Tải bản đầy đủ (.pdf) (159 trang)

Đánh giá giá trị dịch vụ hệ sinh thái rừng vùng núi tỉnh An Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.92 MB, 159 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
VIỆN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN ĐBSCL

ĐẶNG THỊ THANH QUỲNH

ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ DỊCH VỤ
HỆ SINH THÁI RỪNG VÙNG NÚI
TỈNH AN GIANG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
MÃ NGÀNH: 9620116

2021


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

LỜI CẢM TẠ...................................................................................................... i
TÓM TẮT ..........................................................................................................ii
ABSTRACT ...................................................................................................... iv
TRANG CAM KẾT KẾT QUẢ.......................................................................vii
MỤC LỤC...................................................................................................... viii
DANH SÁCH BẢNG ....................................................................................... xi
DANH SÁCH HÌNH .......................................................................................xii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT......................................................................... xiii
Chương 1: GIỚI THIỆU .................................................................................... 1
1.1 Giới thiệu .................................................................................................. 1


1.2 Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................. 4
1.2.1 Mục tiêu chung ................................................................................... 4
1.2.2 Mục tiêu cụ thể ................................................................................... 4
1.3 Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu ............................................................. 4
1.4 Nội dung nghiên cứu ................................................................................. 4
1.5 Giới hạn của luận án ................................................................................. 5
1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ............................................... 5
1.7 Những điểm mới của luận án .................................................................... 6
Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ................................................................ 8
2.1 Tổng quan hệ sinh thái rừng trên thế giới và ở Việt Nam ........................ 8
2.1.1 Khái niệm hệ sinh thái rừng ................................................................ 8
2.1.2 Cấu trúc và chức năng của hệ sinh thái rừng ...................................... 9
2.1.3 Sự thay đổi và nguy cơ xuống cấp của hệ sinh thái rừng ................. 12
2.2 Dịch vụ và giá trị dịch vụ hệ sinh thái rừng ............................................ 14
2.2.1 Dịch vụ hệ sinh thái rừng .................................................................. 14
2.2.2 Giá trị dịch vụ hệ sinh thái rừng ....................................................... 15
2.2.3 Phương pháp tiếp cận và lượng giá giá trị dịch vụ hệ sinh thái ........ 19
2.3 Sinh kế và mối quan hệ với dịch vụ hệ sinh thái .................................... 22
2.3.1 Sinh kế hộ hưởng lợi dịch vụ hệ sinh thái rừng ................................ 22
2.3.2 Sinh kế tác động đến hệ sinh thái rừng ............................................. 23
2.4 Yếu tố chi phối và phương pháp quản lý hệ sinh thái rừng .................... 24
viii


2.4.1 Yếu tố chi phối .................................................................................. 24
2.4.2 Phương pháp tiếp cận và quản lý hệ sinh thái rừng .......................... 28
2.5 Tổng quan vùng nghiên cứu ................................................................... 31
Chương 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................. 36
3.1 Cơ sở lý luận ........................................................................................... 36
3.2 Chọn điểm và mô tả điểm nghiên cứu .................................................... 38

3.2.1 Chọn điểm nghiên cứu ...................................................................... 38
3.2.2 Mô tả điểm nghiên cứu ..................................................................... 40
3.3 Phương pháp thu thập số liệu .................................................................. 41
3.3.1 Tiến trình thu thập số liệu ................................................................. 41
3.3.2 Các bước thu thập số liệu .................................................................. 42
3.4 Phương pháp phân tích số liệu ................................................................ 48
3.4.1 Phương pháp tính tốn giá trị dịch vụ hệ sinh thái ........................... 48
3.4.2 Phân tích thống kê............................................................................. 50
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ....................................................... 55
4.1 Dịch vụ hệ sinh thái và giá trị dịch vụ hệ sinh thái rừng ........................ 55
4.1.1 Sự thay đổi và hình thành dịch vụ hệ sinh thái rừng ........................ 55
4.1.2 Dịch vụ hệ sinh thái rừng cư dân hưởng lợi ..................................... 57
4.1.3 Giá trị dịch vụ hệ sinh thái rừng hộ hưởng lợi .................................. 70
4.2 Mối quan hệ sinh kế với dịch vụ hệ sinh thái rừng ................................. 74
4.2.1 Đặc điểm sinh kế cư dân địa phương ................................................ 74
4.2.2 Nguồn lực sinh kế hộ ........................................................................ 76
4.2.3 Mối quan hệ giữa sinh kế hộ và dịch vụ hệ sinh thái ........................ 79
4.3 Yếu tố chi phối và giải pháp nâng cao giá trị dịch vụ hệ sinh thái ......... 86
4.3.1 Động lực chi phối giá trị dịch vụ hệ sinh thái ................................... 86
4.3.2 Trở lực chi phối giá trị dịch vụ hệ sinh thái ...................................... 88
4.3.3 Giải pháp nâng cao giá trị dịch vụ hệ sinh thái ................................. 90
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT .......................................................... 94
5.1 Kết luận ................................................................................................... 94
5.2 Đề xuất .................................................................................................... 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................ 97
Phụ lục A. Nội dung các bảng câu hỏi ........................................................... 106
Phụ lục B. Kết quả số liệu thô ........................................................................ 126
ix



Phụ lục C. Kết quả phân tích.......................................................................... 130
Phụ lục D. Kết quả thống kê .......................................................................... 133

x


DANH SÁCH BẢNG
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội các xã điểm nghiên cứu ................... 41
Bảng 3.2: Các cơ quan đại diện được phỏng vấn............................................. 43
Bảng 3.3: Thông tin về các ấp đại diện bốn xã nghiên cứu ............................. 44
Bảng 3.4: Hộ được chọn thảo luận nhóm dựa vào hoạt động sinh kế ............. 45
Bảng 3.5: Hộ được chọn phỏng vấn hộ dựa vào tỷ lệ hoạt động sinh kế......... 47
Bảng 3.6: Phương pháp phân tích số liệu tương ứng với nội dung.................. 48
Bảng 3.7: Diễn giải các biến nguồn lực sinh kế hộ.......................................... 51
Bảng 3.8: Diễn giải các nhóm biến Y và nhóm biến X trong phân tích .......... 53
Bảng 4.1: Sự thay đổi và suy giảm dịch vụ hệ sinh thái rừng.......................... 56
Bảng 4.2: Dịch vụ hệ sinh thái theo tiểu hệ sinh thái và đối tượng hưởng lợi. 61
Bảng 4.3: Tỷ lệ hộ hưởng lợi trực tiếp dịch vụ canh tác nông nghiệp theo tiểu
hệ sinh thái ở các xã nghiên cứu ...................................................................... 63
Bảng 4.4: Tỷ lệ các lợi ích từ sản phẩm tự nhiên theo nhận định của hộ ........ 67
Bảng 4.5: Tỷ lệ hộ khai thác sản phẩm tự nhiên ở các xã nghiên cứu ............. 67
Bảng 4.6: Tỷ lệ hộ tham gia phục vụ du lịch ở các xã nghiên cứu .................. 69
Bảng 4.7: Giá trị dịch vụ canh tác nông nghiệp theo tiểu hệ sinh thái ............ 71
Bảng 4.8: Giá trị kinh tế từ khai thác các sản phẩm rừng phân theo xã .......... 73
Bảng 4.9: Giá trị từ dịch vụ phục vụ du lịch phân theo xã .............................. 74
Bảng 4.10: Đặc điểm sinh kế của ba nhóm hộ theo tiêu chuẩn địa phương .... 74
Bảng 4.11: Đặc điểm nhận biết các nhóm hộ hưởng lợi dịch vụ hệ sinh thái . 75
Bảng 4.12: Thơng tin lao động ở các nhóm hộ ................................................ 77
Bảng 4.13: Trình độ của người lao động theo nhóm hộ .................................. 77
Bảng 4.14: Diện tích đất sản xuất nơng nghiệp của ba nhóm hộ ..................... 78

Bảng 4.15: Thu nhập từ dịch vụ hệ sinh thái rừng phân theo nhóm hộ ........... 79
Bảng 4.16: Mục đích và tỷ lệ vay vốn của ba nhóm hộ ................................... 79
Bảng 4.17: Tỷ lệ hộ hưởng lợi dịch vụ canh tác nông nghiệp theo nhóm hộ .. 80
Bảng 4.18: Tỷ lệ hộ khai thác các lợi ích từ sản phẩm tự nhiên ...................... 81
Bảng 4.19: Tỷ lệ hộ tham gia các hoạt động phục vụ du lịch .......................... 81
Bảng 4.20: Hệ số tương quan của các biến số tương ứng với bốn cặp tương
quan có ý nghĩa ................................................................................................ 82
Bảng 4.21: Phân tích yếu tố chi phối và giải pháp nâng cao giá trị dịch vụ .... 91

xi


DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1: Thu nhập bình qn đầu người ở hai huyện Tri Tơn và Tịnh Biên . 35
Hình 3.1: Khung lý thuyết mối quan hệ dịch vụ hệ sinh thái rừng và sinh kế . 36
Hình 3.2: Bản đồ vị trí các xã nghiên cứu ....................................................... 38
Hình 3.3: Sơ đồ phân nhóm xã/thị trấn ở hai huyện Tri Tơn và Tịnh Biên ..... 39
Hình 3.4: Sơ lược tiến trình thu thập số liệu .................................................... 42
Hình 4.1: Sơ đồ lát cắt sinh thái vùng núi tỉnh An Giang ................................ 58
Hình 4.2: Trồng bưởi, và trồng xồi kết hợp nghệ ở đồi núi - xã Lê Trì ......... 59
Hình 4.3: Trồng bắp và chăn ni bị ở ruộng trên - xã Lương Phi ................. 59
Hình 4.4: Trồng lúa hai vụ ở ruộng dưới – xã Lương Phi ............................... 60
Hình 4.5: Nước cấp canh tác nông nghiệp ở núi Dài xã Lê Trì ....................... 65
Hình 4.6: Dân dư địa phương thu hoạch củi ở núi Dài xã Lê Trì .................... 66
Hình 4.7: Tỷ lệ hộ tham gia hoạt động sinh kế chính ở ba nhóm hộ ............... 75
Hình 4.8: Tỷ lệ hộ thay đổi kết quả sinh kế theo nhóm hộ ở các xã ................ 76
Hình 4.9: Phân bố giá trị trung bình trọng số tương quan của nhóm biến Y và
nhóm biến X của tương quan 1 theo nhóm hộ (a), dân tộc (b) và xã (c) ......... 83
Hình 4.10: Tương quan 2 theo nhóm hộ (d), dân tộc (e) và xã (f) ................... 84
Hình 4.11: Tương quan 3 theo nhóm hộ (g), dân tộc (h) và xã (i) ................... 85

