Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Nang cao chat luong cho vay doi voi DNNQD tai CN NHCT cau giay CQ 441842 LE THANH NGA TCDN 44d

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.81 KB, 76 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, thực hiện quá trình Công nghiệp hoá - Hiện
đại hoá và đẩy mạnh cải cách kinh tế nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã
hội nhanh, có hiệu quả và bền vững, nước ta bước đầu đã đạt được những
thành tựu to lớn như: tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, lạm phát được kiềm
chế, đời sống nhân dân được cải thiện,… Để đạt được thành công như vậy,
sự đóng góp của các thành phần kinh tế là rất quan trọng, đặc biệt là doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Nền kinh tế thị trường hiện nay của nước ta là
môi trường thích hợp cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng và
phát triển. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã và đang khẳng định vai trò
quan trọng của mình trong sự phát triển đất nước.
Nhận thấy tiềm năng phát triển của DNNQD, các NHTM đã phải
thay đổi chính sách cho vay của mình, từ ưu tiên cho vay các Doanh nghiệp
quốc doanh sang mở rộng cho vay Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Đi đôi
với việc tăng số lượng các khoản cho vay đối với DNNQD, các NHTM
cũng phải quan tâm đến chất lượng của các khoản vay đó.
NHCT khu vực Cầu Giấy là một chi nhánh cấp I của NHCT Việt
Nam, mới thành lập từ năm 2001 nhưng đã và đang là một ngân hàng hoạt
động rất hiệu quả ở khu vực quận Cầu Giấy. Số lượng khách hàng tìm đến
vay ngân hàng là DNNQD cũng tăng dần qua các năm. Dư nợ cho vay thành
phần kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng tăng, đặt ra một vấn đề cho NHCT
Cầu Giấy là chất lượng các khoản cho vay DNNQD có thực sự tốt ? Nhận
thức được sự phát triển của DNNQD và tầm quan trọng của hoạt động cho
vay của ngân hàng, qua quá trình thực tập ở NHCT Cầu Giấy, em quyết
định chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tại chi nhánh NHCT khu vực Cầu Giấy”.

Lê Thanh Nga TCDN 44D
1
Chuyên đề tốt nghiệp


CHƯƠNG I: CHẤT LƯỢNG CHO VAY DOANH NGHIỆP NGOÀI
QUỐC DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.Tổng quan về Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.1.1.Khái niệm DNNQD
Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), nền kinh tế nước
ta đã có nhiều chuyển biến rõ rệt với sự phân chia các thành phần kinh tế
thành sáu loại cơ bản. Đó là: Kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
bản Nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế cá thể tiểu chủ và kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, nếu xét theo hình thức sở hữu thì nền
kinh tế Việt Nam gồm có hai loại hình doanh nghiệp chính là DNQD và
DNNQD.
Theo Luật doanh nghiệp 2005 thì: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, đăng ký kinh doanh theo qui
định của Pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh.
DNNN hay DNQD là loại hình doanh nghiệp dựa trên sở hữu Nhà
nước về tư liệu sản xuất là chủ yếu, bao gồm các đơn vị kinh tế mà toàn bộ
số vốn thuộc về Nhà nước hoặc Nhà nước chiếm một phần khống chế.
DNNN hoạt động với mục đích chủ yếu là cung cấp các dịch vụ công cộng
phục vụ sự nghiệp phát triển xã hội và phát huy vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế tạo nên sự cân đối cần thiết.
DNNQD bao gồm các đơn vị kinh tế cơ sở do tư nhân ( bao gồm một
hoặc một tập thể cá nhân) bỏ vốn đầu tư dưới mọi hình thức, nhằm mục đích
chủ yếu là lợi nhuận và chịu sự chi phối của chủ đầu tư. Các loại hình doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế này hết sức đa dạng, tạo ra các thành phần
kinh tế khác nhau như kinh tế cá thể, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế
tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và được tổ chức dưới hình
thức Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Hợp tác xã, Kinh tế hộ gia đình,
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…
Lê Thanh Nga TCDN 44D
2

Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2.Các loại hình DNNQD
Có nhiều cách phân loại DNNQD song nếu phân theo loại hình doanh
nghiệp thì DNNQD bao gồm:
Doanh nghiệp tư nhân
Theo điều 141 Luật doanh nghiệp 2005 thì Doanh nghiệp tư nhân là
doanh nghiệp do một cá nhân là chủ và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của
mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp tư nhân là
một đơn vị kinh doanh do một cá nhân bỏ vốn ra thành lập và làm chủ. Chủ
doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp
Công ty TNHH
Theo Luật doanh nghiệp 2005 thì có hai loại hình Công ty TNHH:
+ Công ty TNHH có hai thành viên trở lên: là loại hình doanh nghiệp
mà các thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh
nghiệp.
+ Công ty TNHH một thành viên: là doanh nghiệp do một tổ chức làm
chủ sở hữu. Chủ sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ
tài sản của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Công ty cổ phần
Tại điều 77, Luật doanh nghiệp 2005, Công ty cổ phần là một tổ chức
có tư cách pháp nhân. Đây là loại hình Công ty có tính tổ chức cao, hoàn
thiện về vốn, hoạt động mang tính xã hội cao, chịu trách nhiệm bằng tài sản
của Công ty. Các thành viên chỉ chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ của
Công ty trong phạm vi số vốn họ đã góp cho công ty. Vốn điều lệ của Công
ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Lê Thanh Nga TCDN 44D
3
Chuyên đề tốt nghiệp

