BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
LẠI HÀ PHƯƠNG
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG UỶ PHƯỜNG THUỘC ĐẢNG BỘ
QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
HÀ NỘI - 2014
BỘ QUỐC PHỊNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
LẠI HÀ PHƯƠNG
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG UỶ PHƯỜNG THUỘC ĐẢNG BỘ
QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ
NƯỚC
MÃ SỐ: 60 31 02 03
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS PHẠM GIA CƯ
HÀ NỘI - 2014
3
BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
An ninh chính trị
Ban chấp hành
Cơng nghiệp hố, hiện đại hố
Cơng tác đảng, cơng tác chính trị
Hội đồng nhân dân
Hệ thống chính trị
Kinh tế chính trị
Kinh tế xã hội
Năng lực lãnh đạo
Quốc phòng an ninh
Tổ chức cơ sở Đảng
Trong sạch vững mạnh
Ủy ban nhân dân
Ủy ban mặt trận tổ quốc
Văn hố xã hội
Vững mạnh tồn diện
ANCT
BCH
CNH, HĐH
CTĐ, CTCT
HĐND
HTCT
KTCT
KTXH
NLLĐ
QPAN
TCCSĐ
TSVM
UBND
UB MTTQ
VHXH
VMTD
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC
Trang
3
9
TIỄN NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG UỶ PHƯỜNG THUỘC ĐẢNG BỘ QUẬN
HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1
Những vấn đề cơ bản về năng lực lãnh đạo và nâng cao
9
năng lực lãnh đạo của đảng uỷ phường thuộc Đảng bộ
1.2
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
Thực trạng năng lực và một số kinh nghiệm nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng uỷ phường thuộc Đảng bộ
28
4
Chương 2
quận Hà Đông.
YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN
55
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
UỶ PHƯỜNG THUỘC ĐẢNG BỘ QUẬN HÀ
2.1
ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY
Sự phát triển của tình hình, nhiệm vụ và yêu cầu nâng
55
cao năng lực lãnh đạo của Đảng uỷ phường thuộc Đảng
2.2
bộ quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay
Những giải pháp cơ bản nâng cao năng lực lãnh đạo
63
của Đảng ủy phường thuộc Đảng bộ quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội hiện nay.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
84
86
91
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình lãnh đạo cách mạng trong từng giai đoạn, vấn đề tất yếu đặt ra
là Đảng phải luôn tự đổi mới, chỉnh đốn không ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu; chỉ có trên cơ sở như vậy, Đảng mới hồn thành trọng
trách trước giai cấp cơng nhân và tồn thể dân tộc. Năng lực lãnh đạo của
Đảng có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng, trực tiếp quyết định sức mạnh, hiệu
lực lãnh đạo của Đảng và sự thành công của sự nghiệp cách mạng.
Sự lãnh đạo của Đảng được thông qua hệ thống các tổ chức đảng từ
Trung ương đến cơ sở. Đảng bộ phường trên địa bàn quận Hà Đông là tổ chức
cơ sở đảng thuộc Đảng bộ quận Hà Đông, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tập
trung, thống nhất về mọi mặt của Quận uỷ Hà Đông. Đảng ủy phường là cơ
quan lãnh đạo giữa hai kỳ đại hội của đảng bộ, là hạt nhân chính trị, trung tâm
đồn kết của đảng bộ và cơ sở địa phương, là nơi trực tiếp lãnh đạo thực hiện
5
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh
đạo thực hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước và quản lý đơ thị trên
địa bàn; xây dựng cơ sở vững mạnh, giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, động viên nhân dân làm tròn
nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Năng lực lãnh đạo của đảng ủy phường giữ vai trò hết sức quan trọng, là
một nhân tố căn bản góp phần quyết định chất lượng lãnh đạo của đảng bộ về
mọi mặt; trực tiếp góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển KTXH, văn hóa, tư tưởng, tăng cường tiềm lực QP-AN, giữ vững an ninh chính
trị trật tự an tồn xã hội trên địa bàn quận, góp phần xây dựng Thủ đơ văn
minh, giàu mạnh… Vì vậy, nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng ủy phường
có tầm quan trọng đặc biệt và là nội dung then chốt trong xây dựng đảng bộ
phường TSVM. Nhận thức được điều đó, thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của
Thành uỷ, Quận ủy Hà Đông đã đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng ủy phường. Nhờ vậy, năng
lực lãnh đạo của các đảng ủy phường có nhiều chuyển biến, tiến bộ, góp phần
nâng cao chất lượng lãnh đạo của đảng bộ trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của
đời sống xã hội ở địa phương. Tuy vậy, trên thực tế năng lực lãnh đạo của đảng
ủy phường còn chưa ngang tầm nhiệm vụ; khả năng quán triệt, vận dụng cụ thể
hố các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp
trên vào tình hình cụ thể của cơ sở địa phương để có chủ trương, biện pháp lãnh
đạo còn thiếu cụ thể, chưa sát thực tiễn; trong xây dựng các nghị quyết lãnh đạo
của chi bộ chưa phát huy được cao độ trí tuệ của tập thể, cịn thiếu các nghị
quyết chun đề có khả năng tạo ra những bước đột phá mới; lãnh đạo công tác
cán bộ, xây dựng đội ngũ đảng viên hiện nay vẫn còn là khâu yếu….
Hiện nay, trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, yêu cầu đổi mới
chỉnh đốn đảng, nhiệm vụ của thành phố và của quận, nhiệm vụ chính trị của các
phường, cơng tác lãnh đạo của các đảng ủy phường trên các lĩnh vực của đời
6
sống xã hội ở địa phương có sự đổi mới, phát triển cả về diện rộng và chiều sâu.
Hơn nữa, quán triệt, thực hiện Nghị quyết của Quận uỷ trong tình hình mới càng
đặt ra yêu cầu cao đối với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy phường, bảo
đảm cho mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nghị
quyết của cấp trên được hiện thực hóa tại các cơ sở trên địa bàn quận. Vì vậy,
nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng ủy phường là một nội dung cơ bản, trọng
tâm trong nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và xây dựng đảng bộ
phường TSVM hiện nay.
