BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: Trình bày lý luận của CN Mác Lênin về thất nghiệp và
liên hệ với thực tiễn ở Việt Nam.
Họ và tên sinh viên : Trịnh Hồng Yến
Lớp
: Quản lý công 62
Mã sinh viên
: 11207534
GVHD
:
Hà Nội, tháng 06 năm 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................
NỘI DUNG..................................................................................................................................
I. Quan điểm của CN Mác – Lênin vể thất nghiệp 2
(1)
Theo Wikipedia,
2
(2) Trích “Capitalism and unemployment — a Marxist view” theo
greenleft.org.au..........................................................................................................................
(3) Trích “ How Marxism explains unemployment ” theo
...................................................................................................................................................
II. Thực trạng thất nghiệp của Việt Nam
6
III. Nguyên nhân gây nên tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam
9
1. Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và cạnh tranh thấp 9
2. Lao động Việt Nam có trình độ tay nghề thấp
9
3. Cơ cấu lao động chưa hợp lí 10
4. Suy nghĩ của lao động trẻ
11
5. Chính sách của nhà nước
11\
IV. Tác động của COVID – 19 tới vấn đề thất nghiệp của Việt Nam
1. Đại dịch Covid- 19 và những tác động chung tới nền kinh tế
12
12
2. Tác động của Đại dịch Covid – 19 tới tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam
13
3. Giải pháp hỗ trợ, cải thiện tình trạng thất nghiệp của Việt Nam hiện nay
15
KẾT LUẬN..................................................................................................................................
Danh sách tài liệu tham khảo :.........................................................................................................
LỜI MỞ ĐẦU
Xuất phát từ một nước nông nghiệp nghèo, lạc hậu với nền kinh tế
phát triển chậm, Việt Nam đã chọn chon đường quá độ tiến lên
CNXH. Trải qua 30 năm phát triển, nền kinh tế đã có nhiều khởi sắc
đặc biệt là sự thay đổi chuyển từ kinh tế tập trung quan lieu bao cấp
hạn chế về nhiều mặt và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế sang cơ
chế thị trường nhiều thành phần,mở cửa hội nhập với nhiều nơi trên
thế giới. Sự thay đổi này đã mang lại cho nước ta thành tựu về nhiều
mặt cả ở phương diện kinh tế cũng như xã hội. Nhưng xét đến tính hai
mặt của vấn đề thì cơ chế thị trường bên cạnh những mặt tốt, mang lại
hiệu quả kinh tế cao thì cũng tồn tại những mặt hạn chế : Một trong số
đó phải đề cập tới tình trạng thất nghiệp đã xuất hiện và ngày càng
tang. Đây là một vấn đề xã hội mà gần như khơng tìm thấy ở nền kinh
tế bao cấphay nền kinh tế phong kiến trước đây mà nước ta đã trải
qua. Hơn hết, mọi người đều biết một điều rằng “Đất nước muốn phát
triển tồn diện thì nguồn nhân lực là yếu tố khơng thể thiếu, giữ vai trị
quan trọng nhất và có đóng góp lớn vào sự phát triển này ”.Bởi vậy, có
thể thấy được vấn đề thất nghiệp có ảnh hưởng nhiều đến tình hình
phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Vấn đề này nguyên nhân do
đâu, phải chăng là:
– Trình độ của sinh người lao động không đáp ứng được yêu cầu
ngày một cao của công việc, do chất lượng đào tạo thấp của các
trường dạy nghề, đại học,cao đẳng ?
– Do lượng cung lớn hơn cầu về nguồn lao động ?
– Do chính sách của nhà nước chưa hợp lý trong việc sử dụng lao
động ? …vv
Hiện nay, khi tình hình thế giới đang gặp nhiều khó khăn, khủng
hoảng… do chịu ảnh hưởng xấu của đại dịch thế kỉ CoVid-19 xuất
hiện và gây ảnh hưởng tới mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội… Sự xuất hiện này đặc biệt gây ra ảnh hưởng lớn nhất đối với nền
kinh tế thế giới. Tất cả các quốc gia đều bị thiệt hại không hề nhỏ, chỉ
số phát triển ở hầu hết các quốc gia không những thấp mà còn trở nên
thụt lùi so với giai đoạn trước. những ảnh hưởng xấu này đã làm cho
hoạt động hoạt động kinh tế như hoạt động xuất nhập khẩu hang hóa,
các thị trường của nhiều loại sản phẩm bị thu hẹp dấn tới tình trạng
thất nghiệp ở nhiều quốc gia đang trở thành một vấn đề nhức nhối,
được tồn xã hội quan tâm. Đây là lí do tơi chọn đề tài “ Thất nghiệp
trong bối cảnh Covid-19 ở Việt Nam hiện nay”
NỘI DUNG
I.
Quan điểm của CN Mác – Lênin vể thất nghiệp
(1) Theo Wikipedia,
Thất nghiệp trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn
có việc làm mà khơng tìm được việc làm hoặc khơng được tổ chức,
công ty và cộng đồng nhận vào làm. Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số
người lao động khơng có việc làm trên tổng số lực lượng lao động xã
hội.
Lịch sử của tình trạng thất nghiệp chính là lịch sử của cơng
cuộc cơng nghiệp hóa. Ở nơng thơn, mặc dù có tình trạng thiếu việc
làm, thất nghiệp một phần, làm việc ít thời gian ở nơng thơn, nhưng
thất nghiệp khơng bị coi là vấn đề nghiêm trọng.
Trong lịch sử loài người, thất nghiệp chỉ xuất hiện trong xã hội
tư bản. Ở xã hội cộng đồng xã hội nguyên thủy, việc phải duy trì trật
tự trong bầy đàn buộc mọi thành viên phải đóng góp lao động và được
làm việc. Trong xã hội phong kiến châu Âu, truyền đời đất đai đảm
bảo rằng con người ln có việc làm. Ngay cả trong xã hội nô lệ, chủ
nô cũng không bao giờ để tài sản của họ (nô lệ) rỗi rãi trong thời gian
dài. Các nền kinh tế theo học thuyết Mác-Lênin cố gắng tạo việc làm
cho mọi cá nhân, thậm chí là phình to bộ máy nếu cần thiết (thực tế
này có thể gọi là thất nghiệp một phần hay thất nghiệp ẩn nhưng đảm
bảo cá nhân vẫn có thu nhập từ lao động).
Trong xã hội tư bản, giới chủ chạy theo mục đích tối thượng
là lợi nhuận, mặt khác họ khơng phải chịu trách nhiệm cho việc sa thải
người lao động, do đó họ vui lịng chấp nhận tình trạng thất nghiệp,
thậm chí kiếm lợi từ tình trạng thất nghiệp. Người lao động khơng có
các nguồn lực sản xuất trong tay để tự lao động phải chấp nhận đi làm
thuê hoặc thất nghiệp.
