Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.33 MB, 84 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i>Tên sáng kiến kinh nghiệm:</i>
Học ngoại ngữ thật không dễ chút nào. Như chúng ta đã thấy, tiếng mẹ đẻ đơi lúc
các em cịn chưa nắm vững ngữ pháp cũng như chưa biết chọn lọc, trau chuốt lời văn,
câu chữ vì vậy nhiều học sinh rất chán nản, lơ là trong giờ Ngữ văn huống chi là học
tiếng nước ngồi. Là giáo viên giảng dạy bộ mơn tiếng Anh ở bậc THCS trong 5 năm
qua, tôi thấy lượng học sinh học yếu ở bộ mơn tiếng Anh cịn nhiều, chỉ một số ít các
em hiểu biết và nói viết lưu lốt. Và tơi đã nhận ra một số vấn đề khó khăn chính như
sau:
<b>1.1. Thực trạng học của học sinh:</b>
rất ngại nói Tiếng Anh vì sợ sai. Điều này có lẽ do bản tính người Việt dễ xấu hổ, nên
sợ nếu nói sai thì bị mọi người cười chê, và tốt nhất là giấu dốt.
<b>b. Đa dạng về trình độ học sinh trong lớp</b>. Thật là thách thức cho giáo viên
tiếng Anh khi phải giảng dạy ở một lớp học mà trình độ học sinh quá chênh lệch nhau,
vì giáo viên sẽ cảm thấy rất khó để có thể tìm được một hoạt động chung cho cả lớp.
Điều này đơi khi bất khả thi vì một trị chơi hay bài tập có thể là q khó nhóm này
nhưng lại là quá nhàm chán đối với nhóm khác. Do đó, làm cách nào để có thể giúp cho
học sinh dễ dàng nắm bắt kiến thức, nhất là đối với học sinh yếu. Ở các em có sự khác
biệt về: khả năng tiếp thu bài, phong cách nhận thức, sức khoẻ… so với những học sinh
khác. Có lẽ đây là vấn đề không chỉ của riêng ngành giáo dục mà hiện nay cả xã hội
cũng đang quan tâm và tìm giải pháp để khắc phục tình trạng này. Để đưa nền giáo dục
vào một quyển vở sau đó ghi nhớ nội dụng của quyển vở đó. Kết quả là học sinh đó đã
học được rất nhiều từ. Mặc dù vậy, điều này khơng có nghĩa là chúng ta tán đồng cách
học thuộc lịng như vẹt mà khơng hiểu gì. Ghi nhớ có hai cách: cách thứ nhất như tơi
đã nói - học như vẹt. Học sinh có lẽ sẽ rất thuộc bài, sẽ nói làu làu như cháo chảy
nhưng khi được hỏi đến những vấn đề liên quan thì không trả lời được. Hoặc chỉ cần
quên một ý hay một câu trong bài là họ sẽ quên hết cả bài đó. Cách ghi nhớ này hồn
tồn thụ động và quá lệ thuộc vào từng câu từng chữ của bài. Tuy nhiên, cách nhớ thứ
hai mà tôi muốn đề cập ở đây chính là một phương pháp học hiệu quả, phương pháp
này cũng gần giống như cách học thuộc lòng nhưng phải có sự hiểu sâu về vấn đề được
học đồng thời biết vận dụng nó một cách linh hoạt vào trong giao tiếp. Học phải biết
ghi nhớ các điểm chính, các từ chủ điểm rồi từ đó suy ra những vấn đề nhỏ hơn và hiểu
rằng mình đang học cái gì. Cách ghi nhớ này giúp cho những thơng tin cần thiết được
lưu lại trong não một cách hệ thống và được sử dụng có hiệu quả trong những ngữ cảnh
phù hợp.
<b>e. Học sinh lười tư duy, tìm tịi mở rộng kiến thức. </b>Mọi người đều có kỹ năng
tư duy, nhưng khơng phải ai cũng dùng nó một cách có hiệu quả. Kỹ năng tư duy có
hiệu quả khó đạt được ngay nhưng có thể phát triển dần dần. Người có tư duy tốt sẽ
thấy được lối ra trong khi người tư duy kém chỉ thấy tồn ngõ cụt. Hiện nay tình trạng
học sinh chúng ta thụ động trong việc lĩnh hội kiến thức ở các nhà trường vẫn cịn phổ
biến. Các em lười tìm tòi, tư duy, mở rộng kiến thức mặc dù các em đang sống trong xã
hội hiện đại biến đổi rất nhanh, với sự bùng nổ thông tin, khoa học, kĩ thuật, cơng nghệ
phát triển như vũ bão. Chính vì vậy đã có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực ra
<b>f. Học sinh khơng thích phát biểu trong giờ học. </b>Theo quan điểm của một nhà
giáo cho rằng: Khơng có trị dốt mà chỉ có trị chưa giỏi và nhiệm vụ là của người thầy.
Đối với những người thầy giỏi luôn biết cách tạo ra sự sôi nổi cho lớp học, còn những
thầy mà yếu kém và kiến thức chưa sâu thì dạy sẽ nhàm chán ngay. Giảng dạy giống
như hoạt động nghệ thuật của một nghệ sĩ đòi hỏi người thầy phải tìm tịi và sáng tạo.
Đặc biệt với thời đại Internet, nghĩa là kiến thức toàn cầu cho nên giáo viên đừng có
nghĩ chỉ cần một số quyển sách là đáp ứng được giảng dạy. Người thầy cần phải ln
tìm hiểu cập nhật những kiến thức mới để tạo ra sự hứng thú đối với học sinh. Chính vì
vậy để một tiết học sơi nổi thì phương pháp và khả năng xây dựng bài giảng của giáo
viên đóng vai trị rất quan trọng, một mơn học khơng làm các em hứng thú thì đương
nhiên là các em sẽ khơng muốn phát biểu.
<b>a. Trình độ, năng lực chun mơn và nghiệp vụ cịn yếu:</b> Theo<i><b>Xukhomlinxki</b></i>
thì người giáo viên cần phải có kiến thức, có hiểu biết sư phạm, có khả năng dùng lời
nói để tác động đến tâm hồn học sinh, có kỹ năng đặc sắc nhìn nhận con người và cảm
thấy những rung động tinh tế nhất của trái tim con người. Rõ ràng những tiêu chí trên
dành cho giáo viên là ln luôn cần trong mọi thời đại. Tuy nhiên hiện nay năng lực
giáo viên ngoại ngữ còn nhiều hạn chế<i>.</i> Theo kết quả đánh giá của các tổ chức quốc tế
như Hội đồng Anh, Trung tâm giáo dục Apollo về trình độ tiếng Anh theo tiêu chuẩn
<b>b. Chưa có phương pháp dạy học phù hợp: </b>Xét trên một phương diện nào đó
có thể thấy rằng mọi phương pháp dạy học đều có chung mục đích là làm sao cho
người thầy và người học thấy được ngơi trường mình đang học và giảng dạy chính là
ngơi nhà thứ hai của mình, thấy được sự ấm áp trong quan hệ thầy trò, khơng có sự áp
đặt và là nơi để học sinh phát huy được khả năng sáng tạo, tư duy của mình. Ở đó học
sinh thấy được sự hứng khởi để tìm tịi cái mới, nhận được sự đồng thuận và khuyến
khích nơi giáo viên cũng như tập thể nhà trường. Trong giai đoạn hiện nay, mỗi trường
đều có những phương pháp dạy học riêng để đạt được hiệu quả trong cơng tác giảng
dạy. Tuy nhiên, chung quy lại thì vấn đề lớn nhất ở đây chính là phương pháp tiếp cận
của giáo viên đối với học sinh còn rất hạn chế, còn quá cứng nhắc dẫn đến sự buồn
chán trong việc dạy và học tại các nhà trường.
và “Nói khơng với việc chạy theo thành tích” mà ngành giáo dục thường gọi “hai
khơng” tiếp sau đó là “nói khơng với vi phạm đạo đức nhà giáo; nói khơng với ngồi
nhầm lớp; nói khơng với đào tạo khơng theo nhu cầu xã hội... Và đến bây giờ là cải tiến
phương pháp giảng dạy của giáo viên... Tuy nhiên một vấn đề quan trọng nữa gắn liền
với chất lượng giáo dục cũng đã được nhắc nhiều lần nhưng chưa giải quyết được bao
nhiêu, đó là: lương cho giáo viên. Thật vậy, lương cho giáo viên quá thấp, chưa đáp
ứng được với mức sống hiện tại. Giáo viên ngoài giờ dạy ở trường phải làm những
công việc khác nhau để tăng thu nhập và phổ biến nhất là mở các lớp dạy thêm ở nhà.
Do vậy việc đầu tư vào giảng dạy, nâng cao kiến thức sẽ giảm dần hiệu quả và cứ thế
những kiến thức của thầy giáo truyền từ năm này qua năm khác vẫn thế, khơng có gì
Đây là những vấn đề trọng tâm mà tôi muốn đề cập trong phần nội dung của giải
pháp mới. Qua đó nhằm trình bày giải pháp mới phần nào giúp khắc phục tình trạng
dạy và học tiếng Anh ở các nhà trường hiện nay.