Vì vậy, việc tác giả lựa chọn vấn đề: “Nâng cao năng lực lãnh đạo của
đảng uỷ phường thuộc Đảng bộ quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay”
làm đề tài luận văn có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng nói chung, của cấp uỷ, tổ chức cơ
sở đảng nói riêng là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng của công tác xây dựng Đảng,
đã được Đảng ta đề cập thường xuyên trong các văn kiện, nghị quyết, kết luận
của Đảng qua các nhiệm kỳ đại hội. Quán triệt chủ trương, nghị quyết của
Đảng, tập trung vào công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng đã được các nhà lãnh đạo, các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu, gần đây có một số cơng trình tiêu biểu như sau:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới”
của PGS.TS Nguyễn Phú Trọng, PGS.TS Tô Huy Rứa và PGS.TS Trần Khắc Việt
đồng chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004; “Nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các Đảng bộ phường ở thủ đô Hà Nội hiện nay” của tập thể
tác giả, PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh chủ biên, Nxb CTQG, Hà Nội, năm 2004;
"Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới" của
PGS Lê Văn Dương (chủ biên), Nxb. CTQG. H. 2004; "Nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong giai đoạn hiện nay". Thông tin
7
chuyên đề phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, lưu hành nội bộ - Viện Thơng tin
Khoa học, Học viện chính trị - hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. H.2006.
Từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, các cơng trình trên đã nghiên cứu
làm rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Đảng, của tổ chức cơ sở đảng, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm
và đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và toàn Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài luận án tiến sĩ Nguyễn Đức Ái (2001), Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở Đảng nơng thơn vùng cao phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh CNH HĐH đất nước”; Luận văn thạc sỹ Phùng Đức Thái (2000), Học viện báo chí
và tuyên truyền “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở Đảng ở xã thuộc tỉnh Tây Ninh hiện nay ”; Luận văn thạc sỹ Nguyễn
Văn Dũng (2000), Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh “Nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng nông thôn ở tỉnh Long
An hiện nay”; Luận văn thạc sỹ Nguyễn Việt Dũng (2000), Học viện chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng ở xã thuộc vùng dân tộc Khơ Me tỉnh Kiên Giang hiện nay”;
Luận văn thạc sỹ Dương Trung Ý (2002), Học viện báo chí và tuyên truyền
“Nâng cao NLLĐ và sức chiến đấu của các Đảng bộ xã ở huyện Yên Thế, tỉnh
Bắc Giang trong giai đọan hiện nay”; Luận văn thạc sỹ Bùi Hữu Dược
(2003), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh “Năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng nơng thơn vùng có đơng đồng bào công
giáo ở tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp”;
Luận văn thạc sỹ Vũ Văn Thể (2003), Học viện báo chí và tuyên truyền
“Nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sơ đảng nông
thôn tỉnh Lâm Đồng hiện nay"; Luận văn thạc sỹ Phạm Ngọc Thuỵ (2004), Học
8
viện chính trị - Bộ Quốc phịng "Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì cơ quan ở Học
viện Quốc phòng trong giai đoạn hiện nay"; Luận văn thạc sỹ Nguyễn Trường
Sơn (2009), Học viện chính trị- Bộ Quốc phịng "Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
TSVM ở doanh nghiệp cổ phần hoá của Tổng cục Hậu cần giai đoạn hiện nay".
Các cơng trình trên đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn
của vấn đề nghiên cứu, đã khái quát, luận giải một số vấn đề về quan niệm, vị
trí, vai trị, đặc điểm, u cầu của công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở một
số loại hình đơn vị cụ thể. Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng, xác định
nguyên nhân, làm rõ những yêu cầu đòi hỏi phải nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của các đơn vị; đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, xây dựng tổ
chức cơ sở đảng TSVM ở từng loại hình tổ chức cơ sở đảng hiện nay.
Nhìn chung, các cơng trình, đề tài nghiên cứu nói trên của các tác
giả, các nhà khoa học đã đề cập tới vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo của
các cấp uỷ, tổ chức đảng dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Mỗi cơng trình
đều có khách thể và đối tượng nghiên cứu riêng, mặc dù có sự giao thoa về
nội dung nghiên cứu, nhưng cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên
cứu một cách tồn diện, độc lập, có hệ thống về nâng cao năng lực lãnh đạo
của đảng bộ phường trên địa bàn quận Hà Đông hiện nay dưới góc độ khoa
học xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước. Vì vậy, việc tác giả lựa chọn
đề tài "Nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng uỷ phường thuộc Đảng bộ
quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay" là cơng trình nghiên cứu độc
lập, khơng trùng lặp với các cơng trình đã nghiệm thu, cơng bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
9
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn, đề xuất
những giải pháp cơ bản nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng ủy phường
thuộc Đảng bộ quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải, làm rõ những vấn đề cơ bản về nâng cao năng lực lãnh đạo của
đảng uỷ phường thuộc Đảng bộ quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng uỷ phường thuộc Đảng bộ quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao NLLĐ của
đảng uỷ phường thuộc Đảng bộ quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nâng cao năng lực lãnh đạo của
đảng uỷ phường thuộc Đảng bộ quận Hà Đông, thành phố Hà Nội hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu năng lực lãnh đạo của các đảng uỷ phường và
hoạt động xây dựng đảng bộ phường TSVM, xây dựng phường VMTD. Phạm
vi khảo sát ở tất cả các phường trên địa bàn Quận Hà Đông; các số liệu, tư
liệu điều tra khảo sát được giới hạn từ năm 2010 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Là những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng, chỉnh
đốn đảng.