Công ty hợp danh
Theo Luật doanh nghiệp 2005, điều 130 thì Công ty hợp danh là
doanh nghiệp có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp
danh có thể có thành viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá nhân có
trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của Công ty. Thành viên góp vốn
chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty trong phạm vi số vốn góp
vào Công ty.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp
liên doanh, các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của cá nhân, tổ chức là
người nước ngoài với các đặc điểm cơ bản. Thứ nhất, tài sản của doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể thuộc sở hữu một phần hay toàn bộ
của chủ thể nước ngoài. Thứ hai, các doanh nghiệp này luôn luôn xuất hiện
vai trò của các chủ đầu tư là người nước ngoài. Thứ ba, doanh nghiệp và các
chủ đầu tư vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ phải chịu trách
nhiệm hữu hạn trong kinh doanh.
1.1.3. Đặc điểm của Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Trong nền kinh tế thị trường, DNNQD đã có cơ hội ngang bằng với
DNQD trong việc phát huy khả năng của mình. Cùng với việc mở cửa nền
kinh tế và các chính sách mới của Nhà nước đã giúp các DNNQD có được
sự phát triển vượt bậc và được đánh giá cao. Như vậy, các đặc điểm của
DNNQD hiện nay là:
Thứ nhất, DNNQD được ghi nhận là thành phần kinh tế đang có sự
gia tăng nhanh chóng về số lượng và thị phần ngày càng lớn. Năm 1991,
một năm sau khi ban hành Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân, cả
nước mới chỉ có 414 DNNQD( không kể doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
Lê Thanh Nga TCDN 44D
4
Chuyên đề tốt nghiệp

ngoài). Đến năm 1999, con số này đã tăng lên con số 30500, tính bình quân
mỗi năm tăng khoảng 3252 doanh nghiệp tương ứng với tốc độ tăng
32%/năm. Tổng số DNNQD tăng nhanh chóng trong ba năm sau khi Luật
doanh nghiệp 1999 có hiệu lực được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 1.Số doanh nghiệp đang hoạt động phân theo khu vực kinh tế
Chỉ tiêu
31/12/01 31/12/02 31/12/03
Tổng số
51.680 62.908 72.012
1.Khu vực Nhà nước 5.355 5.364 4.845
2.Khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh
44.314 55.236 64.526
- Hợp tác xã 3.646 4.104 4.150
- Doanh nghiệp tư nhân 22.777 24.794 25.653
- Công ty hợp danh 5 24 18
- Công ty TNHH 16.291 23.485 30.164
- Công ty cổ phần 1.595 2.829 4.541
3.Khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài
2.011 2.308 2.641
( Nguồn: Niên giám Thống kê 2004, NXB Thống Kê )
Qua bảng trên, ta thấy rằng khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là khu
vực có số lượng tăng nhanh nhất. DNNN đang giảm dần qua các năm còn
khu vực DNNQD đang tăng nhanh với tốc độ tăng bình quân là 25,6% trong
giai đoạn 2001-2003, mỗi năm tăng khoảng 25,6% trong đó tăng nhanh nhất
là công ty cổ phần 99,3%, công ty TNHH là 49,9%. Mặt khác cũng có thể
thấy khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đang chiếm tỷ trọng ngày càng lớn,
gấp 10 lần khu vực Nhà nước và gần 25 lần khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Đặc biệt trong những năm gần đây, khi mà Nhà nước đang có

chủ trương cổ phần hoá các DNNN hoạt động kém hiệu quả thì số lượng
DNNQD tăng lên nhanh chóng là một tất yếu.
Thứ hai, DNNQD có quy mô lao động và quy mô tài chính nhỏ bé. Số
doanh nghiệp có vốn dưới 500 triệu đồng chiếm 68,3% tổng số doanh
Lê Thanh Nga TCDN 44D
5
Chuyên đề tốt nghiệp
nghiệp, DNNQD có vốn trên 500 triệu đồng chỉ chiếm có 18,9%. Tại thời
điểm 31/12/2002, tổng vốn của DNNQD là 237,3 nghìn tỷ đồng, chỉ chiếm
16,5% tổng nguồn vốn khu vực doanh nghiệp mặc dù đã tăng được 44,6%.
Số lao động trong các DNNQD bao gồm 1,7 triệu người, chiếm
36,6% tổng số lao động của toàn khu vực doanh nghiệp. Tại thời điểm
31/12/2002, nếu như số lao động bình quân của một DNNN là 421
người/doanh nghiệp thì DNNQD chỉ có 31 người/doanh nghiệp.
Thứ ba, môi trường kinh doanh chưa thuận lợi, thị trường tiêu thụ
chưa được khai thác triệt để, còn nhỏ bé. Mặc dù những năm gần đây, Đảng
và Nhà nước đã cố gắng tạo ra một “sân chơi bình đẳng” cho tất cả các
doanh nghiệp nhưng vẫn có sự đối xử khác biệt giữa DNNQD và DNNN, ví
dụ như chính sách thuế, chính sách về đất đai,…
Các DNNQD chủ yếu hoạt động trong các ngành kinh tế như nông
nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, tuy nhiên thị trường tiêu thụ sản phẩm còn
nhỏ bé, chưa ổn định. Nguyên nhân chủ yếu do đầu tư vốn ít, công nghệ lạc
hậu, khả năng quản lý kém…
Thứ tư, khả năng huy động vốn của DNNQD hạn chế trong khi nhu
cầu về vốn lớn. DNNQD với qui mô tài chính bé nhỏ nên nhu cầu về vốn để
mở rộng sản xuất là rất cao, vậy mà khả năng huy động vốn của DNNQD lại
thấp, nguồn vốn chủ yếu là tín dụng ngân hàng.
Thứ năm, DNNQD đang được coi là thành phần kinh tế khá năng
động với hiệu quả kinh tế tăng cao. Khác với DNQD, các DNNQD phải “tự
thân vận động” trong cơ chế thị trường và tìm cách nâng cao hiệu quả sản