Việc học và sử dụng tiếng Anh đòi hỏi cả một quá trình luyện tập cần cù sáng tạo
của cả người học lẫn người dạy, đặc biệt trong tình hình cải cách giáo dục như hiện
nay. Việc dạy theo phương pháp đổi mới chú trọng nhiều đến tính tự tin, sáng tạo của
học sinh, tạo điều kiện để các em tư duy, chủ động thực hành tiếng Anh, nắm bắt nhanh
và khắc sâu được lượng kiến thức đã học. Dĩ nhiên để cho ra đời những “ sản phẩm”
hoàn mĩ như vậy thì người giáo viên đóng vai trị hết sức quan trọng. Có người đã từng
nói rằng: Người thầy đứng trên bục giảng giống như một diễn viên trên sân khấu.
Chính vì vậy phương pháp giảng dạy của giáo viên có tác dụng rất lớn đến q trình
học của học sinh. Xuất phát từ quan điểm đó, tơi cho rằng phương pháp dạy học tích
cực sử dụng “ SƠ ĐỒ TƯ DUY” là một trong những phương pháp hữu hiệu nhất đáp
ứng được yêu cầu của việc giảng dạy tiếng Anh trong thời đại mới.
Phương pháp dạy học tích cực sử dụng “sơ đồ tư duy” có tác dụng tối ưu trong
việc thu hút mọi đối tượng học sinh vào bài học, kích thích khả năng tư duy, sáng tạo,
sự tự tin của học sinh và giúp họ dễ dàng nắm bắt cũng như khắc sâu được lượng kiến
thức đã học. Hơn thế nữa sơ đồ tư duy có thể được áp dụng hiệu quả ở bất kì giai đoạn
nào trong một bài học hay bất kì dạng bài tập nào. Chính vì lẽ đó người dạy cần tích
cực chủ động trong việc sử dụng phương pháp dạy học này để giúp tiếng Anh dần trở
thành người bạn thân thiết của mỗi học sinh.
Phương pháp dạy học tích cực sử dụng “ Sơ đồ tư duy” là phương pháp mới, chỉ
vừa được Bộ Giáo Dục và Đào Tạo cũng như Sở Giáo Dục và Đào Tạo triển khai, áp
dụng trong đầu năm học 2011 – 2012. Chính vì thời gian ngắn như vậy nên trong đề tài
này tôi chỉ nghiên cứu, cập nhật và áp dụng sơ đồ tư duy trong một số dạng bài của
môn tiếng Anh cho học sinh khối lớp 8 tôi đang dạy trong phạm vi trường.
<b>1.1. Cơ sở lý luận:</b>
quan trọng vì một triết gia đã từng nói rằng “ Biết thơng thạo một ngoại ngữ giống như
bạn có thêm một con người mới”. Chỉ có ngoại ngữ mới có thể giúp chúng ta tiếp cận
với thể giới văn minh, trao đổi văn hóa và nối vịng tay hữu nghị tồn cầu. Chính vì
vậy, Bộ Giáo Dục và Đào Tạo đã xây dựng đề án dạy ngoại ngữ giai đoạn 2008-2020
và Phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã từng nhấn mạnh, đề án dạy và học ngoại ngữ
trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020 nhằm chuyển từ việc dạy ngoại
ngữ như một môn học sang dạy như một công cụ để sống, làm việc và hội nhập quốc
tế, biến ngoại ngữ từ điểm yếu thành điểm mạnh của Việt Nam.
Xuất phát từ mục tiêu đó tiếng Anh đã trở thành ngoại ngữ số một được dạy ở
nước ta và việc dạy cũng như học tiếng Anh ở các trường THCS cũng đã có những
chuyển biến rõ rệt. Tiếng Anh đã trở thành một trong ba mơn thi bắt buộc trong các kì
thi tốt nghiệp THCS và THPT. Tiếng Anh đã được phủ kín các trường ở khắp nơi kể cả
vùng sâu, vùng xa. Thậm chí hiện nay hầu hết các trường tiểu học đã đưa môn này vào
để các em làm quen và tạo thuận lợi để các em học tốt hơn sau này.
<b>1.2. Cơ sở thực tiễn:</b>
Song song với những thay đổi đó cũng đặt nhà trường Việt Nam trước nhiều
thách thức trong việc trang bị kỹ năng ngoại ngữ cho người học để đáp ứng những yêu
cầu cấp thiết của thị trường lao động trong thời kì mới. Nếu trước đây mục tiêu chủ yếu
của việc dạy và học ngoại ngữ là đọc hiểu để phục vụ nghiên cứu văn học và khoa học
kĩ thuật thì ngày nay thực tế xã hội đã đòi hỏi đội ngũ giáo viên dạy ngoại ngữ ở Việt
Nam phải đổi mới phương pháp giảng dạy, áp dụng việc dạy ngôn ngữ theo đường
hướng giao tiếp nhằm tăng cường năng lực giao tiếp cho người học. Trong tiến trình
chung này, những năm qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo biên soạn nhiều bộ sách
giáo khoa theo đường hướng giao tiếp dành cho bậc học phổ thông chú trọng vào việc
rèn 4 kỹ năng nghe, nói, đọc và viết cho học sinh.
Trước tình hình đó, là giáo viên tiếng Anh tôi luôn suy nghĩ làm thế nào để mang
lại cho học trò những bài học thật thú vị, mới mẻ, kích thích sự ham học, tính chủ động
của các em từ khá giỏi đến yếu kém, làm sao sau mỗi bài học không chỉ học sinh khắc
sâu kiến thức, ấn tượng, nhớ mãi mà còn giúp các em tự tin, chủ động dần lên. Có
nhiều phương pháp dạy học được triển khai hàng năm nhằm nâng cao chất lượng bộ
mơn nhưng có lẽ phương pháp dạy học tích cực bằng cách sử dụng “ SƠ ĐỒ TƯ DUY”
làm tôi tâm đắc nhất. Với sơ đồ tư duy , tơi có thể vận dụng trong bất cứ giai đoạn nào
của một bài học, lôi cuốn được mọi đối tượng học sinh tham gia, làm cho các em mất
dần cảm giác sợ cũng như chán nản với môn học này và đặc biệt cịn kích thích được sự
tư duy, tính tị mị, khả năng tìm tịi mở rộng kiến thức của các em. Điều này là rất quan
trọng bởi vì theo <b>Margaret Mead</b> <i><b>"</b><b>Không nên dạy cho trẻ em những gì chúng phải</b></i>
<i><b>suy nghĩ, mà dạy cho chúng cách suy nghĩ”.</b></i>
Để thực hiện việc nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng một số biện pháp như sau:
- Nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng thường xuyên của ngành trong các dịp bồi dưỡng
chuyên môn và đặc biệt qua tập huấn phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực từ năm
- Tham khảo các bài viết trên mạng về việc sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy
- Tham khảo ý kiến của đồng nghiệp
- Nghiên cứu tài liệu (sách giáo khoa và bài tập môn tiếng Anh lớp 8, hướng dẫn thực
hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Tiếng Anh THCS – Vũ Thị Lợi, lập bản đồ tư
duy-Công cụ tư duy tối ưu sẽ làm thay đổi cuộc sống của bạn- Tác giải Tony Buzan)
- Thông qua thực tế áp dụng sau gần một năm của bản thân
- Điều tra, phân tích, tổng hợp tình hình học tập của học sinh.
<b>Kết quả khảo sát: </b>
<b>Lớp</b> <b>Ss</b> <b>Giỏi</b> <b>Khá</b> <b>Tb</b> <b>Yếu</b> <b>Kém</b> <b>Tb↑</b>
<b>SL</b> <b>%</b> <b>SL</b> <b>%</b> <b>SL</b> <b>%</b> <b>SL</b> <b>%</b> <b>SL</b> <b>%</b> <b>SL</b> <b>%</b>
<b>8A1</b> <b>33</b> <b>2</b> <b>6.1</b> <b>5</b> <b>15.2</b> <b>7</b> <b>21.2</b> <b>2</b> <b>6.1</b> <b>1</b> <b>3.4</b> <b>17 51.5</b>
<b>8A2</b> <b>35</b> <b>2</b> <b>5.7</b> <b>6</b> <b>17.6</b> <b>8</b> <b>22.9</b> <b>1</b> <b>2.9</b> <b>1</b> <b>2.9</b> <b>18 51.4</b>
<b>8A3</b> <b>32</b> <b>1</b> <b>3.1</b> <b>5</b> <b>15.6</b> <b>9</b> <b>28.2</b> <b>1</b> <b>3.1</b> <b>0</b> <b>0</b> <b>16 50.0</b>
<b>8A4</b> <b>35</b> <b>1</b> <b>2.9</b> <b>5</b> <b>14.3</b> <b>9</b> <b>22.9</b> <b>2</b> <b>5.7</b> <b>1</b> <b>2.9</b> <b>18 54.3</b>
<b>TC 135</b> <b>6</b> <b>4.4</b> <b>21 15.6 33 24.4</b> <b>6</b> <b>4.4</b> <b>3</b> <b>2.2</b> <b>69 51.1</b>
Từ kết quả trên cho thấy khả năng học tiếng Anh của các em không đồng đều:
Học sinh giỏi, khá chưa nhiều, số lượng trung bình yếu vẫn cịn chiếm tỉ lệ khá cao. Vì
vậy tơi đã tích cực áp dụng một số kinh nghiệm về việc sử dụng Sơ Đồ Tư Duy trong
việc giảng dạy ở môn Tiếng Anh lớp 8.
<b>2.1. Thời gian tạo ra giải pháp:</b>
Ngay từ khi tập huấn và tiến hành áp dụng “sơ đồ tư duy” trong giảng dạy, tơi đã
có ý tưởng nghiên cứu sâu sắc hơn về tính hiệu quả của việc dạy học theo “sơ đồ tư
duy”. Vì vậy tơi đã lập kế hoạch thời gian để nghiên cứu đề tài này như sau:
- Tháng 8/ 2011: Dự lớp tập huấn về phương pháp dạy học sử dụng “sơ đồ tư duy”.