Các học thuyết kinh tế học giải thích thất nghiệp theo các
cách khác nhau. Kinh tế học Keynes nhấn mạnh rằng nhu cầu yếu sẽ
dẫn đến cắt giảm sản xuất và sa thải công nhân (thất nghiệp chu kỳ).
Một số khác chỉ rằng các vấn đề về cơ cấu ảnh hưởng thị trường lao
động (thất nghiệp cơ cấu). Kinh tế học cổ điển và tân cổ điển có xu
hướng lý giải áp lực thị trường đến từ bên ngoài, như mức lương tối
thiểu, thuế, các quy định hạn chế th mướn người lao động (thất
nghiệp thơng thường). Có ý kiến lại cho rằng thất nghiệp chủ yếu là sự
lựa chọn tự nguyện. Chủ nghĩa Mác giải thích theo hướng thất nghiệp
là thực tế giúp duy trì lợi nhuận doanh nghiệp và chủ nghĩa tư bản.
Các quan điểm khác nhau có thể đúng theo những cách khác nhau,
góp phần đưa ra cái nhìn tồn diện về tình trạng thất nghiệp.
(2) Trích “Capitalism and unemployment — a Marxist view” theo
greenleft.org.au
Karl Marx, người cùng với cộng sự Friedrick Engels đã đưa cuộc
đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội là cơ sở khoa học vào thế kỷ 19, tin
rằng chủ nghĩa tư bản cần thất nghiệp: chính hoạt động sản xuất tư bản
vì lợi nhuận đã tạo ra thất nghiệp, ngay cả trong thời kỳ kinh tế tốt
nhất.
Marx đã lập luận trong Capital , tác phẩm chính của ơng về kinh tế
chính trị, rằng các nhà tư bản luôn cạnh tranh với nhau để tạo ra lợi
nhuận lớn hơn. Cách chính mà họ cạnh tranh là giảm chi phí, phần lớn
là tăng năng suất lao động. Một cách chủ yếu để thực hiện điều này là
thay thế tư bản khả biến (lao động sống) bằng tư bản cố định (máy
móc).
Bởi vì mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa là tối đa hóa lợi
nhuận, bất cứ khi nào công nghệ mới được đưa vào thường đồng nghĩa
với việc cắt giảm việc làm. Điều này là do nhà tư bản có thể tạo ra
nhiều (hoặc nhiều hơn) so với trước đây, với ít cơng nhân hơn.
Marx nói: “Lợi ích tuyệt đối của mọi nhà tư bản là ép một lượng
lao động nhất định ra khỏi một số lượng lao động nhỏ hơn chứ không
phải là nhiều hơn, nếu chi phí là như nhau”, Marx nói.
Khi năng suất tăng lên, ơng chủ có thể sử dụng ít cơng nhân hơn
để sản xuất nhiều hơn. Người lao động "dư thừa" được làm cho dư
thừa.
Tuy nhiên, Marx cho rằng, sản xuất tư bản chủ nghĩa không chỉ là
con đường một chiều. Trong khi cơng nghệ mới có thể thay thế người
lao động từ một ngành công nghiệp, các ngành công nghiệp mới liên
tục được phát triển. Người lao động liên tục được tái sử dụng và sau
đó được "thả tự do".
Mặc dù nó có thể tăng hoặc giảm, nhưng bản thân thất nghiệp là
một đặc điểm thường trực của chủ nghĩa tư bản.
"Của cải xã hội càng lớn ... và do đó, cũng là khối lượng tuyệt đối
của giai cấp vơ sản và năng suất lao động của nó, thì đội quân dự trữ
công nghiệp [tức là những người thất nghiệp] càng lớn", Marx nói.
"Do đó, khối lượng tương đối của đội quân dự bị công nghiệp tăng lên
cùng với năng lượng tiềm tàng của sự giàu có."
Tuy nhiên, những người thất nghiệp không chỉ là một "đội quân
lao động dự bị" thường trực để gọi vốn. Họ cũng phục vụ vốn bằng
cách đặt áp lực thường trực lên tiền lương của những người được
tuyển dụng, khuyến khích họ làm việc chăm chỉ hơn với mức lương
thấp hơn, khi bị mất việc vào tay người khác.
"Xét một cách tổng thể, các chuyển động chung của tiền lương
được điều chỉnh hoàn toàn bởi sự mở rộng và thu hẹp của đội quân dự
bị công nghiệp, và những thay đổi này một lần nữa tương ứng với
những thay đổi định kỳ của chu kỳ công nghiệp", Marx nói.
Những người bị đe dọa cắt lương hoặc mất việc làm khi suy thối
kinh tế tồn cầu ập đến, sẽ biết ý của Marx.
Chủ nghĩa tư bản đã giải phóng tiềm năng sản xuất đồ sộ của nhân
loại. Nó đã xã hội hóa sản xuất, mở ra khả năng về một thế giới tốt
đẹp hơn - một thế giới dựa trên sức mạnh của sự hợp tác và tổ chức
toàn xã hội.
Sức sản xuất to lớn như vậy - nếu được đặt dưới sự kiểm soát của
người lao động và cộng đồng có thể giải quyết các cuộc khủng hoảng
trên thế giới. Sự nóng lên tồn cầu, nạn đói, việc làm quá mức và thất
nghiệp đều có thể là dĩ vãng, nhưng không phải trong khi sản xuất vẫn
chỉ hướng đến lợi nhuận.
Marx tin rằng nhân dân lao động có cả quyền và khả năng để điều
hành xã hội tốt hơn. Tuy nhiên, để làm được như vậy, trước hết họ
phải nắm quyền chính trị từ tay nhà tư bản và sử dụng nó để tổ chức
lại sản xuất một cách có ích cho xã hội.
(3) Trích “ How Marxism explains unemployment ” theo
Vào cuối năm 1950, tỷ lệ thất nghiệp ở Úc là 0,2% - con số thấp
nhất từ trước đến nay. Trong hai thập kỷ, cho đến cuối những năm
1960, người ta thường nói rằng chính phủ thời đó sẽ sụp đổ nếu tỷ lệ
thất nghiệp vượt qua mức 2%.
Ngày nay tỷ lệ thất nghiệp 5-6% được coi là “bình thường”. Ở
hầu hết các quốc gia cịn lại trên thế giới, ít nhất là ở các nước phát
triển, tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng tương tự. Tại sao điều này là trường
hợp? Hoặc, để tập trung tốt hơn vào câu hỏi thực tế: tại sao gần như
ln có một số lượng lớn những người khơng thể tìm được việc làm?
Những lý do cơ bản là chủ nghĩa tư bản vừa tạo ra vừa cần thất
nghiệp.
Như Karl Marx đã giải thích trong các tác phẩm kinh tế cách
mạng của mình, các khoản đầu tư của các nhà tư bản có thể được chia
thành hai phần: phần thuê công nhân và phần mua hoặc thuê phương
tiện sản xuất - máy móc, nguyên liệu thô, nhà xưởng.
