Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu cà phê trong bối cảnh hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.78 KB, 39 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Cà phê lá một mặt hàng nông sản nổi tiếng trên toàn thế giới với
những câu chuyện như những huyền thoại về xuất xứ của cà phê.Không chỉ
có vậy, với hương vị đặc trưng độc đáo và nét quyến rũ lạ thường , cà phê đã
trinh phục đại bộ phận dân cư trên toàn thế giới khiến nhu cầu cà phê cần
được giá trị xuất khẩu cao.Nó góp phần nâng cao đời sống của nhân dân,
tăng cung cấp hay xuất khẩu ngày một tăng cao cả về số lượng và chất
lượng.Với những điều kiên vị trí địa lý đất đai thổ nhưỡng,nguồn nhân lực
dồi dào mà Việt nam đã trở thành nước có sản lưọng xuất khẩu cà phê đứng
thứ 2 thế giới.Xuất khẩu cà phê đã có những đóng góp lớn vào việc tăng
GDP cho nền kinh tế Việt Nam.Bạn bè thế giới đã biết đến những cao
nguyên trồng cà phê của Việt Nam _nguồn cung cấp khối lượng lớn cà phê
ra thế giới.Xuất khẩu cà phê cũng giúp khẳng định sự phát triển của kinh tế
Việt Nam trên trường quốc tế.Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mở ra
những thuận lợi và không ít những khó khăn trong xuất khẩu cà phê.Tình
hình sản xuất và xuất khẩu cà phê của thế giới nói chung và của Việt Nam
nói riêng có những biến động lớn.Chúng ta phải làm gì để nâng cao chất
lượng cà phê đạt những tiêu chuẩn khắt khe của thế giới ,tạo ra những bước
tiến mới vững chắc cho xuất khẩu cà phê của Việt Nam .Nội dung của đề tài
giúp phân tích tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong bối cảnh, điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế.Những thuận lợi cũng như thách thức khi nước
ta gia nhập các tổ chức quốc tế.Từ đó, tìm ra những biện pháp khắc phục, cải
tiến .Đề ra những giải pháp trước mắt lâu dài để cà phê có chất lượng tốt hơn
,có vị trí cao trên thị trường thế giới, góp phần đẩy mạnh nền kinh tế Việt
Nam bước lên những bậc thang mới.
1
Chương I
Những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu cà phê
trong bối cảnh hội nhập
1.1. Bản chất, vai trò của xuất khẩu hàng hoá.
1.1.1,Khái niệm về xuất khẩu.


Xuất khẩu (XK) là một quá trình thu doanh lợi bằng cách bán các sản
phẩm hoặc dịch vụ ra các thị trường nước ngoài, thị trường khác với thị
trường trong nước.
1.1.2,Vai trò nhiệm vụ của xuất khẩu.
1.1.2.1_ Vai trò của xuất khẩu.
XK có vai trò tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công
nghiệp hóa đất nước, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển, kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất,
nâng cao mức sống của nhân dân vì sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút
hàng triệu lao động vào làm việc có thu nhập tương đối. Ngoài ra XK còn là
cơ sở để mở rộng và thúc đẩy tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước.
Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế hội nhập ngày càng được khẳng định
đối với Việt Nam
1.1.2.2, Nhiệm vụ của xuất khẩu.
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của xuất khẩu đó là XK để thu về
ngoại tệ phục vụ cho công tác nhập khẩu. Ngoài ra XK còn góp phần tăng
tích lũy vốn, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền kinh tế từ những ngoại
tệ thu được từ đó đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện do có
công ăn việc làm, tăng nguồn thu nhập.
Thông qua XK giúp cho các doanh nghiệp nói riêng và cả nước nói
chung mở rộng quan hệ đối ngoại với tất cả các nước trên thế giới, khai thác
2
có hiệu quả lợi thế tuyệt đối và tương đối của đất nước từ đó kích thích các
ngành kinh tế phát triển.
1.1.3. Ý nghĩa của xuất khẩu.
XK là hoạt động quốc tế đầu tiên của một doanh nghiệp, là chìa khóa
mở ra các giao dịch quốc tế cho một quốc gia bằng cách sử dụng có hiệu quả
nhất lợi thế so sánh tuyệt đối và tương đối của đất nước, thu về nhiều ngoại
tệ phục vụ cho nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một phong
phú của người dân.

Thông qua XK, hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước sẽ tham
gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng, cuộc
cạnh tranh này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất, hình
thành cơ cấu sản xuất luôn thích nghi được với thị trường quốc tế. Kết quả là
một số doanh nghiệp sẽ rút ra nhiều kinh nghiệm cho bản thân để làm tăng
lợi nhuận, nền kinh tế của một quốc gia phát triển, quan hệ kinh tế đối ngoại
cũng được mở rộng.
1.1.4. Nghĩa vụ của nhà xuất khẩu.
Trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhà xuất khẩu có trách
nhiệm nặng hơn so với nhà nhập khẩu vì phải đảm bảo giao hàng đúng số
lượng, chất lượng, phẩm chất, thời gian theo hợp đồng đã ký kết…, trong khi
đó nhà nhập khẩu chỉ nhận hàng và trả tiền mà thôi.
Nghĩa vụ của nhà xuất khẩu là phải giao hàng, giao chứng từ liên quan
đến hàng và chuyển giao quyền sở hữu về hàng theo đúng quy định của hợp
đồng đã ký.
1.1.4.1. Nghĩa vụ giao hàng.
Giao hàng tức là người bán phải giao cho người mua quyền sở hữu
hàng hoá vào một thời điểm cụ thể đã quy định trong hợp đồng
3
1.1.4.2. Tiêu chuẩn hang hoá xuất khẩu.
Tiêu chuẩn là những quy tắc hướng dẫn hoặc quy định đặc tính kĩ
thuật cho những hoạt động được lặp đi lặp lại nhằm đạt được kết quả tối ưu
trong một hoàn cảnh nhất định
Theo luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kĩ thuật thì tiêu chuẩn là các đặc
tính kĩ thuật và yêu cầu quản lý dung làm tiêu chuẩn nhằm nâng cao chất
lượng và hiệu quả của các hoạt động này
Theo như lý thuyết trên thì những mặt hang khác nhau,xuất khẩu vào
những thị trường riêng thì sẽ có những tiêu chuẩn phù hợp để áp dụng.
1. 2. Cây cà phê ở Việt nam và vai trò xuất khẩu cà phê đối với
nền kinh tế quốc dân.

