Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiêu Luận Kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (645.08 KB, 16 trang )

DẪN LUẬN
Từ năm 1986 trở về trước nền kinh tế nước ta là nền kinh tế sản xuất nhỏ, mang tính tự
cung tự cấp vận hành theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do những sai lầm trong
nhận thức về mơ hình kinh tế xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta ngày càng tụt hậu,
khủng hoảng kéo dài, đời sống nhân dân khổ cực. Chỉ có cách đổi mới nền kinh tế mới
giúp nước ta thoát khỏi tình trạng đó.
Sau đại hội đảng lần thứ VI năm 1986 nền kinh tế của nước ta đã chuyển sang một hướng
đi mới, đó là : phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói cách khác đó
chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc nghiên cứu về nền kinh tế thị trường ở nước ta có ý nghĩa rất lớn về cả lý thuyết lẫn
thực tế. Một mặt cho ta thấy được tính khách quan của nền kinh tế thị trường, sự cần thiết
phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà
nước ở nước ta hiện nay, thấy được những gì đã đạt được và chưa đạt được ở Việt Nam
cũng như hiểu rõ hơn về quá trình đổi mới nhận thức của Đảng ta về kinh tế thị trường.
Mặt khác, giúp ta hiểu rõ hơn về nền kinh tế của nước nhà hiện nay, đồng thời thấy được
vai trò to lớn của quản lý nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, những giải pháp để
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trong
nền kinh tế thị trường hiện nay.
Ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường không những là nội dung của cơng cuộc đổi mới
mà cịn là công cụ, là phương thức để nước ta đi tới mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta thì khơng chỉ có Đảng, nhà nước mà
tất cả mọi người đều phải có trách nhiệm.
Vì vậy, việc nghiên cứu những quan điểm của Đảng cũng như đưa ra những giải pháp để
nền kinh tế nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và nhận thức về trách
nhiệm của bản thân đối với nền kinh tế nước nhà là công việc vô cùng cần thiết. Xuất
phát từ tầm quan trọng đó nên tơi quyết định chọn đề tài : “Quá trình đổi mới nhận thức
về kinh tế thị trường? Giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay? Nhận thức của
anh/chị về trách nhiệm bản thân đối với vấn đề phát triển kinh tế đất nước?” cho bài luận
này.



1


NỘI DUNG
Chương 1. Một số khái niệm cần làm rõ
1.1.

Kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trường là hình
thức và phương pháp vận hành kinh tế. Các quy luật của thị trường chi phối việc phân bổ
tài nguyên qui định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, và sản xuất cho ai. Đây là một
kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát
triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển.
Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng hoá. Khái niệm kinh
tế thị trường phản ánh trạng thái tồn tại vận động của nền kinh tế theo cơ chế thị trường,
thật ra kinh tế thị trường là sản phẩm của sự phát triển khách quan của xã hội loài người.
1.2.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam
đặt ra cho mơ hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nó
được mơ tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó khu vực kinh tế nhà
nước giữ vai trị chủ đạo, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi Mới, thay
thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường. Cụm
từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã
hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa trong

tương lai.
Chương 2. Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường.
2.1. Sự cần thiết của việc hình thành, chuyển đổi và phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam.
Trước năm 1986, cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,
đây là cơ chế mà ở đó Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ
yếu, thể hiện ở sự chi tiết hoá các nhiệm vụ do Trung ương giao bằng một hệ thống chỉ
tiêu pháp lệnh từ một trung tâm. Các doanh nghiệp căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch của nhà
nước từ đó lập kế hoạch sản xuất kinh doanh cho mình. Trong cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp, các cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào các hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì đối với các quyết định của
2