- Tháng 9/ 2011: Chọn đề tài và tiến hành khảo sát đầu năm của khối 8 để lấy số liệu
làm minh chứng trong quá trình dạy học áp dụng “sơ đồ tư duy”.
- Tháng 10 và 11/ 2011:
.Tìm hiểu thực tế việc giảng dạy của giáo viên trong và ngoài trường về dạy học
áp dụng ‘sơ đồ tư duy”.
. Trao đổi chất vấn giáo viên và học sinh về tính hiệu quả của dạy và học sử dụng
“sơ đồ tư duy”.
. Nghiên cứu tài liệu có liên quan về nội dung của đề tài.
Ý thức được tầm quan trọng của tiếng Anh - một ngôn ngữ quốc tế - hầu hết các
bậc phụ huynh hiện nay đều cho con mình học tiếng Anh ngay từ nhỏ. Tuy nhiên
không phải học sinh nào cũng có điều kiện học tốt như nhau và đặc biệt là mơi trường
để sử dụng tiếng Anh. Vì vậy để đạt được mục tiêu cuối cùng : dạy ngoại ngữ để giao
tiếp ngồi xã hội, thì trong mỗi lớp học phải là một “xã hội thu nhỏ”, giúp học sinh có
được những kiến thức ngơn ngữ, tư duy nhạy bén, khả năng xử lý tình huống linh hoạt
và đặc biệt là sự tự tin trước mọi người.
Vì vậy, trong đề tài này tơi tiến hành nghiên cứu tính hiệu quả của việc sử dụng
- Phân tích so sánh về thực trạng trong quá trình dạy và học chưa áp dụng sơ đồ tư duy
với việc dạy và học áp dụng sơ đồ tư duy.
- Phân tích và chứng minh những điểm mới, điểm sáng của giải pháp mới nhằm mục
đích thay thế những phương pháp cũ đã áp dụng.
- Nêu cụ thể khả năng áp dụng của giải pháp mới nhằm đem lại hiệu quả trong quá
trình dạy và học Tiếng Anh ở đơn vị.
- Chứng minh những giải pháp mới có lợi ích cao để có thể đạt đến mục tiêu của quá
trình dạy và học ngoại ngữ cũng như chứng minh tính hiệu quả, chất lượng của phương
pháp dạy học áp dụng “sơ đồ tư duy”.
<b>1.1/ Sơ đồ tư duy là gì?</b>
sáng tạo và hiệu quả, trong đó nó mở rộng, đào sâu, kết nối các ý tưởng và bao quát
được các ý tưởng trên một phạm vi sâu rộng
<b>1.2/ Cách tiến hành vẽ sơ đồ tư duy:</b>
- Viết chủ đề ở phần trung tâm, hoặc có thể dùng một hình ảnh để thể hiện chủ đề.
- Từ chủ đề trung tâm vẽ các nhánh chính thể hiện các chủ đề nhỏ liên quan.Trên
mỗi nhánh chính viết một khái niệm, phản ánh một nội dung lớn của chủ đề. Nhánh
- Từ mỗi chủ đề nhỏ lại tìm ra những yếu tố/nội dung liên quan.
- Sự phân nhánh cứ tiếp tục và các yếu tố/nội dung luôn được kết nối với nhau. Sự
liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về chủ đề lớn một cách đầy đủ
và rõ ràng
<b>1.3 Vận dụng” sơ đồ tư duy” trong các dạng bài cụ thể:</b>
<b>a/ Áp dụng “ Sơ đồ tư duy” vào phần kiểm tra bài cũ học sinh:</b>
nỗi ám ảnh, thậm chí khiếp sợ đối với học sinh. Trái lại các em cảm thấy đó là cơ hội
để mình thể hiện khả năng trước bạn bè và thầy cơ. Chỉ có làm được điều đó thì học
sinh mới có hứng thú với mơn học. Mà khi các em đã u thích, hứng thú mơn học thì
chất lượng chắc chắn sẽ cao. Chính vì vậy tơi đã dùng hình thức kiểm tra bài cũ bằng
cách vừa vẽ sơ đồ tư duy vừa trình bày, sau đó dựa vào sơ đồ tư duy tơi hỏi các em một
vài vấn đề liên quan . Với phương pháp này, tơi vừa có thể kiểm tra việc nhớ từ vựng,
nội dung bài học vừa tạo cho các em cơ hội sử dụng, thực hành nói tiếng Anh. Đồng
thời qua đó các em cũng sẽ dần dần tự tin lên, khơng cịn sợ khi phải nói tiếng Anh
trước mọi người.
<b>* Trường hợp1: Dùng sơ đồ tư duy kiểm tra khả năng đọc hiểu : </b>
Khi dạy xong <b>Unit 10: RECYCLING</b> phần <b>“ Listen and Read”,</b> tiết sau tơi u
cầu học sinh trình bày về cách bảo vệ môi trường và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên
dưới dạng sơ đồ tư duy. Như vậy các em phải trình bày như sau:
<b>Nội dung chính</b> : “ How to protect the environment and save natural resources”.
Nhánh cấp2: Reuse
Nhánh cấp3: Recycle
- Sau khi các em trình bày xong nội dung trên, tơi có thể hỏi vài câu hỏi về nội dung
của sơ đồ
<b>Ví dụ:</b> . What does “reduce / recycle” mean?
. What things can we reuse?
<b>Mô tả sơ đồ hoàn chỉnh</b>
Khi học xong <b>UNIT 1: MY FRIENDS</b> phần <b>“Language focus”</b> tôi yêu cầu học
sinh dùng sơ đồ tư duy để trình bày các điểm ngữ pháp đã được học. Như vậy các em
sẽ phải trình bày như sau:
.<b>Nội dung chính</b>: Language focus
.Nhánh cấp1: Simple tenses
.Nhánh cấp2: The structure “…….enough……”
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung trên.
- Sau khi các em trình bày xong nội dung trên, tơi có thể cho các em một vài bài tập
liên quan đến các điểm ngữ pháp vừa trình bày.
<b>Ví dụ</b>: Give the corect form of verbs:
<b>Mơ tả sơ đồ hồn chỉnh</b>
<b>* Trường hợp3: Dùng sơ đồ tư duy kiểm tra từ vựng:</b>
Sau khi học xong <b>UNIT 3: AT HOME</b> phần <b>“Speak”</b>, thay vì yêu cầu học sinh
viết một cách tự do, tôi bảo các em viết từ vựng về các đồ dùng trong nhà theo từng
nhóm chủ điểm. Các em sẽ phải trình bày như sau:
. Nhánh cấp 2: In the living-room.
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo liệt kê các từ vựng mà mình đã học
- Sau khi các em trình bày xong nội dung trên, tôi yêu cầu các em hãy tưởng tượng về
một phòng khách và nhà bếp, rồi dùng các từ vựng vừa viết ra để mơ tả lại.
Ví dụ:. The rug is under the coffee table.
. The dish rack is next to the fridge.
của bài học mà một lần nữa các em nhớ từ vựng trong ngữ cảnh và cách sử dụng của
chúng thay vì các em chỉ nhớ từng từ riêng lẻ như trước đây, và một khi các em đã biết
cách sử dụng của từ vựng thì chắc chắn sẽ nhớ từ lâu hơn cũng như vận dụng chúng
linh hoạt hơn. Hơn thế nữa trong khi trình bày, thuyết minh sơ đồ các em sẽ dần dần
luyện tập cho mình kĩ năng diễn thuyết trước đám đông, tăng dần sự tự tin cũng như
khả năng nói tiếng Anh.
<b>b/ Áp dụng “ sơ đồ tư duy” trong phần Lead –in:</b>
“Lead-in” là một hoạt động mở đầu trước khi giáo viên giới thiệu bài học mới,
giúp học sinh phần nào hình dung được những gì mà họ sắp được học. Có câu nói so
sánh rất hay về vấn đề này <b>“If we assume English lesson is a house, lead-in activity</b>
<b>is the door. If we want to come into the house, we should open the door first.”</b> Như
vậy mới thấy hết được tầm quan trọng của hoạt động này. Lead-in càng hiệu quả thì
<b>Trường hợp 1: “ Lead-in” cho phần “Getting started – Listen and Read”</b>
Khi dạy <b>Unit 8: COUNTRY LIFE AND CITY LIFE</b> phần <b>“Getting started –</b>
<b>Listen and Read”,</b> tôi yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy liệt kê những điều thích và
khơng thích về thành thị và nông thôn. Tôi chia lớp ra thành bốn đội, trong thời gian 4
phút nếu đội nào hoàn thành tốt nhất đội đó sẽ chiến thắng. Như vậy các em sẽ phải
trình bày như sau:
<b>Nội dung chính:</b> Country life and city life
Nhánh cấp 1: in the country
Nhánh cấp 2: in the city
Nhánh cấp 1.1: like
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng và cử một đại diện
lên thuyết trình.
- Đội nào vẽ chính xác, đẹp và thuyết trình hay sẽ chiến thắng
<b>Trường hợp 2: “ Lead-in” cho phần “Read”</b>
những thuận lợi và bất lợi về điện thoại theo quan điểm của họ. Giáo viên cũng chia lớp
thành bốn đội để các em thi đua với nhau. Học sinh phải trình bày những vấn đề sau:
. <b>Nội dung chính:</b> Telephone
. Nhánh cấp 1: Advantages
. Nhánh cấp 2: Disadvantages
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng và cử một đại diện
lên thuyết trình.
