinh phổ
thơng, tạo ra lực lượng lao động trẻ có hiểu biết và có kỹ năng làm việc tối
thiểu ở các ngành nghề đang phát triển; huy động tổng hợp các lực lượng trên
địa bàn như quân đội,các doanh nghiệp, lực lượng đồn viên thanh niên…Có

các biện pháp thu hút nhân tài, các nhà khoa học, các doanh nhân thành đạt
tham gia đóng góp cho cơng cuộc xây dựng NTM ở quê hương.
* Vật lực (nguồn lực vật chất, công cụ lao động, đối tượng lao động,
tài nguyên thiên nhiên,...).
Nhóm nguồn lực vật chất gồm: Tài nguyên thiên nhiên (tài nguyên đất,
tài nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên thủy điện, tài nguyên nước, tài
nguyên khí hậu, vị trí địa kinh tế...) và cơ sở vật chất kỹ thuật đã tạo dựng
(nhà cửa, cơng trình cơng cộng, đường sá, hải cảng, sân bay, hệ thống sản
xuất và truyền tải điện, hệ thống cung cấp và thoát nước, hệ thống xử lý chất
thải, hệ thống viễn thông và truyền thông...).
* Tài lực (nguồn lực tài chính)
Huy động tài lực cho xây dựng NTM bao gồm: Huy động nguồn vốn
thu hút đầu tư từ nước ngoài do Nhà nước quản lý, các tổ chức phi Chính phủ.
Đây là nguồn lực đóng vai trò quan trọng đối với nước ta cũng như đối với
các nước đang phát triển; nguồn vốn huy động từ ngân sách nhà nước, trong
đó có nguồn vốn hỗ trợ đầu tư từ Chính phủ và nguồn vốn từ thu ngân sách
trên địa bàn như từ thu thuế, phí và tiền cấp quyền sử dụng đất; vốn đầu tư tín
dụng nhà nước vay từ các ngân hàng theo các dự án, các chương trình của
Nhà nước hoặc các tổ chức liên quan; huy động từ nguồn vốn từ doanh
nghiệp nhà nước, vốn đầu tư từ doanh nghiệp ngoài nhà nước và huy động từ
cộng đồng dân cư sinh sống tại địa bàn.
Căn cứ vào nguồn gốc của nguồn lực, người ta chia chúng ra thành hai
nhóm: Nguồn lực trong nước và nguồn lực ngoài nước.


22

Thứ nhất, nguồn lực trong nước: Đây là nguồn lực được xác định giữ
vai trò quyết định. Bằng cơ chế, chính sách, người ta tạo ra mơi trường hấp
dẫn để thu hút các nguồn lực bên ngoài, nhất là thu hút nhân tài. Thơng qua

cơ chế, chính sách, nhà nước và các doanh nghiệp có thể biến ngoại lực thành
nội lực. Phần lớn các nguồn lực đều hữu hạn. Vì thế, việc sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả các nguồn lực và dự trữ các nguồn lực trong điều kiện có thể là một
trong những quốc sách quan trọng
Thứ hai, nguồn lực nước ngồi (cịn gọi là ngoại lực) bao gồm KH-KTCN, nguồn vốn, kinh nghiệm về tổ chức và quản lý sản xuất và kinh doanh...
từ nước ngoài. Nguồn lực này có vai trị quan trọng, thậm chí đặc biệt quan
trọng đối với nhiều quốc gia đang phát triển ở những giai đoạn lịch sử cụ thể.
Mặc dù có vai trò khác nhau, nhưng giữa nguồn lực trong nước và
nguồn lực nước ngồi có mối quan hệ mật thiết với nhau. Đây là mối quan hệ
hỗ trợ, hợp tác, bổ sung cho nhau trên ngun tắc bình đẳng cùng có lợi và
tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau. Xu thế chung là các quốc gia cố gắng
kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp với mục tiêu phát triển
kinh tế nhanh và bền vững.
1.3. Kinh nghiệm huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn
mới ở một số địa phương và bài học kinh nghiệm cho huyện Thường Tín
1.3.1. Kinh nghiệm huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn
mới ở một số địa phương ngoại thành Hà Nội
Cùng với cả nước, các xã trên địa bàn Hà Nội bước vào xây dựng
NTM. Thụy Hương (Chương Mỹ) là xã đầu tiên được chọn làm mơ hình
điểm. Tiếp đó là Đại Áng (Thanh Trì), Hồng Dương (Thanh Oai), Mai Đình
(Sóc Sơn)… Cho đến giai đoạn hiện nay, các huyện có các xã được chọn làm
mơ hình điểm xây dựng NTM đã bước đầu triển khai chương trình xây dựng
nơng thơn mới nhưng chưa thực sự đạt hiệu quả. Có thể kể đến một số điểm
như sau:
Ở xã Thụy Hương (huyện Chương Mỹ), là xã đầu tiên được chọn làm
mơ hình điểm xây dựng NTM trên địa bàn thành phố Hà Nội. Mục tiêu đề ra