* Cơ sở thực tiễn
Là thực tiễn hoạt động nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng uỷ phường
thuộc Đảng bộ quận Hà Đông từ sau ngày mở rộng địa giới thủ đô Hà Nội năm
10
2008 đến nay; đồng thời căn cứ vào các tư liệu, số liệu trong các nghị quyết, báo
cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng trong những năm gần đây của Quận uỷ Hà
Đông, đảng uỷ các phường.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử dụng
tổng hợp các phương pháp của khoa học chuyên ngành và liên ngành, trong đó chú
trọng phương pháp lơgich - lịch sử, phân tích - tổng hợp; phương pháp thống kê, so
sánh, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp thêm cơ sở khoa học giúp cấp
ủy các cấp ở địa phương mà trực tiếp là Quận uỷ Hà Đông trong lãnh đạo, chỉ
đạo nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng ủy phường, góp phần xây dựng đảng
ủy, đảng bộ phường TSVM, xây dựng phường VMTD. Đồng thời, có thể dùng
làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo, giảng dạy trong quá trình đào tạo bồi dưỡng
cán bộ ở trung tâm bồi dưỡng chính trị các quận, huyện hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phần phụ lục.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG UỶ PHƯỜNG
THUỘC ĐẢNG BỘ QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề cơ bản về năng lực lãnh đạo và
nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng uỷ phường thuộc
Đảng bộ quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
1.1.1. Đảng uỷ phường thuộc Đảng bộ quận Hà
Đông, thành phố Hà Nội
11
* Khái quát về các phường trên địa bàn quận Hà Đơng
Hà Đơng nằm ở phía Tây Nam Hà Nội, bên bờ sông Nhuệ, đầu mối của
nhiều tuyến đường giao thông quan trọng, cách trung tâm Hà Nội 10 km. Thị
xã Hà Đông trước đây thuộc tỉnh Hà Tây gồm có 08 đơn vị hành chính (03
phường và 05 xã). Trong q trình phát triển, thị xã Hà Đơng được Chính Phủ
nâng cấp từ thị xã lên thành phố trực thuộc tỉnh, được hai lần điều chỉnh mở
rộng địa giới hành chính, sát nhập 06 xã thuộc các huyện Thanh oai, Hồi
Đức, Chương Mỹ về Hà Đơng nâng diện tích của Quận từ trên 16 km2 lên
48km2, với dân số trên 180 nghìn người. Thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc
hội về mở rộng địa giới Thủ đô Hà Nội, đến nay Hà Đông trở thành một Quận
của Thủ đô Hà Nội có diện tích tự nhiên 48km2,dân số gần 240 nghìn nhân
khẩu phân bố tại 17 phường trực thuộc. Đảng bộ Quận có 95 tổ chức cơ sở
Đảng với trên 12 nghìn đảng viên.
Thành phần dân cư ở các phường trên địa bàn quận Hà Đông đa dạng,
bao gồm: Cơng nhân, cơng chức, trí thức, nơng dân, thợ thủ công, quân đội,
công an, người về hưu, chủ doanh nghiệp, tiểu thương và những người làm ăn
tự do... Các tầng lớp dân cư này cư trú ở các tổ dân phố được hình thành vốn
trước đây là các xóm làng, các khu tập thể cơ quan, xí nghiệp, trường học,
bệnh viện, trạm trại, đơn vị quân đội, công an....
Hà Đông vốn là một vùng đất giàu truyền thống cách mạng, có bề dày
văn hóa và hiện nay là một trong những địa phương có tốc độ phát triển
nhanh nhất của Hà Nội. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã tiến
những bước dài về quy mô, sản lượng; có tốc độ tăng trưởng GDP bình qn 5
năm (2010 - 2014) đạt 13,7%.
Về giáo dục, văn hóa - xã hội, hiện quận Hà Đơng có 65 trường mầm
non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông cả cơng lập và tư thục,
trong đó có 15 trường học đạt chuẩn quốc gia; 11 trường cao đẳng, đại học,
trung học chuyên nghiệp đóng trên địa bàn quận. Từ năm 1990, Hà Đông là
12
địa bàn điển hình của tỉnh Hà Tây về phong trào xây dựng gia đình văn hóa,
làng, khu phố, cơ quan, đơn vị văn hóa. Năm 2012, có 89% hộ gia đình đạt
danh hiệu gia đình văn hóa; 27 làng, khu phố, 82 cơ quan đạt danh hiệu văn
hóa. Mạng lưới y tế đã có 100% phường đều có trạm y tế và có bác sỹ. Nhiều
năm liên tục, Hà Đông giữ vững tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 1%/năm.
Các phường trên địa bàn quận Hà Đông: Là đơn vị hành chính cơ sở trong
hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước ta được tổ chức theo khu vực dân cư ở
thành thị, hợp thành bởi các tổ dân phố trên địa bàn, có địa giới hành chính, tổ
chức bộ máy và dân số theo quy định của cấp có thẩm quyền; là nơi nhân dân địa
phương sinh sống, trực tiếp lao động sản xuất, phát triển kinh tế-xã hội, củng cố
quốc phòng, an ninh ở địa phương, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ngoài đặc điểm chung của cấp cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội,
song do điều kiện, trình độ KT-XH và phong tục tập quán, các phường ở quận
Hà Đơng cịn có những đặc điểm riêng. Là quận có 17 phường, 232 tổ dân
phố, có nhiều tiềm năng, thế mạnh, vốn là trung tâm chính trị, kinh tế, VHXH của một tỉnh lớn trước đây, nên sau khi sáp nhập vào Hà Nội, về KT-XH
ở các phường có tốc độ phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh,
với tỷ trọng công nghiệp xây dựng chiếm 52,71%, thương mại - dịch vụ - du
lịch chiếm 47,15%, nơng nghiệp chỉ cịn 0,14%.
Về xây dựng cơ bản, kể từ năm 2009 đến nay, diện mạo các phường,
nhất là các phường vốn là các xã trước đây, như: Đồng Mai, Biên Giang, Yên
Nghĩa, Kiến Hưng, Dương Nội… có sự thay đổi rõ rệt, nhiều khu đơ thị mới
được xây dựng; trục đơ thị phía Bắc, các trường đại học, các bệnh viện quốc
tế với số vốn huy động đầu tư hàng chục tỷ đơla.
Ngồi ra có một số phường có các làng nghề, như: phường Vạn Phúc
có làng Vạn Phúc với nghề dệt lụa nổi tiếng từ lâu. Đây là một thế mạnh của
13
việc phát triển dịch vụ du lịch kết hợp với tham quan các làng nghề của vùng.