mình, từ đó làm cho các doanh nghiệp thụ động khơng phát huy được tính sáng tạo, các
quan hệ kinh tế bị hiện vật hoá. Quan hệ hàng hoá tiền tệ chỉ mang tính hình thức, bỏ qua
hiệu quả kinh tế, quản lý kinh tế và kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát, giao nộp. Bộ máy
quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian nhưng kém năng lực. Cơ chế tập trung bao cấp
đã góp phần cho thắng lợi giải phóng đất nước, nhưng sau khi điều kiện kinh tế xã hội đã
thay đổi. Đặc biệt khi trình độ phát triển kinh tế đã nâng cao lên rất nhiều, cơ cấu càng
phức tạp thì những khuyết điểm bên trong nền kinh tế kế hoạch ngày càng bộc lộ.
Giai đoạn này không chấp nhận kinh doanh tự do, nhà nước phân phối hàng chục mặt
hàng thiết yếu cho cuộc sống như: gạo, thực phẩm, chất đốt, vải vóc, pin… cho đến các
tiêu phẩm phân phối được mua bổ sung như xà phịng, xi măng, xăm lốp xe đạp. Tồn bộ
nguồn cung cấp lương thực thực phẩm và nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống là thông qua
chế độ tiêu chuẩn tem phiếu có định mức cho từng đối tượng. Hàng hóa thời đó khơng
được mua bán tự do trên thị trường như bây giờ, không được phép vận chuyển tự do hàng
hóa từ địa phương này sang địa phương khác. Trao đổi bằng tiền mặt bị hạn chế nên có
người thậm chí có tiền vẫn đói vì khơng ai được phép kinh doanh. Câu nói “ Có tiền mua
tiên cũng được ” ít nhất cũng khơng thể đúng ở thời bao cấp, thời này sổ gạo mới là thứ

quan trọng nhất.
Mơ hình kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp đã dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng và kéo dài buộc nhiều đơn vị và cơ sở phải “phá rào” theo hướng thị
trường hóa để tự cứu lấy mình, tạo ra sự đổi mới cục bộ.
Đại hội VI khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được
động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo
các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả,
gây rối loạn trong phân phối lưu thông và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”
 Vì vậy việc đổi mới cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang một cơ chế
quản lý kinh tế mới trở thành nhu cầu cần thiết và rất cấp bách đó là nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2.

Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới:

2.2.1.

Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII:

Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành
tựu phát triển chung của nhân loại.

3


Trước khi đổi mới chúng ta cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa
tư bản cịn kinh tế kế hoạch hóa là sản phẩm riêng của chủ nghĩa xã hội, hai mơ hình kinh
tế này khơng hề có mối liên quan. Nhưng dần dần chúng ta thấy rằng nhận định đó là
khơng đúng. Đảng ta đã thừa nhận kinh tế thị trường là thành tựu phát triển chung của
nhân loại, không phải chỉ trong chủ nghĩa tư bản mới có kinh tế thị trường, kinh tế thị

trường đã có mầm mống từ trong xã hội nơ lệ hình thành trong xã hội phong kiến và phát
triển cao trong chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản khơng sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó, kinh tế thị trường với tư
cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao khơng phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư
bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa hay cách thức sử dụng kinh tế thị trường theo lợi nhuận tối đa của chủ
nghĩa tư bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.
 Nhận thức này đã bỏ đi 1 định kiến rất sai lầm trước đó
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên
thị trường, thông qua q trình trao đổi mua bán. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển
đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn
phát triển của kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất. Trong
những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, tất nhiên,
chịu sự tác động của những quan hệ xã hội nhất định hình thành nên các chế độ kinh tế xã hội khác nhau. Vì vậy, khơng thể nói kinh tế hàng hóa là sản phẩm của một chế độ
kinh tế - xã hội nào mà phải hiểu rằng nó là một sản phẩm của quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất xã hội lồi người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều phương thức sản
xuất xã hội và đến trình độ cao hơn đó là kinh tế thị trường.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những điều kiện chung để kinh tế
hàng hóa xuất hiện vẫn cịn tồn tại. Do đó, sự tồn tại kinh tế hàng hóa ở nước ta là một tất
yếu khách quan. Những điều kiện chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện và tồn tại là:
 Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vẫn tồn tại
và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện nay. Sự phát
triển của phân công lao động xã hội thể hiện ở chỗ các ngành nghề ở nước ta ngày
càng đa dạng, phong phú, chun mơn hóa sâu. Điều đó, đã góp phần phá vỡ tính
chất tự cung tự cấp của nền kinh tế tự nhiên trước đây và thúc đẩy kinh tế hàng
hóa phát triển mạnh mẽ hơn.
4



 Sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác
nhau tạo nên sự tách biệt kinh tế giữa các chủ thể kinh tế độc lập cũng là điều kiện
tất yếu cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường ở nước ta.
Thật vậy, một khi còn tồn tại nhiều dạng sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và
về sản phẩm lao động sẽ tạo nên sự độc lập về kinh tế của những ngành chủ sở
hữu khác nhau đó. Do đó, các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế khi cần sản phẩm
của nhau tất yếu phải thông qua con đường thoả thuận, trao đổi, mua bán.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế
vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất, đã
đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó
tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng xác định cơ
chế vận hành của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước” bằng pháp luật, kế
hoạch, chính sách và các cơng cụ khác.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh
cơng cuộc đổi mới tồn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.
Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy,
có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các
nguồn lực kinh tế thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau:
 Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh
doanh, lỗ - lãi tự chịu.
 Hệ thống thị trường hoàn hảo, điều kiện để có thị trường hồn hảo: Phải có chủ thể
thị trường đông đảo, phải phát triển đồng bộ đủ các yếu tố và các loại thị trường,

phải phát triển thị trường thống nhất trên toàn quốc, kết nối thị trường trong nước
với thị trường quốc tế.
 Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết. Bất kì sự can thiệp khơng thích đáng nào do
con người tạo ra đối với tín hiệu giá cả sẽ đều bẻ cong tín hiệu thị trường, gây tổn
hại cho sự vận hành cả nền kinh tế.
5


 Có hệ thống pháp quy kiện tồn. Tự do khế ước là đặc trung của kinh tế thị trường
nên phải được sự bảo hộ của pháp luật do chính phủ chế định. Hệ thống pháp luật
thị trường phải hoàn hảo, đủ các tầng nấp định chế pháp luật.
 Tính mở cửa hoạt động kinh tế. Thị trường trong nước và thị trường thế giới ngày
càng liên kết thành một chỉnh thể bảo đảm cho tính lưu động tự do của hàng hóa,
tư bản, sức lao động,…
 Chính phủ thực hiện sự quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Kinh tế thị trường tự
bản thân nó khó tránh khỏi khủng hoảng kinh tế chu kì, khó tránh khỏi phân hóa
hai cực, tàn phá mơi trường, để bù đắp những khiếm khuyết này thì nền kinh tế thị
trường hiện đại cần có vai trị quản lý vĩ mơ và điều tiết kế hoạch của chính phủ để
đảm bảo nền kinh tế được vận hành ổn định, lành mạnh.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại
sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường nên chúng ta đã xem kế hoạch là đặc trưng quan
trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã thực hiện phân bổ mọi nguồn lực theo kế
hoạch là chủ yếu còn thị trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế
hoạch do đó khơng cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị trường làm cơ sở
phân bổ các nguồn lực linh tế, dùng tín hiệu giá cả để điều tiết chủng loại và số lượng
hàng hóa, điều hịa quan hệ cung cầu, điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh,
thúc đẩy cái tiến bộ, đào thải cải lạc hậu, yếu kém.
Thực tế cho thấy, những mơ hình “phá rào” chuyển sang làm ăn mới đều cho chúng ta
một kết luận rằng ở đó kinh tế thị trường giúp xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không phá

chủ nghĩa xã hội. Ví dụ như chủ trương đổi từ “khốn việc” sang “khốn hộ” của đồng
chí Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc là ông Kim Ngọc vào năm 1966, chủ trương này không hề
làm mất đi chủ nghĩa xã hội mà chỉ làm mất đi cái đói, mất đi cái khổ của đồng bào.
Nhưng chủ trương này chỉ được thực hiện vào 1 thời gian ngắn vì thời điểm đó chủ
trương này bị cho là “ đốt cháy giai đoạn ” và không được chấp nhận. Từ sau năm 1986,
sau khi Đảng ta thực hiện các chính sách đổi mới nền kinh tế, thóc lúa nước ta khơng
những khơng giảm đi mà còn tăng lên rất nhiều, chúng ta đã chấm dứt được nạn đói kéo
dài, đã có đủ thóc gạo ăn và thậm chí là suất khẩu sang các nước khác.
 Đây là một nhận định rất đúng đắn
2.2.2.
Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX tới đại hội XII
Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) xác định : Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có
6


sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan
trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý sang coi kinh
tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế của sự phát triển theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Tư duy của Đảng về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được
tiếp tục phát triển từ Đại hội IX, Đại hội X, XI và XII. Điều này đã làm làm sáng tỏ thêm
nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở
nước ta. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế vừa
tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa được dẫn dắt bởi các định hướng xã hội chủ
nghĩa theo 4 tiêu chí sau:





Một là, định hướng về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
cơng bằng, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng
nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi
người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thốt nghèo và từng
bước khá giả hơn.
Nền kinh tế thị trường, nếu cứ để mặc nó thì nó sẽ bảo đảm tối đa cho tầng lớp
giàu phát triển còn bỏ mặc tầng lớp nghèo. Nhưng kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa thì Đảng và nhà nước sẽ tác động để bảo đảm không phải chỉ
tầng lớp giàu mà cả tầng lớp trung lưu, tầng lớp nghèo cũng đều được hưởng
thành quả phát triển.
Hai là, định hướng về phương hướng phát triển:
 Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), phát triển
nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế:
kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư
bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước
ngồi nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế,
trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền… phát huy tối đa nội lực để
phát triển nhanh nền kinh tế.
 Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và
cạnh tranh lành mạnh.
 Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi
trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Để giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí
7







then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học, công nghệ tiên
tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào bao
cấp, cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh doanh. Mặc khác, tiến lên
chủ nghĩa xã hội đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải được dựa trên nền
tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
 Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trị
quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế.
Ba là, định hướng về xã hội và phân phối: Tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và
đồng bộ với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn
đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của kinh tế
thị trường. Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện
qua chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, hệ thống an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các
nguồn lực khác.
Bốn là, định hướng về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo
đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Chương 3. Thực tiễn nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
3.1.







Một số thành tựu trong những năm gần đây
Trong những năm qua, chúng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ nhà nước, xã hội và
thị trường trong các hoạt động quản lý nhà nước. Bình quân cả giai đoạn 2006 2017, GDP tăng trưởng 6,19%, cao hơn tốc độ tăng GDP của thế giới.
Năm 2019, tăng trưởng kinh tế đạt khá, năng suất lao động và chất lượng tăng
trưởng tiếp tục được cải thiện, kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc. Tốc độ tăng GDP
cả năm đạt 7,02%, vượt mục tiêu của Quốc hội đề ra, thuộc nhóm các nước tăng
trưởng cao hàng đầu khu vực và thế giới. Việt Nam đã chuyển từ nhóm thu nhập
thấp sang thu nhập trung bình.
Đến hết năm 2018, Việt Nam hiện có khoảng 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo, tăng gần gấp đôi so với số liệu năm 2015. Với sự phát triển mạnh
mẽ của hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đến năm 2020, Việt Nam sẽ có
khoảng một triệu doanh nghiệp, trong đó có 5.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng
tạo. Báo cáo về xếp hạng Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2018 cho thấy,
Việt Nam tiếp tục cải thiện vị trí, đứng thứ 45/126 quốc gia và nền kinh tế được
xếp hạng, tăng 2 bậc so với năm 2017, 14 bậc so với năm 2016.

8





3.2.















Môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Tập trung đơn giản hóa, cắt giảm
thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh, cải cách hoạt động kiểm tra chuyên
ngành, tiết giảm chi phí, hỗ trợ tiếp cận thị trường và các nguồn lực. Xếp hạng
năng lực cạnh tranh của Việt Nam năm 2019 được Diễn đàn Kinh tế thế giới đánh
giá tăng 10 bậc và 3,5 điểm so với năm 2018 - mức tăng mạnh nhất thế giới.
Các ngành nông nghiệp, công nghiệp, khoa học kỹ thuật cũng đều phát triển nhanh
chóng.
Những hạn chế cịn tồn tại
Các yếu tố XHCN hoặc xuất hiện nhưng khơng có hiệu quả, hoặc chưa rõ nét. Cụ
thể là, thành phần kinh tế nhà nước tuy chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nhưng
hiệu quả thấp. Thậm chí một số tập đồn kinh tế nhà nước lớn lâm vào tình trạng
mất vốn, phá sản, nợ nần (nợ của doanh nghiệp nhà nước đến năm 2013 đạt con số
hơn 1 triệu tỷ đồng và đến năm 2019 là hơn 3 triệu tỷ đồng).
Hợp tác xã cịn yếu kém hơn, đặc biệt là khơng hấp dẫn nông dân. Nhà nước quản
lý nền kinh tế chủ yếu theo chính sách ngắn hạn, hiệu lực và hiệu quả thấp, các
vấn đề về lũng đoạn thị trường, gian lận, hàng giả… diễn ra phổ biến.
Nhà nước làm mất dần niềm tin ở nhân dân do quản lý nền kinh tế chưa thực sự
hiệu quả và công bằng, do “lợi ích nhóm” chi phối nên nhiều chính sách kinh tế
chưa thực sự xuất phát từ lợi ích chung của nhân dân lao động. Tệ quan liêu, lãng
phí và tham nhũng chưa được ngăn ngừa hiệu quả. Số đông người dân làm nơng
nghiệp có thu nhập thấp, hầu như rất khó thốt nghèo.