- Đội nào vẽ chính xác, đẹp và thuyết trình hay sẽ chiến thắng
<b>Trường hợp 3: “ Lead-in” cho phần “Listen”</b>
em trả lời dưới hình thức sơ đồ tư duy. Tơi cũng chia lớp thành bốn đội để các em thi
đua với nhau. Học sinh phải trình bày vấn đề sau:
. <b>Nội dung chính:</b> What programs do you like on TV? Why?
. Các nhánh phụ tiếp theo học sinh sẽ trình bày bất kì chương trình nào mà các em
thích, nhưng tơi giới hạn khơng q ba chương trình vì thời gian khơng cho phép.
Sau đây là ví dụ sơ đồ minh họa.
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng và cử một đại diện
lên thuyết trình.
- Đội nào vẽ chính xác, đẹp và thuyết trình hay sẽ chiến thắng
<b>Trường hợp 4: “ Lead-in” cho phần “Speak”</b>
bài học bằng cách hỏi học sinh “What do you do before Tet and a school festival?”.
Học sinh sẽ thảo luận câu hỏi trong nhóm rồi trình bày dưới dạng sơ đồ tư duy. Học
sinh phải trình bày những vấn đề sau:
. <b>Nội dung chính:</b> What do you do before Tet and a school festival?
. Nhánh cấp 1: Tet
. Nhánh cấp 2: A school festival
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng và cử một đại diện
lên thuyết trình.
- Đội nào vẽ chính xác, đẹp và thuyết trình hay sẽ chiến thắng
<b>Trường hợp 5: “ Lead-in” cho phần “Write”</b>
đời, tuy nhiên chúng dường như xa lạ với giới trẻ hiện nay vì sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học kĩ thuật. Do đó trước khi đi vào bài học tơi muốn tìm hiểu quan điểm của
học sinh mình về một số hình thức liên lạc hiện nay, và các em sẽ làm việc theo nhóm
trình bày dưới dạng sơ đồ tư duy.
<b>. Nội dung chính</b> : Means of communication
Nội dung liên quan tiếp theo các em sẽ phải trình bày là nêu ra cụ thể một số hình
thức liên lạc và sau đó là những thuận lợi cũng như bất lợi của chúng. Các em nêu tùy ý
nhưng sau đó tơi sẽ hướng cho các em ba hình thức chủ yếu như sau:
. Nhánh cấp 1: Telephone
. Nhánh cấp 2: Chat
. Nhánh cấp 3: Letter
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng và cử một đại diện
lên thuyết trình.
- Đội nào vẽ chính xác, đẹp và thuyết trình nội dung hay sẽ chiến thắng
đồ), mỗi em đều phải đóng góp phần nhỏ để giúp hồn thành sản phẩm đúng qui định
và giành được chiến thắng. Chính từ những hoạt động nhỏ như vậy, dần dần sẽ giúp các
học sinh yếu kém mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập, xóa dần khoảng cách về trình độ
trong lớp học. Hơn thế nữa các em vừa chơi, thi đua với nhau nhưng cũng vừa tư duy
rất nhiều.
<b>c/ Áp dụng “ sơ đồ tư duy” trong phần “ Pre ………..” :</b>
Đây là hoạt động trước khi giáo viên đi vào dạy nội dung chính của bài học. Ở
mỗi kĩ năng khác nhau thì phần này có tên gọi cũng khác nhau” Pre- practice,
pre-reading, hay pre –listening”. Có thể nói đây là một hoạt động tương đối quan trọng
nhằm tạo hứng thú cũng như khêu gợi tính tị mị muốn khám phá nội dung mới của
học sinh. Để đạt được điều đó, trong giai đoạn này giáo viên cần giới thiệu tổng quát về
đề tài sắp học và gợi mở, giải thích vấn đề mới bằng các phương pháp khác nhau hoặc
dùng các dữ kiện có liên quan đến kinh nghiệm sống của học sinh nhằm làm cho các
em cảm thấy thật thuận lợi và thích thú khi tiếp cận vào nội dung chính của bài học. Tơi
đã thường xun sử dụng “sơ đồ tư duy” vào giai đoạn này, và nó đã rất hiệu quả.
<b>Trường hợp 1: “Pre-Practice” cho phần “Speak”</b>
- Ví dụ khi dạy <b>Unit4: OUR PAST</b> phần <b>“ Speạk”,</b> trước khi để học sinh nhìn
vào tranh và nói về tình trạng các sự việc trước đây và hiện nay, tôi yêu cầu học sinh
dùng sơ đồ tư duy để liệt kê tất cả sự khác nhau của hai bức tranh ở quá khứ và hiện tại
cũng như đặc điểm cơ bản của chúng. Học sinh sẽ làm việc theo bốn nhóm trong thời
gian 5 phút trình bày sơ đồ tư duy như sau:
. <b>Nội dung chính</b>: Different things in the past and at present
. Nhánh cấp 1: in the past
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng và cử một đại diện
lên thuyết trình.
- Giáo viên đưa ra nhận xét và chỉnh sửa sơ đồ của học sinh. Sau đó các em sẽ nhìn vào
sơ đồ và bắt đầu thực hành nói ở phần tiếp theo.
không tạo ra sự gợi mở như thế này thì có lẽ sẽ chẳng bao giờ các em nói được một câu
trong tiết học “Speak”.
<b>Trường hợp 2: “Pre-writing” cho phần “Write”</b>
Tương tự như vậy trong phần <b>“Write”</b> của <b>UNIT 8: COUNTRY LIFE AND</b>
<b>CITY LIFE”, </b>trước khi các em tập viết một lá thư, tôi cho học sinh 7 phút để lập ra
một dàn bài chi tiết dưới hình thức sơ đồ tư duy dựa vào những câu hỏi gợi ý. Các em
làm việc theo nhóm trình bày sơ đồ như sau:
. Nội dung chính: Out line of the letter
. Nhánh cấp 2: Opening
. Nhánh cấp 3: Body of the letter
. Nhánh cấp 4: Closing
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng và cử một đại diện
lên thuyết trình.
<b>Mơ tả sơ đồ hồn chỉnh</b>
Các dạng bài tập viết dường như là nỗi ám ánh của học sinh chúng ta. Phần lớn
các em hầu như khơng thể viết chính xác một câu. Vì vậy yêu cầu các em cầm bút viết
ngay một đoạn văn hay một lá thư dường như là điều không tưởng. Tuy nhiên với sự
gợi mở dần dần bằng sơ đồ tư duy như trên, hầu hết học sinh trong lớp trở nên hào
hứng, hoạt động tích cực hơn. Thậm chí nhiều em cảm thấy ngạc nhiên với chính mình
vì khơng ngờ mình có thể viết được một lá thư bằng tiếng Anh dài như vậy.
Có thể nói kĩ năng nghe rất quan trọng nhưng lại là điểm yếu nhất của học sinh,
phần vì các em it luyện tập nghe, phần vì các em nghèo về vốn từ nên khơng hiểu được
nội dung. Vì vậy trước khi cho học sinh nghe đoạn băng, dạy tự vựng là vô cùng quan
trọng ở phần “Pre- listening” và sơ đồ tư duy cũng rất hữu ích khi dạy từ vựng theo chủ
đề. Ví dụ trong phần <b>“Listen”</b>của <b>“UNIT13: FESTIVALS”, </b>tơi dùng sơ đồ tư duy để
giới thiệu cho các em một vài từ liên quan đến chủ đề chuẩn bị cho ngày Tết mà các em
sắp nghe. Tơi trình bày sơ đồ như sau:
. <b>Nội dung chính</b>: Preparations for Tet
. Nhánh cấp 2: Food
- Sau đó tơi tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để giới thiệu từ vựng liên quan
- Tôi yêu cầu học sinh về nhà cũng học lại từ vựng theo sơ đồ tư duy như vậy
<b>d/ Áp dụng “ sơ đồ tư duy” trong phần “ While-…..”</b>
các em dễ dàng luyện tập, dễ dàng nắm bắt nội dung đối với những bài học khó hay
cảm thấy không nhàm chán đối với những bài học quá ngắn và đơn giản. Đó chính là
một nghệ thuật. Sau đây tơi xin trình bày ví dụ về việc sử dụng sơ đồ tư duy vào phần
“While-...” mà tôi đã áp dụng và cảm thấy hiệu quả.
<b>Trường hợp 1: “While -reading” cho phần “Read”</b>
Khi dạy <b>Unit 13: FESTIVALS</b> phần <b>“ Read”,</b> thay vì làm theo nội dung của bài
tập 1 là hồn thành thơng tin của bảng, tơi u cầu học sinh tìm và viết các thơng tin đó
dưới dạng sơ đồ tư duy. Học sinh sẽ làm việc theo sáu nhóm trong khoảng thời gian 5
phút. Các em sẽ vẽ theo nội dung như sau:
<b>. Nội dung chính:</b> Christmas
. Nhánh cấp 1: The christmas tree
. Nhánh cấp 2: The christmas card
. Nhánh cấp 3: Christmas Carols
. Nhánh cấp 4: Santa Claus
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng và cử một đại diện
lên thuyết trình.