1.2.1_Cây cà phê ở Việt nam.
1.2.1.1 Giới thiệu chung về cây cà phê.
Cà phê đã trở thành một đồ uống phổ biến nhất trên toàn thế
giới.Hàng triệu người uống cà phê ở châu phi, nam và bắc Mỹ,Châu
âu,Trung đông….và cả ở việt nam.Hiện nay uống cà phê không chỉ đơn
giản là thưởng thức một loại đồ uống mà nó còn thể hiện văn hoá cà phê văn
hoá uống của một quốc gia nói riêng và của toàn thế giới nói chung.
Nói về xuất xứ của cây cà phê chúng ta lại nhớ đến câu chuyện về sự
xuất hiện đầu tiên của những hạt cà phê ở vung đất của người Ethiopia xa
xôi.Câu chuyện kể rằng một ngày cũng như mọi ngày ,người chăn dê thả
chúng ra một bãi cỏ để chúng có thể tha hồ nhởn nha thưởng thức món ăn
ưa thích của mình.Nhưng thậtlạ là những chú dê lại mê mẩn với những
chum quả chin mọng ,nom rất đặc biệt.Người chăn dê chỉ để ý đến chúng khi
thật bất ngờ, đêm hôm đó đàn dê rất khoẻ mạnh,linh hoạt khác thường…và
thiện ra và thức rất khuya ma không có vẻ gì mệt mỏi vào sang hôm
sau.Người chăn dê lấy làm lạ và cảm thấy rất thú vị,anh ta cung thử ăn
những trái mọng đó và kết quả thật đáng ngạc nhiên, anh ta cảm thấy sảng
khoái,tỉnh táo hơn mọi ngày.Và từ ngày đó cây cà phê đã được phát hiện và
4
được người dân vùng này trồng và chế biến thành những thức uống phổ biến
như ngày nay.
Cà phê được truyền bá từ Châu phi đến Arập, đây cũng chính là nơi
đầu tiên chế biến và sử dụng cà phê như một loại thuốc, loại thức ăn trước
khi trở thành thức uống được ưa chuộng như ngày nay.Người Arập giữ cà
phê như một bí quyết trong nhiều năm…Sau đó thì cây cà phê đã được phổ
biến ở Thổ nhĩ kỳ, Ý, Pháp ….rất nhiều đồn điền cà phê rộng lớn đầu tiên ở
miền nam Mỹ và xuất khẩu ra toàn thế giới.
Cây cà phê được trồng thành những bụi cây lớn ,nó có thể sinh trưởng
và phát triển rất tôt với độ cao từ 3 đến 9 mét trong tự nhiên.Hoa cà phê
mầu trắng tinh khiết xuất hiện trên các cành cây giống như những bông

tuyết.Vài ngày sau đó,những bong hoa bắt đầu thơm ngào ngạt báo hiệu lúc
những trái cà phê bất đầu xuất hiện.Trong 6 tháng những trái cà phê từ mầu
xanh chuyển sang chin mọng đỏ rực. đó chính là lucá những trái cà phê được
thu hoạch và chế biển.Những hột cà phê được sơ chế tẩm ướp và rang say
theo phương pháp của từng nơi những vẫn luôn lưu giữ được cái mùi hương
quyến rũ đặc trưng của nó.Trên thế giới hiện nay người ta trồng phổ biến hai
dòng cây cà phê chính là Coffea arabica (Cà phê Arabica) – cà phê chè – và
Coffea canephora (Robusta) – cà phê vối – với nhiều loại khác nhau. Chất
lượng hay đẳng cấp của cà phê khác nhau tùy theo từng loại cây, từng loại
hạt và nơi trồng khác nhau. Cà phê Robusta được đánh giá thấp hơn so với
cà phê Arabica do có chất lượng thấp hơn và giá cả theo đó cũng rẻ hơn.
Loại cà phê đắt nhất và hiếm nhất thế giới tên là Kopi Luwak (hay cà phê
chồn) của Indonesia và Việt Nam. Giá mỗi cân cà phê loại này khoảng 20
triệu VND (1300 USD) và hàng năm chỉ có trên 200 kg được bán trên thị
trường thế giới.
1.2.1.2_Lịch sử hình thành và phát triển cây cà phê ở Việt nam.
Cây cà phê lần dầu tiên đưa vào Việt Nam từ năm 1897 và được
trồng thử từ năm 1888. Giai đoạn đầu, cà phê chủ yếu trồng ở Ninh Bình,
Quảng Bình… đến đầu thế kỷ 20 mới được trồng ở Nghệ An và một số nơi ở
Tây Nguyên. Từ 1920 trở đi, cây cà phê mới có diện tích đáng kể đặc biệt ở
5
Buôn Ma Thuật, Đăklăk. Khi mới bắt đầu, qui mô các đồn điền từ 200-
300ha và năng suất chỉ đạt từ 400-600kg/ha. Cho đến nay, diện tích cà phê
trên cả nước khoảng 500.000 ha và sản lượng có khi lên đến 900.000 tấn.
Hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 trên thế giới.
Cà phê trồng ở nước ta có bao gồm cà phê vối (Robusta) chiếm 90%
diện tích, cà phê chè (Arabica) 10% và cà phê mít (Excelsa) 1%. Do cà phê
vối có hàm lượng caffeine cao (2-4%) nên hương vị không tinh khiết bằng
cà phê chè (caffein 1-2%) nên giá chỉ bằng một nửa. Cây cà phê chè ưa sống
ở vùng núi cao và thưòng được trồng độ cao từ 1000-1500 m, nhiệt độ từ 16-

25°C, lượng mưa khoảng trên 1000 mm. Cà phê vối ưa sống ở vùng nhiệt
đới, độ cao thích hợp dưới 1000 m, nhiệt độ khoảng 24-29°C, lượng mưa
khoảng trên 1000 mm và cần nhiều cần nhiều ánh sáng mặt trời hơn so với
cây cà phê chè.
Một trong nhưng lý do diện tích cà phê vối cao hơn rất nhiều do chúng có
sức sinh trưởng tốt và kháng được bệnh. Còn cà phê chè lại rất mẫn cảm với
các bệnh như bệnh gỉ sắt (do nấm Hemileia vastatrix), bệnh khô cành, khô
quả (do nấm Colletotrichum coffeanum và vi khuẩn Pseudomonas syringea,
P. garcae), bệnh nấm hồng (Corticium salmonicolor)…
Phương pháp cổ điển nhất để chọn giống cà phê bao gồm các bước
tuyển chọn quần thể hoang dại tiếp theo lai, đánh giá sản lượng, lai ngược và
lai giữa các loài. Nhược điểm của phương pháp này là thời gian lâu, thường
khoảng 30 năm mới chọn ra được giống mới. Ngày nay, công nghệ sinh học
đã được ứng dụng rộng rãi trong cải tạo và chọn giống cà phê như nuôi cấy
mô, chuyển nạp gen và đánh giá chất lượng cây giống bằng một số phương
pháp sinh học phân tử cho kết quả nhanh chóng như RFLP, RAPD, SSR,
STS
Theo chiến lược của ngành cà phê Việt Nam sẽ giảm diện tích cà phê
vối và tăng diện tích cà phê chè tuy nhiên vấn đề giống là vấn đề quan trọng
nhất. Trước đây giống cà phê chè ở Việt Nam là giống Typica, Bourbon,
Caturra amarello hoặc một số giống được trồng mang tính thí nghiệm như
6
Mundo Novo, Catuai. Hiện nay, các vùng mới trồng cà phê chè đều thuộc
giống Catimor nhưng giống này có nhược điểm hương vị thiên về cà phê vối
nên cần phải nghiên cứu thêm. Với nhu cầu cấp bách hiện nay là cần có
giống cà phê chè mới có hương vị thơm ngon và kháng được bệnh thì cần
phải ứng dụng các tiến bộ khoa học trong tuyển chọn và nhân giống cà phê
từ các nguồn nhập ngoại và sẵn có ở Việt Nam.
1.2.2_Vai trò của xuất khẩu cà phê đối với nền kinh tế quốc dân
Qua thực tế nhiều năm xuất khẩu cà phê ta có thể thấy rằng nó đóng