Sự phân hóa giàu - nghèo ngày càng gia tăng, chênh lệch thu nhập giữa nhóm 20%
dân số giàu nhất và nhóm 20% dân số nghèo nhất vào năm 2014 là 9,7 lần, đến
năm 2018 là 10 lần
Nhiều vấn đề mới phát sinh mà hoạt động quản lý nhà nước chưa dự liệu, chưa tạo
ra hành lang pháp lý cần thiết để quản lý. Các vấn đề phát sinh trong quản lý
doanh nghiệp FDI, những yếu kém của các tập đoàn kinh tế nhà nước… cho thấy
khung thể chế về kinh tế thị trường chưa thực sự đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Nhịp độ tăng trưởng của Việt Nam tương đối cao nhưng chưa thực sự tương xứng
với tiềm năng, thực lực hiện có. Hoạt động quản lý nhà nước chưa tạo ra thể chế
đủ sức hấp dẫn để thu hút nguồn lực đầu tư cho phát triển. Thu ngân sách nhà
nước vẫn chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài, các khoản thu từ tài
nguyên, các khoản thu đặc thù và các khoản thu phát sinh do yếu tố khách quan
dẫn đến một số năm không đạt dự toán.
Việc huy động nguồn lực từ đất đai, tài nguyên thiên nhiên, tài sản nhà nước hiệu
quả chưa cao, chưa đáp ứng được nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội;
9






vẫn cịn tình trạng thất thu ngân sách nhà nước do gian lận, chuyển giá; nợ đọng
thuế còn lớn làm ảnh hưởng tới tỷ lệ huy động thu ngân sách nhà nước.
Nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều “điểm nghẽn” ở tiến trình cổ phần hố, thối
vốn tại doanh nghiệp nhà nước, chậm triển khai các dự án, công trình trọng điểm
quốc gia, doanh nghiệp có vốn mỏng, “tín dụng đen” vẫn hồnh hành, cải thiện
mơi trường kinh doanh chưa theo kịp với thực tiễn của đời sống kinh tế và vẫn cịn
rủi ro trong ứng phó với những thách thức từ bên ngoài.
Đi cùng với sự phát triển kinh tế đó là vấn đề về ơ nhiễm mơi trường và biến đổi

khí hậu ở nước ta đang ngày một nghiêm trọng.

Nguyên nhân của những tình trạng này đã được Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần
thứ 5, khóa XII của Đảng chỉ rõ: Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa chưa đủ rõ. Tư duy bao cấp còn ảnh hưởng nặng nề. Năng lực xây dựng
và thực thi thể chế còn nhiều bất cập, chưa theo kịp với sự phát triển của nền kinh tế
thị trường. Việc quán triệt, tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước ở các cấp, các ngành, nhất là người đứng đầu thiếu quyết liệt,
hiệu quả thấp và chưa nghiêm. Vai trò, chức năng, phương thức hoạt động của các cơ
quan trong hệ thống chính trị chậm đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường trong điều kiện hội nhập quốc tế. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, thói quan liêu, tham nhũng ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên làm
giảm hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
3.3. Giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả
quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay




Các cơ quan quản lý nhà nước cần tích cực tìm ra điểm nghẽn trong tiến trình phát
triển thơng qua việc lắng nghe các ý kiến từ xã hội, từ cộng đồng doanh nghiệp,
các diễn đàn trao đổi, các ý kiến tư vấn, gợi ý chính sách... Thể chế quản lý nhà
nước cần đảm bảo huy động và quản lý có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển,
đặc biệt là nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn đầu tư tài chính, nguồn ngân sách
nhà nước… Cần hoàn thiện thể chế phân bổ nguồn lực đầu tư cho phát triển thực
sự hiệu quả, khắc phục sự đầu tư dàn trải, đầu tư mà cơ sở xác định hiệu quả chưa
thực sự rõ rang
Cần không ngừng tạo ra các quy chế đảm bảo tính tổ chức và văn minh của các
giao dịch trên thị trường, nhất là về phương diện giảm thiểu chi phí và rủi ro cho

các chủ thể kinh tế, trong đó chú ý tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, cung cấp
thông tin về sản phẩm, kỷ luật hợp đồng và thanh toán không dùng tiền mặt…
10