xuất để thu được lợi nhuận. Chính điều này tạo nên tính tự lực, năng động,
sáng tạo và tự chủ trong kinh doanh cho DNNQD.
Từ những đặc điểm của DNNQD, ta thấy rằng đây là một thành phần
kinh tế cần được hỗ trợ phát triển vì sự phát triển của thành phần này phù
hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam, tạo tiền đề phát triển cho toàn bộ nền
kinh tế.
Lê Thanh Nga TCDN 44D
6
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.4.Vai trò của DNNQD trong nền Kinh tế thị trường
Những năm gần đây, với sự tăng trưởng vượt bậc về số lượng,
DNNQD đã góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế. Vai trò của
DNNQD được khẳng định qua các khía cạnh sau:
Một là, DNNQD ngày càng chiếm tỷ trọng lớn và là một bộ phận
đóng góp quan trọng cho Ngân sách Nhà nước, góp phần tăng thu nhập quốc
dân. Năm 2001, thu trong khu vực NQD chiếm 2,6% tổng số thu thì năm
tháng đầu năm 2005 con số này đã là 8,17%. Trong khu vực ngoài quốc
doanh, số thu các doanh nghiệp chiếm tỷ trọng ngày càng cao, năm 2001 là
36,6%, năm 2005 là 63,8%.
Hai là, DNNQD có khả năng tập trung mọi nguồn lực trong xã hội
vào hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh. Sự hình thành DNNQD đã tạo
điều kiện tập trung vốn, tri thức và nguồn nhân lực vào các ngành kinh tế
mới, các ngành kinh tế phát triển hay các ngành đòi hỏi trí tuệ cao và các
ngành dịch vụ.
Ba là, DNNQD góp phần tạo việc làm, giảm thất nghiệp. DNNQD
hoạt động trong lĩnh vực công thương nghiệpvà dịch vụ phát triển góp phần
quan trọng giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Hà Nội hiện nay
có hơn 25.000 DNNQD, bình quân mỗi doanh nghiệp giải quyết việc làm
cho 30 người thì đã giải quyết được hơn 750.000 lao động.
Bốn là, DNNQD góp phần duy trì và phát triển các làng nghề truyền

thống, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm quản lý đã tích luỹ
qua nhiều thế hệ.
Năm là, DNNQD góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
Công nghiệp hoá - Hiện đại hóa và đổi mới cơ chế quản lý theo hướng thị
trường. DNNQD hoạt động trong mọi ngành nghề nhưng chủ yếu phổ biến
ở các lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ và xuất khẩu.
Lê Thanh Nga TCDN 44D
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Sáu là, sự phát triển của DNNQD nâng cao tính cạnh tranh trong nền
kinh tế thị trường. Việc các DNNQD phát triển trên nhiều lĩnh vực, ngành
nghề đã làm cho thị trường hàng hóa trở nên phong phú, đa dạng và sôi
động hơn.
Với những ưu thế của mình như qui mô nhỏ gọn hay tính năng động
cao, các DNNQD đã thực sự trở thành một đối thủ cạnh tranh với các khu
vực kinh tế khác đặc biệt là khu vực kinh tế Nhà nước. Tính cạnh tranh cao
trên thị trường còn thể hiện ở chỗ không chỉ có sự cạnh tranh giữa DNNQD
với DNNN mà còn giữa bản thân các DNNQD với nhau. Đây thực sự là một
động lực giúp cho nền kinh tế phát triển vì nó thúc đẩy tính năng động của
mọi thành phần kinh tế trong xã hội, làm cho mọi nguồn lực trong nền kinh
tế được tận dụng và sử dụng một cách tối đa và hiệu quả nhất.
Cuối cùng, một vai trò không thể thiếu của DNNQD đối với riêng
ngành ngân hàng là DNNQD đang trở thành một trong những thị trường vốn
tín dụng rộng lớn và đầy tiềm năng. Với sự phát triển ngày càng mạnh của
DNNQD thì nhu cầu về vốn cũng tăng theo nhất là nhu cầu về tín dụng
trung và dài hạn.
1.1.5.Các nguồn vốn của DNNQD
Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi đi vào hoạt động sản xuất kinh
doanh đều phải có một nguồn vốn nhất định để đầu tư vào tài sản cố định và
tài sản lưu động. Vậy nguồn vốn của DNNQD bao gồm những nguồn vốn

nào và lấy từ đâu?
* Vốn tự có của doanh nghiệp
Vốn tự có của doanh nghiệp là nguồn vốn ban đầu khi thành lập
doanh nghiệp do các cổ đông, chủ sở hữu đóng góp. Đối với các DNNQD,
theo Luật doanh nghiệp 2005, chủ doanh nghiệp phải có một số vốn ban đầu
để xin đăng ký thành lập doanh nghiệp. Với Công ty cổ phần, vốn do các cổ
đông đóng góp là yếu tố quyết định hình thành vốn góp ban đầu của Công
Lê Thanh Nga TCDN 44D
8
Chuyên đề tốt nghiệp
ty. Còn đối với Công ty TNHH thì vốn tự có là phần vốn góp của các thành
viên sáng lập Công ty. Đối với doanh nghiệp tư nhân thì vốn góp ban đầu do
chính chủ doanh nghiệp đầu tư.
Để duy trì và phát triển thì doanh nghiệp cần phải có thêm nguồn vốn
khác ngoài nguồn vốn tự tài trợ vì lợi nhuận để lại chỉ được dùng tái đầu tư
khi DNNQD đã và đang hoạt động có lãi, được phép tiếp tục đầu tư. Vì vậy,
không có một DNNQD nào chỉ sử dụng vốn tự có trong suốt quá trình hoạt
động của mình mà còn cần phải đi vay.
* Nguồn đi vay
Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, DNNQD có thể vay
thông qua hình thức tín dụng thương mại ,đi vay Ngân hàng hoặc phương
thức phát hành trái phiếu Công ty.
Tín dụng thương mại: Các doanh nghiệp thường khai thác nguồn tín
dụng thương mại qua quan hệ mua bán chịu, mua bán trả góp hay trả chậm
với đối tác và khách hàng. Đây là một phương thức tài trợ tiện lợi, linh hoạt,
nhanh chóng và tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác làm ăn một cách lâu
bền. Tuy nhiên, để có được nguồn vốn này thì doanh nghiệp phải có mối
quan hệ rộng và uy tín cao để có thể có được sự chấp thuận của người bán
đối với doanh nghiệp.
Tín dụng Ngân hàng: Các Ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu vay vốn