Hình 4.12: Tương quan 4 theo nhóm hộ (j), dân tộc (k) và xã (l).................... 86

xii


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BĐKH
BVTV
ĐBSCL
HST
NLKH
PTNT
UBND
VQG

: Biến đổi khí hậu
: Bảo vệ thực vật
: Đồng bằng sông Cửu Long
: Hệ sinh thái
: Nông-lâm kết hợp
: Phát triển nông thôn
: Ủy ban Nhân dân
: Vườn quốc gia

xiii


Chương 1: GIỚI THIỆU
1.1 Giới thiệu
Hệ sinh thái rừng là một hệ sinh thái (HST) có tính đa dạng sinh học cao

và giữ vai trò quan trọng đối với đời sống con người. Hệ sinh thái rừng cung
cấp cho con người nhiều dịch vụ HST quan trọng như: thực phẩm, dược phẩm,
gỗ, điều hồ khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học, điều tiết nước, ổn định đất, hấp
thụ carbon, và giải trí (MEA, 2005). Các dịch vụ HST đó góp phần nâng cao
chất lượng đời sống của con người (Close et al., 2009).
Dịch vụ HST rừng là nguồn sinh kế, sức khỏe và giảm nghèo cho nhiều
nhóm cư dân có liên quan (De Groot et al., 2012). Tuy nhiên, việc khai thác
tài nguyên để đáp ứng nhu cầu ngắn hạn đã tạo áp lực cho HST rừng và ảnh
hưởng đến chất lượng đời sống con người (De Clercke, 2014). Việc tăng
cường thâm canh nông nghiệp để cải thiện sinh kế người dân trong HST rừng
đã làm giảm giá trị dịch vụ của HST và mức độ thâm canh càng cao thì sự suy
giảm này xảy ra càng nhanh (Borner et al., 2007). Vì vậy, đây là thách thức
đối với nhà quản lý liên quan đến việc lựa chọn hay ra quyết định đánh đổi
giữa bảo tồn tài nguyên rừng và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, các quyết
định mang lại lợi ích cho nhiều bên liên quan được quan tâm. Cách tiếp cận
địi hỏi phải có cái nhìn hệ thống, quan hệ nhân quả từ nhiều góc độ và ở các
thứ bậc khác nhau trong quá trình ra quyết định (Rodríguez et al., 2005). Mối
quan hệ giữa HST, lợi ích tiềm năng của dịch vụ HST, quản lý và hưởng lợi từ
HST cho sinh kế của các nhóm cư dân khác nhau trong bối cảnh mơi trường tự
nhiên và kinh tế - xã hội bên ngoài luôn thay đổi là quan tâm cốt lõi cho việc
ra quyết định. Những nghiên cứu khoa học và ứng dụng cách tiếp cận như thế
thì rất hạn chế ở các nước khác, Việt Nam và đặc biệt là ở đồng bằng sông
Cửu Long (ĐBSCL).
Việc tận khai tài nguyên của HST rừng như khai thác gỗ, canh tác nông
nghiệp thâm canh, phát triển thủy điện làm giảm dịch vụ HST. Cụ thể, mất
rừng xảy ra chủ yếu ở các nước Đông Nam Á, đã làm mất đi nguồn tài nguyên
rừng, giảm đa dạng sinh học, mất khả năng phòng hộ đầu nguồn, giảm điều
hịa vi khí hậu, cung cấp nước, chống xói mịn và hạn chế lũ (Nguyễn Xn
Cự và Đỗ Đình Sâm, 2010). Bên cạnh đó, thâm canh hai – ba vụ lúa trong
năm, sử dụng nhiều thuốc bảo vệ thực vật đã gây tác hại đến môi trường và sự

bền vững của hệ thống canh tác. Canh tác nông nghiệp không bền vững làm
biến đổi dịch vụ HST do giảm đa dạng sinh học, tăng dịch bệnh và giảm độ
phì của đất (Thiaw et al., 2011). Có lẽ đó là chỉ chú trọng giá trị dịch vụ HST
rừng mà thiếu mối liên hệ giữa giá trị dịch vụ HST rừng và sinh kế của các
1


nhóm cư dân khác nhau trong bối cảnh tác động của môi trường tự nhiên và
kinh tế - xã hội.
Việc phát huy lợi ích từ các dịch vụ HST có ý nghĩa rất quan trọng cho
phát triển bền vững. Ở Việt Nam, lợi ích từ dịch vụ HST rừng, đặc biệt là các
dịch vụ liên quan cung cấp thực phẩm và dược phẩm được khai thác, nên đời
sống cư dân đã được cải thiện (MEA, 2007). Khu vực đất dốc ở Việt Nam,
thời gian qua áp dụng canh tác nông-lâm kết hợp (NLKH) (Nguyễn Viết
Khoa, 2006), đã mang lại hiệu quả về kinh tế, xã hội, lẫn môi trường
(Lundgren and Raintree, 1983; Toralba et al., 2016), nên rất phù hợp canh tác
trong điều kiện biến đổi môi trường như hiện nay. Ở vùng ĐBSCL, canh tác
luân canh lúa – màu được đánh giá là hệ thống mang lại hiệu quả kinh tế cao
so với thâm canh lúa và đang được nhân rộng. Mơ hình ln canh như một lúa
– hai màu, hai lúa – một màu và một lúa – một màu (Nguyễn Duy Cần, 2009).
Vùng núi tỉnh An Giang có nhiều điều kiện thuận lợi khai thác nơng lâm kết
hợp, có tiềm năng về dược liệu, có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái,
nhưng khai thác chưa hiệu quả.
Hệ sinh thái rừng vùng núi tỉnh An Giang thuộc hạ lưu sơng Mekong, là
một HST rừng phịng hộ đồi núi đặc trưng của Việt Nam với khí hậu nhiệt đới
ẩm gió mùa nên chứa đựng đa dạng sinh học cao, là trung tâm cung cấp dịch
vụ HST (Close et al., 2009). Năm 1989 - 1991, HST rừng tự nhiên tỉnh An
Giang suy giảm mạnh do việc khai phá đất đồi núi để trồng trọt, săn bắt động
vật hoang dã, khai thác rừng lấy củi, gỗ, đốt than và dược liệu, diện tích rừng
tự nhiên chỉ cịn 5.470 ha năm 1991, giảm 68,3% sau hai năm khai thác. Sau

năm 1999, áp dụng chính sách trồng mới năm triệu ha rừng và giao khoán đất
rừng cho cư dân địa phương quản lý, HST rừng đã phục hồi trở lại, diện tích
rừng năm 2019 là 11.590 ha, trong đó diện tích rừng trồng chiếm 67,8% (Cục
Thống kê tỉnh An Giang, 2019). Sự thay đổi diện tích rừng tự nhiên sang rừng
trồng đã làm thay đổi các lợi ích của HST rừng, nhiều lợi ích từ tự nhiên
dường như khơng cịn nữa và được thay thế bằng các hệ thống canh tác nông
nghiệp. Nhiều loài thực vật quý hiếm, loài đặc hữu, và lồi bị đe dọa có tên
trong danh mục thực vật nguy cấp, quý, hiếm của Nghị định 32/2006/NĐ-CP
của chính phủ. Diện tích đất canh tác nơng nghiệp của hai huyện là 73.372 ha,
chiếm 76,8% diện tích đất tự nhiên. Canh tác nông nghiệp chủ yếu là trồng
rừng, cây ăn trái, rau màu, lúa thâm canh hai – ba vụ trong năm. Trước năm
2000, canh tác lúa mùa trên một vụ và lúa thần nông hai vụ trong năm là chủ
yếu, sau năm 2000, chính sách bao đê tăng vụ nên diện tích trồng lúa hai vụ và
ba vụ trong năm đã tăng lên (Nguyễn Duy Cần, 2009; Nguyễn Văn Minh,
2011).
2