Ngồi ra cịn có the La Khê, làng rèn Đa Sỹ, nghề mộc Phú Lương ..…
Trong hệ thống tổ chức hành chính 4 cấp ở nước ta, với tư cách là đơn vị cơ
sở, phường là cấp chấp hành, thực hiện sự tác động quản lý từ các cấp trên, nơi hiện
thực hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước thành hoạt động thực tiễn của
dân; đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm tính đúng đắn, hiệu quả của các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
Là đơn vị hành chính cơ sở, phường là nơi diễn ra mọi hoạt động sinh
hoạt, quan hệ của dân cư trên địa bàn đô thị. Ở cấp cơ sở, chính quyền trong
dân, quan hệ trực tiếp với dân; là nơi chính quyền và các đồn thể tổ chức cuộc
sống, hoạt động và các phong trào trong đời sống dân cư, thể hiện rõ nhất, trực
tiếp nhất ý thức và năng lực dân chủ của dân bằng cả phương thức dân chủ đại
diện và dân chủ trực tiếp. Cấp cơ sở là nơi HTCT thể hiện trực tiếp nhất việc tổ
chức và phát huy khả năng sáng tạo, mọi tiềm năng trong dân, khai thác và phát
triển những khả năng đó tại địa bàn để giải quyết tại chỗ những yêu cầu phát
triển của cộng đồng, đáp ứng nhu cầu chính đáng của dân, đem lại lợi ích thiết
thực nhất cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Nắm vững vai trò, đặc điểm của các phường nêu trên là vấn đề có ý nghĩa
hết sức quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt quản lý nhà
nước trên các lĩnh vực ở địa phương, thúc đẩy phát triển KT-XH một cách ổn
định, bền vững. Đồng thời, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
đảm bảo an sinh xã hội, tăng cường tiềm lực QP,AN, góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an tồn xã hội trên địa bàn Thủ đô.
* Các đảng bộ phường thuộc Đảng bộ quận Hà Đông
Theo quy định của Điều lệ Đảng, hệ thống tổ chức đảng được lập tương
ứng với hệ thống tổ chức hành chính nhà nước.
Căn cứ vào Điều lệ Đảng, quy định, hướng dẫn của Thành ủy, Quận ủy
và hướng dẫn của ban chức năng của Quận ủy, tồn quận có 17 Đảng bộ
14
phường và các TCCSĐ khác trực thuộc Quận ủy. Đảng bộ phường là TCCSĐ
2 cấp, có đảng ủy phường và chi bộ ở các tổ dân phố (232 chi bộ). Từng
phường có sự chênh lệch và khác nhau về trình độ dân trí, nếp sinh hoạt,
phong tục, tập quán; đời sống kinh tế của nhân dân, cơ sở hạ tầng kỹ thuật
phục vụ dân sinh; công tác quản lý đô thị, đất đai, trật tự xây dựng và sự phát
triển đơ thị hố trong từng thời kỳ ... Do vậy trong từng thời kỳ việc lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, từng Đảng bộ
phường có sự khác nhau.
Đảng bộ phường là loại hình cơ bản, tồn tại và hoạt động trong các
vùng có mật độ dân cư đơng, có trình độ dân trí cao hơn so các vùng khác và
chiếm một tỷ lệ lớn trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng hiện nay. So với
các loại hình khác, đảng bộ phường có số lượng đảng viên đơng, trình độ mọi
mặt của đảng viên tương đối cao nhưng không đồng đều; đảng viên ở phường
phần lớn là đảng viên hưu trí; phường lại là nơi tập trung của sự sôi động trong
cơ chế thị trường, nơi diễn ra cách làm ăn mới, đồng thời cũng là nơi bộc lộ
nhiều cách làm ăn lợi dụng cơ chế, nơi xuất phát và chứa đựng nhiều tiêu cực,
nên đảng bộ phường có trách nhiệm rất nặng nề trong lãnh đạo, chỉ đạo vừa phát
huy được thế mạnh; đồng thời, cũng phải thấy rõ tiềm ẩn các nguy cơ, tệ nạn nảy
sinh, để có chủ trương, biện pháp kịp thời, phù hợp. Những vấn đề đó địi hỏi
đảng ủy phải thực sự có năng lực, thì mới đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và
công tác xây dựng đảng bộ thời kỳ mới.
Đảng bộ phường có trách nhiệm lãnh đạo toàn diện tất cả các mặt chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh, quốc phịng ở phường. Với chức năng
là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện chức năng quản lý hành
chính Nhà nước và quản lý đô thị trên địa bàn; xây dựng hệ thống chính trị ở
cơ sở vững mạnh; khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
người dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
15
* Quan niệm, chức năng nhiệm vụ, vị trí, vai trò của đảng uỷ
phường
Trong hệ tổ chức bộ máy lãnh đạo của Đảng, cơ quan lãnh đạo cao nhất
ở mỗi cấp là đại hội đảng bộ (chi bộ), và ban chấp hành (gọi tắt là cấp ủy) do
đại hội cùng cấp bầu ra, là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ giữa hai kỳ đại hội.
Cấp ủy có trách nhiệm trước đảng bộ và cấp trên lãnh đạo mọi mặt hoạt động
đảng bộ.
Ở cấp cơ sở, ban chấp hành đảng bộ cơ sở gọi tắt là đảng ủy cơ sở là bộ
phận hữu cơ của đảng bộ, nhưng là bộ phận hạt nhân lãnh đạo chính trị, trung
tâm đồn kết của đảng bộ, tiêu biểu cho năng lực trí tuệ, năng lực thực tiễn và
phẩm chất đạo đức của đảng bộ.