tức thời cho các DNNQD với lượng vốn tuỳ thuộc vào nhu cầu sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. DNNQD có thể vay vốn Ngân hàng ngắn hạn,
trung hạn hay dài hạn theo mức lãi suất chi trả khác nhau theo thoả thuận,
theo lĩnh vực kinh doanh và theo uy tín khách hàng. Do ở Việt Nam, thị
trường tài chính chưa phát triển nên tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan
trọng và vẫn là nguồn vay chính cho DNNQD.
Phát hành trái phiếu Công ty : Trái phiếu là một giấy vay nợ trung và
dài hạn. Trong các loại hình DNNQD thì chỉ có Công ty cổ phần là được
Lê Thanh Nga TCDN 44D
9
Chuyên đề tốt nghiệp
phép phát hành trái phiếu còn các loại hình doanh nghiệp khác như doanh
nghiệp tư nhân, Công ty TNHH hay hợp tác xã không được phát hành trái
phiếu. Mặt khác, việc phát hành trái phiếu cũng gặp nhiều khó khăn và sự
thành công còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như uy tín doanh nghiệp, qui mô
doanh nghiệp và lãi suất mà doanh nghiệp đưa ra.
1.1.6.Xu hướng phát triển của các DNNQD
Hiện nay kinh tế quốc doanh được xác định là thành phần kinh tế
đóng vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn
đề xã hội; mở đường. hướng dẫn, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế
khác cùng tồn tại và phát triển; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực
hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, với chủ
trương cổ phần hóa mạnh mẽ các thành phần kinh tế quốc doanh khiến số
lượng các DNNQD sẽ tăng lên nhanh chóng trong tương lai. Hiện nay, mô
hình kinh tế ngoài quốc doanh đã thể hiện sự phát triển có hiệu quả hơn hẳn
so với các thành phần kinh tế quốc doanh. Vì vậy, trong trong tương lai
thành phần kinh tế này cũng đóng vai trò chủ đạo và là đòn bẩy cho tăng
trưởng kinh tế.
Chính sách mở cửa nền kinh tế, chính sách tạo điều kiện bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế se tiếp tục thúc đẩy sự phát triển của nển kinh tế

nói chung và DNNQD nói riêng. Trong điều kiện tiếp xúc với thị trường bên
ngoài với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, mô hình tổ chức và phương pháp
quản lý mới, hiện đại… thì các DNNQD sẽ có nhiều ưu thế hơn vì đây được
coi là khu vực kinh tế năng động nhất trong nền kinh tế.
DNNQD đang có những chuyển biến mạnh mẽ, góp phần ngày càng
lớn vào sự phát triển của đất nước nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm
năng của thành phần kinh tế này, nhiều khi sự phát triển còn mang tính tự
phát.
Lê Thanh Nga TCDN 44D
10
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.Cho vay Ngân hàng đối với Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
1.2.1.Giới thiệu về NHTM
1.2.1.1.Khái niệm
Để đưa ra một định nghĩa về NHTM, người ta thường dựa vào tính
chất, mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và đôi khi còn kết
hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.
Luật Ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “ NHTM được coi là
Ngân hàng, là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận
của công chúng dưới dạng hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền
mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ
tài chính”.
Luật Ngân hàng của Đan Mạch năm 1930 định nghĩa: “ Những nhà
băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận tiền kí thác, buôn bán vàng bạc,
hành nghề thương mại và các giá trị địa ố, các phương tiện tín dụng và hối
phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra bảo hiểm…
Ở Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, cùng
với sự phát triển của các doanh nghiệp là sự phát triển của hệ thống Ngân
hàng. Để tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt động của các ngân hàng và
các tổ chức tín dụng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế

đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức này, điều 20 Luật các tổ
chức tín dụng của Việt Nam có nêu: “Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp
được thành lập theo qui định của Luật này và các qui định khác của pháp
luật để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung
nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ
thanh toán”.
Mặc dù có nhiều cách khái niệm về NHTM nhưng cách tiếp cận thận
trọng nhất là có thể xem xét NHTM trên phương diện những dịch vụ mà
chúng cung cấp. Nếu xét theo phương diện này thì ngân hàng là các tổ chức
Lê Thanh Nga TCDN 44D
11
Chuyên đề tốt nghiệp
tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng
tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.2.1.2.Các hoạt động chủ yếu của NHTM
Ngày nay, trong thế giới hiện đại, hoạt động của các tổ chức tín dụng
ngày càng mở rộng và đóng góp quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế.
Là một bộ phận lớn nhất trong hệ thống trung gian tài chính, NHTM thực
hiện nghiệp vụ tập trung từ các chủ thể có vốn nhàn rỗi và dẫn vốn đến các
chủ thể cần vốn trong nền kinh tế. Để thực hiện vai trò này, NHTM thực
hiện các hoạt động chủ yếu là hoạt động huy động vốn, hoạt động sử dụng
vốn và hoạt động kinh doanh khác.
* Hoạt động huy động vốn: là nghiệp vụ chủ yếu tạo nên nguồn vốn
kinh doanh cho ngân hàng gồm bao nguồn chính là vốn huy động từ các tổ
chức sản xuất kinh tế và cá nhân trong xã hội, vốn đi vay NHTW và các tổ
chức tín dụng khác và nguồn vốn trong thanh toán.
* Hoạt động sử dụng vốn: là hoạt động đem lại nguồn lợi nhuận chủ
yếu cho ngân hàng. Ngân hàng sử dụng nguồn vốn mà mình huy động được
để cho vay và đầu tư với mục đích tìm kiếm lợi nhuận do sự chênh lệch lãi

suất. Hoạt động chính là cho vay, ngoài ra còn có hoạt động bảo lãnh và
hoạt động cho thuê tài chính.
* Hoạt động kinh doanh khác mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng
ngoài hai hoạt động chính là: dịch vụ thanh toán, tư vấn tài chính, kinh
doanh ngoại tệ, tài trợ ngoại thương…
1.2.2.Cho vay ngoài quốc doanh của NHTM
Cho vay là một trong những hoạt động kinh doanh truyền thống của
NHTM và đem lại nguồn thu chính cho ngân hàng.
1.2.2.1.Khái niệm
Lê Thanh Nga TCDN 44D
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Theo Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc NHNN thì cho vay được định nghĩa như sau: Cho vay là một
hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử
dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo
thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi.
Như vậy, trong quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau:
- Ngân hàng sẽ chuyển giao cho người vay một lượng giá trị nhất định.
Giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay dưới hình thái hiện vật
như hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản.
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian
nhất định. Sau khi hết thời hạn theo thoả thuận phải hoàn trả người
cho vay.
- Giá trị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị ban đầu vì người đi
vay ngoài phần vốn gốc còn phải trả thêm phần lãi tính trên phần vốn
gốc theo lãi suất ngân hàng qui định.
1.2.2.2.Phân loại
Việc phân loại cho vay có cơ sở khoa học để thiết lập các qui trình
cho vay thích hợp và nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Có nhiều