Hệ sinh thái rừng vùng núi tỉnh An Giang thuộc hai huyện Tri Tơn và
Tịnh Biên, có 11.400 ha đất rừng phịng hộ đồi núi, là vùng có đơng người
nghèo và người dân tộc Khmer sinh sống. Dân số hai huyện 257.064 người,
sinh kế cư dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, hộ nghèo các xã ven
chân núi chiếm tỷ lệ cao, xã Lê Trì ven chân núi Dài 29,7%, xã Núi Tô ven
chân núi Cô Tô 31,1%, so với bình quân chung của hai huyện là 9,7% và so
với tỉnh An Giang là 6,7%. Người Khmer ở hai huyện chiếm 32% dân số,
sống tập trung ở các xã ven chân núi (Cục Thống kê tỉnh An Giang, 2019).
Nghèo trong khi sinh kế dựa vào canh tác nông nghiệp là yếu tố quan trọng
dẫn đến thâm canh nông nghiệp hoặc phá rừng để canh tác nông nghiệp, là
nguy cơ đe dọa công tác bảo tồn đa dạng sinh học và môi trường, dẫn đến suy
giảm dịch vụ HST rừng. Đây là mối quan hệ nhân quả của nghèo và quản lý

tài nguyên thiên nhiên không bền vững. Ở tỉnh An Giang, ngành lâm nghiệp
vẫn chưa có giải pháp đồng bộ để cải thiện sinh kế cho cư dân trong HST rừng
vùng núi, công tác bảo vệ và phát triển tài ngun rừng khơng tiến triển và cịn
nhiều khó khăn (Chi cục Kiểm lâm tỉnh An Giang, 2018).
Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, việc khai thác có hiệu quả dịch
vụ HST và giảm tác động đến tài nguyên rừng, thông qua phương pháp tiếp
cận dịch vụ HST gắn với sinh kế cư dân địa phương là rất cần thiết. Qua đó,
giúp đánh giá các lợi ích và định lượng được tầm quan trọng của dịch vụ HST
rừng đối với đời sống cư dân địa phương, để đưa ra các quyết định tốt hơn cho
việc quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên và cải thiện sinh kế người dân.
Kết quả đề tài có ý nghĩa lớn về khoa học và ứng dụng ở bốn lĩnh vực chính:
(1) cải tiến giá trị dịch vụ HST rừng núi An Giang trong bối cảnh thay đổi môi
trường và kinh tế - xã hội, (2) cải tiến cơ hội hưởng lợi từ dịch vụ HST rừng
và cải tiến sinh kế của các nhóm cư dân và giảm nghèo bền vững, (3) bảo tồn
đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường – sinh thái đặc trưng bản địa, và (4)
bảo tồn giá trị văn hóa – lịch sử, an ninh và quốc phòng tiểu vùng biên giới
Tây Nam.
Nghiên cứu áp dụng phương pháp tiếp cận gắn kết dịch vụ HST và sinh
kế cư dân địa phương. Đây là phương pháp tiếp cận mới chưa được áp dụng
trong nghiên cứu và ứng dụng cho HST rừng núi tỉnh An Giang nói riêng và
rất hạn chế ở các nơi khác của Việt Nam và các nước khác nói chung. Kết quả
của đề tài góp phần vào việc triển khai thành cơng ở địa phương các chương
trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, tái cơ cấu lại nông nghiệp, và phát
triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu.

3


1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung

Phân tích mối quan hệ giữa dịch vụ HST rừng vùng núi tỉnh An Giang
với sinh kế của cư dân sống trong HST nhằm nhận ra các dịch vụ chưa khai
thác hợp lý và hiệu quả, các cơ hội và giải pháp cải tiến giúp nâng cao giá trị
dịch vụ HST, qua đó góp phần tạo cơ hội việc làm, cải thiện thu nhập người
dân và quản lý tài nguyên thiên nhiên hiệu quả trong tương lai.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
Nghiên cứu có ba mục tiêu cụ thể sau:
- Xác định các loại dịch vụ HST rừng và giá trị dịch vụ HST rừng mà hộ
dân địa phương hưởng lợi tại bốn xã nghiên cứu ở hai huyện miền núi Tri Tôn
và Tịnh Biên;
- Xác định mối quan hệ giữa dịch vụ HST rừng mà hộ dân hưởng lợi và
sinh kế hộ dân sống trong HST đó;
- Nhận ra các động lực và trở lực, và đề xuất giải pháp để nâng cao giá
trị dịch vụ HST rừng, cải tiến cơ hội tiếp cận hưởng lợi dịch vụ HST rừng để
phát triển sinh kế các nhóm cư dân khác nhau.
1.3 Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu của luận án là dịch vụ HST rừng vùng núi tỉnh An
Giang có mối liên quan chặt chẽ với sinh kế của cư dân sống trong HST đó.
Do đó, các giải pháp cải tiến nâng cao giá trị dich vụ HST và phân bố lợi ích
hợp lý cho cư dân có thể giúp cải thiện sinh kế của họ và từ đó góp phần quản
lý bền vững tài nguyên rừng.
Để kiểm định giả thuyết trên, đề tài nghiên cứu tập trung trả lời hai câu
hỏi nghiên cứu sau: (1) giá trị dịch vụ HST rừng vùng núi tỉnh An Giang có
mối liên quan như thế nào đến sinh kế của cư dân sống trong HST đó? (2) các
cơ hội và giải pháp nào có thể giúp phát huy giá trị dịch vụ HST và phân bổ
lợi ích hợp lý tài ngun đó để nâng cao sinh kế của cư dân địa phương?
1.4 Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu tập trung trả lời câu hỏi nghiên cứu trên với ba nội dung
chính như sau: (1) mô tả đặc điểm các loại dịch vụ HST và xác định giá trị
dịch vụ HST mà sinh kế hộ hưởng lợi ở bốn xã nghiên cứu; (2) phân tích mối

quan hệ giữa dịch vụ HST rừng mà hộ dân hưởng lợi và sinh kế hộ ở bốn xã
nghiên cứu; và (3) phân tích các yếu tố trở ngại, hỗ trợ và đề xuất giải pháp
4


kinh tế-xã hội cải tiến nhằm nâng cao giá trị dịch vụ HST rừng và cải thiện
sinh kế dân cư.
1.5 Giới hạn của luận án
Về đối tượng nghiên cứu, nghiên cứu tập trung vào hai nhóm đối tượng
chính: (1) dịch vụ HST rừng và giá trị dịch vụ HST rừng mà sinh kế hộ hưởng
lợi, và (2) sinh kế hộ hưởng lợi dịch vụ HST rừng.
Về nội dung nghiên cứu, chỉ tập trung nghiên cứu mối quan hệ giữa dịch
vụ HST rừng và sinh kế cư dân sống trong HST rừng. Đối với dịch vụ HST
rừng, nghiên cứu chỉ đo lường giá trị các loại dịch vụ HST rừng mà sinh kế hộ
hưởng lợi trực tiếp, nó có giá trị và được giao dịch thị trường. Các loại dịch vụ
đó chủ yếu là dịch vụ cung cấp và dịch vụ văn hố như lợi ích thu được từ
canh tác nơng nghiệp; lợi ích từ khai thác tài nguyên rừng; và lợi ích từ hoạt
động dịch vụ phục vụ du lịch. Các loại dịch vụ điều tiết và dịch vụ hỗ trợ như
điều hồ tiểu khí hậu, phịng chống xói mịn đất và bảo vệ nguồn gen quý
không được quan tâm trong nghiên cứu này. Lợi ích từ các dịch vụ HST này
khơng được giao dịch và khơng có giá trên thị trường, ở cấp hộ dựa vào cảm
tính để lượng giá dễ xảy ra sai số. Đối với sinh kế cư dân, nghiên cứu dựa vào
tham vấn chính quyền địa phương để phân loại kết quả sinh kế và xác định đối
tượng hưởng lợi trực tiếp, gián tiếp dịch vụ HST rừng và đối tượng khác.
Về không gian, nghiên cứu chọn bốn xã đại diện HST rừng vùng núi tỉnh
An Giang để thu thập số liệu, đó là xã Núi Tơ, xã Lê Trì, xã Lương Phi và xã
An Hảo. Đây là nơi có HST rừng phịng hộ đồi núi chiếm tỷ trọng lớn, có diện
tích đất lâm nghiệp và đất nông nghiệp cung cấp nhiều dịch vụ HST cho sinh
kế hộ, và là nơi sinh kế hộ hưởng lợi dịch vụ HST rừng như canh tác nông
nghiệp, khai thác tài nguyên rừng và các hoạt động phục vụ du lịch . Hệ sinh

thái rừng núi nhạy cảm đối với môi trường tự nhiên, kinh tế - xã hội, an ninh
và quốc phòng nhiều hơn so với các HST đất ngập nước khác ở ĐBSCL. Do
đó, HST này khó quản lý và cần ưu tiên quan tâm nghiên cứu nhiều hơn.
Về thời gian, sự thay đổi trong việc quản lý HST của cư dân và yếu tố
chi phối của sự thay đổi đó được khảo sát từ năm 2000 trở lại đây tương ứng
với các mốc sự kiện liên quan. Luận án thực hiện thu thập số liệu năm 2019,
việc tính tốn giá trị dịch vụ HST rừng và tình trạng kinh tế - xã hội của hộ cư
dân dựa vào số liệu năm 2018.
1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu giúp cung cấp thông tin cơ bản, là cơ sở khoa học để
đánh giá các giá trị dịch vụ HST rừng vùng núi tỉnh An Giang, góp phần phát
5


triển kiến thức về cách tiếp cận sinh kế bền vững dựa trên dịch vụ HST rừng
và có sự tham gia các nhóm người có liên quan. Bên cạnh đó, kết quả luận án
còn là nguồn cơ sở dữ liệu khoa học giúp người ra quyết định và các nhóm
người có liên quan nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của dịch vụ HST rừng đối
với sinh kế dân cư địa phương và mối quan hệ giữa sinh kế và việc sử dụng
dịch vụ HST, từ đó làm cơ sở nâng cao giá trị dịch vụ HST và phân bổ hợp lý
lợi ích từ dịch vụ HST. Ngồi ra, kết quả luận án cịn phục vụ cơng tác giảng
dạy và nghiên cứu khoa học liên quan đến dịch vụ HST trên cơ sở bảo tồn và
phát triển tài nguyên rừng và phát triển sinh kế bền vững.
Bên cạnh đó, kết quả luận án cịn cung cấp thơng tin, số liệu hữu ích giúp
các cơ quan nghiên cứu, các chương trình dự án và các nhà quản lý hoạch định
nhận định các vấn đề liên quan đến việc quản lý bền vững HST rừng, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội cho người dân sống trong HST rừng (đặc biệt là
người nghèo), các chính sách phát triển du lịch sinh thái, bảo vệ và phát triển
rừng vùng núi trong bối cảnh thay đổi môi trường như hiện nay.
1.7 Những điểm mới của luận án