Từng bước phát triển các phương thức giao dịch phái sinh và hỗ trợ (giao dịch
tương tác, bảo hiểm…).
Giảm thiểu can thiệp của Nhà nước vào giá cả để tăng cường điều tiết thông qua
các công cụ thị trường như doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh bình đẳng với các
loại hình doanh nghiệp khác.
Kiên quyết cải cách hành chính để có các cơ quan quản lý nhà nước trong sạch,
thủ tục quản lý đơn giản, dễ tiếp cận, công khai, đề cao trách nhiệm phục vụ và
giải trình của cơng chức. Trọng trách của Đảng là phải lãnh đạo thành công công
cuộc cải cách này và phải thu hút, đào tạo được các cơng chức trong sạch, tài
năng, thích hợp với chức trách được giao. Tạo cơ chế để nhân dân tăng cường
giám sát đảng viên, công chức.
Tăng cường vị thế của đất nước trên thị trường thế giới bằng chính sách đối ngoại
mềm dẻo, bảo vệ hiệu quả lợi ích quốc gia, dân tộc.
Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững,
tiến bộ và công bằng xã hội, y tế, quốc phịng, an ninh, bảo vệ mơi trường và ứng
phó với biến đổi khí hậu.

Những vấn đề cịn lại, như xây dựng kết cấu hạ tầng; đổi mới, nâng cao chất lượng
đào tạo nghề; nâng cao nhận thức lý luận của Đảng; nâng cao sức chiến đấu và
năng lực lãnh đạo của Đảng; kiện toàn luật pháp và bộ máy quản lý nhà nước;
hồn thiện hệ thống chính sách… là những vấn đề lâu dài, cần thiết kế những bước
đi ngắn hạn tích cực, nhưng biết lựa chọn mục tiêu đầu tư để đạt hiệu quả dài hạn
lớn nhất. Không thể nóng vội làm một lần là xong.

Chương 4. Nhận thức về trách nhiệm của bản thân đối với vấn đề phát triển kinh tế
đất nước.
Là một sinh viên đang học ngành xây dựng tại Đại học Kiến Trúc, nhận thức về trách
nhiệm của bản thân tôi đối với vấn đề phát triển kinh tế đất nước gồm những điều sau:




Điều đầu tiên đó là phải có hiểu biết về kinh tế thị trường cũng như là chủ trương,
đường lối của Đảng về vấn đề phát triển kinh tế của đất nước, vì làm gì thì cũng
cần có cái nền. Nên phải học tập chăm chỉ môn Đường lối cách mạng của Đảng
CSVN. Điều gì cũng phải đi lên từ những bước khởi đầu, khơng thể nói tới những
trọng trách cao siêu mà trong khi đó những mơn học nền tảng lại không chú tâm.
Phải hiểu rõ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và luôn trau dồi về nhân cách
đạo đức. Vì dù có thể tham gia phát triển kinh tế cho đất nước nhưng tham lam,
bất chấp để có lợi cho bản thân mà khơng nghĩ tới lợi ích của cộng đồng, bóc lột
cơng sức của người lao động thì điều đó là hồn tồn sai.