Theo đó, có thể quan niệm: Đảng uỷ phường là cơ quan lãnh đạo của
đảng bộ phường giữa hai kỳ đại hội, là hạt nhân chính trị có trách nhiệm
lãnh đạo tồn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, quốc
phịng - an ninh, cơng tác tư tưởng, công tác xây dựng Đảng, công tác vận
động quần chúng và công tác tổ chức cán bộ, nhằm bảo đảm cho chủ trương,
nghị quyết của Đảng, chính sách và luật pháp của Nhà nước, nghị quyết của
cấp ủy cấp trên được quán triệt và hiện thực hóa ở các phường trên địa bàn
quận; góp phần có hiệu quả vào việc thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Về cơ cấu tổ chức: theo quy định hướng dẫn của cấp trên, BCH đảng
bộ các phường được bầu thông qua bầu cử dân chủ tại Đại hội nhiệm kỳ của
Đảng bộ, đảm bảo đúng nguyên tắc; ban thường vụ đảng uỷ các phường được
bầu tại hội nghị họp BCH đảng bộ phiên thứ nhất. Những trường hợp kiện
toàn bổ sung trong quá trình hoạt động cơ bản bảo đảm đúng nguyên tắc và
quy định của cấp trên. Các cấp uỷ viên được bầu cử hoặc bổ sung đều được
lựa chọn kỹ, phải bảo đảm theo tiêu chuẩn quy định và theo các bước thực
hiện quy trình về cơng tác tổ chức cán bộ. Về số lượng đảng ủy phường có số
16
lượng đảng uỷ viên khơng q 21 đồng chí, BCH đảng bộ cơ sở có 9 uỷ viên
trở lên được bầu ban thường vụ (số lượng không quá 1/3 số lượng BCH), phó
bí thư từ 1 - 2 đồng chí. Cơ cấu BCH đảng bộ phường gồm: các đồng chí là
thường trực đảng uỷ, thường trực HĐND và thường trực UBND; các ngành
công an, quân sự, giáo dục; khối UBMTTQ và các đoàn thể; khối chi bộ, kinh
tế và các ngành khác.
Về chức năng, nhiệm vụ của đảng ủy phường
Đảng ủy phường là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực hiện đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo thực hiện
chức năng quản lý hành chính Nhà nước và quản lý đơ thị trên địa bàn; xây
dựng hệ thống chính trị vững mạnh, xây dựng phường vững mạnh tồn diện;
khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân, động
viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Để thực hiện chức năng trên, đảng ủy phường có các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội theo nghị quyết của đảng bộ phường và của cấp ủy
cấp trên; tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế và
hộ gia đình phát triển sản xuất kinh doanh đúng theo chính sách và pháp luật
của Đảng, Nhà nước. Tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động;
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân; động
viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước; xây dựng phường giàu
đẹp, văn minh.
Thứ hai, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng theo quy
hoạch, chăm lo phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, bảo vệ môi
trường, thực hiện tốt các chính sách xã hội, xố đói, giảm nghèo.
Thứ ba, lãnh đạo và thực hiện dân chủ cơ sở, thực hiện tốt phương châm
“dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”, giám sát mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; mở rộng dân chủ kết
17
hợp với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; kịp thời giải quyết những vướng mắc
tồn tại trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng pháp luật, không để tích tụ
mâu thuẫn trở thành điểm nóng, khơng để xảy ra tình trạng khiếu kiện tập thể,
vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ để làm mất ổn định chính trị trên địa bàn.
Thứ tư, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phịng, an ninh và chính sách
hậu phương qn đội, giữ gìn ANCT và trật tự an tồn xã hội, giữ vững tinh
thần cảnh giác cách mạng; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, tính mạng
và tài sản của người dân; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn, tiêu cực xã hội nhất
là ma tuý và mại dâm.
Về nguyên tắc hoạt động, Đảng ủy làm việc theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, tập thể lãnh đạo kết hợp phát huy vai trò cá nhân phụ trách.
Về quyền hạn, quyền hạn của đảng ủy bao gồm những nội dung chủ
yếu như:
Quyết định các chủ trương, chính sách, biện pháp quan trọng để cụ thể hóa
đường lối và tổ chức chỉ đạo thực hiện các nghị quyết của Đảng, các nghị
quyết của cấp ủy cấp trên; quyết định các chủ trương, biện pháp lớn về tổ
chức và cán bộ, về việc bố trí, đề bạt và thi hành kỷ luật đối với cán bộ thuộc
diện cấp ủy quản lý; thường xuyên chỉ đạo công tác xây dựng Đảng, cơng tác
vận động nhân dân, cơng tác xây dựng chính quyền, định kỳ nghe báo cáo và
chỉ đạo các cấp ủy đảng trực thuộc, các ban Đảng thực hiện chức trách, nhiệm
vụ; xây dựng và điều hành bộ máy của cấp ủy đảng để bảo đảm sự lãnh đạo
các mặt hoạt động của cấp ủy; chuẩn bị ĐH, thường xuyên báo cáo với cấp
trên và thông báo cho cấp dưới tình hình chung và cơng việc của cấp ủy, bảo
đảm việc thơng tin tình hình trong và ngồi nước cho từng cấp ủy viên và cấp
ủy trực thuộc một cách thường xuyên theo quy định của Điều lệ Đảng.
Vị trí, vai trị: Với vị trí là cơ quan lãnh đạo của đảng bộ giữa hai kỳ
đại hội, là hạt nhân lãnh đạo chính trị, trung tâm đồn kết của đảng bộ và cơ
18
sở, vai trò của đảng ủy phường thuộc Đảng bộ quận Hà Đông biểu hiện trên
các nội dung:
Một là, đảng ủy phường giữ vai trò quyết định trong việc cụ thể hóa
chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng,chính sách và pháp luật của
Nhà nước ở cơ sở. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc mọi đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, từ tình hình thực tiễn của địa
phương, đảng ủy cơ sở trực tiếp xác định, đề ra những nhiệm vụ, giải pháp cụ
thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách đó cho phù hợp với điều kiện, đặc
điểm từng cơ sở, bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đi
vào cuộc sống.
Hai là, đảng ủy phường là cơ quan lãnh đạo của Đảng ở cơ sở, trực tiếp
gắn bó với nhân dân, triển khai, hướng dẫn và tuyên truyền vận động nhân dân
thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước tại
địa phương. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
có đi vào đời sống xã hội và trở thành hiện thực trên địa bàn quận tuỳ thuộc vào
sự vận động, tuyên truyền nhân dân thực hiện của các cấp ủy đảng ở cơ sở. Kết
quả vận động quần chúng nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của nhà nước là cơ sở trực tiếp nhất phản ánh mối quan hệ gắn
bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, phản ánh uy tín của Đảng với quần chúng.