vai trò vô cùng to lớn trong việc ổn định và phát triển kinh tế cho Đắk lăk,
Tây Nguyên nói riêng và Viêt Nam nói chung.Xuất khẩu cà phê đã phần
đáng kể trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu cửa cả nước qua các năm ngày
một rõ rệt.Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu trọng điểm của
Việt Nam. Cà phê giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam: xuất
khẩu hằng năm xấp xỉ 1 triệu tấn, cà phê là nông sản có kim ngạch xuất khẩu
chiếm hàng đầu, trên một tỉ đô la Mỹ.Cũng từ xuất khẩu cà phê mà ngày
nay, Việt Nam đã được cả thế giới biết đến là cường quốc xuất khẩu cà phê
và thương hiệu Cà phê Việt Nam ngày càng khẳng định vị trí trên thị trường
quốc tế. Ta có thể liệt kê một số vai trò cơ bản của xuất khẩu cà phê đói với
nền kinh tế quốc dân:
Một là, XK cà phê tác động đến việc mở rộng quy mô sản xuất nông
nghiệp. Khi XKcà phê tăng, khối lượng cà phê được sản xuất ra ngày càng
lớn, do đó sẽ tạo điều kiện cho việc mở rộng quy mô sản xuất cà phê. Mặt
khác, khi XK cà phê tăng còn tạo nguồn thu lớn cho người sản xuất, từ đó họ
có thể tăng vốn để tái sản xuất mở rộng, tăng năng suất lao động, tăng chất
lượng sản phẩm, nâng cao giá trị hàng xuất khẩu.
Hai là, xuất khẩu góp phần giải quyết tốt vấn đề công ăn, việc làm.
Một trong những đặc điểm rất quan trọng của Tây Nguyên , Đắc lắc… cũng
như cả nước là tốc độ tăng lực lượng lao động nhanh, từ đó việc làm luôn là
vấn đề nóng và cần quan tâm của nền kinh tế. Để giải quyết tình trạng này
7
phải tăng cầu lao động và xuất khẩu tăng cũng là một trong những biện pháp
để mở rộng quy mô ngành sản xuất cà phê, từ đó tạo thêm việc làm cho
người lao động. Mặt khác, XKcà phê tăng kéo theo sự phát triển của ngành
công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, từ đó nhu cầu lao
động bổ sung tăng lên. Khi người lao động có việc làm, thu nhập ổn định sẽ
tạo tâm lý yên tâm phấn khởi và người lao động (đặc biệt là lao động nông
nghiệp) sẽ làm việc ngay tại quê hương mình, giảm tải tình trạng di cư của
lao động ra các khu công nghiệp, thành thị để tìm kiếm việc làm.

Ba là, XKcà phê góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực
trong nông nghiệp. Nguồn lực trong nông nghiệp bao gồm: đất đai, cơ sở hạ
tầng, người lao động, kinh nghiệm sản xuất…
Bốn là, XK cà phê góp phần thúc đẩy quá trình CNH-HĐH nông
nghiệp nông thôn. CNH-HĐH nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường, đưa thiết bị, công nghệ hiện đại vào các khâu
sản xuất nông nghiệp, thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, ứng
dụng các thành tựu khoa học, công nghệ sinh học và công nghệ thông tin
nhằm nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của cà phê trên thị trường. Vì vậy,
XKcà phê tạo điều kiện giải quyết tốt vấn đề đầu ra cho cà phê , thúc đẩy
kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá quy mô lớn,
điều này rất phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Mặt khác, XK
cà phê còn có vai trò tích cực trong việc cung cấp thông tin cho người sản
xuất, tạo ra sự phù hợp tốt hơn giữa người sản xuất và thị trường.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê.
Trước hết ,,ta phải xét tới những điều kiện thuận lợi về đất đai khí hậu
đã tạo điều kiện cho cà phê sinh trưởng và phát triển tốt ở Việt Nam. Điều
kiện khí hậu của Việt Nam cho phép nhiều địa phương có thể trồng được cả
hai loại cà phê robusta và arabica. Theo ông Nhạn, ở vùng khí hậu nóng ẩm
phía Nam thích hợp để canh tác cà phê robusta trong khi ở vùng khí hậu ôn
hòa miền núi phía Bắc và rải rác ở một số vùng có độ cao so với mặt biển
800-900 mét trở lên có thể trồng cà phê arabica. Thực tế hiện nay đã hình
8
thành một số vùng sản xuất cà phê arabica phát triển tốt, có nhiều triển vọng.
Đó là các vùng Tây Bắc, chủ yếu là Điện Biên và Sơn La; ở miền Trung là
các tỉnh Nghệ An, Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế; phía Nam có các vùng
Gia Lai, Đăk Nông và đặc biệt là Lâm Đồng. Theo nhiều người rành cà phê,
hương vị cà phê Bourbon ở Lâm Đồng có thể sánh ngang các loại cà phê có
vị dịu của vùng Trung Mỹ. Hiện cả nước có hơn 500.000 héc ta cà phê,