cách để phân loại cho vay
* Theo thời hạn cho vay:
Cho vay ngắn hạn là hình thức cho vay có thời hạn dưới 1 năm, sử
dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp hoặc các
nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung hạn là hình thức cho vay có thời hạn từ 1 năm đến 5
năm các khoản vay này thường được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố
định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn
nhanh.
Lê Thanh Nga TCDN 44D
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Cho vay dài hạn là hình thức cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời
hạn tối đa có thể lên đến 20 – 30 năm, một số trường hợp dặc biệt có thể lên
đến 40 năm. Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn
như xây dựng nhà xưởng phương tiện vận tải có quy mô lớn và những dự án
sản xuất có thời hạn thu hồi vốn dài
* Theo mục đích:
Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và
xây dựng bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ
sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại.
Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất
nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia súc…
Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, Công ty bảo hiểm, quỹ
tín dụng và các định chế tài chính khác.
Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng

như nhu cầu mua sắm tài sản và các khoản cho vay tiêu dùng.
* Theo mức độ tín nhiệm đối với khác hàng:
Cho vay không có tài sản đảm bảo là hình thức ngân hàng cho khách
hàng vay dụa trên uy tín của khách hàng mà không cần tài sản cầm cố, thế
chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba.
Cho vay có tài sản đảm bảo là hình thức cho vay dựa trên cơ sở bảo
đảm như thế chấp hoặc cầm cố tài sản của khách hàng hay có sự bảo lãnh
của bên thứ ba. Đây là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thứ
hai, bổ sung cho nguồn thu nợ thứ nhất chưa chắc chắn.
* Căn cứ theo phương thức cho vay
Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của ngân hàng đối với các khách hàng có nhu cầu vay thường xuyên, không
Lê Thanh Nga TCDN 44D
14
Chuyên đề tốt nghiệp
có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay, khách hàng phải
làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân
tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định qui mô cho vay, thời hạn
giải ngân, trả nợ, mức lãi suất và yêu cầu tài sản đảm bảo nếu cần.
Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên quá trình luân
chuyển hàng hoá. Đầu năm hoặc quý, người vay phải làm đơn xin vay luân
chuyển, sau đó ngân hàng và khách hàng thoả thuận với nhau về phương
thức vay, hạn mức cho vay…Hạn mức cho vay có thể được thoả thuận trong
một năm hoặc vài năm, đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời gian
để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng. Vì thủ tục vay chỉ
phải thực hiện một lần nên rất thuận tiện cho khách hàng.
Cho vay theo hạn mức: là nghiệp vụ cho vay theo đó ngân hàng thoả
thuận cấp cho khách hàng hạn mức cho vay. Hạn mức tín dụng có thể tính
cho cả kỳ hoặc cuối kỳ, đó là số dư tại thời điểm tính. Trong kỳ, khách hàng
có thể thực hiện vay trả nhiều lần song dư nợ không được vượt quá hạn mức

tín dụng.
Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép
người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến
một thời hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này gọi
là hạn mức thấu chi.
Cho vay trả góp: là hình thức cho vay theo đó ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn cho vay đã thoả thuận. Hình
thức này thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, hoặc cho
vay đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định.
Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung
gian. Hình thức này thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món
vay nhỏ, người vay phân tánm cách xa ngân hàng.
Lê Thanh Nga TCDN 44D
15
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.3.Vai trò của hoạt động cho vay của NHTM đối với DNNQD
Từ những đặc điểm và vai trò quan trọng của DNNQD đối với sự phát
triển đất nước, NHTM cần nhận thấy đây là một khu vực tiềm năng vì hiện
tại các DNNQD đang rất thiếu vốn. Ngoài các chính sách hỗ trợ của Nhà
nước, DNNQD còn cần sự hỗ trợ của NHTM thông qua hoạt động tín dụng
ngân hàng. Từ đó đã khẳng định vai trò của tín dụng ngân hàng trong việc
thúc đẩy kinh tế ngoài quốc doanh phát triển:
* Cho vay ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn để quá trình sản xuất kinh
doanh của các DNNQD được liên tục và phát triển
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh
đều cần phải có vốn, và đối với DNNQD cũng vậy, để thực hiện quá trình
tái sản xuất mở rộng cũng cần có một nguồn vốn đủ lớn để mua sắm tài sản
cố định, tài sản lưu động và các chi phí khác. Nếu chỉ sử dụng nguồn vốn tự
có thì quá ít ỏi và còn làm tăng chi phí vốn. Vì vậy, DNNQD phải huy động
các nguồn vốn từ bên ngoài mà nguồn vốn quan trọng nhất là nguồn vốn tín