Ba là, đảng ủy phường giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng và thúc
đẩy phong trào cách mạng của quần chúng ở cơ sở; là cầu nối quan trọng nhất
giữa Đảng, nhà nước với nhân dân. Là những người trực tiếp, gắn bó với nhân
dân, có mối quan hệ chặt chẽ với nhân dân. Cán bộ, đảng viên ở cơ sở là những
người thường xuyên, trực tiếp triển khai, hướng dẫn và vận động nhân dân thực
hiện và là lực lượng nòng cốt trong thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật Nhà nước. Trong q trình đó, đảng ủy, đội ngũ cán bộ,
đảng viên là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; ý Đảng - lòng dân tạo
thành một khối thống nhất, làm cho Đảng và Nhà nước ăn sâu bám rễ trong quần
19
chúng, tạo nên mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, trực tiếp củng cố
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Mặc khác, qua phong
trào cách mạng của quần chúng, giúp cho Đảng mà trực tiếp là các cấp ủy đảng
ở cơ sở rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn góp phần vào xây dựng và hồn thiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Bốn là, đảng ủy phường có vai trị quan trọng trong lãnh đạo, xây
dựng, củng cố tổ chức, bộ máy của HTCT ở cơ sở. Tổ chức đảng là thành viên
của HTCT ở cơ sở, nhưng lại là tổ chức lãnh đạo, xây dựng và phát huy vai
trị của các tổ chức chính trị-xã hội trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị và
công tác xây dựng đảng bộ phường vững mạnh về mọi mặt. Thực tiễn chứng
minh, sự vững mạnh của HTCT phường và hiệu quả của các phong trào cách
mạng của quần chúng đều gắn với vai trò của các cấp ủy đảng, đội ngũ cán
bộ, đảng viên ở cơ sở. Về tổ chức bộ máy, đảng ủy là trung tâm đoàn kết nội
bộ, là lực lượng quy tụ, tập hợp lực lượng, tổ chức, sắp xếp, kiện toàn các tổ
chức trong HTCT phường. Mặt khác, năng lực lãnh đạo của đảng ủy phường
có vai trị quyết định đến năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng;
năng lực quản lý, điều hành của bộ máy chính quyền và mọi hoạt động của
đoàn thể quần chúng của cơ sở, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân
dân, góp phần thúc đẩy phát triển KT-XH, tăng cường tiềm lực QP-AN, giữ
vững ổn định chính trị trên địa bàn phường, thơng qua hoạt động thực tiễn
đảng ủy phường cịn kịp thời nắm bắt và phản ảnh đầy đủ tâm tư, nguyện
vọng của nhân dân để Đảng, Nhà nước có cơ sở khoa học sửa đổi, bổ sung,
ban hành chủ trương, chính sách, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với từng giai
đoạn phát triển của đất nước.
1.1.2. Quan niệm và yếu tố quy định năng lực lãnh đạo của đảng uỷ
phường thuộc Đảng bộ quận Hà Đông, thành phố Hà Nội
* Khái niệm năng lực
20
Năng lực hiểu theo nghĩa chung nhất đó là "khả năng, điều kiện chủ
quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó” [56, tr.816].
Năng lực lãnh đạo của Đảng là tổng hợp những khả năng, điều kiện chủ
quan của Đảng được tạo nên từ những yếu tố nội sinh, từ sự phấn đấu của bản
thân Đảng cũng như mỗi tổ chức đảng để thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm
vụ lãnh đạo. Thực chất hoạt động lãnh đạo là hoạt động nghiên cứu vận dụng
lý luận, quan điểm vào thực tiễn, đề ra chủ trương, đường lối, tuyên truyền vận
động, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện đường lối đã đề ra.
Hoạt động lãnh đạo của tổ chức đảng diễn ra theo một quy trình thống
nhất, chặt chẽ, liên hồn. Năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng chính là khả
năng, điều kiện của tổ chức đảng (trình độ tri thức, kinh nghiệm, năng lực vận
dụng, tổ chức hoạt động thực tiễn...) trong việc thực hiện các khâu, các bước
của quy trình lãnh đạo nhằm đạt được kết quả cao trong thực tiễn.
* Quan niệm năng lực lãnh đạo của đảng uỷ phường
Năng lực lãnh đạo của đảng ủy phường là toàn bộ khả năng nghiên
cứu, quán triê ̣t, vận dụng sáng tạo đường lối, quan điểm của Đảng, nghị
quyết, chỉ thị, quy định của cấp trên, đề ra các chủ trương, biện pháp đúng
đắn, khả thi tổ chức thực hiện; phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức,
lực lượng vào xây dựng Đảng bộ TSVM, xây dựng phường VMTD hồn thành
thắng lợi mọi nhiệm vụ chính trị của địa phương .
Nói đến NLLĐ của đảng uỷ phường chính là đề cập trình độ và khả năng
nắm bắt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; là năng
lực đánh giá, phân tích đầy đủ tình hình mọi mặt của đảng bộ, của phường, trên cơ
sở đó xác định đúng các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, khả năng tổ chức,
động viên mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân khắc phục khó khăn, xây dựng ý chí
quyết tâm hồn thành thắng lợi các chỉ tiêu, mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra.
Biểu hiện NLLĐ của đảng ủy phường
21
Trước hết, NLLĐ của đảng ủy phường được biểu hiện ở việc đề ra nghị
quyết lãnh đạo sát, đúng với thực tiễn nhiệm vụ của từng phường, bảo đảm
tính khả thi cao. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng
và nghị quyết của đảng ủy cấp trên đảng ủy phường cụ thể hoá xây dựng nghị
quyết lãnh đạo sát đúng và tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết đã đề ra.
Nghị quyết của đảng ủy phải phản ánh mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng
lãnh đạo phù hợp với thực tiễn nhiệm vụ, đặc điểm, điều kiện của phường;
phải là sản phẩm trí tuệ của tập thể đảng bộ. Nghị quyết lãnh đạo đúng đắn,
kịp thời vừa là một biểu hiện cụ thể của năng lực lãnh đạo của đảng ủy, vừa là
cơ sở để phát huy năng lực lãnh đạo của đảng ủy, của đảng bộ, phát huy vai
trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong đảng bộ.