trong đó chủ yếu là robusta, còn arabia chỉ khoảng 20.000 héc ta. Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) từ nhiều năm qua đã khuyến cáo
các địa phương nên giảm bớt những diện tích cà phê robusta kém hiệu quả
và mở rộng diện tích cà phê arabica ở những vùng có điều kiện sinh thái
thích hợp. Bộ đặt mục tiêu trong thời gian tới, Việt Nam vẫn giữ 500.000
héc ta mà không cần tăng thêm diện tích nhưng thay đổi cơ cấu theo hướng
tăng arabica lên 100.000 héc ta và robusta giảm xuống còn 400.000 héc ta.
Ngoài những yếu tố về tự nhiên thì yếu tố tác động từ viêc hội nhập
kinh tế quốc tế là vô cùng to lớn.Với nhu cầu cao về cà phê trên toàn thế
giới,Việt nam có những thuận lợi trong xuất khẩu cà phê nhưng cũng chịu
những tác động đáng kể.Ta có thể lấy những ví dụ cụ thể như: Năm 1994 do
sương muối tàn phá cà phê ở Brazil đã khiến thị trường thế giới thiếu hụt cà
phê rất lớn đẩy giá lên cao ngất ngưởng. Do đó, người ta đổ xô đi trồng cà
phê, diện tích nhanh chóng tăng lên vượt ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước.
Từ năm 1994-1998, cây cà phê đã che phủ tới hơn nửa triệu héc ta đất đỏ
bazan màu mỡ ở Tây Nguyên, Đông Nam bộ.Hàng năm, các doanh nghiệp
Việt Nam đã tung ra thị trường thế giới lượng lớn cà phê robusta, có năm đạt
hơn 1 triệu tấn, tác động mạnh đến cân bằng cung cầu và giá cả. Điều đó
không chỉ gây nên những khó khăn cho gần 1 triệu nông dân trồng cà phê ở
Việt nam mà 25 triệu nông dân trồng cà phê trên thế giới cũng bị ảnh hưởng.
Từ năm 2000 trở đi, giá cà phê thế giới tụt giảm thảm hại, có lúc chỉ còn 300
đô la Mỹ/tấn (FOB TPHCM), tức chỉ bằng một phần mười so với lúc đỉnh
cao. Do giá xuống quá thấp, nhiều nơi nông dân không còn mặn mà đầu tư
chăm sóc và không ít nơi người vụ 2004-2005, khi giá cà phê xuất khẩu vượt
qua mốc 600 đô la Mỹ/ tấn, mức giá ít nhiều đủ để nông dân trồng cà phê
cầm cự và sàng lọc các diện tích cà phê năng suất thấp, già cỗi. Ước tính
9
diện tích cà phê Việt Nam giảm ít nhất 50.000 héc ta trong năm năm đầu
thập kỷ này. Hai năm qua, giá cà phê thế giới hồi phục khá nhanh, thời điểm
này mỗi tấn cà phê nhân xuất khẩu thu được hơn 1.500 đô la Mỹ, kim ngạch

xuất khẩu cà phê của cả nước năm nay vọt lên hơn 1,4 tỉ đô la Mỹ và tình
trạng đua nhau trồng cà phê lại lặp lại. Tính sơ bộ ở Daklak, Lâm Đồng, Gia
Lai, diện tích cà phê đã tăng thêm khoảng 30.000 héc ta.
Theo xu thế hội nhập chung của thế giới ,nước ta sau khi gia nhập các
hiệp hội kinh tế…đặc biệt là trở thành thành viên chính thức của WTO ,mở
ra những khó khăn và thách thức mới và xuất khẩu cà phê cũng không nằm
ngoài xu thế đó.Mà điển hình là khó khăn trong việc thay đổi để đạt chuẩn
của Hiệp hội cà phê thế giới về chon lựa hạt cà phê. Có nhiều nguyên nhân.
Trước hết, theo Luật tiêu chuẩn và qui chuẩn kỹ thuật số 68/2006/QH 11, tại
khoản 1, Điều 23 qui định: “Tiêu chuẩn được áp dụng trên nguyên tắc tự
nguyện”. Đến nay, vẫn chưa có văn bản qui phạm pháp luật hoặc qui chuẩn
kỹ thuật bắt buộc áp dụng TCVN 4193:2005 đối với cà phê nhân. Trong
thực tế, do chưa có sự vào cuộc của nhiều doanh nghiệp và người sản xuất,
nên chưa có những biện pháp khắc phục khó khăn, khó áp dụng trọn vẹn
TCVN 4193:2005 Do đ ó làm cho không ít doanh nghiệp còn lần khân là
phần lớn các hợp đồng xuất khẩu cà phê hiện nay vẫn theo hình thức thoả
thuận về chất lượng, dựa theo cách phân loại cũ, chủ yếu dựa vào 3 tiêu chí
giản đơn: độ ẩm, tỉ lệ hạt đen, tỉ lệ hạt vỡ vì thế họ lo ngại nếu đồng loạt áp
dụng kiểm tra chất lượng cà phê xuất khẩu trước khi thông quan ngay tại
thời điểm này sẽ đảo lộn kế hoạch xuất khẩu cà phê, đặc biệt là các hợp
đồng đã ký kết trước đây…Nhưng cung không phải môtj sớm một chiều mà
chúng ta có thể thay đổi được tập quán canh tác của những người dân địa
phương .Có thể nói đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng
cà phê xuất khẩu .
Nhìn nhận được tất cả những yếu tố tác động đến xuất khẩu cà phê dù
trực tiếp hay gián tiếp,nó cũng giúp chúng ta tìm ra những biện pháp khắc
phục để tăng chất lương và số lượng trong xuất khẩu cà phê.
10
Chương II
Phân tích thực trạng của xuất khẩu cà phê

của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế
2.1. Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam những năm đầu hội
nhập (số liệu của các năm 2004,2005,2006,2007, đầu năm 2008).
Bảng: Kinh ngạch xuất khẩu cà phê Việt Nam từ năm 2004 đến 2008
STT Năm KNXK
1 2004 590 triệu USD
2 2005 700-800 triệu USD
3 2006 950 triệu USD
4 2007 1878 triệu USD
5 2008 Dự kiến trên 1800 triệu USD
Bảng số liệu trên đã khái quát tình hình xuất khẩu cà phê của Việt
nam trong những năm đầu hội nhập kinh tế quốc tế.Có thể nói xuất khẩu cà
phê của ta đã trải qua những bước thăng trầm với những khó khăn đến đỉnh
điểm và rồi ngoạn mục tăng vọt với những con số đến bất ngờ.Vào năm
2004,chịu tác động lớn của tình hình xuất khẩu cà phê trên thế giới,xuất
khẩu cà phê của việt nam cũng gặp khá nhiều khó khăn.Tuy nhiên năm 2004
11
cũng là năm đầu tiên xuất khẩu cà phê bắt đầu có dấu hiệu hội phục sau 4
năm thua lỗ nặng nề(2000-2003) .Kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam
trong nửa đầu năm nay đã lên tới 602 triệu đô la, tăng 31,1% so với cùng Kỳ
năm ngoái tuy lượng xuất khẩu có sút giảm.
Bản tin hôm thứ tư của Tân hoa xã trích dẫn các số liệu của Bộ
Thương mại ở Hà Nội cho biết từ tháng giêng đến tháng 6, các công ty Việt
Nam đã bán ra nước ngoài 525 ngàn tấn cà phê, chủ yếu là bán cho các nước
thuộc Liên hiệp Âu Châu, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Singapore.
Lượng cà phê xuất khẩu đã giảm 12,4%. Tính đến giữa năm 2005,
Việt Nam có khoảng nửa triệu héc ta trồng cà phê và là nước xuất khẩu cà
phê lớn hàng thứ nhì thế giới. Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê ở Hà
Nội, năm 2005 Việt Nam xuất khẩu 885 ngàn tấn cà phê, thu về 725 triệu đô