- Giáo viên đưa ra nhận xét và chỉnh sửa sơ đồ của học sinh. Sau đó các em có thể nhìn
vào sơ đồ để trả lời các câu hỏi cho bài tập 2 dễ dàng hơn
- Bài tập hồn thành thơng tin ở trên tương đối đơn giản vì vậy khi lồng sơ đồ tư
duy vào tôi nhận thấy các em khá giỏi làm việc hăng hái hơn, khơng cịn cảm giác
nhàm chán vì quá dễ. Trong khi đó các em yếu kém cũng sẽ làm việc tích cực hơn và
khơng cịn cảm thấy khó khăn nữa.
<b>Trường hợp 2: “Controlled –practice ” cho phần “ Language focus”</b>
Trong <b>UNIT8: COUNTRY LIFE AND CITY LIFE</b> phần <b>“Language focus”</b>,
giáo viên có thể yêu cầu học sinh dùng sơ đồ tư duy để viết các câu so sánh giữa nông
thôn với thành thị khi làm bài tập số 4. Học sinh sẽ trình bày theo nhóm như sau:
. Nhánh cấp 1: The city
. Nhánh cấp 2: The country
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để viết các câu so sánh sử dụng một
cách phù hợp những tính từ được cho sẵng.
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng.
- Giáo viên đưa ra nhận xét và chỉnh sửa sơ đồ của học sinh.
Rõ ràng với cách làm bài như thế này, giáo viên chắc chắn sẽ mang đến cho học
sinh một cảm giác mới lạ khi làm những bài tập khô khan và nhức đầu trong phần
“Language focus”
<b>e/ Áp dụng “ sơ đồ tư duy” trong phần “ Post-…..” hay “ Free- practice”:</b>
thức vừa học lẫn vốn kiến thức đã tích lũy được và đơi khi các em cịn phải liên tưởng
thực tế. Chính vì vậy mà phần lớn học sinh chúng ta cảm thấy rất khó khăn và khơng
mấy tự tin để phát biểu trong bước này. Do đó để dạy phần này thành cơng thì giáo
viên phải như một thuyền trưởng tài ba lèo lái con tàu của mình từng bước để đến được
đích. Qua nhiều năm giảng dạy, tôi nhận thấy thật là không thể cho học sinh để làm nếu
giáo viên không gợi mở cho các em. Ngồi việc giáo viên có thể đưa nó vào phần
“Homework” để các em tìm hiểu trước ở nhà, thì tơi thường xuyên áp dụng sơ đồ tư
duy và tôi nhận thấy rất hiệu quả. Sau đây là ví dụ một số dạng bài mà tôi đã áp dụng.
<b>Trường hợp 1: “Post -reading ” cho phần “Read”</b>
Ví dụ: <b>Unit 11 : TRAVELING AROUND VIET NAM</b> phần <b>“ Read”</b>
Sau khi dạy xong phần bài tập trong sách giáo khoa, ở giai đoạn <b>“Post –</b>
<b>reading”</b> tơi u cầu học sinh trình bày thêm một số thông tin nổi bật về bốn địa điểm
nổi tiếng bất kì ở Việt Nam mà các em thích ví dụ: Nha Trang, Đà Lạt, Sa Pa và Hạ
Long Bay. Như vậy để các em cảm thấy dễ dàng thì đầu tiên tơi cho các em vẽ sơ đồ tư
duy trình bày những nội dung chính trong thời gian 3 phút, sau đó các em sẽ nhìn vào
sơ đồ và diễn đạt lại. Khi thực hiện như vậy tôi thấy không chỉ học sinh khá, giỏi làm
tốt mà các em yếu kém trước đây dường như các em khơng buồn để ý đến giai đoạn
này thì bây giờ cũng tích cực tham gia vào hoạt động. Trước tiên chia học sinh ra thành
4 nhóm và các em sẽ phải trình bày sơ đồ tư duy theo hướng sau:
<b>. Chủ đề chính</b>: Places of interest in Viet Nam
. Nhánh cấp 1: Nha Trang/……..
. Nhánh cấp 2: Đà Lạt/………..
. Nhánh cấp 3: Sa Pa/………
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng rồi cùng đưa ra nhận
xét và chỉnh sửa sơ đồ của học sinh.
- Tiếp theo các em sẽ lần lượt nhìn vào sơ đồ và trình bày dưới dạng đoạn văn ngắn.
<b>Trường hợp 2: “Post –Listening ” cho phần “Listen”</b>
Ví dụ : <b>Unit 13: FESTIVALS</b> phần <b>“ Listen”</b>
cho ngày Tết. Trước tiên các em cũng tóm tắt hoạt động gia đình mình đã làm dưới
dạng sơ đồ tư duy, sau đó nhìn vào sơ đồ học sinh sẽ trình bày lại dưới hình thức một
bài phát biểu. Như vậy đầu tiên các em cũng sẽ làm việc theo nhóm vẽ sơ đồ tư duy
trong thời gian 3 phút như sau
<b>. Nội dung chính</b> : Preparations for Tet in my family
. Nhánh cấp 1: What to buy
. Nhánh cấp 2: What to do
. Nhánh cấp 3: Traditional food
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng rồi cùng đưa ra nhận
xét và chỉnh sửa sơ đồ của học sinh.
- Tiếp theo các em sẽ lần lượt nhìn vào sơ đồ và trình bày dưới dạng đoạn văn ngắn.
<b>Trường hợp 3: “Free-practice ” cho phần “Speak”</b>
Ví dụ <b>UNIT 5: STUDY HABITS</b> phần <b>“Speak” </b>
<b>of English do you like? Why?”</b> trong nhóm và trình bày ngắn gọn dưới dạng sơ đồ tư
duy. Các em sẽ phải trình bày như sau:
. <b>Nội dung chính</b>: <b>Which aspect of English do you like? Why?</b>
Các nhánh cấp dưới các em sẽ trình bày cụ thể kĩ năng bất kì nào đó mà mình
thích rồi nêu lí do. Ví dụ:
. Nhánh cấp 1: Speak
. Nhánh cấp 2: Read
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng rồi cùng đưa ra nhận
xét và chỉnh sửa sơ đồ của học sinh.
- Tiếp theo các em sẽ lần lượt nhìn vào sơ đồ và trình bày dưới dạng đoạn văn ngắn.
hướng tư duy trong khi đó giáo viên chúng ta lại đòi hỏi các em trong một lúc phải làm
việc quá sức mà không hề được trợ giúp, giống như bắt các em đi vào mê cung mà
không cho gợi ý vài dấu mũi tên chỉ đường.
<b>f/ Áp dụng “ sơ đồ tư duy” trong phần ‘ CONSOLIDATION”:</b>
<b>- “</b>Consolidation” tức là giúp học sinh hệ thống lại những gì đã học sau một tiết
cũng như giúp các em khắc sâu những điểm quan trọng của bài học hôm đó. Đây là giai
<b>Trường hợp 1: “Consolidation” cho phần “Language focus”</b>
Ví dụ: <b>Unit5: STUDY HABITS</b> phần <b>“Language focus”</b>
Sau khi hoàn thành tất cả các bài tập trong sách giáo khoa, tôi yêu cầu học sinh
hệ thống lại tất cả các điểm ngữ pháp mà các em vừa thực hành dưới dạng sơ đồ tư duy.
Học sinh sẽ làm việc theo nhóm trong vịng 5 phút và trình bày những nội dung như
sau:
.<b>Nội dung chính:</b> Language focus 5
.Nhánh cấp 1: Adverbs of manner
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng rồi cùng đưa ra nhận
xét và chỉnh sửa sơ đồ của học sinh.
<b>Trường hợp 2: “Consolidation” cho phần “Read”</b>
Sau khi học sinh đã học xong bài đọc, tôi yêu cầu các em tóm tắt lại nội dung bài
bằng sơ đồ tư duy. Tơi chia lớp ra làm 6 nhóm và các em làm việc trong thời gian 3
phút. Trình bày những nội dung như sau:
<b>. Nội dungchính</b>: Safety precautions in the home
. Nhánh cấp 1: What must do
. Nhánh cấp 2: What mustn’t do
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng rồi cùng đưa ra nhận
xét và chỉnh sửa sơ đồ của học sinh.
- Mời một số học sinh trình bày lại nội dung bài học dựa vào sơ đồ tư duy
<b>Trường hợp 3: “Consolidation” cho phần “Write”</b>
. <b>Nội dung chính:</b> <b>How to write a report on a festival </b>
. Nhánh cấp 1: Heading
. Nhánh cấp 2: Body of the report
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh nhỏ tiếp theo để hoàn chỉnh nội dung sơ đồ
- Giáo viên yêu cầu học sinh treo sản phẩm của đội mình lên bảng rồi cùng đưa ra nhận
xét và chỉnh sửa sơ đồ của học sinh.
- Với cách hệ thống cấu trúc trong tiết dạy ngữ pháp cũng như nội dung bài đọc, bài
viết như thế này, rõ ràng học sinh sẽ rất dễ dàng ghi nhớ những điểm ngữ pháp và
những nội dung chính trong từng bài học. Các em sẽ cảm thấy việc học bài khơng cịn
là một cực hình nữa mà giống như đang ngồi vẽ lại một tác phẩm nghệ thuật với các
đường nét, màu sắc và từ ngữ.
Dạy học dường như không chỉ là việc đơn thuần đứng trên bục giảng và truyền
đạt kiến thức. Chính vì vậy mà nhà triết gia <b>Horaceman </b>đã từng nói rằng<i><b>"</b><b>Một ơng thầy</b></i>
<i><b>mà khơng dạy cho học trị được việc ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt</b></i>
<i><b>nguội mà thơi”.</b></i> Thật vậy tính ham muốn trong học tập là dấu hiệu để xuất hiện những
thiên tài và nhiệm vụ của người giáo viên là phải khơi gợi, phát hiện và bồi dưỡng đức
tính đó ở học sinh hàng ngày, hàng giờ, trong từng tiết học, từ những vấn đề nhỏ nhất.