Khi chủ nghĩa tư bản phát triển, hai q trình làm giảm phần vốn
th cơng nhân. Cạnh tranh dẫn đến sự tập trung: con cá lớn nuốt con
cá bé, hoặc hai công ty vừa hoặc lớn hợp nhất để trở thành con cá lớn
hơn. Công ty hợp nhất được hưởng “tính kinh tế theo quy mơ” lớn
hơn, về cơ bản có nghĩa là một cơng nhân có thể điều hành một lượng
vốn lớn hơn của công ty. Như bất kỳ ai theo dõi tin tức kinh doanh dù
chỉ một chút cũng có thể chứng thực, bất cứ khi nào có sự hợp nhất
của hai cơng ty, một kết quả được đảm bảo là sa thải.
Quá trình khác là động lực của các nhà tư bản để tăng năng suất,
vốn bị áp đặt bởi cạnh tranh. Theo định nghĩa, năng suất cao hơn có
nghĩa là sản xuất ra số lượng sản phẩm lớn hơn từ một khoản đầu tư
nhỏ hơn. Một cách để làm điều này là giảm lương và tăng giờ làm
việc. Nhưng có những giới hạn sinh lý cho điều đó. Cách khác, lâu
dài hơn và về cơ bản là không giới hạn, để tăng năng suất là cung cấp
cho người lao động những máy móc hoặc công cụ hiệu quả hơn.
Nhưng nếu công nhân chuyển sang sử dụng máy móc hiệu quả
hơn, thì tất nhiên sẽ cần ít cơng nhân hơn để sản xuất bất kỳ số lượng
sản phẩm nhất định nào. Trong một hệ thống tư bản chủ nghĩa, công
nghệ “tiết kiệm lao động” nhất thiết phải hủy hoại việc làm của một số
công nhân.
Điều này khơng có nghĩa là số lượng cơng việc giảm liên tục.
Các ngành cụ thể có thể tìm thị trường mới và mở rộng; những ngành
cơng nghiệp mới có thể được tạo ra cần lao động; cầu về lao động
tăng và giảm theo những thay đổi của chu kỳ kinh doanh. Nhưng điều
đó có nghĩa là chủ nghĩa tư bản đã có sẵn xu hướng đẩy cơng nhân ra
khỏi sản xuất.
Và đó chính xác là điều kiện mà chủ nghĩa tư bản cần. Các nhà
tư bản cần một đội ngũ công nhân - Marx gọi họ là “đội quân dự bị
công nghiệp” - những người có thể được đưa vào và loại bỏ sản xuất
theo yêu cầu thay đổi của các nhà tư bản. Khi nền kinh tế đang được
cải thiện, họ cần công nhân ngay lập tức: thuê một số người thất
nghiệp. Khi công việc kinh doanh đi xuống, hãy tiết kiệm tiền - loại
bỏ chúng. Bạn ln có thể nhận được nhiều hơn khi mọi thứ tăng lên.
Việc mở rộng và thu hẹp đội qn dự bị cơng nghiệp có thể xảy ra
trên một quy mô thực sự khổng lồ trong thời kỳ khủng hoảng. Trong
Thế chiến thứ hai, các quốc gia hiếu chiến lớn đã đưa hàng triệu người
lao động vào quân đội của họ và thu hút hàng triệu phụ nữ làm công
việc được trả lương để thay thế họ. Khi chiến tranh kết thúc, họ đã
đẩy nhiều phụ nữ trở lại vai trò “người làm việc nhà” khơng cơng.
Hầu hết những phụ nữ này khơng được tính là thất nghiệp trong thống
kê chính thức, nhưng họ chắc chắn là một phần của quân đội dự bị
công nghiệp.
Dù tình hình của nền kinh tế như thế nào, thì số lượng người thất
nghiệp sẽ giúp giảm lương của người lao động và các nhu cầu khác.
Các nhà kinh tế học tư bản nói về cung và cầu lao động. Marx đã chỉ
ra:
“Đội quân dự bị công nghiệp, trong những thời kỳ trì trệ và thịnh
vượng trung bình, đè nặng lên đội quân lao động tại ngũ; trong thời
kỳ sản xuất q mức và mơ phỏng, nó ln kiểm sốt các xu hướng
của mình. Do đó [Đội qn dự bị công nghiệp] là trục xoay mà quy
luật cung cầu lao động hoạt động. Nó giới hạn… luật này trong những
giới hạn hoàn toàn thuận tiện để… khai thác và thống trị tư bản. ”
II.
Thực trạng thất nghiệp của Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm thất nghiệp được hiểu là những người
khơng có việc làm, có các hoạt động tìm kiếm việc làm và sẵn sàng
làm việc ngay khi có cơ hội việc làm trong giai đoạn tham chiếu.
Đổi mới kinh tế và chính trị trong 30 năm qua đã thúc đẩy phát triển
kinh tế và nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia
nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia có thu nhập trung bình
thấp từ năm 2008. Mặc dù vậy, hệ thống bảo hiểm thất nghiệp nói
riêng và hệ thống an sinh xã hội nói chung tại Việt Nam vẫn chưa
hồn thiện để phục vụ tốt người lao động, do đó đa số người dân
phải làm mọi công việc để tạo ra thu nhập ni sống bản thân và gia
đình. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho tỷ lệ thất nghiệp ở
Việt Nam thường thấp hơn so với các nước đang phát triển . Tuy
nhiên, thất nghiệp vẫn đang là một vấn đề lớn với nước ta được biểu
hiện qua các số liệu cụ thể trong ba năm gần đây :
Năm 2021
Theo số liệu mới nhất của tổng cục thống kê tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động giảm 1,1 điểm trong quý 1/2021 so với cùng kỳ năm
ngoái do đợt bùng phát dịch trở lại vào cuối tháng 1/2021.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi của quý này là
2,42%, trong đó khu vực thành thị là 3,19%, khu vực nông thôn là
1,98%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) ước tính là
7,44%, trong đó khu vực thành thị là 10,34%, khu vực nông thôn là
5,99%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính là
2,20%, trong đó khu vực thành thị là 1,52%, khu vực nông thôn là
2,60%.
Năm 2020
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, quý IV/2020, lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước đạt 55,1 triệu người, tăng
563,8 nghìn người so với quý trước và giảm 860,4 nghìn người so với
cùng kỳ năm trước. Tính chung năm 2020, lực lượng lao động từ 15
tuổi trở lên là 54,6 triệu người, giảm 1,2 triệu người so với năm trước.
Lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc ước khoảng 54 triệu người.
Tính chung cả năm 2020, lao động 15 tuổi trở lên đang làm việc là
53,4 triệu người.
Năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm tăng cao do ảnh hưởng
của dịch Covid-19. Trong năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp ước khoảng
2,26%, trong đó tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,61%; khu vực
nông thôn là 1,59%; Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 2,48%;
tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 3,88%; khu vực nông thôn là
1,75%.