la.
Năm 2007, sau khi sụt giảm vào cuối tháng 8, trong tháng 9 giá cà phê
xuất khẩu của Việt Nam phục hồi mạnh. Giá trung bình tháng 9 ở mức 1738
USD/tấn, tăng 50 USD/tấn so với giá mức trung bình 1679 USD của tháng
8. Giá xuất khẩu bình quân chung 9 tháng đầu năm đạt 1.507 USD/tấn, tăng
29% cùng kỳ năm trước (khoảng 340 USD/tấn). Hiện nay cà phê xuất khẩu
của Việt Nam được định giá dựa theo biến động giá trên thị trường robusta
kỳ hạn tại Luân Đôn. Giá cà phê tại Luân Đôn tăng cao kéo giá cà phê xuất
khẩu của Việt Nam tăng theo. Nguyên nhân tăng giá do lo ngại về tình trạng
thiếu hụt cung robusta trong ngắn hạn trước vụ thu hoạch mới của Việt Nam.
Thu hoạch cà phê ở nước ta, nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới bắt
đầu vào cuối tháng 10 trong khi những dự báo cho thấy La Nina đang hình
thành ở khu vực Cao nguyên Trung bộ kèm theo mưa và lũ, có thể sẽ gây
khó khăn cho việc phơi khô và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cà
phê. Nguy cơ trời sẽ mưa vào giai đoạn cuối cuả vụ thu hoạch kèm theo dự
báo về việc thâm hụt cà phê trên thế giới khiến giới kinh doanh trên thị
trường Luân Đôn đẩy giá cà phê robusta lên cao. Thêm vào đó đà tăng giá
mạnh trên thị trường arabica kỳ hạn tại Niu Yóoc trong bối cảnh mùa vụ cà
phê của Braxin có thể bị thiệt hại do hạn hán kéo dài đã tác động đáng kể lên
12
giá cà phê robusta của Việt Nam. Tại thị trường Đắk Lắk, giá cà phê nhân xô
trong tháng 9 tăng so với tháng 8 nhưng biến động thất thường. Vào những
ngày đầu tháng, giá cà phê đứng ở mức 25.850 đồng/kg (4/9/07) và tăng ở
giữa tháng, đạt 26.900 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg so với ngày đầu tháng
nhưng lại có xu hướng giảm nhẹ vào cuối tháng. Tính chung giá bình quân
tháng 9 đạt mức 26.691 đồng/kg, tăng 304đồng/kg so với tháng trước và
tăng 4.844 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước.Ư ơc t ính xuất khẩu cà phê
tháng 9/2007 đạt khoảng 40 ngàn tấn, kim ngạch đạt 67 triệu USD, so cùng
kỳ năm trước lượng giảm khoảng 17%, kim ngạch tăng gần 9%. Xuất khẩu
cà phê 9 tháng đầu năm 2007 thuận lợi về giá cả và thị trường, giá cà phê tuy

có biến động ngắn hạn nhưng ở xu hướng chung là tăng về dài hạn. Năm
2007 là năm đầu tiên kim ngạch XK cà phê vượt kim ngạch XK gạo với mức
13%. Ước lượng cà phê XK 9 tháng đạt 975 ngàn tấn, kim ngạch 1,47 tỉ
USD. So cùng kỳ năm trước lượng tăng 45%, kim ngạch tăng 87%.
Về thị trường xuất khẩu cà phê 9 tháng đầu năm: các thị trường truyền
thống về cơ bản ổn định, một số thị trường được mở rộng. Trong bảng xếp
hạng các nước nhập khẩu cà phê từ Việt Nam, Đức tiếp tục giữ vị trí số 1 với
thị phần trên 14%, tiếp theo là Mỹ trên 10%, Ý, Tây Ban Nha, Thuỵ Sĩ với
mức thị phần trên 7% mỗi nước.
Tuy đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu cao nhưng giá cà phê xuất khẩu
của Việt Nam vẫn thấp hơn các nước sản xuất cà phê khác khoảng 50-70
USD/tấn. Theo phó chủ tịch Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam Đoàn Triệu
Nhạn, nguyên nhân là do Việt Nam mua bán cà phê không theo qui trình,
tiêu chuẩn của thị trường thế giới. Nông dân trồng cà phê vẫn chưa bỏ thói
quen thu hái cà phê cả hạt xanh lẫn hạt chín, phơi và chế biến thủ công khiến
chất lượng giảm. Cả người bán và người mua vẫn có thói quen sử dụng tiêu
chuẩn cũ chỉ đánh giá chất lượng cà phê dựa trên ba tiêu chí là hàm lượng
ẩm, hạt đen vỡ và tạp chất. Trong khi đó, tiêu chuẩn mới đánh giá theo số lỗi
của hạt cà phê.
Việc chưa áp dụng tiêu chuẩn mới phù hợp với quốc tế phản ánh
những yếu kém trong quản lý chất lượng hàng hóa xuất khẩu của ngành cà
13
phê Việt Nam. Trước sự bất cập này, Nhà nước cần đưa mặt hàng cà phê vào
danh mục bắt buộc phải kiểm tra chất l ư ợng s ản ph ẩm tr ư ớc khi th ông
qua.
Từ cuối tháng 01/2008 đến nay, giá cà phê trên thị trường thế giới
đồng loạt tăng rất mạnh. Trên thị trường London, giá cà phê robusta giao kỳ
hạn tháng 3/2008 đạt mức 2.242 USD/tấn, tăng 12,78% so với trung tuần
tháng 01/2007 và tăng 41,36% so với cùng kỳ năm ngoái.
Trên thị trường New York, giá cà phê arabica giao kỳ hạn gần nhất đã