11












Rèn luyện sức khỏe, lối sống lành mạnh. Vì muốn tham gia phát triển kinh tế thì
khơng những cần có kiến thức, tài năng sự cố gắng mà còn cần sức khỏe. Có sức
khỏe, lối sống lành mạnh thì đó là nền tảng để phát triển trí tuệ, tài năng mà không
vướng vào các tệ nạn xã hội.
Là sinh viên xây dựng, để góp phần phát triển kinh tế thì cần học tốt mơn Kinh tế
xây dựng.
Rèn luyện tính trung thực, không ỷ lại, không vụ lợi. Tương lai sẽ là 1 kỹ sư xây
dựng, chuyên viên tư vấn xây dựng hoặc có thể là làm thầu xây dựng vì vậy tính
trung thực là điều cần thiết, trung thực trong quản lý dự án, trung thực trong chọn
lựa nguyên vật liệu, không tham ô, hối lộ…
Nghĩ tới những điều thực tế trước khi nghĩ tới những điều xa vời. Trước khi có thể
đóng góp cơng sức để phát triển kinh tế nước nhà thì tơi phải khơng là gánh nặng
cho nền kinh tế. Tôi sẽ cố gắng với mục tiêu gia đình trước tiên, vì khi gia đình ổn
định thì mới có thể lo tới việc nước.
Chặng đường phía trước của tơi cịn rất dài, khơng biết mình có thể góp phần làm
phát triển kinh tế đất nước hay khơng nhưng để làm được điều đó thì tơi phải
khơng ngừng học tập chăm chỉ, học cả về kiến thức, học cả về vốn sống, học cả về
đạo đức.

KẾT LUẬN
Với những chính sách đổi mới kịp thời của Đảng, nước ta đã đi lên từ một nước nghèo trở
thành một nước có mức thu nhập trung bình, có nền kinh tế đứng thứ 44 thế giới. Việt
Nam vẫn đang phát triển nhanh và mạnh, nhưng trong thời kì cơng nghệ 4.0 hiện nay đặt

ra cho chúng ta rất nhiều cơ hội cũng như thách thức. Nền kinh tế của chúng ta tuy phát
triển nhanh nhưng vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết.
Là một sinh viên và cũng là một công dân của nước Việt Nam, tôi nhận thức phần trách
nhiệm của mình đối với sự phát triển kinh tế nước nhà, và với những kiến thức của mình
tơi có kiến nghị với Đảng và nhà nước: Trong quá trình thúc đẩy nền kinh tế phát triển
vận hành theo cơ chế thị trường cần phải phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế; đảm
bảo cho thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế phát
triển không chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần không ngừng nâng cao hiệu quả
quản lý, đảm bảo cho thị trường trong nước ổn định, thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn
đầu tư của nước ngoài. Xử phạt thật nghiêm minh đối với những kẻ lợi dụng chức quyền
của mình đẻ tham ơ tài sản nhà nước. Phải đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế có trình
độ cao, năng lực quản lý tốt quan trọng là đạo đức, tư cách tốt. Muốn có được điều đó địi
hỏi được nâng cao giáo dục, đào tạo từ thế hệ trẻ từ khi còn là học sinh, sinh viên.
12


Nghiên cứu đề tài này góp phần bổ sung thêm kiến thức cũng như phát triển thêm nhận
thức về trách nhiệm của bản thân tôi đối với nền kinh tế của đất nước. Tơi xin kết thúc
bài luận của mình tại đây.

MỤC LỤC
DẪN LUẬN....................................................................................................................... 1
NỘI DUNG........................................................................................................................ 2
Chương 1. Một số khái niệm cần làm rõ.........................................................................2
1.1.

Kinh tế thị trường..............................................................................................2

1.2.


Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa................................................2

Chương 2. Quá trình đổi mới nhận thức về kinh tế thị trường........................................2
2.1. Sự cần thiết của việc hình thành, chuyển đổi và phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở Việt Nam...................................................................................2
2.2.

Sự hình thành tư duy của Đảng về kinh tế thị trường thời kỳ đổi mới:..............3

Chương 3. Thực tiễn nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay..................................8
3.1.

Một số thành tựu trong những năm gần đây......................................................8

3.2.

Những hạn chế còn tồn tại.................................................................................9

3.3. Giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản
lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hiện nay..............................................10
Chương 4. Nhận thức về trách nhiệm của bản thân đối với vấn đề phát triển kinh tế đất
nước.............................................................................................................................. 11
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 12

13


PHỤ LỤC
Hình ảnh về thành tựu kinh tế của đất nước


Hình ảnh về hệ lụy của sự phát triển kinh tế cần được giải quyết
14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, năm 2016.
2. Bài viết “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước theo tinh thần Đại hội
XI của Đảng”, Tạp chí ban tuyên giáo trung ương năm, 2011.
3. Bài viết “Thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta”,
Tạp chí ban tuyên giáo trung ương, năm 2019.
4. Bài viết “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Xây dựng đảng, năm 2018.

15


16



×