dụng từ các NHTM.
Thông qua hoạt động cho vay của NHTM, các DNNQD đã có đủ
nguồn bổ sung cho vốn lưu động và vốn cố định, yên tâm tiến hành tái đầu
tư mở rộng sản xuất. Với nhiều hình thức cho vay khác nhau, DNNQD có
nhiều cơ hội lựa chọn nguồn vốn và cách thức vay phù hợp nhất với loại
hình và qui mô doanh nghiệp. Như vậy, có thể nói cho vay ngân hàng là
nguồn vốn hỗ trợ tốt nhất, đa dạng nhất để DNNQD có thể tiến hành quá
trình sản xuất kinh doanh một cách liên tục và phát triển.
* Cho vay ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các
DNNQD
Với một nguyên tắc cơ bản khi đi vay là người vay phải hoàn trả gốc
và lãi trong một thời gian nhất định, nếu quá hạn không trả được vốn vay thì
Lê Thanh Nga TCDN 44D
16
Chuyên đề tốt nghiệp
doanh nghiệp phải chịu tổn thất về kinh tế do lãi phạt quá hạn rất cao và sự
mất lòng tin của ngân hàng cho vay. Do đó bắt buộc doanh nghiệp phải tính
toán chi phí sản xuất, tốc độ vòng quay vốn, làm ăn có lãi để khi kết thúc
thời hạn vay vốn có thể đủ tiền để trả gốc, lãi và các khoản chi phí khác. Khi
kí kết hợp đồng tín dụng, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải thực hiện vốn
vay đúng mục đích và ngân hàng sẽ giám sát quá trình hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp. Thêm vào đó, để thu hồi vốn và thu được lãi vay, đôi khi
ngân hàng còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả. Hoạt
động cho vay của ngân hàng không phải là việc rải đều vốn cho tất cả khách
hàng có nhu cầu mà chủ yếu tập trung những khách hàng làm ăn hiệu quả để
tránh rủi ro cho ngân hàng. Chính vì vậy, các DNNQD muốn vay vốn ngân
hàng lâu dài phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay để thu hồi dòng tiền
đầu tư ban đầu để có thể trả gốc, lãi cho ngân hàng và thu về được một
khoản lợi nhuận cho mình.
* Cho vay ngân hàng kích thích tính năng động, sáng tạo của các

DNNQD
Muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường thì các
DNNQD phải phát huy được tiềm năng của mình, phải cạnh tranh. Sự cạnh
tranh không chỉ giữa DNNQD với DNNN và còn giữa các DNNQD với
nhau. Do đó, để có thể phát huy tính năng động và sáng tạo thì các DNNQD
phải có đầy đủ các điều kiện về nhân lực và vật lực. Chính ngân hàng là
nguồn hỗ trợ to lớn cho các DNNQD về vật lực để giúp DNNQD có thể
cạnh tranh và tồn tại trong một nền kinh tế thị trường sôi động như hiện nay.
NHTM là một trung gian tài chính nên ngoài hoạt động cho vay, ngân
hàng còn cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng khác như hoạt động thanh toán,
bảo lãnh, phát hành thư tín dụng… DNNQD có nhiều thuận lợi hơn các
DNNN trong việc lựa chọn các dịch vụ của ngân hàng. Chính vì vậy, cùng
với hoạt động cho vay, DNNQD có thể sử dụng kèm theo các dịch vụ khác
Lê Thanh Nga TCDN 44D
17
Chuyên đề tốt nghiệp
như mở thư tín dụng hay dịch vụ tư vấn mà ngân hàng cung cấp để hỗ trợ
hoạt động kinh doanh của mình.
Như vậy, hoạt động cho vay của ngân hàng đóng một vai trò to lớn
trong việc phát triển, tồn tại và cạnh tranh của DNNQD. Cho vay của
NHTM đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung vốn cho các thành phần
ngoài quốc doanh, tạo cơ sở vật chất cho các thành phần này đủ điều kiện
tiến hành sản xuất kinh doanh, mua sắm thiết bị công nghệ hiện đại,… góp
phần phát triển đất nước.
1.3.Chất lượng cho vay DNNQD của NHTM
1.3.1.Khái niệm chất lượng cho vay DNNQD
Chất lượng cho vay được quan niệm là sự đáp ứng tốt nhất nhu cầu về
vốn của DNNQD để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm sự
tồn tại, phát triển của ngân hàng và phù hợp với sự phát triển kinh tế -xã hội.
Đây là khái niệm tổng quát về chất lượng cho vay DNNQD, song một

quan hệ tín dụng luôn có sự ảnh hưởng đến ngân hàng, khách hàng và nền
kinh tế. Để hiểu rõ hơn chất lượng cho vay ngoài quốc doanh, ta xem xét sẹ
thể hiện của nó trên các khía cạnh sau:
- Đối với NHTM: Chất lượng cho vay thể hiện ở phạm vi, mức độ,
giới hạn cho vay phải phù hợp với khả năng, thực lực tho hướng tích cực
của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường,
đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng hoạt động cho
vay phải thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng dư nợ ngày càng
tăng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo đúng qui đinh và hợp lý, đảm bảo cơ
cấu nguồn vốn giữa ngắn hạn, trung và dài hạn trong nền kinh tế.
- Đối với khách hàng: Chất lượng cho vay DNNQD thể hiện ở chỗ
khoản cho vay cấp cho khách hàng phải có lãi và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn
giản, nhanh chóng, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo các
điều kiện cho vay đúng nguyên tắc và đúng qui định của ngân hàng. Các
Lê Thanh Nga TCDN 44D
18
Chuyên đề tốt nghiệp
khoản cho vay chất lượng phải đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân
hàng, góp phần lành mạnh hoá tài chính doanh nghiệp và phù hợp với điều
kiện phát triển của đất nước.
- Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội: Hoạt động cho vay của NHTM
trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự năng động của nền kinh tế khi
chuyển sang cơ chế mới. Nhiều khái niệm mới với những nội dung mới để
đạt được sự thống nhất về nhận thức và tạo điều kiện nâng cao chất lượng
hoạt động cho vay.
1.3.2.Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng cho vay DNNQD
Trong một vài năm trở lại đây, cùng với sự gia tăng về số lượng các
DNNQD là sự tăng về doanh số cho vay của NHTM đối với DNNQD.
Nhưng một thực tế đáng buồn là số lượng món vay nhiều song chất lượng
tín dụng chưa cao vì tình trạng nợ quá hạn gia tăng. Khi quyết định cho vay,