tăng lên đến 157,2 Uscent/lb (3.462,48 USD/tấn) – mức cao kỷ lục trong 10
năm qua, tăng 16,5% so với trung tuần tháng trước và tăng 37,89% so với
cùng kỳ năm ngoái. Cùng với những diễn biến trên thị trường thế giới, giá cà
phê robusta xuất khẩu của nước ta tiếp tục tăng rất mạnh. Cụ thể, giá cà phê
robusta loại II của nước ta đã vượt ngưỡng 2.000 USD/tấn, lên mức 2.130 –
2.150 USD/tấn, tăng 21,13% so với đầu năm 2008 và tăng 19,44% so với
cùng kỳ năm ngoái.
Bên cạnh đó, sau khi vượt ngưỡng 30,000 đồng/kg vào trung tuần
tháng 01/2008, trung tuần tháng 02/2008, giá thu mua cà phê nhân trong
nước tiếp tục tăng từ 1.500 – 2.000 đồng/kg so với cuối tháng 01/2008, lên
mức 33.000 – 33.200 đồng/kg, và tăng gần 50% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu thống kê, trong 20 ngày đầu tháng 01/2008, cả nước đã
xuất khẩu 108 nghìn tấn cà phê với trị giá 193,93 triệu USD, giảm 32,27%
về lượng và giảm 15,45% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Giá cà phê có thể đạt mức kỷ lục !(20/02/2008 08:32)Giá cà phê
trong nước đã leo lên mức cao mới: 32.000-35.000 đồng/kg. Nhiều chuyên
gia dự báo, do sản lượng cà phê Việt Nam sụt giảm nên mức giá này có thể
đạt mức 40.000 đồng/kg. Nhiều DN đang găm hàng, chờ giá lên cao hơn
mới bán. C ó th ể n ói th ị tr ư ờng xu ất kh ẩu c à ph ê ch ưa bao gi ờ s ôi đ
ộng đ ến v ậy. Nguyên nhân khiến giá cà phê leo thang ngay trong những
ngày đầu năm là do sản lượng cà phê Việt Nam - nước sản xuất cà phê
robusta hàng đầu thế giới, niên vụ 2007-2008 hao hụt 20-30% so với dự
14
tính. Hạn hán đầu vụ cộng với mưa lũ trong tháng 8/2007 đã làm nhiều vườn
càphê ở thủ phủ Đắk Lắk bị hư hại, chất lượng kém, năng suất giảm từ 30-
70%.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam hiện đã vượt qua con số 1 tỷ USD và
chiếm vị trí thứ 2 thế giới, đứng sau Brazil. Riêng cà phê Robusta xuất khẩu,
Việt Nam còn đứng trên cả Brazil và trở thành lớn nhất thế giới. Khu vực
các tỉnh Tây Nguyên là “thủ phủ” cà phê Việt Nam. Thông tin từ Bộ thương

mại cho biết, hiện thời cũng như những năm sắp tới, cà phê là mặt hàng khá
nhạy cảm trên thị trường, cung - cầu và giá cả dễ biến động do đó nếu không
chủ động đối phó rất dễ xảy ra tình trạng năm này tăng diện tích ào ạt, năm
sau lại chặt phá như đã xảy ra ở một số địa phương./.
Giá cà phê thị trường thế giới và trong nước vừa qua đã bị đẩy lên rất
cao.Một kg cà phê ở Gia Lai có lúc đạt 42.000 đồng/kg, mức kỷ lục. Vậy
nên, thay vì bán ra, nhiều nhà vườn đã găm hàng lại. Nhiều người bắt đầu
mơ về thời hoàng kim của cà phê những năm 1990.
Tuy nhiên, "nhân tính không bằng trời tính", khi giá cà phê thế giới
bỗng đột ngột giảm mạnh, nhiều người đã mất trắng hàng trăm triệu đồng
chỉ sau một đêm chậm chân không bán ra.
Lâu lắm rồi cà phê Việt Nam mới có cơ hội… “một mình một chợ”.
Thời vụ thu hoạch cà phê ở phía Bắc bán cầu là từ tháng 10 đến hết tháng
12, vì vậy niên vụ tiêu thụ được tính từ tháng 10 năm trước đến hết tháng 9
năm sau. Ở phía Nam bán cầu thời vụ thu hoạch cà phê từ tháng 4 đến hết
tháng 7, niên vụ tiêu thụ được tính từ tháng 4 năm trước đến hết tháng 3 năm
sau.
Việt Nam chiếm vị trí độc tôn về sản xuất cà phê ở phía Bắc bán cầu,
trong khi các đối thủ cạnh tranh đều nằm ở phía Nam bán cầu, đây là một ưu
thế của cà phê Việt Nam. Nhất là trong niên vụ 2007-2008, các nước phía
Nam bán cầu bị mất mùa cà phê trong đó Brazil giảm tới 23%, Indonesia
giảm 19%
15
Trong khi đó, nhu cầu tiêu dùng tại các nước sản xuất cà phê cũng
đang tăng cao khiến một số nước như Indonesia dự kiến phải nhập khẩu
khoảng 60.000 tấn cà phê trong quý 1/2008. Sản lượng thiếu cũng dẫn đến
nhiều quỹ đầu tư và các nhà rang xay sẽ tăng mua để dự trữ.
Là đối thủ cạnh tranh trực tiếp với vị trí đầu bảng của Brazil về xuất
khẩu cà phê trên thế giới với sản lượng 800.000 tấn/năm, đứng đầu thế giới
về xuất khẩu cà phê robusta, cà phê Việt Nam hiện đang chi phối thị trường

thế giới.
Việc thiếu hụt cà phê do sản lượng giảm sút mạnh trong niên vụ này
đã đẩy giá thị trường cà phê thế giới lên rất cao. Đã vậy, thấy giá cao, nhiều
hộ kinh doanh cà phê “găm” hàng không bán. Theo đà, giá cà phê trong
nước cũng tăng lên mức kỷ lục.
Tuần trước ở Tây Nguyên, giá mua vào cà phê rubusta nhân có lúc đạt
mức 42.000 đồng/kg, đạt mức giá cao nhất trong 14 năm qua. Trong khi đó,
giá cà phê robusta trên sàn London vào ngày 3/3 ở mức 2.757 USD/tấn, tăng
34 USD/tấn so với cuối tuần trước; giá cà phê robusta giao tại cảng Tp.HCM
đạt mức 2.635 USD/tấn, tăng 30 USD/tấn so với cuối tuần trước đó.
Giá cà phê như giá cổ phiếu một thời, tăng dần lên từng ngày.
2.2_ Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế đối với xuất khẩu cà phê
của Việt Nam.
2.2.1_Một số thuận lợi và khó khăn trong xuất khẩu cà phê
2.2.1.1_Thuận lợi.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một đòi hỏi tất yếu, bức thiết của đất nước
ta. Nhận rõ lợi thế và thách thức để chủ động hội nhập là điều hết sức cần
thiết. Có vậy chúng ta mới đẩy nhanh quá trình hội nhập với quy mô rộng
hơn, trình độ cao hơn…
Nếu nói không sai, thì trên thực tế kinh tế Việt Nam đã hội nhập kinh
tế thế giới từ lâu, nhưng vẫn ở trình độ thấp, sơ khai. Hiện nay, tuy kinh tế
Việt Nam tham gia vào AFTA, ASEAN, nhưng sự tham gia đó vẫn dừng ở
phạm vi hẹp, nhỏ cả về lĩnh vực lẫn quy mô, khối lượng Trước yêu cầu của
16
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước yêu cầu của phát triển kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không thể không đẩy
nhanh tốc độ, quy mô hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vậy, Nghị quyết Đại hội
Đảng lần thứ VIII và IX và X đều khẳng định phải “đẩy nhanh quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới”, với quy mô rộng hơn và trình độ cao hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả thì chúng ta mới tạo ra được thế đứng