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên (từ 15-24 tuổi) năm 2020 ước
tính là 7,1%, trong đó khu vực thành thị là 10,63%; khu vực nông thôn
là 5,45%.
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước tính là 2,51%,
trong đó tỷ lệ thiếu việc làm khu vực thành thị là 1,68%; tỷ lệ thiếu
việc làm khu vực nông thôn là 2,93%.
Tổng cục Thống kê đánh giá, tình hình lao động, việc làm q
IV/2020 có nhiều dấu hiệu khởi sắc so với quý trước nhưng do ảnh
hưởng của dịch Covid-19 nên tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm tính
chung cả năm 2020 cao hơn năm 2019 trong khi số người có việc làm,
thu nhập của người làm công ăn lương thấp hơn năm trước.
Cũng theo đơn vị này, tính chung năm 2020, cả nước có 16,5
nghìn lượt hộ thiếu đói, giảm 75,9% so với năm trước, tương ứng với
66,5 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói, giảm 76,1%.
Năm 2019
Thất nghiệp là vấn đề kinh tế - xã hội phổ biến đối với hầu hết các
quốc gia trong đó có Việt Nam. Kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà
ở 2019 (TĐTDSNO 2019) với những thông tin về tình trạng thất
nghiệp đã góp phần giúp Chính phủ đánh giá cung cầu của thị trường
lao động, đo lường mức độ sử dụng các nguồn lực cho tăng trưởng và
phát triển để ban hành và điều chỉnh các chính sách liên quan một
cách phù hợp nhất
Tỷ lệ thất nghiệp theo giới tính, thành thị, nơng thôn và vùng
kinh tế - xã hội năm 2019 (Đơn vị: %)
Chung
TỒN QUỐC
Trung du và miền núi phía Bắc
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sơng Cửu Long
2,05
1,20
1,87
2,14
Thành
thị,
nơng
thơn
Thành thị Nơng
thơn
2,93
1,64
2,15
1,02
2,78
1,47
3,38
1,70
1,50
2,65
2,42
1,82
2,96
3,39
1,37
2,14
2,12
Giới tính
Nam
Nữ
2,00
1,22
1,99
2,07
2,11
1,18
1,75
2,21
1,40
2,60
2,07
1,60
2,71
2,87
Tính theo vùng kinh tế, Đơng Nam Bộ là vùng có tỷ lệ lao động từ
15 tuổi trở lên thất nghiệp cao nhất cả nước với 2,65% dân số; tại đây
tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 2,96%, ở nông thôn là 2,14%; cịn theo
giới tính thì nữ giới lại có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn nam giới trong
Vùng với mức tương ứng là 2,71% và 2,60%. Đứng thứ 2 là Đồng
bằng sông Cửu Long với tỷ lệ thất nghiệp chiếm 2,42% số dân trong
vùng, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với tỷ lệ 2,14%. 2
Vùng kinh tế có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất cả nước lần lượt là Trung
du và miền núi phía Bắc 1,20% và Tây Nguyên 1,50%.
Tỷ lệ thất nghiệp theo giới tính, thành thị, nơng thơn và trình
độ chun mơn kỹ thuật năm 2019 (Đơn vị: %)
Chun
g
TỔNG SỐ
Khơng có trình độ CMKT
Thành thị,
nơng thơn
Thành Nơng
thị
thơn
2,05
2,93
1,64
1,99
2,94
1,67
Giới tính
Nam
Nữ
2,00 2,11
2,04 1,93
Sơ cấp
Trung cấp
Cao đẳng
Đại học
Trên Đại học
1,30
1,83
3,19
2,61
1,06
1,88
2,62
4,34
3,11
1,13
0,88
1,24
2,19
1,70
0,60
0,83
1,61
3,07
2,48
0,99
4,57
2,13
3,29
2,75
1,14
Tỷ lệ thất nghiệp cao nhất thuộc về nhóm lao động có trình độ cao
đẳng (3,19%), tiếp đến là nhóm có trình độ đại học (2,61%). Nhóm có
tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn lại là những lao động trình độ thấp hơn như
trung cấp (1,83%), sơ cấp (1,3%) và khơng có trình độ chun mơn kỹ
thuật (1,99%). Riêng đối với nhóm có trình độ trên đại học, do nhu
cầu cao về trình độ chuyên mơn trong thời kỳ đổi mới nên có tỷ lệ thất
nghiệp thấp nhất (chỉ 1,06%). Các số liệu cũng cho thấy, hầu như ở
các trình độ chun mơn kỹ thuật tỷ lệ thất nghiệp ở nữ giới luôn cao
hơn so với nam giới, đặc biệt đối với nhóm lao động có trình độ sơ
cấp (có tỷ lệ 4,57%).
Tỷ lệ lao động thất nghiệp theo giới tính, nhóm tuổi và thành
thị, nông thôn năm 2019 (Đơn vị: %)
Tổng
số
Nam
Nữ
TỔNG SỐ
100,0
15-24 tuổi
25-54 tuổi
55-59 tuổi
60 tuổi trở lên
Thành thị
44,4
47,3
3,9
4,4
100,0
15-24 tuổi
25-54 tuổi
55-59 tuổi
60 tuổi trở lên
Nông thôn
42,5
52,7
2,8
2,0
100,0
15-24 tuổi
25-54 tuổi
55-59 tuổi
60 tuổi trở lên
46,1
42,9
4,8
6,2
100,
0
45,7
46,9
3,2
4,2
100,
0
40,2
54,7
2,9
2,2
100,
0
50,4
40,2
3,6
5,8
100,
0
43,1
47,8
4,6
4,5
100,
0
45,0
50,4
2,7
1,9
100,
0
41,5
45,7
6,2
6,6
Tỷ trọng nữ
trong tổng
số
48,7
47,2
49,2
57,9
50,4
48,5
51,3
46,4
47,4
44,8
48,9
44,1
52,1
62,9
52,0
Theo Kết quả TĐTDS&NO 2019, những người thất nghiệp
thường có độ tuổi khá trẻ; Hầu hết nguồn thất nghiệp có độ tuổi từ 1554 tuổi (chiếm tới 91,7% tổng số người thất nghiệp của cả nước);
trong đó, tỷ lệ thất nghiệp của nam giới từ 15-54 tuổi cao hơn nữ giới
trong cùng độ tuổi, tương ứng là 92,6% tổng số nam giới thất nghiệp
và 90,9% tổng số nữ giới thất nghiệp. Người trong độ tuổi từ 25-54
tuổi có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất, chiếm gần một nửa tổng số lao động
thất nghiệp của cả nước (47,3%); và thực trạng này ở khu vực thành
thị lên tới 52,7% và ở khu vực nông thôn là 42,9%.