Đa số các nghiên cứu dựa vào phương pháp tiếp cận dịch vụ HST để
lượng giá giá trị dịch vụ HST rừng nhằm mục tiêu quản lý bền vững HST
rừng. Trong nghiên cứu này, đo lường giá trị dịch vụ HST đưa yếu tố con
người làm trọng tâm, vì mục tiêu cải thiện sinh kế hộ và đồng thời quản lý bền
vững HST rừng. Đây là phương pháp tiếp cận mới trong nghiên cứu phát triển
nông thôn nhằm nhận ra mối quan hệ giữa dịch vụ HST rừng với sinh kế của
cư dân địa phương, từ đó đưa ra giải pháp sử dụng hợp lý dịch vụ HST và giúp
nâng cao giá trị dịch vụ HST, cải thiện sinh kế cư dân địa phương và quản lý
HST rừng bền vững.
Bên cạnh đó, nghiên cứu cịn phát triển khung lý thuyết mới nghiên cứu
về mối quan hệ giữa dịch vụ HST và sinh kế. Dựa vào khung đánh giá thiên
niên kỷ thể hiện mối quan hệ dịch vụ HST và đời sống con người, khung lý
thuyết về thể hiện giá trị của HST và đa dạng sinh học, và khung sinh kế bền
vững, khung lý thuyết mới được hình thành. Vì vậy, luận án có nghĩa khoa học
về mặt lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển nơng thơn, và
có giá trị trong việc gia tăng kiến thức khoa học.
Mặt khác, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích tương quan chính
tắc là phương pháp đánh giá được toàn diện và khách quan về mối quan hệ
giữa sinh kế và giá trị dịch vụ HST rừng hộ hưởng lợi, thể hiện tính vượt trội
hơn hẳn so với phân tích tương quan đơn biến thường được sử dụng trước đây.
Phương pháp này phân tích mối quan hệ giữa hai nhóm biến, mỗi nhóm biến
6


gồm nhiều biến; trong đó, nhóm biến sinh kế gồm 26 biến liên quan yếu tố
nguồn lực và kết quả sinh kế, và nhóm biến thu nhập gồm 04 biến tương ứng
với các nguồn thu nhập khác nhau; trong đó có nguồn thu từ dịch vụ HST
rừng. Đây là phương pháp tập hợp tuyến tính nhiều biến cùng lúc, mỗi nhóm
biến bao gồm nhiều biến số, nên có thể khai thác hết toàn bộ các số liệu trong
nghiên cứu về kinh tế - xã hội, kết quả phân tích có độ tin cậy cao và tránh

việc lãng phí số liệu. Vì vậy, kết quả của nghiên cứu của luận án có tính khoa
học cao và khách quan khi đề ra giải pháp nâng cao giá trị dịch vụ HST và cải
tiến sinh kế hộ.
Kết quả nghiên cứu đã chứng minh được dịch vụ cung cấp và dịch vụ
văn hố có quan hệ mật thiết với sinh kế hộ. Hệ sinh thái rừng ln ở trạng
thái động, nó ln chịu tác động bởi hoạt động sinh kế và các yếu tố tự nhiên,
kinh tế - xã hội. Qua đó cho thấy, sinh kế hộ là một một phần không thể tách
rời khỏi HST rừng, do vậy, các nghiên cứu về dịch vụ HST rừng phải bao gồm
cả sinh kế hộ và các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội có liên quan.
Bên canh đó, kết quả nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, trong trường hợp
vùng núi tỉnh An Giang, hộ khá có nhiều đất canh tác nơng nghiệp là hưởng
lợi dịch vụ HST rừng nhiều hơn hộ nghèo ít đất. Đây là điểm mới được phát
hiện trong nghiên cứu đối với HST rừng. Kết quả trước kia cho rằng, người
nghèo phụ thuộc nhiều vào HST rừng và là nguy cơ đe doạ HST rừng. Kết quả
nghiên cứu này làm cơ sở đó giúp người ra quyết định có cái nhìn khác hơn về
mối quan hệ giữa HST rừng và sinh kế hộ, từ đó làm cơ sở nâng cao vai trò cải
thiện sinh kế và giữ rừng tập trung ở nhóm khá hơn tập trung ở nhóm nghèo,
và để giảm nghèo cần có chính sách hỗ trợ khác. Vì vậy, kết quả luận án có ý
nghĩa ứng dụng rất cao trong việc hỗ trợ thực thi thành công các chính sách
phát triển nơng nghiệp và nơng thơn, giảm nghèo và thích ứng biến đổi khí
hậu.

7


Chương 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Tổng quan hệ sinh thái rừng trên thế giới và ở Việt Nam
2.1.1 Khái niệm hệ sinh thái rừng
Hệ sinh thái là một đơn vị thống nhất bao gồm quần xã sinh vật và mơi
trường tự nhiên xung quanh có tác động qua lại với nhau (Odum, 1978). Luật

lâm nghiệp Việt Nam năm 2017 xác định: “Rừng là một HST bao gồm các
loài thực vật rừng, động vật rừng, nấm, vi sinh vật, đất rừng và các yếu tố mơi
trường khác, trong đó thành phần chính là một hoặc một số lồi cây thân gỗ,
tre, nứa, cây họ cau có chiều cao được xác định theo hệ thực vật trên núi đất,
núi đá, đất ngập nước, đất cát hoặc hệ thực vật đặc trưng khác; diện tích liên
vùng từ 0,3 ha trở lên; độ tàn che từ 0,1 trở lên”. Thông tư 34/2009/TTBNNPTNT quy định: “Rừng mới trồng các loài cây thân gỗ và rừng mới tái
sinh sau khai thác rừng trồng có chiều cao trung bình trên 1,5 m đối với lồi
cây sinh trưởng chậm, trên 3,0 m đối với loài cây sinh trưởng nhanh và mật độ
từ 1.000 cây/ha trở lên được coi là rừng”. Rừng gồm có rừng trồng và rừng tự
nhiên, dựa vào chức năng và mục đích sử dụng của con người mà rừng được
phân loại thành rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.
Dịch vụ HST là khái niệm mới ra đời gần đây, khi con người khai thác
quá mức HST tự nhiên vì các mục đích khác nhau. Nghiên cứu về dịch vụ
HST nhằm để hiểu rõ hơn về vai trò của HST rừng đối với đời sống con
người. Theo Chương trình Đánh giá Thiên niên Kỷ, dịch vụ HST là những sản
phẩm và dịch vụ từ thiên nhiên, đem lại lợi ích cho con người (MEA, 2005).
Các lợi ích đó được phân thành bốn nhóm chức năng hay bốn loại dịch vụ: (1)
cung cấp, (2) điều tiết, (3) văn hóa và (4) hỗ trợ. Nó được mơ tả cụ thể như
sau:
(1) Dịch vụ cung cấp là những sản phẩm từ HST, bao gồm: thực phẩm,
tơ sợi, nhiên liệu, nguồn gen, chất sinh hóa, dược phẩm và thuốc tự nhiên, sản
phẩm trang trí và nước ngọt.
(2) Dịch vụ điều tiết là những lợi ích từ quá trình điều tiết của HST, bao
gồm: duy trì chất lượng khơng khí, điều tiết khí hậu, điều tiết nước, kiểm sốt
xói mịn/lở, lọc nước và xử lý chất thải, điều tiết dịch bệnh ở con người, kiểm
soát sinh vật thụ phấn và phịng chống bảo.
(3) Dịch vụ văn hóa là những nguồn lợi phi vật chất mà con người có
được từ các HST thơng qua sự làm giàu về tinh thần, phát triển nhận thức, suy
nghĩ, sáng tạo, và trải nghiệm về mỹ học. Những dịch vụ này bao gồm đa dạng
về văn hóa, các giá trị tinh thần và tơn giáo, hệ thống trí thức, các giá trị giáo