mới trên thương trường quốc tế, mới hạn chế được những đối xử không công
bằng. Hiện nay Tổ chức thương mại thế giới WTO đã thao túng tới 95% kim
ngạch buôn bán thế giới, nên chúng ta đã có rất nhiều thuận lợi trong xuất
khẩu cà phê trên thị trường quốc tế. Nhờ có hội nhập kinh tế quốc tế, chúng
ta đã tranh thủ được nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để đáp ứng với
yêu cầu tiêu chuẩn khắt khe của hiệp hội cà phê.
Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta mới mở rộng được thị trường xuất
nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Mở cửa hội
nhập do đó, không chỉ là để các doanh nghiệp của ta vươn ra, mà còn để các
doanh nghiệp nước ngoài đi vào sản xuất và kinh doanh ở nước ta.
Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu nội sinh của bản thân nền kinh
tế nước ta, chứ không phải do chúng ta bị o ép, bị bắt buộc. Thời cơ đang
đến, yêu cầu của chính bản thân đòi hỏi, không còn sự lựa chọn ưu việt nào
hơn. Vấn đề đặt ra là chúng ta lựa chọn như thế nào để vẫn hội nhập phát
triển mà vẫn bảo toàn trọn vẹn độc lập tự chủ, vẫn hội nhập mà không đánh
mất truyền thống, hội nhập mà an ninh trật tự xã hội được bảo đảm, hội nhập
mà xã hội lành mạnh và phát triển. Chúng ta có nhiều lợi thế để bước vào
hội nhập. Nếu biết vận dụng đúng lợi thế, chúng ta sẽ tạo ra nhiều cơ hội tốt
để hội nhập. Chúng ta có thế mạnh về con người, về lao động với trí thông
minh, nhanh nhẹn, chăm chỉ….
2.2.1.2_Khó khăn
Một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay đó chính là tiêu chuẩn
khắt khe của hiệp hội cà phê thế giới, đây là yêu cầu cấp thiết cần phải thay
đổi sau khi gia nhập các tổ chức thế giới đặc biệt là trở thành thành viên
chính thức của WTO. Tiêu chuẩn mới cho cà phê (TCVN 4193-2005) ban
17
hành từ 2005, đến nay mới có 10% số DN áp dụng, với khoảng 1-1,5%
lượng cà phê xuất khẩu hàng năm. Vụ cà phê mới đã bắt đầu, song các DN
vẫn lấn cấn vì chưa có quyết định về lộ trình áp dụng tiêu chuẩn mới từ Bộ
KH-CN.

Tổ chức Cà phê Quốc tế (ICO) cảnh báo, trong 6 tháng (tính từ tháng
3/2007 về trước), cà phê có nguồn gốc từ Việt Nam bị thải loại chiếm tới
88% tổng số cà phê bị thải loại của thế giới, tăng 19% so với 6 tháng trước
đó. Mất tiền tỷ đã đành, cà phê Việt Nam còn bị mang tiếng xấu về chất
lượng, uy tín sụt giảm. Điều đó nói lên sự cấp thiết về việc áp dụng tiêu
chuẩn mới cho cà phê Việt Nam. Theo Trung tâm Nghiên cứu và Kiểm
nghiệm càphê (CAFECONTROL), chất lượng càphê do người nông dân sản
xuất sấy không đảm bảo, mùi hóa chất sản sinh trong quá trình chế biến.
Thực trạng thu hoạch càphê cũng là điều đáng lo ngại khi tình trạng “vơ
tuốt” quả xanh, quả chín vẫn diễn ra phổ biến; thậm chí tỷ lệ quả xanh khi
thu hái còn chiếm tới 50-70%.Nguyên nhân của thực trạng trên là do người
nông dân thường thu hoạch sớm (trước Tết Nguyên đán), điều này đã làm
dịch chuyển lịch thời vụ về gần mùa mưa, khiến hạt càphê bị đen, mốc, sản
lượng giảm, mất đi hương vị đích thực. Chính vì vậy, nhiều nhà nhập khẩu e
ngại khi mua càphê Việt Nam, mặc dù vẫn công nhận hương vị thuộc loại
hàng đầu thế giới. Đã đến lúc người nông dân phải thực sự thấy rõ việc nâng
cao chất lượng sản phẩm là yêu cầu cấp bách, không thể phó mặc cho doanh
nghiệp hoặc trông chờ vào sự ăn may như lâu nay. Tuy nhiên, để khuyến
khích nông dân thay đổi phương thức sản xuất, từ bỏ cách làm ăn cũ, các
doanh nghiệp xuất khẩu cần có những bước đi đồng hành trong việc đề ra
chính sách thu mua hợp lý, không nên đánh đồng mọi sản phẩm bằng nhau
về giá cả. Đồng thời mạnh dạn đặt ra những điều kiện ràng buộc về chất
lượng sản phẩm đối với người bán, gắn việc xuất khẩu với đầu tư phát triển
vùng nguyên liệu và chế biến ở cơ sở. Nếu để tình hình sản xuất càphê như
hiện nay, người sản xuất rất khó thực hiện được yêu cầu kỹ thuật từ thu hái
đến bảo quản. Cây càphê không chỉ là lợi thế của Tây Nguyên mà còn là mặt
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chính vì thế, bên cạnh những chính
18
sách vĩ mô, chúng ta cần bắt đầu từ việc nhỏ nhất: Thay đổi nhận thức của
nông dân, bởi chỉ có họ mới quyết định được chất lượng càphê xuất

2.3-Những kết luận đánh giá rút ra từ nghiên cứu thực trạng xuất
khẩu cà phê.
2.3.1.Ưu điểm.
“Việt Nam sẽ trở thành nhà sản xuất cà phê thô lớn nhất thế giới
trong năm 2007 với tổng sản lượng thu hoạch tăng 38% so với cùng kỳ
năm ngoái”, Bộ Nông nghiệp Mỹ nhận định.
Theo báo cáo kinh tế do Sứ quán Mỹ tại Việt Nam gửi cho Bộ Nông
nghiệp Hoa Kỳ, sản lượng cà phê thu hoạch của Việt Nam tính đến cuối
tháng 10/2007 sẽ đạt 18,6 triệu túi (mỗi túi chứa 60 kg cà phê), tăng 38 % so
với con số 13,5 triệu túi của năm 2006.
Nguyên nhân của vụ mùa bội thu năm nay là do khí hậu và thời tiết ở
các đồn điền trồng cà phê tốt, thích hợp với sự tăng trưởng phát triển của
loại cây này.
Vừa rồi, các chủ trang trại tăng cường nhiều biện pháp chăm sóc hiệu
quả nhằm kích thích quá trình tăng trưởng của cà phê.
Thêm vào đó, diện tích trồng cà phê tại Việt Nam năm nay cũng được
mở rộng, đạt tới 515.000 hecta, tăng 4% so với năm ngoái.
Một báo cáo đăng trên website của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ cho biết,
hiện Việt Nam đang tiếp tục trồng và thử nghiệm nhiều hạt giống cà phê
mới, thơm ngon hơn, năng xuất cao hơn và rất thích hợp với việc sản xuất,
tinh chế cà phê tan.
Cơ chế mở cửa và hội nhập kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập
WTO sẽ càng làm cho thị trường xuất – nhập khẩu cà phê của Việt Nam trở
nên hấp dẫn hơn, gây được sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài.
Trước những điều kiện này, Bộ Nông nghiệp Mỹ đánh giá rất cao về
thị trường cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới trong bối cảnh,
19
giá cà phê thô ở thị trường Mỹ và nhiều nước châu Âu đang đội lên rất cao
do nhu cầu tiêu thụ tăng nhưng sản lượng nhập khẩu chưa đáp ứng đủ.
2.3.2.Nhược điểm.