23


của chương trình này là đến năm 2011, xã sẽ huy động mọi nguồn lực nhằm
mục tiêu hoàn thành xây dựng NTM nhưng trên thực tế, đến đầu tháng 2/2011
thì những dự án của chương trình gần như chưa hồn thành chỉ tiêu so với kế
hoạch. Chương trình chưa thực sự mang lại hiệu quả về mặt kinh tế và chưa
mang lại lòng tin đối với người dân trong vùng. Theo như báo cáo của xã,
Thụy Hương đã đạt được 14/19 tiêu chí cụ thể các hạng mục gồm: Quy
hoạch, xây dựng hạ tầng, hệ thống chính trị và nhận thức của nhân dân trách
nhiệm tham gia xây dựng mô hình nơng thơn mới được nâng cao. Về phần
kinh phí thì hầu như các hạng mục vượt so với kinh phí của đề án. Ví dụ như
phần thủy lợi hết hơn 11 tỷ trong khi đề án dự toán là 9 tỷ, hay trường học hết
gần 13 tỷ (đề án là 12 tỷ). Cơ sở văn hóa, chợ, bưu điện hết gần 6,5 tỷ (đề án
là 5 tỷ)…
Nếu chỉ nhìn qua thì việc huy động các nguồn lực cho xây dựng NTM ở
Thụy Hương đã mang lại kết quả tốt song trên thực tế cho thấy những việc mà
Thụy Hương báo cáo là hoàn thành và gần hoàn thành chỉ là những đầu việc
mà lẽ ra ngay trước khi được chọn làm điểm Thụy Hương phải đạt chuẩnnghĩa là những đầu việc ấy là cơ sở hạ tầng chuẩn bị để hướng đến những
chuẩn cao hơn là: phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất, phát triển văn hóa xã
hội và môi trường. Thế nhưng, sau hơn một năm Thụy Hương thực hiện các
hạng mục cơ sở hạ tầng: điện, thủy lợi (mới xong ở cánh đồng thôn Chúc Sơn
1), hệ thống chính trị (đủ người song năng lực của cán bộ thì cịn nhiều hạn
chế, nhà văn hóa thôn, xây nhà cho hộ nghèo… Thực tế cho thấy, những đầu
việc này chỉ cần có nguồn tài chính là thực hiện được. Trước mắt thì nó mang
lại cho nơng thôn sự thay đổi đáng kể về sự khang trang song về lâu dài nó lại
chịu sự đào thải nếu như yếu tố con người vẫn dậm chân tại chỗ. Chính vì thế,
điều khó khăn nhất và cũng là cốt lõi của vấn đề xây dựng NTM không đơn
thuần dừng lại ở việc xây dựng những cơng trình xây dựng, giao thơng mà cịn
là người dân làm chủ trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Thụy Hương bắt đầu thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM trong điều
kiện tất cả đều ở vị trí xuất phát. Ví dụ như dự án trồng rau sạch (do công ty