8


dục, cảm hứng, các giá trị mỹ học, các mối quan hệ xã hội, cảm giác về nơi
chốn, các giá trị di sản văn hóa, giải trí và du lịch sinh thái.
(4) Dịch vụ hỗ trợ là những dịch vụ cần thiết cho sự sinh ra của tất cả các
dịch vụ HST khác. Dịch vụ hỗ trợ khác với ba loại dịch vụ khác ở chỗ những
tác động của nó đối với con người hoặc là gián tiếp hoặc là diễn ra trong một
thời gian dài. Dịch vụ hỗ trợ bao gồm sản xuất sơ cấp, hình thành đất, chu
trình dinh dưỡng, chu trình nước, sự cung cấp mơi trường sống,...
Hệ sinh thái rừng là một hệ thống phức tạp bao gồm các quần xã sinh vật
và môi trường sống của chúng tương tác với nhau như một đơn vị chức năng.
Trong đó, con người là một phần khơng thể tách rời của HST (MEA, 2005).
Hệ sinh thái tự nhiên chịu tác động bởi con người thơng qua q trình lao
động để tăng năng suất của HST, và bị chi phối bởi các yếu tố tự nhiên, kinh
tế - xã hội (Bouahom, 2006). Một phương thức canh tác nông nghiệp làm
giảm sức ép của con người vào HST tự nhiên và giảm tốc độ phá rừng đó là
canh tác nơng lâm kết hợp (NLKH). Theo Lundgren and Raintree (1983),
nông lâm kết hợp là một hệ thống quản lý đất bền vững làm gia tăng sức sản
xuất tổng thể của đất đai. Trong đó, các cây thân gỗ lâu năm (cây gỗ, cây bụi,
cọ, tre, hay cây ăn trái, cây công nghiệp,…) được trồng có suy tính trên cùng
một đơn vị diện tích đất với cây thân thảo và/hoặc với vật nuôi, được kết hợp
đồng thời hoặc kế tiếp nhau theo thời gian và khơng gian.
Qua đó cho thấy, HST rừng cung cấp cho con người nhiều lợi ích và
ln chịu tác động bởi yếu tố con người thông qua các hoạt động sinh kế. Do
vậy, nghiên cứu về dịch vụ HST rừng phải bao gồm cả sinh kế của nhóm
người có liên quan. Hệ sinh thái rừng vùng núi tỉnh An Giang là một HST điển
hình.
2.1.2 Cấu trúc và chức năng của hệ sinh thái rừng
Cấu trúc của HST rừng cũng giống như các HST khác, nó gồm hai bộ

phận cấu thành, đó là sinh vật (thực vật và động vật) và phi sinh vật. Sinh vật
gồm có sinh vật sản xuất, sinh vật tiêu thụ và sinh vật phân huỷ. Phi sinh vật
gồm có ánh sáng, nhiệt độ, nước, đất, đá, xác động thực vật và môi trường mà
sinh vật sống tại đó. Hai bộ phân này có tính lưu động là luôn luôn trao đổi
năng lượng và vật chất với nhau để sinh ra năng lượng và vật chất mới trong
HST. Khi HST rừng giữ được sự lưu động này, các chức năng của HST sẽ
phát huy và ngược lại (Hoàng Kim Ngũ và Phùng Ngọc Lan, 2005).
Thực vật rừng là thành phần chủ yếu được quan tâm nhiều nhất trong
nghiên cứu. Nó bao gồm năm thành phần cơ bản là cây gỗ, cây tái sinh, cây
bụi, thảm tươi và thực vật ngoại tầng, trong đó cây gỗ được xem là thành phần
9


chính của HST rừng bởi sự đa dạng về cấu trúc và các chức năng chuyên biệt
của nó (Thái Văn Trừng, 1978). Do đó, dựa vào sự đa dạng về thành phần lồi
của quần xã thực vật rừng có thể đánh giá chức năng của HST rừng.
Mỗi HST rừng có sự khác nhau về thành phần loài cây gỗ, tuổi, mật độ
và các đặc trưng khác. Cây gỗ thường được phân thành rừng thuần hay rừng
hỗn giao dựa vào thành phần và tỷ lệ giữa các loài cây gỗ. Trên thực tế, rừng
thuần lồi là rừng chỉ có một lồi và các lồi khác khơng vượt q 10%, cịn
lại là rừng hỗn giao khác lồi. Ngồi ra, người ta cịn phân chia các loài cây gỗ
thành cây phù trợ và cây gỗ chính. Cây phù trợ có chức năng hỗ trợ cây gỗ
chính sinh trưởng và phát triển. Rừng giàu là rừng có trữ lượng gỗ trên 201
m3/ha, rừng trung bình 101 – 200 m3/ha và rừng nghèo dưới 100 m3/ha. Mặt
khác, cấp tuổi là một chỉ số thường được quan tâm khi phân loại các loài cây.
Ở HST tự nhiên, các lồi cây rừng thường có cấp tuổi khác nhau. Cấp tuổi của
rừng có năm cấp, nó thể hiện khả năng sản xuất của rừng từ thấp đến cao. Đối
với cây mọc chậm thì cấp tuổi là 20 năm, đối với cây mọc nhanh thì khơng
q 05 năm. Dựa vào cấp tuổi rừng để phân thành rừng đồng tuổi hay rừng
khác tuổi. Bên cạnh đó, mật độ rừng là một đặc trưng quan trọng của HST

rừng, nó ảnh hưởng đến sản lượng, quá trình tỉa thưa và quá trình đào thải tự
nhiên của HST rừng. Mật độ rừng thường được xác định dựa vào số cây trên
một đơn vị diện tích. Khi mật độ khơng đều có thể làm giảm sản lượng của
rừng và ảnh hưởng không tốt đến sự tỉa thưa tự nhiên của rừng (Hoàng Kim
Ngũ và Phùng Ngọc Lan, 2005).
Ngoài ra, cây tái sinh, cây bụi, thảm tươi và thực vật ngoại tầng cũng
đóng vai trị quan trọng trong HST rừng. Cây tái sinh sống và phát triển dưới
tán rừng và là đối tượng thay thế tầng cây gỗ phía trên khi tầng cây này được
khai thác. Cây bụi và thảm tươi khơng có cấu tạo gỗ, sống dưới tán rừng. Nó
mang lợi các lợi ích phi gỗ (NTFPs) cho con người và góp phần bảo vệ đất,
chống xói mịn, giữ độ ẩm cho đất, tham gia vào quá trình hình thành và cải
tạo đất. Tuy nhiên, nó cũng ảnh hưởng đến tái sinh rừng, tranh giành chất dinh
dưỡng và nước trong đất. Thực vật ngoại tầng gồm có các lồi dây leo và thực
vật phụ sinh, chúng mọc không theo trật tự nào. Tầng này có thể che phủ mặt
đất, cung cấp thực phẩm, dược liệu, nhưng nó cũng có thể ngăn cản sự sinh
trưởng của cây rừng hoặc làm tăng nguy cơ cháy rừng (Hồng Kim Ngũ và
Phùng Ngọc Lan, 2005).
Khi HST rừng có cấu trúc càng đa dạng thì HST rừng có tính ĐDSH
càng cao và tiềm năng cung cấp cung cấp dịch vụ HST cũng cao (Close et al.,
2009; Sukhdev et al., 2010). Thật vậy, chức năng và cấu trúc HST rừng có
mối quan hệ biện chứng với nhau, cấu trúc hợp lý thì chức năng mới phát huy
10


được tốt nhất và ngược lại. Do vậy, cải thiện và bố trí cấu trúc HST rừng hợp
lý thì mới phát huy tính đa dạng sinh học của HST, sản sinh ra các sản phẩm
và chức năng HST nhiều hơn (Thái Văn Trừng, 1978).
Trên thế giới, HST rừng mưa nhiệt đới là HST có cấu trúc đa dạng gồm
nhiều lồi cây sống hỗn giao, nhiều tầng dày rậm, thành phần và tuổi cây
khơng đồng nhất. Trong rừng thường có nhiều lồi cây gỗ q có ý nghĩa kinh

tế và giá trị sử dụng cao. Do điều kiện khí hậu thuận lợi, sự sinh trưởng và
phát triển của thực vật diễn ra quanh năm đã làm cho thành phần loài cây và
quá trình tái sinh rừng mưa nhiệt đới diễn ra phức tạp (Nguyễn Xuân Cự và
Đỗ Đình Sâm, 2010). Người ta đã phát hiện ra được khoảng 1,75 triệu loài
sinh vật trên thế giới, tuy nhiên con số này chỉ chiếm khoảng 13% số lượng
sinh vật thực tế hiện có (Stork et al., 1999). Trong đó, rừng mưa nhiệt đới có
tính đa dạng sinh học cao nhất, nó phân bố nhiều nhất ở những vùng gần xích
đạo. Rừng mưa nhiệt đới có thể được tìm thấy ở Châu Á, Châu Úc, Châu Phi,
Nam Mỹ, Trung Mỹ và trên nhiều hòn đảo ở Thái Bình Dương, vùng Caribe,
Ấn Độ Dương. Mặc dù, diện tích rừng mưa nhiệt đới chỉ chiếm khoảng 7%
diện tích bề mặt trái đất nhưng đây là mơi trường sống cho hơn 50% loài sinh
vật trên trái đất (Nguyễn Xuân Cự và Đỗ Đình Sâm, 2010). Ở Việt Nam, phần
lớn diện tích rừng mang đặc trưng của rừng mưa nhiệt đới nên có tính đa dạng
sinh học cao và có nhiều loại động, thực vật quý. Việt Nam có khoảng 20.000
– 30.000 lồi sinh vật, được xếp vào hạng thứ 16 trên thế giới về mới độ đa
dạng sinh học. Trong đó, HST rừng có tính đa dạng sinh học cao nhất với
khoảng 15.986 loài thực vật và có hơn 10% trong số đó là thực vật đặc hữu
(Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2015). HST rừng đã tạo mơi trường
sống cho khoảng 10% số lồi chim và thú trên toàn cầu (Vũ Tấn Phương,
2007).
Mỗi HST rừng có các chức năng cụ thể tương ứng, tùy theo mục đích sử
dụng của mà nhiều quốc gia trên thế giới đã phân loại rừng theo nhiều cách
khác nhau. Ở Việt Nam, để thuận tiện cho công tác quản lý và quy hoạch lâm
nghiệp, chính phủ đã sử dụng hệ thống phân loại rừng và đất sản xuất trong
lâm nghiệp theo các chức năng: rừng phòng hộ, rừng đặc dụng và rừng sản
xuất. Theo Thơng tư số 34/2009/TT-BNNPTNT có quy định, rừng phòng hộ
là rừng được sử dụng chủ yếu để bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất, chống xói
mịn, chống sa mạc hố, hạn chế thiên tai, điều hồ khí hậu và bảo vệ mơi
trường. Rừng đặc dụng là rừng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên,
mẫu chuẩn HST của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng; nghiên cứu khoa học;

bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục vụ nghỉ ngơi, du
lịch, kết hợp phịng hộ bảo vệ mơi trường. Rừng sản xuất là rừng được sử
11


dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh gỗ, các lâm sản ngồi gỗ và kết hợp
phịng hộ bảo vệ mơi trường. Nhìn chung, các HST rừng đều có chức năng
phịng hộ, bảo vệ mơi trường và phịng chống thiên tai.
Ngồi chức năng phịng hộ, HST rừng phịng hộ Việt Nam còn giữ nhiều
chức năng quan trọng khác. Theo Quyết định số 3135/QĐ-BNN-TCLN, Việt
Nam có diện tích rừng phịng hộ là 4,56 triệu ha năm 2014; trong đó, rừng
phịng hộ đầu nguồn chiếm 92,5%. Thực tế, Việt Nam có ba phần tư diện tích
đất đồi núi, HST rừng trải dài từ Bắc đến Nam và tiếp giáp với Trung Quốc
(1.281 km), Lào (2.130 km) và Campuchia (1.228 km). Do vậy, HST rừng
phòng hộ đồi núi biên giới giữ chức năng quan trọng là phòng hộ đầu nguồn
và an ninh biên giới.
Ở ĐBSCL, có HST rừng phịng hộ đồi núi thuộc hai huyện miền núi biên
giới là huyện Tri Tôn và huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang, HST rừng có tính đa
dạng sinh học cao và là nguồn sinh kế quan trọng của cư dân địa phương. Hai
huyện Tri Tôn và Tịnh Biên tiếp giáp với Campuchia 95 km, diện tích đất lâm
nghiệp là 13.394 ha, chiếm 97,6% diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh, trong đó
diện tích đất rừng phịng hộ đồi núi là 11.400 ha (Chi cục Kiểm lâm tỉnh An
Giang, 2018). Hệ thực vật rừng đa dạng, có 815 loài thực vật rừng bậc cao
thuộc 84 bộ, 145 họ chính và 2 họ phụ, 501 chi thuộc 5 ngành thực vật như:
ngành Thạch Tùng (Lycopodiophyta), ngành Dương Xỉ (Polydiophyta), ngành
Thông (Pinophyta), ngành Tuế (Cyadophyta) và ngành Ngọc Lan
(Magnoliophyta) (Nguyễn Đức Thắng, 2003). Bên cạnh đó, sinh kế dân cư
ven chân núi phụ thuộc nhiều vào canh tác nông lâm nghiệp, khai thác các sản
phẩm lâm nghiệp từ HST rừng. Diện tích đất canh tác nơng nghiệp là 69.325
ha, chiếm 72,3% diện tích tự nhiên của hai huyện (Cục Thống kê tỉnh An

Giang, 2019). Qua đó cho thấy, ngồi chức năng phòng hộ đầu nguồn và an
ninh biên giới, HST rừng vùng núi tỉnh An Giang cịn có tính đa dạng sinh học
cao và giữ vai trò quan trọng đối với sinh kế cư dân địa phương.
2.1.3 Sự thay đổi và nguy cơ xuống cấp của hệ sinh thái rừng
HST rừng luôn ở trạng thái động và thay đổi theo thời gian và không
gian. Theo thời gian, cùng với các tác động của yếu tố tự nhiên, HST rừng
không ngừng biến đổi từ kết cấu đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao và
cuối cùng đi đến một giai đoạn tương đối ổn định. Hướng biến đổi định hướng
này gọi là quá trình diễn thế rừng. Việc tìm hiểu diễn thế rừng từ hiện tại, quá
khứ và tương lai để thấy mối quan hệ giữa chúng. Do vậy, nghiên cứu diễn thế
của rừng và mối quan hệ giữa các sự vật nhằm làm cơ sở cải thiện một cách
hợp lý kết cấu và chức năng của HST và phát huy đầy đủ chức năng của HST
12


rừng (Hoàng Kim Ngũ và Phùng Ngọc Lan, 2005). Do vậy, sự thay đổi của tự
nhiên thường tác động tích cực đối với HST rừng và đối với con người.
Về không gian, do tác động của con người nên cấu trúc và chức năng
HST rừng tự nhiên thay đổi theo chiều hướng xấu. Do khai thác rừng lấy gỗ
và lấy đất sản xuất, diện tích rừng trên thế giới và ở Việt Nam thời gian qua có
xu hướng giảm. Trên thế giới, tổng diện tích rừng gần 4 tỷ ha, chiếm khoảng
một phần ba diện tích đất liền. Nạn phá rừng đã làm diện tích rừng tự nhiên
giảm từ 16 triệu ha mỗi năm vào những năm 1990 đến 13 triệu ha mỗi năm từ
sau năm 2000 (Keenan et al., 2015). Bốn loại rừng bị khai thác nhiều nhất là
rừng hỗn hợp và ôn đới lá rộng 60%, rừng lá kim khoảng 30%, rừng ẩm nhiệt
đới khoảng 45% và rừng khô nhiệt đới khoảng 70%. Sự mất rừng lớn nhất xảy
ra ở các vùng nhiệt đới và châu Á là nơi mất rừng nguyên sinh lớn nhất,
khoảng 70%. Ở Việt Nam, diện tích rừng cũng giảm mạnh, từ 14,3 triệu ha
năm 1943 còn lại 9,3 triệu ha năm 1993. Đến năm 2010, do trồng mới diện
tích rừng đã tăng lên 13,4 triệu ha, độ che phủ của rừng đạt 39,5%, đã cơ bản

phủ xanh đất trống đồi núi trọc (Nguyễn Xuân Cự và Đỗ Đình Sâm, 2010).
Tuy nhiên, cấu trúc và chức năng của rừng trồng hoàn toàn khác với rừng tự
nhiên, chức năng cung cấp gỗ của HST rừng suy giảm và các chức năng khác
cũng suy giảm, nên thường tác động tiêu cực đối với HST rừng và con người.
Đối với HST rừng tự nhiên ở Việt Nam, diện tích rừng gỗ giàu và gỗ
trung bình chiếm tỷ lệ ít 13,6% (1,4 triệu ha), cịn lại là diện tích rừng gỗ
nghèo và non. Đối với HST rừng trồng, tỷ lệ thành rừng thấp (60% – 75%) và
chất lượng gỗ cũng thấp. Bên canh đó, những lồi cây phù trợ mọc nhanh như
bạch đàn, keo và thông các loại chiếm khoảng 54% so với tổng diện tích rừng
trồng (Nguyễn Xuân Cự và Đỗ Đình Sâm, 2010). Sự thay đổi này là nguyên
nhân làm giảm chức năng cung cấp gỗ và các chức năng khác của HST rừng.
Hệ sinh thái rừng núi ở tỉnh An Giang thời gian qua có nhiều thay đổi,
diện tích rừng tự nhiên giảm và rừng trồng tăng. Trước năm 1945, tồn bộ diện
tích rừng vùng đồi núi tỉnh là rừng tự nhiên được che phủ bởi rừng rậm nguyên
sinh. Khi dân định cư và khai thác trồng cây màu trên đồi núi, diện tích rừng tự
nhiên bắt đầu suy giảm, từ 17.233 ha năm 1989 giảm cịn 5.470 ha năm 1991
Nhờ thực hiện các chính sách trồng và bảo vệ rừng, cụ thể là Quyết định 327CT ngày 15/9/1992 và Quyết định 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998, nên diện tích
rừng tỉnh đã tăng trở lại, năm 2017 là 13.600 ha, đã góp phần tăng độ che phủ
của rừng lên 14,2%. Trong đó, rừng trồng chiếm tỷ lệ 66%, rừng tự nhiên 4,4
%, còn loại là đất chưa có rừng (Chi cục Kiểm lâm tỉnh An Giang, 2018). Khi
đó, rừng tự nhiên được thay bằng rừng trồng đã làm HST rừng thay đổi cấu
trúc, các loài cây phù trợ là chủ yếu. Kết quả là, lợi ích từ khai thác sản phẩm
13


tự nhiên giảm, các lồi cây nơng nghiệp bắt đầu hình thành và phát triển. Từ
chân núi trở lên đỉnh núi, người dân trồng cây rừng và cây ăn trái, từ chân núi
trở xuống đồng bằng, các lồi cây nơng nghiệp được trồng đó là lúa và rau
màu các loại; trong đó, có một lồi cây trồng đặc trưng như đậu xanh, đậu
phộng, bắp và dưa leo (Nguyễn Duy Cần, 2009; Nguyễn Văn Minh, 2011).