các NHTM chưa quan tâm đúng mức tính khả thi của dự án, năng lực sản
xuất của khách hàng nhất là của kinh tế ngoài quốc doanh mà chủ yếu dựa
vào tài sản thế chấp, quan hệ và uy tín của doanh nghiệp. Điều này dẫn đến
tình trạng nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng cao làm ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng của ngân hàng, ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng, làm giảm khả năng
cạnh tranh của ngân hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng mà nhất là nâng cao chất lượng cho vay
đối với DNNQD đang là vấn đề được quan tâm đối với NHTM. Bởi vì
NHTM là trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế và rất nhạy
cảm nên nếu một ngân hàng phá sản sẽ gây ra phản ứng dây chuyền tới cả
hệ thống ngân hàng và ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Một điều quan
trọng nữa là DNNQD không có sự bảo hộ của Nhà nước, phải tự chịu trách
nhiệm với hoạt động kinh doanh của mình nên rất dễ phá sản. Lợi ích của
việc nâng cao chất lượng cho vay ngoài quốc doanh được thể hiện dưới góc
độ của từng chủ thể nhu sau:
Lê Thanh Nga TCDN 44D
19
Chuyên đề tốt nghiệp
1.3.2.1.Góc độ khách hàng
Chất lượng khoản vay xét dưới góc độ khách hàng là DNNQD được
thể hiện ở sự thoả mãn nhu cầu vốn từ phía ngân hàng vả về khối lượng tín
dụng và thời gian, chi phí để có được khoản vay đó và hiệu quả sử dụng vốn
vay của khách hàng từ nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Đối với khách hàng,
chất lượng tín dụng là cao khi thời gian và chi phí vay vốn thấp, thủ tục
nhanh gọn và hiệu quả sử dụng vốn cao.
Khi xem xét một hợp đồng tín dụng, ngân hàng luôn phải thẩm định
tính khả thi của dự án, với dự án có rủi ro cao, ngân hàng phải tìm cách từ
chối. Đây là việc làm xuất phát từ lợi ích của ngân hàng nhưng cũng là lợi
ích của doanh nghiệp vì khi không thực hiện dự án, cả doanh nghiệp và ngân
hàng đều tránh được tổn thất. Như vậy, quá trình thẩm định là sự tái kiểm

tra tính khả thi của dự án, hạn chế rủi ro cho doanh nghiệp. Với những ngân
hàng có chất lượng tín dụng cao, doanh nghiệp còn tránh được phức tạp phát
sinh như hợp đồng không hợp pháp, thiếu giấy tờ, …
1.3.2.2.Góc độ ngân hàng
Tín dụng là hoạt động cơ bản và chủ yếu của ngân hàng. Tuy nhiên
đây cũng là hoạt động chứa đựng rủi ro cao nên ngân hàng luôn chú trọng
đến hoạt động cho vay của mình và nâng cao chất lượng tín dụng.
Nâng cao chất lượng tín dụng đồng nghĩa với việc ngân hàng có khả
năng thu nợ đầy đủ và đúng hạn. Nhờ đó, ngân hàng có điều kiện mở rộng
khả năng cung cấp tín dụng cũng như các dịch vụ ngân hàng khác.
Nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNQD là một việc làm rất cần
thiết để mở rộng tín dụng đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Vì
nâng cao chất lượng cho vay giúp ngân hàng xây dựng hình ành, uy tín với
khách hàng, thu hút thêm nhiều khách hàng mới đồng thời tăng cường khả
năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Lê Thanh Nga TCDN 44D
20
Chuyên đề tốt nghiệp
Hiện nay, các NHTM có xu hướng chuyển sang cạnh tranh bằng chất
lượng dịch vụ bởi vì chính sách lãi suất đã không còn là động lực chính để
thu hút khách hàng. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng cho vay là yêu cầu
khách quan và là xu thế phát triển chung.
1.3.2.3.Góc độ nền kinh tế
Doanh nghiệp là các tế bào tạo ra phần lớn của cải cho xã hội. Trong
khi nhiều ngành, nhiều doanh nghiệp vẫn đang trong tình trạng thiếu vốn thì
một số ngành lại được đầu tư quá mức; không tính đến cung cầu thị trường
nên sản phẩm làm ra ứ đọng, sản xuất đình trệ, chủ dự án không thể thu hồi
vốn đầu tư trả cho ngân hàng, dẫn tới khan hiếm vốn và hiệu quả sử dụng
vốn thấp. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để phân bổ nguồn lực hợp lý, khoa
học và giải quyết vấn đề này chính là nâng cao chất lượng tín dụng trên góc

độ nền kinh tế. Nhất là khi số lượng DNNQD đang tăng lên một cách nhanh
chóng thì việc nâng cao chất lượng cho vay đối với DNNQD càng cần thiết
hơn bao giờ hết.
1.3.3.Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng cho vay DNNQD
Đối với các NHTM, cho vay là nghiệp vụ truyền thống có vai trò
quan trọng trong việc phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhận
thức được tầm quan trọng của hoạt động tín dụng, mỗi ngân hàng đã luôn
chú trọng vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng, nhất là với loại hình
DNNQD là một thành phần kinh tế mới đang được các ngân hàng cho vay
mạnh mẽ. Thực tế hoạt động chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối
và không có một chỉ tiêu tổng hợp nào để phản ánh nó một cách chính xác.
Thông thường để đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân hàng, người ta
dùng một tập hợp các chỉ tiêu khác nhau nhưng về mặt cơ bản, chất lượng
cho vay DNNQD được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
1.3.3.1.Nhóm chỉ tiêu định lượng
Lê Thanh Nga TCDN 44D
21
Chuyên đề tốt nghiệp
* Chỉ tiêu doanh số cho vay DNNQD
Đây là chỉ tiêu phản ánh chính xác, tuyệt đối về hoạt động cho vay
trong một thời gian dài, thấy được khả năng hoạt động tín dụng qua các
năm, cho thấy khả năng mở rộng cho vay. Do đó, nếu kết hợp được doanh
số cho vay của nhiều thời kỳ thì ta sẽ thấy được phần nào về xu hướng hoạt
động cho vay.
Doanh số cho vay NQD
Tỷ trọng doanh số cho vay DNNQD =
Tổng doanh số cho vay
* Chi tiêu tổng dư nợ
Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp
cho nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn

hạn, cho vay trung, dài hạn… Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tài sản
của ngân hàng chưa cao, trình độ cán bộ tín dụng còn hạn chế…Mặc dù vậy,
không có nghĩa là chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng tín dụng càng cao.
Dư nợ DNNQD
Tỷ trọng dư nợ DNNQD =
Tổng dư nợ
* Chỉ tiêu doanh số thu nợ
Chỉ tiêu doanh số thu nợ cho biết ngân hàng làm ăn có hiệu quả hay
không, các khoản vay có an toàn hay không, các doanh nghiệp có sử dụng
đúng mục đích khoản vay hay không.
Doanh số thu nợ DNNQD
Tỷ trọng doanh số thu nợ =
Tổng thu nợ
* Chỉ tiêu nợ quá hạn DNNQD
Nợ quá hạn (NQH) là hiện tượng phát sinh từ mối quan hệ tín dụng
không hoàn hảo khi DNNQD đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không
Lê Thanh Nga TCDN 44D
22
Chuyên đề tốt nghiệp
đầy đủ nghĩa vụ trả nợ đúng hạn như cam kết. Chỉ tiêu nợ quá hạn được thể
hiện qua tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn cho vay DNNQD
và tổng dư nợ cho vay DNNQD của ngân hàng tại một thời điểm nhất định,
thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm
Nợ quá hạn cho vay DNNQD
Tỷ lệ NQH cho vay DNNQD =
Tổng dư nợ DNNQD
Xét về mặt bản chất,tín dụng là sự vay mượn dựa trên cơ sở ngân
hàng tin tưởng người đi vay có khả năng và sẵn sàng hoàn trả vào một thời
điểm nhất định trong tương lai, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc

nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được trả
đúng hạn như đã cam kết mà không có lí do chính đáng thì nó sẽ bị chuyển
sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất vay trước đó. Trên thực tế,
phần lớn các khoản NQH cho vay DNNQD càng cao thì ngân hàng càng gặp
khó khăn trong kinh doanh và sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh
toán và lợi nhuận cũng sẽ giảm. Điều này có nghĩa là tỷ lệ này càng thấp thì
chất lượng cho vay ngoài quốc doanh càng cao.
Để đánh giá chính xác hơn chỉ tiêu này, người ta chia tỷ lệ NQH cho
vay làm hai loại:
+) Tỷ lệ NQH cho vay NQD có khả năng thu hồi
NQH cho vay NQD có khả năng thu hồi
=
NQH cho vay NQD
+) Tỷ lệ NQH cho vay NQD không có khả năng thu hồi
NQH cho vay NQD không có khả năng thu hồi
=
NQH cho vay NQD
* Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng
Lê Thanh Nga TCDN 44D
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Vòng quay vốn tín dụng là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán
hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng
tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Doanh số thu nợ
Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ bình quân
Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay
tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh,
tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Với một số vốn

nhất định, nhưng do vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng đã đáp
ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, mặt khác ngân hàng có vốn để
tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy, chỉ tiêu này càng tăng càng
phản ánh tình hình tổ chức quản lý tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng
càng cao.
1.3.3.2.Nhóm chỉ tiêu định tính
Ngoài các chỉ tiêu có thể định lượng chất lượng cho vay DNNQD,
người ta có thể sử dụng các chỉ tiêu định tính như:
- Uy tín của ngân hàng trong việc cấp tín dụng đối với DNNQD
- Sự tuân thủ các qui định của NHNN và hoạt động cấp tín dụng cho
các DNNQD
- Hệ thống trang thiết bị phục vụ công tác chuyên môn có hiệu quả
- Trình độ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng
- Quy trình nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng
1.4.Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay DNNQD
của NHTM
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay NQD của
NHTM song có thể khái quát thành hai nhóm nhân tố chính là:
Lê Thanh Nga TCDN 44D
24
Chuyên đề tốt nghiệp
1.4.1.Nhân tố khách quan:
Là nhóm nhân tố thuộc về môi trường bên ngoài hoạt động cho vay
của NHTM đối với DNNQD. Nhóm nhân tố này bao gồm:
Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý bao gồm các cơ chế, chính
sách, luật, qui định…của Nhà nước nhằm điều chỉnh các hoạt động cho vay
của NHTM đối với DNNQD. Trong quá trình đổi mới nền kinh tế thì môi
trường pháp lý về hoạt động của các DNNQD đã có nhiều thay đổi theo
hướng tích cực, tạo điều kiện không ngừng cho các phát triển. Nếu như
trước đây, chế độ cho vay đối với DNNQD được qui định trong Quyết định

số 18/NH-QĐ ngày 27/04/1998 của Thống đốc NHNN Việt Nam thì nay đã
không có sự khác biệt giữa khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001,
qui định việc cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng không
phân biệt khách hàng thuộc thành phần kinh tế nào, thuộc Nhà nước hay
không thuộc Nhà nước. Điều này thể hiện chủ trương, quan điểm của Đảng:
Mọi thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường đều có quyền tự do kinh
doanh nhưng phải đảm bảo việc tuân thủ pháp luật.
Môi trường kinh tế : Đây là môi trường sống của doanh nghiệp, bao
gồm các yếu tố như giá cả, cung cầu, sự cạnh tranh…những yếu tố này luôn
thay đổi và có nhiều tác động đến cả NHTM và DNNQD. Tình trạng nền
kinh tế phát triển hay suy thoái luôn có ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn
ngân hàng, ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp. Doanh nghiệp
hoạt động trong nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, môi trường
cạnh tranh lành mạnh, tốc độ lưu chuyển vốn nhanh…sẽ tác động tích cực
đến hoạt động kinh doanh, dẫn đến khả năng tăng doanh thu và lợi nhuận
cao, ổn định của doanh nghiệp làm chất lượng tín dụng của ngân hàng cao.
Ngược lại, trong tình hình kinh tế suy thoái, hoạt động đầu tư bị đình trệ, các
DNNQD hoạt động kinh doanh bị thua lỗ dẫn tới doanh số cho vay của ngân
Lê Thanh Nga TCDN 44D
25

×