Tất nhiên để đạt được điều đó thì địi hỏi giáo viên phải có phương pháp dạy học hiệu
quả, và “ sơ đồ tư duy” là công cụ hữu ích nhất để khơi gợi đức tính này. Sau đây tôi
xin minh họa một hoạt động nhỏ trong một tiết học nhưng lại mang đến lợi ích vơ cùng
lớn nhờ vào sơ đồ tư duy.
Ví dụ: Trước khi bắt đầu dạy <b>UNIT 10: RECYCLING</b> phần <b>“Language focus”</b>
tôi yêu cầu học sinh của mình nhắc lại những điểm ngữ pháp đã được giới thiệu trong
suốt các tiết học trước của Unit 10 bằng sơ đồ tư duy. Như vậy các em sẽ trình bày cấu
trúc bị động của thì hiện tại đơn mà đã được làm quen trong tiết “Read” như sau:
- Tôi yêu cầu các em hãy hoàn thiện sơ đồ này vào cuối tiêt học. Và thật đáng
ngạc nhiên, suốt tiết học ngày hôm đó các em trở nên thật hào hứng, tham gia hoạt
động tích cực và nghe giảng rất chăm chú. Tơi nhận ra rằng học sinh của tơi đã bị kích
thích trí tị mị, khát khao được khám phá cái mới để hồn thành sản phẩm của mình là
sơ đồ tư duy. Rõ ràng nếu giáo viên thường xuyên áp dụng phương pháp này thì chắc
chắn học sinh sẽ khơng cịn cảm giác chán nản trong các giờ học, trái lại mỗi tiết học sẽ
trở thành “những chuyến thám hiểm” tìm kiếm cái mới đầy thú vị.
Sau khi dự lớp tập huấn về phương pháp dạy học sử dụng “sơ đồ tư duy” vào
tháng 8/ 2011, tơi đã tích cực vận dụng phương pháp này vào công tác giảng dạy trên
lớp cũng như hướng dẫn học sinh ôn luyện ở nhà tại các lớp phụ trách ở trường THCS
thị trấn Bình Dương.
- Đầu tháng 9/ 2011: Tơi tiến hành khảo sát đầu năm của khối 8 để lấy số liệu làm minh
chứng trong quá trình dạy học áp dụng “sơ đồ tư duy”.Kết quả như sau:
Giỏi: Khá: Trung bình:
Yếu: Kém:
- Từ tháng 9 đến tháng 12/ 2011: tơi tích cực áp dụng phương pháp dạy học này.
- Tháng 1/ 2012: Tôi thống kê lại kết quả của học sinh sau một học kì áp dụng sơ đồ tư
duy, và nhận thấy các em có sự tiến bộ đáng kể.
Giỏi: Khá: Trung bình:
Yếu: Kém:
- Bắt đầu HKII khoảng cuối tháng 1 đến tháng 3/ 2012: Tôi lại tiếp tục vận dụng
phương pháp này vào giảng dạy.
- Trong tháng 3/ 2012: Một lần nữa tôi khảo sát kết quả học tập của các em giai đoạn
giữa HKII và kết quả đạt được thật đáng vui mừng.
Giỏi: Khá: Trung bình:
Yếu: Kém:
<b>Kết quả giữa HKII:</b>
<b>Lớp</b> <b>Ss</b> <b>Giỏi</b> <b>Khá</b> <b>Tb</b> <b>Yếu</b> <b>Kém</b> <b>Tb↑</b>
<b>SL</b> <b>%</b> <b>SL</b> <b>%</b> <b>SL</b> <b>%</b> <b>SL</b> <b>%</b> <b>SL</b> <b>%</b> <b>SL</b> <b>%</b>
<b>8A1</b> <b>33</b> <b>6</b> <b>18.2 10 30.3 12 36.5</b> <b>0</b> <b>0</b> <b>0</b> <b>0</b> <b>28</b> <b>84.8</b>
<b>8A2</b> <b>35</b> <b>8</b> <b>22.9 10 28.6 12 34.3</b> <b>1</b> <b>2.9</b> <b>0</b> <b>0</b> <b>30 85.7</b>
<b>8A3</b> <b>32</b> <b>6</b> <b>18.8</b> <b>9</b> <b>28.1 10 31.2</b> <b>0</b> <b>0</b> <b>0</b> <b>0</b> <b>27 84.4</b>
<b>8A4</b> <b>35</b> <b>9</b> <b>25.9 10 28.6 12 34.3</b> <b>1</b> <b>2.9</b> <b>0</b> <b>0</b> <b>31 88.6</b>
<b>TC 135 29 21.5 39 28.9 46 34.1</b> <b>2</b> <b>1.5</b> <b>0</b> <b>0</b> <b>116 85.9</b>
điều đó thì vấn đề đầu tiên là người giáo viên cần phải nhận thức rõ ràng rằng: Người
học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ chứ khơng phải
là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động. Xuất phát từ quan điểm đó, địi hỏi
người giáo viên phải tìm tịi những phương pháp dạy học phù hợp để có thể giải phóng
cho những khả năng tìm ẩn trong mỗi học sinh. Cho đến bây giờ thì sơ đồ tư duy đã và
đang đem lại những hiệu quả thực sự đáng kinh ngạc, nhất là trong lĩnh vực giáo dục
nói chung và trong việc học tiếng Anh tại các trường THCS nói riêng. Thật vậy, qua
gần một năm áp dụng vào việc giảng dạy Tiếng Anh lớp 8 tại trường, tôi thật sự không
thể phủ nhận được ưu thế vượt trội của sơ đồ tư duy so với các phương pháp giảng dạy
khác mà tôi đã từng áp dụng trong các năm học trước. Sau đây tôi sẽ minh chứng một
số dạng bài học mà bản thân tôi đã áp dụng sơ đồ tư duy và nhận thấy vô cùng hiệu
quả.
<b>Dạng 1: </b> <b>Áp dụng sơ đồ tư duy trong dạy kĩ năng đọc hiểu</b>
Các dạng bài tập đọc hiểu dường như không thể thiếu trong mọi kì thi tiếng Anh
của học sinh Việt Nam. Chính vì vậy mà nó là một trong những kĩ năng luôn được giáo
viên chú trọng giảng dạy tại các nhà trường. Và dường như học sinh chúng ta cũng giỏi
về đọc hơn so với các kĩ năng khác như: nghe, nói. Tuy nhiên, trong một tiết dạy đọc
hiểu, nếu giáo viên khơng có phương pháp thích hợp thì sẽ rất dễ tạo ra khơng khí tẻ
nhạc và trầm trong lớp học. Chẳng hạn khi dạy xong <b>UNIT 2: MAKING </b>
<b>ARANGEMENTS” phần “Read”,</b> một trong những dạng bài tập mà giáo viên chúng
ta thường đưa ra trong phần “<b>CONSOLIDATION”</b> là yêu cầu học sinh tóm tắt lại nội
dung bài đọc. Chỉ đơn giản với một mệnh lệnh như thế thì tơi đảm bảo rằng khơng một
học sinh nào có thể làm được, nếu có thì chẳng qua các em giỏi trong lớp đứng lên đọc
lại các câu trong bài tập một cách rời rạc khơng logic. Thay vì vậy, nếu giáo viên chúng
ta cũng yêu cầu các em tóm tắt nhưng sử dụng sơ đồ tư duy thì mọi thứ lại hồn tồn
khác. Với sơ đồ tư duy các em sẽ biết phải tìm ra nội dung chính trước rồi mới đến các
ý nhỏ liên quan.
Ví dụ: . Nội dung chính: Alexander Graham Bell
. Nhánh cấp 1: 1847
. Nhánh cấp 3: 1876
. Nhánh cấp 4: 1877
- Sau đó các em tiếp tục vẽ các nhánh phụ khác liệt kê tất cả các sự kiện có liên quan
đến từng năm đó.
Sau khi đã ghi tóm tắt đầy đủ các vấn đề vào sơ đồ tư duy, thì tôi đảm bảo rằng
bây giờ hầu như gần hết lớp sẽ tự tin trình bày lại nội dung bài học. Thậm chí các em
<b>Dạng 2: </b> <b>Áp dụng sơ đồ tư duy trong dạy kĩ năng Viết</b>
khơng vận dụng gì đến sau khi học. Trước những quan niệm ngây thơ và lệch lạc của
các em như vậy, nhiệm vụ của giáo viên không phải là bắt ép, nhồi nhét vào đầu các em
bởi vì nó hồn tồn vơ tác dụng. Quan trọng hơn hết là người dạy phải khơi dậy ngọn
lửa đam mê trong mỗi học sinh. Ví dụ khi dạy phần <b>“Write”</b> của <b>UNIT 12: A </b>
<b>VACATION ABROAD”,</b> giáo viên thường “Lead-in” vào bài bằng cách cho học sinh
xem một tấm bưu thiếp rồi sau đó hỏi một số câu hỏi liên quan đến đề tài chuẩn bị dạy
là viết một tấm bưu thiếp.
. What’s this?
. Is it beautiful?
. Do you often receive them? When?
. Do you often write them? Who do you send to?
……….
Với cách “Lead-in” như thế này, có lẽ chỉ có những học sinh khá, giỏi mới tham
gia vào cùng giáo viên và trả lời các câu hỏi. Tuy nhiên các em đơn thuần cũng chỉ cố
gắng trả lời cho đúng câu hỏi chứ không quan tâm nhiều đến mục đích của giáo viên.