Tuy nhiên, HST nông nghiệp ứng thường với giai đoạn đầu của quá trình diễn
thể của HST, là HST trẻ cho năng suất cao nhưng lại không ổn định, dễ bị
thiên tai hay sâu bệnh phá hoại (Đào Thế Tuấn, 1984).
2.2 Dịch vụ và giá trị dịch vụ hệ sinh thái rừng
2.2.1 Dịch vụ hệ sinh thái rừng
Đa số các loại dịch vụ HST rừng chủ yếu cung cấp các lợi ích cho cộng
đồng, tương ứng mỗi HST khác nhau các lợi ích này khác nhau. Ở Mỹ, đồng
bằng Rio Grande cung cấp nguồn nước ngọt, môi trường sống cho động vật
hoang dã, di sản văn hố và hoạt động giải trí cho người dân ở các Bang
Colorado, New Mexico và Texas. Người dân địa phương quan tâm chủ yếu là
dịch vụ cung cấp nguồn nước ngọt (84%) và bảo tồn môi trường sống cho
động vật hoang dã (54%), họ sẳn sàng chi trả khoảng 62 USD mỗi năm cho
mục tiêu bảo tồn tất cả các dịch vụ HST trên (Jadwiga and Jianhong, 2019). Ở
khu vực hạ lưu sông Mekong, HST rừng cung cấp cho con người các lợi ích
như: gỗ, lâm sản ngồi gỗ, bảo vệ đầu nguồn và hấp thụ carbon (Emerton,
2013). Ở ĐBSCL, VQG Tràm Chim là nơi thực hiện chức năng bảo tồn đa
dạng sinh học (Do Nam Thang and Bennett, 2009) và là điểm du lịch sinh thái
tiềm năng trong và ngoài nước để khách du lịch tham quan, nghiên cứu, học
tập và giải trí (Đào Văn Thắng và ctv., 2019).
Bên cạnh đó, dịch vụ cung cấp của HST rừng là sinh kế, sức khoẻ và
giảm nghèo cho nhiều nhóm người khác nhau (De Groot et al., 2012). Do vậy,
ở gốc độ nơng hộ, các lợi ích từ dịch vụ HST đóng vai trị rất quan trọng đối
với sinh kế hộ, chủ yếu là dân cư ở vùng đệm. Ở ĐBSCL, VQG U Minh Hạ,
ngồi các lợi ích bảo vệ mơi trường, cung cấp nơi ở và thức ăn cho các lồi
động thực vật, HST rừng cịn là nguồn sinh kế quan trọng cho người dân sống
trong vùng đệm như trồng tràm, trồng keo lai, lúa 2 vụ, và lúa – tôm (Lê Văn
Dũ và ctv., 2019). VQG U Minh Thượng, vùng đệm của vùng có 94% hộ đang
có đất canh tác nghiệp, thu nhập từ canh tác nông nghiệp chiếm 20- 80% thu
nhập hộ, các nguồn thu chủ yếu từ canh tác chuối, rau màu (khoai các loại,
gừng, củ lùn, hành lá và rau các loại), lúa và nuôi thủy sản (Trần Văn Kiệt và

ctv., 2020).

14


Ở ĐBSCL, các lợi ích từ canh tác nơng nghiệp được coi là dịch vụ HST
quan trọng đối với người dân ĐBSCL (MEA, 2007). Trong đó, canh tác lúa là
dịch vụ HST quan trọng nhất đối với sinh kế người dân thông qua hệ thống
canh tác lúa thâm canh và luân canh lúa – cá (Berg et al., 2016). Canh tác lúa
ở các vùng của ĐBSCL tiếp tục theo hướng thâm canh, đặc biệt ở vùng có
điều kiện đất và nước thuận lợi (Đặng Kiều Nhân, 2009). Theo Quyết định số
1898/QĐBNN-TT của Bộ Nơng nghiệp và PTNT, diện tích thâm canh lúa ba
vụ ĐBSCL chiếm khoảng 45% tổng diện tích canh tác nông nghiệp, chủ yếu ở
Tứ giác Long Xuyên và Đồng Tháp Mười (Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2016).
Tuy nhiên, canh tác lúa ba vụ tăng là nguyên nhân làm suy giảm các dịch vụ
HST khác như chất lượng nước, động vật thuỷ sinh, thực vật, môi trường sống
và thiên địch (Berg et al., 2016). Bên cạnh đó, hoạt động nuôi cá chuyên canh
và khai thác thuỷ sản cũng cung cấp nhiều lợi ích quan trọng đối với sinh kế
người dân ĐSCSL. Hệ sinh thái sông Hậu cung cấp cá tra thương phẩm
khoảng 328,0 tấn cá tra/ha/vụ, thuỷ sản khác 54,0 tấn/m3/năm và 2,6
tấn/hộ/năm. Ngoài ra, dịch vụ HST còn thể hiện vai trò ở các mặt xã hội như
tạo công ăn việc làm, nguồn nước sinh hoạt và các giá trị sinh thái và văn hoá
(Nguyễn Thị Kim Quyên và Yakupitiyage, 2016).
Ở tỉnh An Giang, HST rừng núi chủ yếu thuộc hai huyện miền núi Tri
Tôn và Tịnh Biên, khai thác rừng để canh tác nông nghiệp nên các lợi ích từ
sản phẩm rừng giảm, canh tác nơng lâm nghiệp tăng lên. Vùng trên núi, rừng
tự nhiên được thay thế bằng rừng trồng với các loài cây chủ yếu cây phù trợ
như trồng cây rừng (keo lai và tràm bơng vàng) và cây ăn trái (chủ yếu xồi).
Vùng chân núi nhiều cát chủ yếu trồng củ sắn, khoai mì, gừng và tầm vong.
Vùng ruộng trên khơng chủ động nước tưới, chủ yếu trồng các loại rau màu

(củ sắn, khoai các loại, đậu các loại, gừng, mè và rau các loại) và chăn ni
bị. Vùng ruộng dưới chủ yếu là độc canh cây lúa như lúa hai vụ và lúa ba vụ.
Vùng này trước năm 1945 chỉ trồng các giống lúa mùa (Nàng Tây Đùm, Nàng
Nhen, Nàng Môn, Ba Sào) có năng suất từ 01 – 02 tấn/ha. Từ năm 1970 bắt
đầu trồng lúa hai vụ, 1996 - 2000 canh tác lúa hai vụ là chủ yếu với hai giống
là IR50404 và IB64B, năng suất khoảng 04 tấn/ha (Nguyễn Văn Minh, 2011).
Theo Nguyễn Duy Cần (2009), canh tác lúa ở huyện Tri Tơn có sự chuyển
dịch rõ rệt, sau năm 2000 diện tích lúa mùa giảm từ 34,9% hộ trồng đến năm
2006 cịn 10,2% hộ trồng, diện tích lúa hai vụ và ba vụ tăng.
2.2.2 Giá trị dịch vụ hệ sinh thái rừng
Để đánh giá vai trò của HST đối với đời sống con người, người ta
thường đánh giá các lợi ích mà dịch vụ HST mang lại cho con người. Các lợi
ích con người hưởng lợi chủ yếu là các dịch vụ và sản phẩm hàng hoá được
15


giao dịch trên thị trường, nó có giá trị và có thể đo lường được. Các lợi ích
thường gắn với các lợi ích cộng đồng, có thể được phân chia thành các lợi ích
kinh tế, xã hội và mơi trường.
Xét về mặt kinh tế, HST rừng cung cấp cho con người các lợi ích kinh tế
thiết thực, chủ yếu là các sản phẩm hữu hình và có giá trị ở nhiều cấp độ. Giá
trị gỗ và lâm sản mà rừng cung cấp cho nền kinh tế thị trường trên thế giới nói
chung là hơn 450 tỷ USD mỗi năm, trong đó giá trị lâm sản thương mại quốc
tế từ 150 tỷ đến 200 tỷ USD (Munang et al., 2011). Ở Campuchia, giá trị của
rừng tập trung chủ yếu là giá trị từ lâm sản ngoài gỗ và tổng giá trị thu nhập từ
lâm sản ngoài gỗ của người dân Campuchia trung bình là 280 – 345
USD/hộ/năm (Bladen, 2013). Tuy nhiên, giá trị trên thị trường hiện tại chỉ là
một phần của tồn bộ giá trị mà HST đó cung cấp (Close at el., 2009). Theo
MEA (2005), ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, các giá trị thị trường của các
HST như sản xuất gỗ và gỗ nhiên liệu ít hơn một phần ba tổng giá trị kinh tế