Điều đáng nói là Kết quả Tổng điều tra cũng chỉ ra rằng, đối với tỷ
lệ lao động thất nghiệp theo trình độ tốt nhất đạt được, người thất
nghiệp có trình độ từ cao đẳng trở lên chiếm tỷ trọng cao trong tổng số
lao động thất nghiệp (18,9%) trong khi người thất nghiệp chưa được
đào tạo hoặc chỉ được đào tạo ngắn hạn (bao gồm: Sơ cấp, trung cấp)
chiếm tỷ trọng thấp hơn rất nhiều (6,6%).
III. Nguyên nhân gây nên tình trạng thất nghiệp ở Việt Nam
1. Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và cạnh tranh
thấp
Ảnh hưởng của việc suy giảm kinh tế toàn cầu khiến cho
nhiều xí nghiệp nhà máy phải thu hẹp sản xuất, thậm chí phải đóng
cửa do sản phẩm làm ra khơng tiêu thụ được. Chất lượng sản phẩm
đáp ứng nhu cầu xuất khẩu cịn thấp khơng sánh kịp với các sản phẩm
chất lượng cao của các quốc gia có trình độ phát triển cao. Chính vì
vậy mà các doanh nghiệp phải cắt giảm nguồn lao động dẫn đến lao
động mất việc làm.Đây là nguyên nhân chủ yếu, kinh tế Việt Nam vẫn
phụ thuộc nhiều vào đầu tư và xuất khẩu nên khi kinh tế tồn cầu bị
suy giảm thì nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng rất lớn và hậu quả là
nạn thất nghiệp sẽ tăng cao.
Nhìn chung năng suất lao động của nước ta vẫn còn thấp,
chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được với tiêu chuẩn ngày càng cao
của quốc tế, chưa tối thiểu hóa được chi phí sản xuất dẫn đến giá thành
sản phẩm cao không được lựa chọn. Ngồi ra các sản phẩm, hang hóa
nơng nghiệp, cơng nghiệp chưa tạo dựng được cho mình thị trường
tiêu thụ ở cả trong và ngồi nước.Sự kiểm sốt về hàng hóa chưa được
chú trọng gây ra hiện tượng bn lậu, hàng giả, hàng nhái tràn lan gây
ra tình trạng dư thừa cầu hàng hóa được sản xuất
Đầu tư của doanh nghiệp, nhà nước vào các ngành, lĩnh vực
kinh tế chưa hợp lí, đầu tư phân tán gây ra lãng phí tài nguyên, nguồn
vốn và gây thất thốt nhiều.Bên cạnh đó, nên kinh tế vẫn chưa tạo ra
nhiều thu hút với nguồn hỗ trợ, nguồn vốn đầu tư nước ngồi và cịn
nhiều khó khan trog cơng tác quản lý, kiểm tra và rà soát nguồn vốn
tạo nên khó khăn, rào cản lớn đầu tư từ nước ngồi
2. Lao động Việt Nam có trình độ tay nghề thấp
Tại Việt Nam, chất lượng giáo dục và đào tạo hiện vẫn còn thấp so
với yêu cầu lao động và xu thế chung của thế giới, đào tạo lý thuyết
chưa gắn với thực hành, gây lãng phí về nhiều mặt. Giáo dục ở nhiều
nới cịn gặp khó khăn như vùng sâu vùng xa , biên giới hải đảo làm
cho chất lượng nguồn lao động ở nhiều vùng chưa đồng đều.Cùng với
đó là sự phát triển của khoa học kĩ thuật Công nghiệp 4.0 , việc áp
dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới nên đòi
hỏi một đội ngũ lao động có trình độ chun mơn cao, thành thạo tay
nghề. Trong khi đó đội ngũ lao động ở nước ta chỉ một số ít lao động
có trình độ, tay nghề. Tác phong công nghiệp của lực lượng lao động
nước ta cịn non yếu,thiếu tính chun nghiệp; trong khi nền kinh tế
đòi hỏi một đội ngũ lao động năng động.Lao động và việc làm ngày
càng gay gắt khi đất nước tiến hành công cuộc đổi mới cùng với điều
chỉnh cơ cấu kinh tế phải tổ chức lại lao động trên phạm vi toàn xã
hội, chuyển dịch cơ cấu lao đọng cho phù hợp với cơ cấu mới của nền
kinh tế. Trong quá trình dịch chuyển này chúng ta vừa thiéu lao động
có kỹ thuật, lại vừa thừa khá lớn lao động phổ thông. Thất nghiệp
trong số người được đào tạo. Mức thất nghiệp trong số những người
được giáo dục liên quan tới việc thị trường điều chỉnh theo dịng người
tốt nghiệp phổ thơng, giáo dục mở rộng nhưng hiến khi có đủ việc làm
cho họ khi ra trường. Nguyện vọng về việc làm trong những người
được giáo dục không đáp ứng được. Điều này đã dẫn đến nạn “thất
nghiệp kết cấu “ rất nghiêm trọng lao động kỹ thuật cao, lao động chất
xám lại thiếu nghiêm trọng. Bên cạnh trình độ thì vấn đề về thể lực
cũng làm cho chất lượng nguồn nhân lực của nước ta không được
đánh giá cao. Nguồn nhân lực Việt Nam thể lực kém không đáp ứng
được với cường độ lao động của các doanh nghiệp quốc tế tới làm việc
tại Việt Nam, cũng như các kĩ thuật dây chuyền máy móc hiện đại yêu
cầu sự phối hợp của con người trong quá trình hoạt động
3. Cơ cấu lao động chưa hợp lí
Lực lượng lao động thành thị đang ngày một tăng ngồi ra do di
cư từ nơng thơn ra thành thị đã gây ra tỷ lệ thất nghiệp cao ở đô thị..
Nhân lực ở nông thôn thiếu việc làm, thu nhập thấp do đó tràn ra đơ
thị kiếm việclàm và một cuộc sống dễ chịu hơn so với nông thôn. Đây
là nguyên nhân thường gặp ở nhiều nước chậm phát triển. Trong khi
đó ở đơ thị, người ta lại chú trọng nhiều đến loại doanh nghiệp công
nghiệp hệ số vốn đầu tư cao nhưng thường chỉ số có chỉ số sử dụng
nhân lực thấp, coi nhẹ tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, các hoạt
động dịch vụ và tổ chức sản xuất của các hộ gia đình. Ở đơ thị tồn tại
một khu vực, được gọi là “khu vực không kết cấu”.Sự mất cân bằng
giữa cung và cầu về các nguần nhân lực ở đô thị là một trong nhiều
nguyên nhân làm nảy sinh những vấn đề phức tạp về kinh tế, xã hội ở
đô thị và cuộc sống của những người thất nghiệp.Việc sử dụng nguồn
nhân lực đô thị còn biểu hiện ra ở một dạng thất nghiệp khác gọi là
“thất nghiệp trá hình “ ẩn náu trong biên chế của các cơ quan nhà
nước, các doanh nghiệp nhà nước có q nhiều người so với u cầu
của cơng việc. Do đó khơng tạo được giá trị tổng sản phẩm và thu
nhập quốc dân gì lớn mà nhiều hoạt động chỉ là hoạt động tái phân
phối nhằm có thu nhập để sống (nhiều người có mức thu nhập dưới
mức sống tối thiểu ). Ngoài ra, vấn đề quan trọng được đặc biệt chú ý
tại đơ thị là cịn tồn tại nạn thất nghiệp, tỷ lệ số người này nhiều khi
chiếm khá cao (12-15% các nguần nhân lực ở đô thị ). Cơ cấu cũng
biến đổi nhưng thường thanh niên chiếm đại bộ phận.