Thay vì vậy, giáo viên có thể yêu cầu học sinh tưởng tượng về một tấm bưu thiếp mà
các em vẫn thường nhìn thấy rồi sau đó trình bày bố cục để viết một tấm bưu thiếp
bằng Tiếng Anh dùng sơ đồ tư duy.
Giáo viên sẽ không đưa ra ngay nhận xét đúng hay sai mà để các em tự đánh giá
<b>Mơ tả sơ đồ hoàn chỉnh</b>
<b>Dạng 3: </b> <b>Áp dụng sơ đồ tư duy trong dạy ngữ pháp</b>
ngữ pháp sẽ giúp chúng ta viết tốt, nói khơng bị sai và không bị hiểu nhầm ý khi đọc
văn bản. Tuy nhiên một tiết học ngữ pháp thì cũng thật là nhàm chán đối với các em
học sinh bởi vì nhìn từ đầu đến cuối chỉ thấy tồn là bài tập. Đã vậy trong phần
“Free-practice” giáo viên chúng ta lại có thói quen cho thêm bài tập mà lại là bài tập nâng
cao. Rõ ràng như vậy khác nào “đổ thêm dầu vào lửa”. Các em đã khá mệt sau khi giải
quyết xong một loạt bài tập trong sách giáo khoa, sẽ khoa học hơn nếu giáo viên làm
cho học sinh vẫn làm bài tập nhưng với cảm giác phấn khởi, vui tươi mà cũng không
sai mục đích của giai đoạn “Free-practice” này. Sơ đồ tư duy sẽ giúp mang lại điều đó.
<b>Ví dụ: UNIT 10: RECYCLING phần “Language focus”</b>
Sau khi các em hoàn thành bài tập trong sách, giáo viên cho các em xem hai bức
tranh, chẳng hạn một bức tranh về lễ tôt nghiệp và một bức tranh về khung cảnh bị tàn
phá sau một cơn bão. Yêu cầu các em sử dụng hai điểm ngữ pháp vừa học là “câu bị
động” và “cấu trúc tính từ” để mơ tả chúng sử dụng sơ đồ tư duy. Các em sẽ trình bày
như sau:
. Nội dung chính: Language focus
. Nhánh cấp 1: Bức tranh dùng câu bị động để mô tả
. Nhánh cấp 2: Bức tranh dùng cấu trúc tính từ để mô tả.
Các nhánh nhỏ tiếp theo là các câu mô tả về hai bức tranh
Cũng là bài tập nhưng với cách thức này mọi thứ sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn rất
nhiều mà vẫn hiệu quả
<b>Dạng 4: </b> <b>Áp dụng sơ đồ tư duy trong dạy kĩ năng nói và nghe</b>
các em. Chính vì vậy, dù học tiếng Anh nhưng học sinh chúng ta hầu khơng thể nghe,
nói được để sử dụng tiếng Anh trong giao tiếp. Đó là vấn đề cần phải khắc phục dần và
bắt đầu trước tiên là trong mỗi lớp học giáo viên phải tập cho các em nói, nghe từng
câu dù là ngắn nhất trong mỗi tiết “Speak” và “Listen. Tuy nhiên giáo viên chúng ta
thường không chú ý nhiều đến việc dẫn dắt các em đi dần từng bước để đạt đến mục
đích cuối cùng.
<b>Ví dụ:UNIT 8 : COUNTRY LIFE and CITY LIFE” phần “Speak”</b>
Ở phần “Pre-practice, giáo viên thường có thói quen cung cấp từ vựng sau đó
yêu cầu học sinh nhìn vào tranh và nhận xét sự khác nhau giữa hai bức tranh. Học sinh
quan sát và mơ tả tự do bất kì những gì em nhìn thấy. Sau đó giáo viên u cầu các em
kết hợp sử dụng những tính từ được cho sẵng và thực hành nói về sự thay đổi của thị
trấn bây giờ so với cách đây 5 năm.
Với cách làm trên thì chắc chắn các em sẽ gặp khó khăn trong việc lựa chọn sự
vật trong tranh cũng như các tính từ nào cho phù hợp để mơ tả. Thay vì vậy, giáo viên
u cầu học sinh dùng sơ đồ tư duy liệt kê những thứ thay đổi và tính từ hay những
cụm từ phù hợp với thay đổi đó như sau:
. Nội dung chính: The changes of the town
. Nhánh cấp 1: 5 years ago
Rõ ràng khi nhìn vào sơ đồ tư duy chắc chắn các em sẽ nói tốt hơn rất nhiều so
cũng như đồng nghiệp của tôi sẽ áp dụng rộng rãi phương pháp này vào môn Tiếng
Anh ở tất cả các khối lớp trong nhà trường. Và tôi nghĩ rằng mơ hình dạy học này có
thể được nhân rộng ở khắp mọi nơi trên thế giới này, ở tất cả các bộ môn học trong nhà
trường. Bởi vì lợi ích mà phương pháp này mang lại là vơ giá trong khi điều kiện để áp
dụng nó thì thật đơn giản, chỉ với một mẫu giấy và những cây bút màu.
Sơ đồ tư duy được mệnh danh "công cụ vạn năng cho bộ não", là phương pháp
ghi chú đầy sáng tạo.Các sơ đồ tư duy không chỉ cho thấy các thơng tin mà cịn cho
thấy cấu trúc tổng thể của một chủ đề và mức độ quan trọng của những phần riêng lẻ
trong đó đối với nhau. Nó giúp bạn liên kết các ý tưởng và tạo các kết nối với các ý
khác, hiện đang được hơn 250 triệu người trên thế giới sử dụng. Sơ đồ tư duy thực sự
đem lại những hiệu quả rất đáng kinh ngạc, nhất là trong lĩnh vực giáo dục. Sau đây tôi
xin đưa ra một vài lợi ích mà bản thân đã kiểm nghiệm qua thực tế giảng dạy.
<b>a. Giúp cân bằng não, tăng khả năng ghi nhớ:</b>
Chúng ta có hai bán cầu não: bán cầu não trái và bán cầu não phải. Bán cầu não
trái thiên về các chức năng logic, ngôn ngữ, phân tích, sắp xếp... Bán cầu não phải thiên
về các chức năng nghệ thuật, sáng tạo, tưởng tượng, cảm nhận....Các nghiên cứu đã
cho thấy: nếu chỉ sử dụng bán cầu não trái, hiệu suất tư duy của chúng ta chỉ đạt từ 5 -
<b>Ví dụ:</b> Trong <b>UNIT 11: TRAVELING AROUND VIET NAM phần </b>
loát, khơng hề có sự nhầm lẫn. Cứ thế tơi thường xuyên áp dụng phương pháp này và
nhận thấy học sinh mình nhớ bài tốt hơn rất nhiều.
Thực tế cho thấy chúng ta sẽ khơng làm tốt những những gì mà chúng ta khơng
thích. Chỉ khi nào chúng ta có hứng thú hoặc tạo ra được hứng thú trong học tập, công
việc thì chúng ta mới có thể học tập, làm việc đạt hiệu quả cao.
Với sơ đồ tư duy, việc tạo ra và học tập với những trang giấy đầy màu sắc, hình ảnh,
được hệ thống và dễ nhớ sẽ giúp học sinh có được sự hứng thú đó để gia tăng hiệu quả
trong học tập. Đây là một tiết học mà tôi đã áp dụng sơ đồ tư duy vào phần “Controlled
-practice” ngay lập tức hầu hết các em đều hăng hái tham gia hoạt động từ đầu đến cuối
tiết học.
<b>Unit 6: THE YOUNG PIONEERS CLUB</b> phần <b>“ Listen and Read”</b>
Khi làm bài tập 2 thay vì để học sinh hồn thành bảng chi tiết về Nga, tơi yêu cầu học
sinh vẽ sơ đồ tư duy về các thơng tin. Học sinh sẽ làm việc theo 6 nhóm và hồn thành
trong vịng 4 phút. Các em sẽ tiến hành như sơ đồ dưới đây:
<b>Mơ tả sơ đồ hồn chỉnh</b>
- Tôi đưa ra nhận xét và chỉnh sửa sơ đồ của học sinh. Sau đó các em có thể nhìn vào
What’s her phone number?
Where does she live?
What does she like?
When was she born?
- Đây là một bài tập khá đơn giản và nhàm chán đối với học sinh khá giỏi, nhưng với
cách làm như thế này tôi nhận thấy các em rất hăng hái tham gia vẽ, trang trí, thuyết
trình. Trong khi đó học sinh yếu trong lớp thay vì ngồi n khơng biết gì, giờ các em
cũng làm việc rất tích cực.
<b>c. Phát huy khả năng sáng tạo: </b>
Bộ não của chúng ta tư duy theo cơ chế bùng nổ, từ 1 ý tưởng ban đầu bạn có thể
bùng nổ ra hàng trăm ý tưởng có liên quan khác. Bán cầu não phải là thiên về chức
năng sáng tạo, chính là vùng được kích thích hoạt động khi chúng ta làm việc với sơ đồ
tư duy. Hơn nữa, khác với khuôn khổ của những trang giấy viết bình thường khiến tư
duy chúng ta bị giới hạn, sơ đồ tư duy với việc phát triển các nhánh một cách tự do
cũng là cơ sở để phát huy khả năng sáng tạo của người sử dụng.
Tận dụng lợi thế này tôi đã thường xuyên sử dụng sơ đồ tư duy và học sinh của
tơi trở nên sáng tạo lên rất nhiều.