Thứ hai, NLLĐ của đảng ủy trong tổ chức thực hiện nghị quyết của đảng bộ.
Sau khi đề ra nghị quyết, xác định chủ trương, biện pháp; vấn đề quan trọng để nghị
quyết đi vào cuộc sống, phải thơng qua q trình qn triệt, tổ chức thực hiện; tổ
chức thực hiện đến đâu, mức độ nào, tùy thuộc một cách quyết định vào năng lực
của đảng ủy và qua đó biểu hiện rất rõ khả năng, năng lực lãnh đạo của đảng ủy.
Quá trình tổ chức thực hiện nghị quyết là quá trình đảng ủy tiếp tục bám nắm thực
tiễn và bổ sung hoàn thiện chủ trương lãnh đạo. Đảng ủy phải có khả năng tổ chức
thực hiện thắng lợi nghị quyết. Trên cơ sở bám sát thực tiễn, đánh giá đúng tình
hình của địa phương, lãnh đạo làm tốt cơng tác chính trị tư tưởng, sử dụng các hình
thức, phương pháp thích hợp để vai trò của đội ngũ cán bộ đảng viên, của các tổ
chức trong hệ thống chính trị và tồn dân, bảo đảm thực hiện thắng lợi nghị quyết.
Ngược lại, thiếu năng lực, hoặc năng lực hạn chế thì việc tổ chức thực hiện nghị
quyết sẽ hạn chế, kém hiệu quả, thậm chí khơng thể thành cơng.
Thứ ba, NLLĐ của đảng ủy phường được biểu hiện bởi chất lượng, hiệu
quả thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của đảng ủy. Đây là một khâu rất
quan trọng trong quy trình lãnh đạo của đảng ủy; là việc làm thường xuyên, là
vấn đề có tính ngun tắc, thuộc về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng nói
22
chung, đảng ủy nói riêng. Năng lực lãnh đạo của đảng ủy trong công tác kiểm tra
thể hiện ở việc chấp hành nguyên tắc, quy định của Điều lệ Đảng và sự chỉ đạo,
hướng dẫn của cấp ủy và uỷ ban kiểm tra đảng cấp trên; ở nền nếp và tính chủ
động, nhạy bén, khéo léo, kiên quyết trong tiến hành kiểm tra, giám sát và xử lý
tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên mắc sai lầm, khuyết điểm; ở việc phát huy
hiệu quả, tác dụng của công tác kiểm tra, giám sát nhằm thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ của đảng bộ, của phường.
Thứ tư, năng lực sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm và đổi mới phương
thức lãnh đạo của đảng ủy. Năng lực tiến hành công tác sơ kết, tổng kết rút
kinh nghiệm đổi mới phương pháp lãnh đạo cũng là một biểu hiện năng lực của
đảng ủy. Thông qua hoạt động sơ, tổng kết, qua việc thu thập, xem xét, đánh
giá, tổng hợp, phân tích, xử lý thông tin, đánh giá, so sánh, đúc rút bài học kinh
nghiệm, cấp độ cao hơn khái quát hóa thành lý luận có tác dụng chỉ đạo hoạt
động thực tiễn đạt kết quả cao hơn…Điều đó phản ánh khả năng, năng lực của
đảng ủy.
Thứ năm, NLLĐ của đảng ủy biểu hiện ở việc kết hợp xây dựng đảng bộ
phường TSVM với xây dựng phường VMTD. Để lãnh đạo hoàn thành tốt
nhiệm vụ, bản thân đảng bộ phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức. Cùng với những chủ trương, biện pháp xây dựng đảng bộ
TSVM, trách nhiệm của đảng ủy phường còn phải xác định và tổ chức thực
hiện cho được những chủ trương, biện pháp thiết thực có tính khả thi cao
trong xây dựng phường thực sự là đơn vị VMTD. Kết quả xây dựng phường
TSVM với chỉ tiêu cụ thể đạt được nhất là về KT-CT, VH-XH, QP-AN là
những biểu hiện rõ nhất về NLLĐ của đảng ủy phường trong thực hiện chức
năng nhiệm vụ.
Thứ sáu, NLLĐ của đảng ủy còn được thể hiện ở việc duy trì, thực hiện
các nguyên tắc, chế độ, nền nếp sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Duy trì,
thực hiện các nguyên tắc, chế độ, nền nếp sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo của
23
Đảng như nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tập thể lãnh đạo cá nhân
phụ trách, tự phê bình, phê bình; các quy định của Ban chấp hành Trung ương,
Bộ chính trị, Ban bí thư và các quy định của thành ủy, quận ủy vừa là nguyên
tắc, vừa phản ánh NNLĐ của các cấp uỷ, tổ chức đảng ở địa phương. Theo đó,
đảng ủy phường phải duy trì thực hiện tốt các nguyên tắc, chế độ nền nếp tổ
chức và sinh hoạt đảng theo đúng quy định của Điều lệ Đảng, các quy định,
quy chế của Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Ban bí thư và các quy
định, chỉ thị, hướng dẫn cụ thể của cấp uỷ cấp trên. Hiệu quả duy trì thực hiện
các nguyên tắc, chế độ, nền nếp sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo cũng là một
dấu hiệu phản ánh NNLĐ của đảng ủy trong xây dựng đảng bộ, xây dựng
phường và lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ của đảng bộ và các nhiệm vụ phát triển
kinh tế, văn hóa-xã hội, QP-AN, xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương.
Thứ bảy, NNLĐ biểu hiện ở khả năng dự báo, nắm bắt tình hình, vấn
đề thực tiễn nảy sinh, kịp thời có chủ trương, biệp pháp lãnh đạo sát đúng,
phù hợp, đáp ứng địi hỏi của tình hình các cơ sở trên địa bàn quận.