Không chỉ mất cân đối cơ cấu lao động ở thành thị và nông thôn, ở
Việt Nam cịn diễn ra tình trạng mất cân đối cung – cầu lao động giữa
các vùng kinh tế. Lao động tập chung chue yếu ở các vùng kinh tế
trọng điểm như cùng kinh tế trọng điểm Phía Bắc, Vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung … Nguồn nhân
lực ở đây tuy tập trung đông, nhu cầu về nguồn nhân lực lớn, tuy
nhiên ở các vùng này chủ yếu phát triển về công nghiệp chủ yếu sử
dụng các cơng cụ máy móc, kĩ thuật hiện đại hàng đầu cả nước địi hỏi
nguồn nhân lực phải có trình độ khoa học kĩ thuật cao mà đa số nguồn
nhân lực nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu này.
4. Suy nghĩ của lao động trẻ
Những lao động trẻ mới tốt nghiệp ra trường với thói quen học
để “làm thầy” chứ khơng ai muốn mình “làm thợ”, hay thích làm
việc cho nhà nước mà khơng thích làm việc cho tư nhân. Với lý do
này, nhu cầu xã hội không thể đáp ứng hết yêu cầu của lao động,
điều này là thiếu thực tế bởi không dựa trên khả năng của bản thân
và nhu cầu của xã hội. Một bộ phận lao động trẻ lại muốn tìm đúng
cơng việc mình u thích mặc dù các cơng việc khác tốt hơn nhiều,
bộ phận lao động này còn sẵn sang bỏ ra vài năm để tìm kiếm, chờ
đợi làm được cơng việc mình mong muốn dẫn đến tình trạng những
ngành cần lao động thì lại thiếu lao động, trong khi đó lại thừa lao
động ở các ngành không cần nhiều lao động. Ngồi ra chúng ta cịn
có thể thấy một bộ phận lao động trẻ su khi học tập tạp các thành
phố lớn thì thường hay có tâm lý muốn ở lại sinh sống và làm việc
tại đó mà khơng quay trở lại quê hương để làm việc. thậm chí, những
người lao động trẻ này cịn sẵn sàng làm những cơng việc trái với
ngành đào tạo cũng như nhận mức thu nhập thấp hơn khả năng của
bản thân để được ở các thành phố lớn. Điều này làm cho dư thừa lao
động trẻ, có chun mơn kĩ thuật cao và thiếu việc làm là khá lớn
5. Chính sách của nhà nước
Cơng tác quản lý của nhà nước có tác động vơ cùng to lớn tời
toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là về quản lý nguồn nhân lực và việc
làm.Tuy nhiên trong những cơng tác này vẫn cịn tồn tại những hạn
chế trong cơ chế, chính sách của nhà nước khơng đồng bộ và chưa
tạo được động lực mạnh để phát triển khả năng tạo ra cầu về công
việc làm của doanh nghiệp lớn hiện đại để sử dụng nguồn nhân lực
mới tăng hàng năm ở cả nước. Nhà nước chưa có chính sách vĩ mơ
như: thuế, đất đai tín dụng, thị trường. . . chưa có các chính sách cụ
thể khuyến khích các lĩnh vực, ngành nghề và hình thức thu hút được
nhiều lao động theo yêu cầu của thị trường lao động, chưa có hệ
thống đào tạo, đào tạo lại và phổ cập nghề phù hợp với cơ chế thị
trường. Một số cơ chế, chính sách cịn thiếu, chưa nhất quán thiếu
khả thi, nhiều quy định chưa được sửa đổi thay thế khơng cịn phù
hợp với nền kinh tế gây ra kìm hãm hoạt động sản xuất và phát triển
của nhiều ngành nghề. Ngồi ra, các chính sách của nhà nước về thất
nghiệp, bảo hiểm và hỗ trợ của người lao động tuy đã được quan tâm
nhưng chưa giái quyết được triệt để nhu cầu của người dân ở công
táctư vấn đào tạo, hỗ trợ họ quay lại với nghề, với cơng việc của
mình. Chính sách nhà nước chưa quan tâm được tới cơng đồn, vần
tồn tại những hạn chế chưa bảo vệ được quyền lợi của người lao
động, làm cho họ thiệt thòi đặc biệt về chế độ tiền công
IV.Tác động của COVID – 19 tới vấn đề thất nghiệp của
Việt Nam
1. Đại dịch Covid- 19 và những tác động chung tới nền kinh
tế
a. Nền kinh tế thế giới
Đại dịch COVID-19còn được gọi là đại dịch coronavirus, là
một đại dịch bệnh truyền nhiễm với tác nhân là virus SARS-CoV-2,
đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Khởi nguồn vào cuối tháng 12
năm 2019 với tâm dịch đầu tiên được ghi nhận tại thành phố Vũ Hán
thuộc miền Trung Trung Quốc, bắt nguồn từ một nhóm người mắc
viêm phổi không rõ nguyên nhân. Đại dịch Covid-19 đến nay dịch
bệnh đã lây lan trên tồn cầu. Khơng thể phủ nhận một sự thật,
Covid-19 đã làm cho nhiều ngành nhiều lĩnh vực trên thế giới trở
nên “điêu đứng”. Covid-19 là cú sốc bất ngờ, thần tốc và hủy diệt
nhất trong lịch sử cận đại.
Đến nay, dịch bệnh vẫn chưa được kiểm sốt và cịn lây lan
nhanh, diễn biến phức tạp tại châu Âu, Mỹ và nhiều nước châu Á;
tác động tiêu cực đối với mọi hoạt động kinh tế - xã hội tồn cầu và
Việt Nam; trong đó, hầu hết các ngành, lĩnh vực kinh tế đều chịu tác
động tiêu cực.