24

Tonkin thực hiện bao tiêu sản phẩm), xã mới quy hoạch được 10 ha trong tổng
số 79 ha diện tích rau màu, một con số quá ít ỏi. Số đất được quy hoạch rơi vào
hai thôn Chúc Đồng 1 và Chúc Đồng 2 trong khi xã có 7 thơn. Trong số 180 hộ
phải giải phóng mặt bằng thì vẫn cịn đến 30 hộ không chấp hành. Dự án rau
sạch tuy đã khởi động nhưng vẫn còn là nỗi lo lắng đối với các nhà quản lý về
kết quả của nó. Dự án trồng cây ăn quả mới đang trong quá trình xây dựng hạ
tầng; dự án khu chăn ni tập trung vẫn đang chờ huyện phê duyệt.
Mục tiêu đặt ra cho Thụy Hương là phải huy động được các nguồn lực
để cơ bản hồn thành việc xây dựng mơ hình “NTM trong thời kỳ CNHHĐH”. Để xây dựng một công trình có thể chạy đua với thời gian song việc
chuyển đổi cơ cấu kinh tế thì khơng thể vì tất cả phải có q trình mà yếu tố
căn bản để có thể thực hiện được q trình ấy lại là người nông dân. Nếu dân
chưa hiểu và nắm vững về chủ trương của Đảng và Nhà nước trong về việc
xây dựng NTM và mục tiêu của chương trình mà chỉ làm theo hoặc bị ép
buộc thì chắc chắn rằng mơ hình NTM ở Thụy Hương khơng thể bền vững.
Thực hiện mục tiêu đó, đảng và chính quyền xã Thụy Hương đã tăng
cường tuyên truyền để nhân dân trong xã hiểu và cùng nhau phát huy các thế
mạnh, tăng cường các biện pháp huy động các nguồn lực cho xây dựng NTM.
Đến nay xã đã hồn thành 18/19 tiêu chí về xây dựng nơng thơn mới, trong đó
tăng trưởng kinh tế đạt 23%/năm; thu nhập đầu người đạt 21 triệu
đồng/người/năm (tăng hơn hai lần so năm 2009). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tích cực, tăng thương mại dịch vụ, công nghiệp, xây dựng; giảm
nông, lâm, ngư nghiệp.
Ở Đại Áng (Thanh Trì) và Hồng Dương (Thanh Oai) giai đoạn đầu xây
dựng NTM cũng gặp phải các vấn đề khó khăn trong việc huy động các nguồn
lực tương tự như xã Thụy Hương. Điều đó cho thấy mặc dù chương trình đã
được phê duyệt nhưng khi đi vào triển khai thực hiện đã gặp rất nhiều khó khăn
khơng dễ dàng giải quyết được. Khi đưa đề án vào triển khai thực hiện và đi

vào những đầu việc cụ thể các xã cịn chậm chạp, tiến trình thực hiện chưa
khoa học, cịn mang tính hình thức với việc kể đầu việc bằng một số cơng trình


25

mới xây dựng. Vì vậy chủ trương chính sách của các cấp về vấn đề NTM
không được người dân thấm nhuần, chưa nhận thức được vai trị quan trọng
của mình. Trước mắt họ còn thấy phải làm việc này, việc kia và phải đóng góp
các khoản khiến cách hiểu của họ về NTM trở nên lệch lạc. Chính vì thế tuy
triển khai đã được hơn một năm song sự đổi mới chưa đáng kể ngồi những
cơng trình xây dựng làm dang dở. Nguyên nhân của vấn đề này có thể kể đến
như sau:
Thứ nhất, còn lúng túng trong khâu quy hoạch dẫn đến chậm trễ trong
việc thực hiện các dự án, đặc biệt là các dự án xây dựng CSHT. Chính vì vậy,
sau thời gian triển khai thực hiện đề án nhưng nhiều hạng mục cơ sở hạ tầng
mới bắt đầu được triển khai xây dựng hoặc đang còn rất dang dở, một phần là
do sự yếu kém trong trình độ chuyên môn của các cán bộ quản lý, cán bộ quy
hoạch. Do đó chưa có sự đồng thuận cao trong các phương án quy hoạch dẫn
đến kéo dài thời gian tranh luận và đưa ra quy hoạch cuối cùng.
Thứ hai, mơ hình xây dựng NTM khi được triển khai chưa tạo được
lòng tin và sự ủng hộ của nhân dân. Nhiều người dân khi được hỏi không biết
đến chương trình xây dựng nơng thơn mới hoặc nếu có biết cũng ở tâm trạng
nghi hoặc và không tin tưởng vào kết quả mà chương trình mang lại. Chính vì
vậy việc triển khai thực hiện công tác tổ chức sản xuất cịn khơng nhận được
sự ủng hộ của người dân gây nên rất nhiều khó khăn trong cơng tác triển khai
các quy hoạch.
Thứ ba, khả năng quản lý và trình độ nhận thức của các cán bộ cấp xã
còn hạn chế, công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia vào công tác
xây dựng nông thôn mới triển khai chưa đem lại hiệu quả. Do đó người dân

đang cịn rất mơ hồ về các chương trình hoạt động.
Thứ tư, việc tổ chức thực hiện còn chậm, sự phối hợp giữa các tổ chức,
doanh nghiệp, các đồn thể trong xã cịn thiếu đồng bộ và chưa đem lại hiệu quả.
Có rất nhiều hạn chế trong công tác thực hiện đề án ở các xã, nhưng có
thể nói khó khăn lớn nhất là chưa tạo được lịng tin từ phía người dân. Để khắc
phục và làm tốt hơn công tác này, cần phải tích cực hơn trong cơng tác tun


×