Hiện nay tồn Đảng nói chung, cũng như từng địa phương nói riêng đã và
đang phải đối phó với nhiều mối nguy cơ phi truyền thống. Vì vậy, để có chủ
trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn
cơ sở địa phương và yêu cầu nhiệm vụ công tác xây dựng chỉnh đốn đảng thời kỳ
mới, đòi hỏi tập thể đảng ủy, đội ngũ đảng ủy viên và trước hết là bí thư đảng ủy
phải có năng lực dự báo, nắm bắt tình hình mới nảy sinh, những địi hỏi từ thực tiễn
của địa phương để kịp thời đề xuất và quyết định những chủ trương, biện pháp lãnh
đạo một cách trúng, đúng, giải quyết địi hỏi của tình hình thực tiễn.
Mặt khác, do đặc thù của các phường trên địa bàn quận, ngồi nhiệm
vụ chính trị chung, thực tiễn của mỗi phường có những u cầu, địi hỏi riêng.
Tính phức tạp, đa dạng trong giải quyết các mối quan hệ, các nhiệm vụ tập
trung cho việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, biểu hiện trong việc thực
hiện duy trì phát triển kinh tế, bảo đảm sự tăng trưởng một cách bền vững,
24
gắn với bảo đảm công bằng xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân địa phương…Đồng thời, tăng cường tiềm lực QP-AN,
giữ vững ổn định chính trị; đủ sức, kịp thời giải quyết các tình huống phức
tạp, mâu thuẫn nảy sinh trong địa bàn, khơng để chậm trễ, hoặc dây dưa kéo
dài…Thực tế đó địi hỏi, đảng ủy phường phải thực sự có khả năng dự báo,
nắm bắt tình hình, vấn đề thực tiễn nảy sinh, kịp thời có chủ trương, biệp
pháp lãnh đạo sát đúng, phù hợp, đáp ứng địi hỏi của tình hình các cơ sở trên
địa bàn quận.
Các biểu hiện NLLĐ của đảng ủy phường trên đây có quan hệ mật thiết,
khăng khít, gắn bó chặt chẽ, thống nhất với nhau. Nhận thức đầy đủ những
vấn trên có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức NNLĐ và chỉ đạo nâng cao
NNLĐ của các đảng ủy phường ở quận Hà Đông hiện nay.
Những yếu tố quy định NLLĐ của đảng ủy phường
NNLĐ của đảng uỷ phường là tổng hợp các yếu tố biểu hiện trình độ và
khả năng trong tổ chức hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của đảng bộ. Năng lực đó
được quy định bởi các yếu tố cơ bản sau:
Một là, phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống của đảng ủy viên. Đây là
“gốc, rễ, nền tảng” chi phối, định hướng năng lực của đảng ủy. Chỉ có tuyệt
đối trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân, tận tâm, tận
tuỵ với cơng việc thì từng đảng ủy mới say mê nghiên cứu tìm tịi, suy nghĩ lựa
chọn cách thức, biện pháp nhằm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Chỉ có mẫu mực về đạo đức, lối sống có ý thức tổ chức kỷ luật cao, mới bảo
đảm cho tập thể đảng ủy thực sự là trung tâm đoàn kết của đảng bộ, đảng ủy mới
vận động, giáo dục, thuyết phục, cảm hoá được quần chúng và phát động quần
chúng thực hiện các chủ trương, biện pháp lãnh đạo của đảng ủy.
Hai là, trình độ, năng lực của mỗi cấp ủy viên, trước hết là bí thư đảng
ủy. Đây là yếu tố trực tiếp quyết định đến NNLĐ của đảng ủy, bởi NNLĐ của
25
đảng ủy phải dựa trên một nền kiến thức, năng lực thực tế của mỗi người. Nếu
trình độ thấp, năng lực yếu thì khó có thể tạo ra một NNLĐ của tập thể, dẫn đến
thụ động, trông chờ, ỷ lại vào tập thể, vào cấp trên, thiếu tính chủ động, sáng tạo,
khơng giám quyết đốn, chịu trách nhiệm. Chỉ khi có kiến thức tồn diện cả về
chính trị, kinh tế; văn hoá - xã hội, khoa học kỹ thuật, QP-AN, có kiến thức
chuyên sâu về xây dựng Đảng… có năng lực tổ chức thực tiễn, mới có thể phân
tích một cách sâu sắc và biết xử lý được các tình huống xảy ra trong hoạt động
của mình, mới có thể sắp xếp cơng việc một cách trình tự, khoa học và giải quyết
công việc một cách sáng suốt, đạt hiệu quả cao. Đây là yếu tố quy định năng lực
lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy; năng lực đó chỉ có thể có được khi từng đảng ủy
viên, trước hết là người đứng đầu phải có kiến thức, trình độ, năng lực thực sự.
Ba là, NNLĐ của đảng ủy chịu sự quy định bởi phương pháp làm việc
khoa học của đảng ủy. Nếu chỉ có phẩm chất, kiến thức, năng lực thì vẫn chưa
đủ mà cịn cần phải có phương pháp làm việc khoa học. Nếu có chủ trương, biện
pháp đúng, nhưng phương pháp khơng phù hợp thì cũng khơng đem lại hiệu quả
như mong muốn. Phương pháp làm việc của đảng ủy gắn liền với phương pháp
lãnh đạo của Đảng. Đó chính là lý luận gắn liền với thực tiễn, nói đi đơi với làm,
là xây dựng và nhân điển hình; phương pháp nêu gương bản thân. Đồng thời, đó
cịn là việc chấp hành ngun tắc tổ chức sinh hoạt, giữ gìn kỷ luật đảng; xây
dựng và thực hiện các quy chế dân chủ trong Đảng…đó là nhân tố căn bản, trực
tiếp tạo nên NLLĐ của đảng uỷ. Chấp hành nghiêm túc, duy trì chặt chẽ và nâng
cao hiệu quả thực hiện các nguyên tắc, tổ chức sinh hoạt đảng sẽ đảm bảo đảng
uỷ có sự đồn kết, thống nhất cao, mở rộng dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ
cương làm trong sạch nội bộ; tập trung và phát huy được trí tuệ của tập thể đảng
uỷ, vai trị tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nâng cao chất lượng
sinh hoạt, đảm bảo cho đảng uỷ thực sự trở thành "pháo đài chiến đấu của Đảng
cơ sở”.