Hiện tại, đại dịch Covid - 19 tác động tới kinh tế và thương mại
thế giới với 4 đặc điểm khác biết cơ bản như sau: Thứ nhất, tất cả
các nền kinh tế đều đồng thời bị tác động bất ngờ theo cách như
nhau; Thứ hai, cả phía cung lẫn bên cầu đồng thời bị suy giảm chứ
không bị mất cân đối đáng kể so với trước đấy; Thứ ba, kinh tế và
thương mại sa sút không phải do nguyên nhân trong hệ thống hay
mang tính cơ cấu mà do hiệu ứng từ những biện pháp hành chính cần
thiết để đối phó đại dịch như phong tỏa, giãn cách hay cách ly xã
hội, phong tỏa biên giới quốc gia…; Thứ tư, mức độ tồn cầu hóa, tự
do hóa thương mại và hội nhập quốc tế hiện tại cao hơn trước đây rất
nhiều. Tăng trưởng kinh tế thế giới hiện đang giảm tốc và tác động
mạnh mẽ đến tổng cầu kinh tế thế giới, tác động kinh tế của cú sốc y
tế với đường cong nhiễm dịch khi có và khơng ngăn chặn dịch bệnh
Covid-19 ở top 10 nền kinh tế lớn nhất (cập nhật 4/2020)
b. Nền kinh tế Việt Nam
Với ba cú sốc song hành, thứ nhất là cú sốc về y tế khi số ca
nhiễm và tử vong tăng, số lượng cách ly lớn, trường học phải đóng
cửa, đóng cửa biên giới và hạn chế đi lại…; thứ hai, là cú sốc về
kinh tế bao gồm bên cầu tiêu dùng, đầu tư và bên cung dự trữ
nguyên liệu, chuỗi cung ứng, lao động bị cách ly; thứ ba, là cú sốc
về kỳ vọng khi người dân và doanh nghiệp bi quan về triển vọng
tương lai, thậm chí có thể dẫn tới đỗ vỡ dây chuyền
.Đối với lạm phát, trong bối cảnh tổng cầu, giá dầu và năng
lượng giảm mạnh, nên dù nhiều nước kích thích kinh tế, giá thực
phẩm và dịch vụ y tế tăng, nhưng lạm phát toàn cầu vẫn ở mức khá
thấp, khoảng 2,2% (so với mức 2,5% năm 2019). Kịch bản tăng
trưởng này sẽ còn được cập nhật, còn thay đổi; mức độ như thế nào
còn tùy thuộc vào 3 yếu tố: khả năng kiểm soát dịch bệnh của mỗi
quốc gia, hiệu quả của các chính sách/gói hỗ trợ, và hiệu quả hợp tác
quốc tế (trong phòng chống đại dịch).
Việt Nam là nền kinh tế mở và nhỏ, phụ thuộc nhiều vào nhu
cầu từ bên ngoài, ngày càng phụ thuộc vào khu vực FDI. Cơng
nghiệp hỗ trợ yếu, khó khăn khi chuỗi cung ứng đình trệ gián đoạn.
Nơng nghiệp khó khăn do hạn mặn và thời tiết cực đoan. Cơ chế dẫn
truyền chính sách vĩ mơ chậm.
Tuy nhiên, trong 3 năm gần đây nền kinh tế nước ta tăng trưởng
tương đối ổn định, tỷ lệ nợ công giảm, lạm phát thấp, các cân đối vĩ
mô tương đối lành mạnh. Bên cạnh đó, chính sách tài khóa thâm hụt
ngân sách khơng quá cao, năng lực điều hành tốt tiền tệ còn dư địa
giảm lãi suất, tỷ lệ tiết kiệm tương đối cao so với các nước có thu
nhập tương đương.
Kim ngạch xuất-nhập khẩu hoặc sản lượng/doanh thu tính đến
cả yếu tố đầu vào và đầu ra (trọng số chiếm 50%) so với cùng kỳ
năm 2019; giá cổ phiếu của những nhóm ngành này niêm yết trên
sàn chứng khoán Việt Nam so với đầu năm (thể hiện đánh giá, nhận
định của nhà đầu tư, mang tính thị trường cao, trọng số chiếm 50%);
và tham khảo số liệu về số doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh
trong quý 1/2020. Với kết quả tính toán, nếu mức độ giảm dưới 5%
được coi là tác động nhỏ, giảm từ 5-10% được coi là tác động vừa
phải và giảm trên 10% là tác động lớn.
2. Tác động của Đại dịch Covid – 19 tới tình trạng thất nghiệp
ở Việt Nam
Tại Việt Nam, đại dịch này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến tất
cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, đặc biệt là lao động và việc làm. Kết
quả thống kê cho thấy là quý II năm 2020 đánh dấu sự sụt giảm lực
lượng lao động lên tới hơn 2 triệu người - mức giảm chưa từng có
trong thập kỷ vừa qua, lực lượng lao động giảm chủ yếu ở khu vực
nông thôn và lao động nữ. Quý II năm 2020 cũng chứng kiến sự sụt
giảm mạnh mẽ của lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm và tỷ lệ
lao động thiếu việc làm tăng mạnh, tỷ lệ thất nghiệp thì cao nhất
trong vịng 10 năm qua, trong đó tỷ lệ thất nghiệp tăng nhiều nhất ở
nhóm lao động có trình độ chun mơn kỹ thuật thấp.
Đến tháng 9 tháng năm 2020, gần 1,2 triệu người thất nghiệp
trong độ tuổi lao động, tăng 132,1 nghìn người so với cùng kỳ năm
trước. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động 9 tháng năm 2020 là
2,48%, cao gấp 1,14 lần so với cùng kỳ năm trước. Thành phố Hồ
Chí Minh có tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý III năm
2020 là 4,3%, cao hơn 1,94 điểm phần trăm so với Hà Nội (2,36%)
(TCTK, 2020e).
Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành thị
có tỉ lệ thất nghiệp là 4,0%, giảm 0,46 điểm phần trăm so với quý
trước và tăng 0,89 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Đây là
tỉ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi lao động ở khu vực thành
thị cao nhất trong vòng 10 năm qua (TCTK, 2020e). Quý III năm
2020, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên là 7,24%, tăng 0,26 điểm phần
trăm so với quý trước, tăng 0,51 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm
trước; cao gấp 4,2 lần so với tỷ lệ thất nghiệp của dân số trưởng
thành (những người từ 25 tuổi trở lên). Thanh niên khu vực thành thị
có tỷ lệ thất nghiệp là 11,29%, tăng 0,2 điểm phần trăm so với quý
trước và tăng 0,65 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Thành
phố Hà Nội và Hồ Chí Minh, nhóm thanh niên có tỉ lệ thất nghiệp
khá cao tương ứng là 9,25% và 10,47% (TCTK, 2020e).
Thất nghiệp và thất nghiệp trong độ tuổi lao động
Quý III năm 9 tháng Quý II năm Quý III năm 9 tháng
2019* năm 2019* 2020
2020**
năm 2020
Số người thất nghiệp
(nghìn người)
1108,7
1105,2
1336,2
1252,4
1235,6
Quý III năm
2020 so Quý
III năm 2019
Quý III năm
2020 so Quý
II năm 2020
113,0
93,7
- Số người thất nghiệp trong
độ tuổi lao động (nghìn người)
1067,7
1061,6
1278,9
1215,9
1193,7
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
1,99
1,99
2,51
2,29
2,27
Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi
lao động (%)
2,17
2,17
2,73
2,50
2,48
Tỷ lệ thất nghiệp của thanh
niên (%)
6,73
6,62
6,98
7,24
7,07
113,9
Nguồn: TCTK (2020e).