Ví dụ: <b>UNIT 5: STUDY HABITS phần “Read”</b>
<b>d. Phát huy sức mạnh tập thể: </b>
mỗi người luôn giữ chính kiến của mình, khơng hướng vào mục tiêu đã đề ra dẫn đến
không rút ra được kết luận cuối cùng. Sử dụng sơ đồ tư duy sẽ khắc phục được những
<b>Ví dụ: UNIT 12: A VACATION ABROAD phần “Speak”</b>
<b>e. Tăng sự tự tin và khả năng diễn đạt:</b>
nên hầu như các em khơng thể tự tin để nói bất kì điều gì trước lớp. Tuy nhiên từ khi áp
dụng sơ đồ tư duy vào mỗi tiết học, tôi nhận thấy học sinh của mình dần trở nên mạnh
dạn, tự tin lên rất nhiều. Bởi vì mỗi lần vẽ sơ đồ tư duy là các em phải thuyết trình.
Chính vì vậy các em được rèn luyện khả năng diễn thuyết, nói chuyện trước mọi người
và dần dần sự nhút nhát cũng biến mất một cách đáng kinh ngạc.
Sơ Đồ Tư Duy (phát minh bởi Tony Buzan) chính là cơng cụ ghi chú tuyệt vời
giúp bạn tận dụng được những từ khóa cũng như các nguyên tắc của Trí Nhớ Siêu
Đẳng. Với cách ghi chú như thế, cả não trái lẫn não phải, hay phần lớn công suất của
não bộ sẽ được huy động triệt để nhằm mang lại hiệu quả tối ưu nhất. Thật sự đây là
một phương pháp dạy và học vô cùng đơn giản khơng địi hỏi tốn nhiều chi phí, chỉ cần
một mẫu giấy và những cây bút màu, nhưng những cây bút màu quả thật có “phép
màu”. Với sơ đồ tư duy chúng ta có thể sử dụng ở bất kì đâu, trong bất kì hồn cảnh
khơng có bất kì một giới hạn nào về khơng gian và thời gian vì nó khơng địi hỏi phải
có những điều kiện cần và đủ nào để tiến hành thực hiện và đạt được mục đích. Chính
vì vậy mà ở khắp nơi trên trái đất mọi người đều biết đến “công cụ vạn năng cho bộ
não’ này. Và không chỉ riêng ngành giáo dục mà rất nhiều những lĩnh vực khác cũng sử
dụng và cảm thấy lợi ích vơ cùng, đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh. Nếu chúng ta
<b>3.3. Tác động xã hội tích cực, cải thiện mơi trường, điều kiện lao động.</b>
Có thể thấy việc áp dụng phương pháp dạy học sử dụng “ SƠ ĐỒ TƯ DUY’ như
trên, không chỉ mang lại kết quả mỹ mãn cho người dạy lẫn người học, mà nó cịn tác
động rất lớn đến mơi trường học tập. Tơi nhận thấy những giờ học áp dụng phương
pháp này, không khí lớp học trở nên nóng hẳn lên. Các em học sinh sơi nổi, hăng say
hoạt động, làm việc tích cực hơn, đôi khi các em hồi hộp, bồn chồn khi chờ đợi kiểm
nghiệm thành quả, rồi vỡ òa ra trong sự vui sướng khi thấy những kết quả mình đạt
được. Hịa trong khơng khí đó, giáo viên chúng ta cũng sẽ cảm thấy yêu nghề hơn, tự
thấy mình phải có trách nhiệm hơn, nghiêm túc hơn, nhiệt tình hơn trước ánh mắt khát
khao kiến thức mới của lớp lớp đàn em thân yêu.
Mỗi giáo viên đều có suy nghĩ và phong cách giảng dạy khác nhau. Song đều có
chung một mục đích là truyền thụ cho các em học sinh đúng, đủ kiến thức giúp các em
hiểu bài và khắc sâu kiến thức một cách nhanh nhất. Tuy nhiên để thành công trong giờ
dạy tiếng Anh thì địi hỏi người giáo viên phải có một phương pháp dạy học thật phù
hợp nhằm lôi kéo hết mọi đối tượng học sinh cùng tham gia với mình. Cũng giống như
một nghệ sĩ, chỉ cần họ diễn thật hay thì dù một người khơng am hiểu gì về nghệ thuật
cũng sẽ thích thú ngồi xem đến những giây cuối cùng.
Bản thân tôi đang duy trì phương pháp dạy học đã nêu trên và tơi nghĩ rằng tất cả
giáo viên chúng ta cũng nên tích cực sử dụng “sơ đồ tư duy” vào giảng dạy. Tuy nhiên
khi áp dụng người dạy cũng cần tuân thủ một số điều kiện nhất định. Trước hết mỗi
Tóm lại vận dụng như thế nào là tùy thuộc vào mỗi bài học và mục đích của người
dạy nhưng rõ ràng chúng ta phải nhìn nhận “ sơ đồ tư duy “ như một cơng cụ bổ ích
cho các đối tượng học sinh. Với phương pháp dạy và học như thế này, chắc chắn trong
một tương lai không xa mỗi lớp học sẽ là một “xã hội thu nhỏ”, ở đó học sinh chúng ta
sẽ nâng cao trình độ tiếng Anh một cách tồn diện bởi vì các em khơng chỉ được rèn
luyện về ngữ pháp, kĩ năng đọc, viết mà các em cịn có một “mơi trường tiếng” thực sự
để phát triển khả năng giao tiếp, ứng xử với các bài học nghe và nói đầy hấp dẫn và
mang lại nhiều hiệu quả. Như vậy sự thành công của mỗi giáo viên cũng chính là sự
thành cơng của nền giáo dục Việt Nam với mong muốn đổi mới phương pháp dạy
ngoại ngữ- dạy ngoại ngữ theo đường hướng giao tiếp.
Những vấn đề được trình bày trên đây chỉ là ý kiến chủ quan của riêng tôi và tôi
- Khuyến khích học sinh sử dụng sơ đồ tư duy trong việc học bài ở nhà để phát
triển khả năng tư duy, hệ thống của mình.
- Động viên các em học tập theo nhóm và thành lập các buổi nói tiếng Anh hay
câu lạc bộ tiếng Anh trong lớp hoặc khối để dần dần năng động, tự tin hơn.
- Yêu cầu các em luôn ln có thói quen ơn tập để khắc sâu kiến thức cũ.
3.<b>2. Đối với giáo viên:</b>
- Tạo cho các em có một tình u, đam mê với môn tiếng Anh cũng như nhận
thức được tầm quan trọng của tiếng Anh trong cuộc sống.
- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng như khen
ngợi, động viên nhắc nhở kịp thời.
- Không ngừng đầu tư, mở rộng kiến thức và đổi mới phương pháp dạy học.
<b>3.3. Đối với các cấp lãnh đạo:</b>
cần thiết và tài liệu để bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên và phục
vụ cho học tập của học sinh.
<b> </b> <b>Bình Dương, ngày 31 tháng 3 năm 2012</b>
<b> </b> <b>Người thực hiện</b>
<b> Nguyễn Thị Phương</b>
2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kỹ năng môn Tiếng Anh THCS-Vũ Thị
Lợi (chủ biên)- NXB Giáo dục 2009
3. Sách bài tập thực hành tiếng Anh lớp 8
4. Các tài liệu qua các lớp tập huấn hè.
5. Các bài viết, trang thông tin về học tiếng Anh trên mạng
<b>I. Đặt vấn đề</b>
1. Thực trạng của vấn đề………..1
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới………....5
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài………..6
<b>II. Phương pháp tiến hành</b>
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp……….8
<b>B. NỘI DUNG</b>
<b>I. Mục tiêu………9</b>
<b>II. Mô tả giải pháp của đề tài</b>
<b>1. Thuyết minh tính mới</b>
1.2. Cách tiến hành vẽ sơ đồ tư duy...10
1.3. Vận dụng ‘sơ đồ tư duy ‘ trong các tiết học cụ thể
a/ Áp dụng ‘ sơ đồ tư duy’ vào phần kiểm tra bài cũ học sinh...10
Unit 13 : FESTIVALS ( Listen and Read)………..……11
Unit 10: RECYCLING ( Listen and Read)………13
b/ Áp dụng ‘ sơ đồ tư duy trong phần ‘ Lead –in”……….15
Unit 8: COUNTRY LIFE AND CITY LIFE ( Listen and Read)……….15
Unit 2: MAKING ARRANGEMENTS ( Read)………..18
c/ Áp dụng ‘sơ đồ tư duy” trong phần “Pre…….”………...…..20
Unit 4: OUR PAST ( Speak)………..20
d/ Áp dụng “sơ đồ tư duy” trong phần “While……..”………...………23
Unit 13: FESTIVALS ( Read)……….23
Unit 6: THE YOUNG PIONEERS CLUB ( Listen and Read)……….25
e/ Áp dụng “sơ đồ tư duy “ trong phần “Post…….” hay “ Pre – practice”………27
Unit 11: TRAVELING AROUND VIET NAM (Read)……….27
Unit 13: FESTIVALS (Listen)………30
f/ Áp dụng “sơ đồ tư duy” trong phần “ Consolidation”………..……….32
Unit 5: STUDY HABITS (Language fucus )……….32
Unit 3: AT HOME (Read)……….34
<b>2. Khả năng áp dụng:...36</b>
<b>3. Lợi ích kinh tế- xã hội ……….36</b>
<b>C. KẾT LUẬN………37</b>
* Đề xuất, kiến nghị………38