mà HST rừng mang lại.
Xét về mặt môi trường, nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới cũng đã xác
định được giá trị của một số dịch vụ HST rừng như: chống xói mịn, cung cấp
nước sạch, đa dạng sinh học, hấp thu carbon, giải trí,…. Về giá trị chống xói
mịn, ở những nơi phát rừng làm rẫy, giá trị này cao gấp 10 lần so với những
khu vực có rừng bảo vệ. Khi rừng được bảo vệ, lợi ích về chống xói mịn, rửa
trơi và kiểm sốt dịng chảy có giá trị tương đương 80 USD/ha/năm. Về cấp
nước sạch, hiện nay trên thế giới có hơn 1/5 dân số bị thiếu nước sạch để uống
và 1/2 dân số thiếu nước cho nhu cầu vệ sinh. Về giá trị đa dạng sinh học, ở
các khu rừng nhiệt đới, giá trị này được xác định là rất cao, khoảng 7.418
USD/ha/năm. Về giá trị hấp thu carbon của các khu rừng tự nhiên nhiệt đới
khoảng từ 500 – 2.000 USD/ha/năm (quy đổi 5 USD/tấn carbon). Về giá trị
dịch vụ giải trí, hằng năm tại các khu vực có rừng nhiệt đới ở Trung Quốc dao
động từ 27,6 – 1.320 USD/ha/năm (Vũ Tấn Phương, 2007).
Xét về mặt xã hội, HST rừng là nguồn sinh kế, sức khỏe và giảm nghèo
cho nhiều nhóm người có liên quan. Theo Fisher et al. (2009), các lợi ích từ
HST rừng đã trực tiếp hay gián tiếp tạo ra sự thịnh vượng của con người. Trên
thực tế, dịch vụ HST đã và đang đóng góp quan trọng trong việc phát triển
kinh tế và tạo việc làm cho con người. Ước tính tổng giá trị của các dịch vụ
HST trên thế giới là rất đáng kể và dao động khoảng 490 tỷ USD/năm cho
tổng các dịch vụ HST (De Groot et al., 2010). Trong đó, các dịch vụ HST
rừng đã đóng góp hơn 10% trong GDP của nhiều quốc gia nghèo nhất thế giới.
Và trong tất cả các nước đang phát triển, ngành lâm nghiệp cung cấp việc làm
chính thức cho hơn 10 triệu người, việc làm phi chính thức khoảng 30 triệu tới
16


50 triệu người, và hơn 410 triệu người phụ thuộc trực tiếp vào rừng để sinh
sống và tạo thu nhập. Một ước tính khác có khoản 1,6 tỷ người mà sinh kế của
họ phụ thuộc gián tiếp vào hàng hóa và dịch vụ HST rừng (Munang et al.,

2011).
Theo Munang et al. (2011), tuỳ theo cấp độ khác nhau mà các lợi ích từ
dịch vụ HST được thể hiện khác nhau. Ở cấp độ địa phương, HST rừng cung
cấp hàng hoá và dịch vụ như thực phẩm, dược liệu, củi, gỗ và chất đốt. Hơn
nữa, rừng cung cấp cho nhiều cộng đồng với lợi ích từ thị trường chính thức.
Ở cấp độ vùng, rừng là một công cụ cung cấp những lợi ích từ các dịch vụ
HST chính như là điều chỉnh nước, ổn định đất, giảm lũ và điều hòa khơng
khí. Ở cấp độ tồn cầu, rừng đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế, đa
dạng sinh học và điều hịa khí hậu.
Thực tế, giá trị dịch vụ HST mà con người hưởng lợi từ HST chỉ là một
phần nhỏ các lợi ích mà dịch vụ HST mang lại con người, nó phụ thuộc vào
bối cảnh, cách thức và thời gian sử dụng của con người (Fisher et al., 2009;
Bateman et al., 2011). Giá trị dịch vụ HST phát huy khi con người khai thác
hợp lý các lợi ích dịch vụ HST. Mặt khác, giá trị dịch vụ HST rừng khơng gắn
với lợi ích sinh kế thường gây bất lợi trong công tác quản lý HST.
Ở ĐBSCL, việc lượng giá giá trị của dịch vụ HST rừng hay từng loại
dịch vụ HST rừng đã được nhiều nghiên cứu xác định, nhưng chủ yếu gắn với
lợi ích cộng đồng. Có 34% người dân ĐBSCL sẳn sàng chi trả tiền cho các
hoạt động quản lý bảo tồn đa dạng sinh học ở địa phương, chấp nhận trả 913
đồng mỗi tháng để tăng 1% thảm thực vật khoẻ mạnh, 360 đồng để tăng một
loài thú được bảo tồn và 2.440 đồng để tránh thiệt hại cho 100 người dân địa
phương (Huynh Viet Khai and Yabe, 2014). Ở VQG U Minh hạ ở tỉnh Cà
Mau, tổng giá trị dịch vụ HST rừng được ước ượng bằng cách sử dụng viễn
thám và điều tra hộ, kết quả cho thấy các dịch vụ HST rừng cung cấp cho con
người bao gồm thuỷ sản, gỗ, hấp thụ carbon và phịng chống bão, có giá trị
tổng cộng khoảng 600 triệu USD/năm cho 187.533 ha diện tích rừng (Vo
Quoc Tuan et al., 2015). Ở HST rừng bần ở huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc
Trăng, dịch vụ du lịch mang lại cho toàn xã hội được xác định giá trị dựa vào
phương pháp chi phí du hành, giá trị ước lượng khoảng 327 tỷ đồng, trong đó
các cơng ty du lịch hưởng lợi 291 tỷ đồng (Mai Văn Nam và Nguyễn Văn

Hoà, 2020). Ở VQG Tràm chim, để làm cơ sở cho việc thực hiện bảo tồn đa
dạng sinh học, giá trị dịch vụ bảo tồn đa dạng sinh học của VQG cũng đã được
ước lượng khoảng 2,54 triệu đến 3,15 triệu USD (Do Nam Thang and Bennett,
2009). Bên cạnh đó, VQG Tràm Chim cịn có giá trị dịch vụ du dịch đang có
xu hướng gia tăng, năm 2018 có hơn 150.000 khách đến tham quan, học tập,
17


nghiên cứu và giải trí, tăng gấp 20 lần so với 2010 (Đào Văn Thắng và ctv.,
2019).
Các nghiên cứu về giá trị dịch vụ HST cung cấp cho sinh kế hộ cịn rất
hạn chế, chủ yếu nơng nghiệp đem lại lợi ích cho sinh kế. Ở ĐBSCL, canh tác
lúa được xem là dịch vụ cung cấp quan trọng nhất đối với sinh kế người dân
(Berg et al., 2016). Khi nông dân trồng lúa khơng sử dụng thuốc BVTV, ước
tính giá gạo khoảng 6.200 đồng, cao hơn 62% so với giá gạo tại thời điểm
nghiên cứu (Huynh Viet Khai and Yabe, 2015). Khi nông dân tham gia câu lạc
bộ giống và sử dụng giống lúa đạt tiêu chuẩn, đã giúp họ giảm chi phí phân
thuốc, tăng năng suất và giá lúa bán được cao hơn so với những nông dân
không tham gia câu lạc bộ giống. Cụ thể, mỗi ha giảm 66 kg lúa giống, 16 kg
phân đạm, 0,64 lít thuốc trừ cỏ, 0,28 lít thuốc trừ sâu và 3,93 lít thuốc trừ
bệnh, năng suất tăng 0,6 tấn và giá bán lại cao hơn 1.000 đ/kg, giúp lợi nhuận
cao hơn 80 % so với nơng dân ngồi câu lạc bộ. Do vậy, chuỗi giá trị gạo xuất
khẩu hiệu quả hơn chuỗi giá trị gạo tiêu thụ nội địa, lợi ích của người nông
dân/mỗi kg gạo cao hơn so với những tác nhân khác (Vũ Anh Pháp và ctv.,
2015).
Mặt khác, canh tác kết hợp lúa - màu giúp nông dân tăng thêm lợi nhuận
mà còn giúp tạo việc làm cho lao động địa phương hơn so với mơ hình chun
lúa. Tổng thu nhập và lợi nhuận của hệ thống canh tác lúa – màu cao hơn canh
tác lúa ba vụ gấp hai lần. Thu nhập của hệ thống canh tác lúa – màu là 86,8
triệu/ha, lợi nhuận là 57,5 triệu đồng/ha, trong khi đó, canh tác lúa ba vụ thu

nhập và lợi nhuận lần lượt là 42,4 triệu đồng/ha và 25,0 triệu đồng (Đặng Thị
Kim Phượng và Đỗ Văn Xê, 2011).
Ngoài ra, hoạt động nuôi trồng thuỷ sản cũng là dịch vụ cung cấp quan
trọng đối với sinh kế người dân ĐSBCL. Hoạt động nuôi cá chuyên canh và
khai thác thuỷ sản ở ven sông Hậu đã tạo thu nhập cho nhiều nhóm người có
liên quan như: hộ ni cá tra khoảng 775 triệu đồng/năm/hộ; hộ nuôi cá lồng
bè khoảng 602 triệu đồng/năm/hộ; và hộ khai thác khoảng 32,8 triệu
đồng/năm/hộ (Nguyễn Thị Kim Quyên và Yakupitiyage, 2016). Qua đó cho
thấy, giá trị từ lợi ích canh tác nơng nghiệp đóng vai trị quan trọng đối với
sinh kế hộ ở ĐBSCL.
Qua đó cho thấy, giá trị từ canh tác nông nghiệp gia tăng có phải là giải
pháp phát triển bền vững trong có mối quan hệ nhân quả giữa phát triển sinh
kế không gây hại HST rừng. Ở hai huyện miền núi tỉnh An Giang chưa có
nghiên nào xác định được mối quan hệ nhân quả này. Do vậy, việc lượng giá

18


×