(*) Số liệu điều chỉnh lại theo dân số Tổng điều tra.
(**) Số liệu ước tính.
3. Giải pháp hỗ trợ, cải thiện tình trạng thất nghiệp của Việt
Nam hiện nay
Tác động của đại dịch Covid -19 đã làm cho lao động gặp nhiều
khó khăn hơn trong việc tham gia thị trường lao động và đóng góp
trong chuỗi sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Đến nay, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu đáng ghi nhận trong thực hiện mục tiêu kép
vừa chống dịch vừa khôi phục, phát triển kinh tế. Mặc dù tốc độ tăng
GDP trong quý II năm 2020 thấp kỷ lục trong nhiều năm qua, nhưng
là mức tăng trưởng dương mà nhiều nước trên thế giới không đạt
được. Đại dịch Covid -19 trên thế giới đang diễn biến phức tạp, với
nhiều nguy cơ bùng nổ làn sóng dịch tại nhiều nước trên thế giới,
ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình lao động, việc làm và thu nhập của
người lao động. Biện pháp giãn cách xã hội áp dụng trong tháng 3 và
cách ly xã hội áp dụng trong tháng 3 và tháng 4 đang gây nên sự sụt
giảm nghiêm trọng trong doanh thu. Các nhà máy phục vụ thị trường
nội địa đang phải cắt giảm thời giờ làm việc của người lao động, đề
nghị giảm mức lương hay tạm dừng mọi hoạt động sản xuất và cho
người lao động nghỉ việc. Lao động và làm việc trong các doanh
nghiệp xuất khẩu cũng đối mặt với sự sụt giảm nghiêm trọng về số
giờ làm việc, tạm dừng hợp đồng, cắt giảm lương và sa thải. Để hỗ
trợ doanh nghiệp, người lao động phục hồi sản xuất góp phần cải
thiện tình hình lao động việc làm, cần thực hiện một số giải pháp:
- Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các cơ chế, chính sách
phù hợp, nhất là về tài chính, tiền tệ, an sinh xã hội để hỗ trợ người
95,1
dân, doanh nghiệp, người lao động, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ
và vừa vượt qua khó khăn của đại dịch Covid -19, nhanh chóng khơi
phục và phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện chính sách miễn, giảm
một số nghĩa vụ thuế đối với một số lĩnh vực, đối tượng chịu thiệt
hại nặng nề do đại dịch Covid -19 trong năm 2020. Đồng thời,
nghiên cứu để xây dựng các gói hỗ trợ đặc thù cho nhóm lao động
yếu thế, bao gồm lao động nữ và lao động không có trình độ chun
mơn kỹ thuật chịu tổn thương bởi diễn biến khó lường của đại dịch
Covid -19 nhằm giúp họ sớm vượt qua khó khăn, ổn định cuộc sống.
- Đẩy nhanh việc thực hiện hiệu quả các chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh để phục hồi hoạt động
kinh tế (theo nghị quyết 42/NQ-CP) của tất cả các ngành, đặc biệt
là các ngành chịu ảnh hưởng lớn của dịch Covid -19 như ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo; bán buôn và bán lẻ; dịch vụ lưu trú
và ăn uống; vận tải… Bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết việc làm,
đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với xu thế mới. Thực hiện có hiệu
quả các chính sách hỗ trợ an sinh xã hội, giải quyết việc làm, tạo
điều kiện cho người lao động sớm quay trở lại thị trường, bảo đảm
đủ lực lượng lao động khi bước vào giai đoạn tăng cường sản xuất,
kinh doanh sau dịch. Tập trung hỗ trợ người sử dụng lao động đào
tạo, đào tạo lại người lao động đáp ứng yêu cầu mới; đẩy mạnh kết
nối cung, cầu lao động trong nước, gắn với thị trường lao động
quốc tế. Đồng thời cũng hỗ trợ các nhóm lao động, bao gồm lao
động chính thức và phi chính thức trong các doanh nghiệp và các
cơ sở sản xuất kinh doanh (dân doanh, tư nhân/tổ hợp tác/hợp tác
xã). Ngồi ra có thể xem xét và xây dựng các gói hỗ trợ đặc thù
cho các nhóm lao động yếu thế (phụ nữ, lao động khơng có trình
độ chun mơn, lao động ở khu vực kinh tế phi chính thức) để giúp
họ có thể có cơ hội tìm kiếm được việc làm tạo thu nhập để có
được sự đảm bảo có được một phần tài chính để giúp bản thân họ
và gia đình họ vượt qua được thời điểm khó khăn chung của tồn
đất nước do tác động của dịch Covid-19.
- Doanh nghiệp và người lao động cần nắm bắt nhu cầu lao
động của nền kinh tế trong bối cảnh chuyển đổi phương thức sản
xuất đáp ứng yêu cầu mới. Các doanh nghiệp cần thay đổi cách
thức sắp xếp công việc để bảo vệ sức khỏe của người lao động, vì
thế có thể có tác động tới sản lượng.
KẾT LUẬN
Như vậy, nhờ có các lý luận về kinh tế của CN Mác – Lênin
mà mọi người có thể tìm hiểu thêm những kiến kiến thức, làm quen
với các khái niệm trừu tượng về thất nghiệp. Dựa trên những khái
niệm đó mà Việt Nam nói riêng, các nước theo đường lối CNXH
nói chung có thể nhận thức được thực trạng cấp bách và nghiêm
trọng đang chuyển biến xấu của tình trạng thất nghiệp trên tồn cầu.
Từ đó, vận dụng sáng tạo những tư tưởng của CN Mác - Lênin vào
thực tiễn cuộc sống để giải quyết tình trạng này. Đặc biệt là trong
bối cảnh tình hình đại dịch Covid 19 đang diễn biến phức tạp, khó
lường đã gây ra khơng ít những cú sốc tiêu cực, ảnh hưởng xấu tới
cuộc sống của mọi người trên tồn thế giới thì những lý luận ấy
chính là cơ sở, tiền đề không những giúp nước ta giảm thiểu những
ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế mà còn giúp giải quyết phần nào
vấn đề thất nghiệp ngày càng nhiều được cho là do sự cản trở của
dịch bệnh dấn tới nhiều các xí nghiệp,nhà máy, khơng nhập khẩu
đượcngun liệu sản xuất, khơng vận chuyển được sản phẩm hang
hóa tới các thị trường tiêu thụ phải rơi vào tình trạng dừng hoạt
động, đóng cửa, cắt giảm nhân sự,… làm cho người lao động mất
việc, thiếu việc làm,giảm thu nhập… làm cho vấn đề thất nghiệp trở
nên trầm trọng hơn bao giờ hết.
Danh sách tài liệu tham khảo :
%87p
/>