- Vẫn chủ yếu là xuất thô.
Cà phê vốn là một sản phẩm nông nghiệp gắn liền với cuộc sống của
hàng triệu người dân Việt Nam. Mỗi năm cả nước xuất khẩu trên dưới
900.000 tấn cà phê với kim ngạch xấp xỉ 1,5 tỷ USD, trong đó riêng tỉnh
Đắk Lắk đã chiếm 50% tổng số lượng cà phê xuất khẩu của cả nước. Cà phê
hiện nay là nguồn thu nhập chính trong đời sống của đa số hộ đồng bào các
dân tộc ở Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng, là mặt hàng chiếm
tới trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Đắk Lắk mỗi năm. Chúng
ta đã xây dựng được những thương hiệu nổi tiếng như Trung Nguyên, Café
Moment, cà phê Buôn Ma Thuột Tuy nhiên, dù Việt Nam là một nước sản
xuất, xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới và là nước xuất khẩu cà phê
Robusta số 1 thế giới nhưng có một thực tế đáng buồn là trên 90% lượng cà
phê xuất khẩu của Việt Nam vẫn là cà phê nhân thô
- Năng suất cao nhất thế giới nhưng chất lượng kém xa chuẩn
quốc tế.
Theo Công ty Giám định cà phê và Nông sản Xuất nhập khẩu
CafeControl, việc đánh giá chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam hiện
được mô tả đơn giản hơn hẳn tập quán quốc tế, và lại tồn tại đã 10 năm nay.
Khi đó Việt Nam còn chủ yếu bán cà phê cho các nước châu Á lân cận,
khách hàng mua dưới dạng nguyên liệu và tái xuất. Đơn giản nhất, khâu thử
nếm của Việt Nam chỉ ''khi có yêu cầu'' trong khi quốc tế là bắt buộc, tạp
chất theo quy định Việt Nam là 1% trong khi quốc tế là 0,2%. Chất lượng
không được nâng cao trong khi hàng hoá qua các nhà nhập khẩu trung gian
vẫn đi thẳng tới thị trường tiêu thụ. Đến lúc này, các điểm yếu của chất
lượng cà phê Việt Nam mới bộc lộ, gây hậu quả lớn về kinh tế lẫn uy tín cho
20
ngành cà phê Việt Nam. Bởi thế, người mua thường mua hàng Việt Nam với
giá thấp hơn so với cà phê của Braxin, Indonesia
Ngoài ra, người nông dân còn chưa có ý thức tạo sản phẩm tốt.
Nguyên nhân chính là sản phẩm tốt hay xấu đều bán được cho các cơ sở chế

biến mà giá cả không chênh lệch. Theo ông Nguyễn Văn Lạng, Chủ tịch
UBND tỉnh Đăk Lăk, nông dân hiện nay thu hoạch cà phê có tới 60-70% là
xanh. Việc thu hoạch xanh như vậy thậm chí đã làm đảo lộn chu kỳ sinh
trưởng của cà phê (ra hoa sớm hơn 1 tháng). Mỗi năm, tỉnh Đăk Lăk lãng
phí tới 60 tỷ đồng do bón phân thừa, tưới nước thừa, tuy làm tăng năng suất
(năng suất cà phê cao nhất thế giới), nhưng lại làm giảm chất lượng cà phê.
- Tranh mua, tranh bán cà phê.
Theo thống kê của Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam (VICOFA), cả
nước hiện có khoảng 130 DN tham gia xuất khẩu cà phê. Việc có nhiều DN
tham gia xuất khẩu cà phê có mặt tích cực là góp phần tiêu thụ hết cà phê
cho dân, nhưng cũng tạo ra tình trạng tranh mua, tranh bán, dễ bị khách
nước ngoài ép giá, nhất là trong điều kiện khách hàng nhập khẩu lớn của VN
chỉ có trên dưới 10 hãng. Do tiềm lực tài chính mạnh, nhiều hãng nước ngoài
tiến hành mua cà phê tại thời điểm giá rẻ, sau đó đưa vào kho ngoại quan tại
Việt Nam để chờ xuất khẩu. Thậm chí, có trường hợp DN Việt Nam không
đủ chân hàng phải nhập khẩu lại cà phê từ kho ngoại quan với giá cao hơn
để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu khác.
Ngoài ra, khâu tổ chức thu mua trong nước chưa tốt, dẫn đến đầu vụ,
nhiều hộ nông dân, nhất là các hộ nghèo thường phải bán vội cà phê với giá
thấp để trang trải chi phí. Tâm lý vội bán cà phê, kết hợp với việc thu hái
không đảm bảo quy trình, nên cà phê bán ra thị trường thường bị ép giá. Hệ
thống đại lý thu mua cà phê hình thành một cách tự phát, chủ yếu là các đại
lý tư nhân, hệ quả là khi giá cả thị trường biến động mạnh, dẫn đến đổ vỡ
theo dây chuyền từ đại lý tới các nhà xuất khẩu.
Mặt khác, các DN Việt Nam vẫn phổ biến bán cà phê theo phương
thức trừ lùi, chốt giá sau. Đây là một hình thức đầu cơ giá nên có rất nhiều
21
rủi ro. Trong khi đó, giá giao dịch cà phê diễn biến từng ngày, từng giây,
từng phút, đòi hỏi người giao dịch quyết định mua bán hết sức nhạy bén, vì
từng lô hàng mua bán có trị giá rất lớn, thậm chí có thể khiến DN bị lỗ, hay

phá sản ngay lập tức.
22
Chương III
Phương hướng và giải pháp cho xuất khẩu cà
phê trong thời gian tới

3.1_Mục tiêu phương hướng phát triển xuất khẩu cà phê trong
thời gian tới.
Mục tiêu trước mắt của chúng ta đó là tăng năng xuất và chất lượng
của cây cà phê bằng cách dần thay đổi những tập quán thu hoach chế biến cà
phê, đầu tư cải tiến máy móc trang thiết bị hiện đại nhằm mục đích đáp ứng
tốt yêu cầu về tiêu chuẩn của thế giới.Ngoài rat a còn có những mục tiêu mới
cho tương lai vô cùng táo bạo của các doanh nghiệp và nhà nước nhưng ta
có những cơ sở để tin tưởng có thể thực hiện được trong tương lai. Đó là
việc xây dừng một vùng đất riêng nơi được gọi là ‘’Thi ên đường cà phê’’
nơi mà không chỉ những tín đồ và tất cả mọi nguời -những ai quan tâm đến
cà phê có điều kiện tìm hiểu ,thưởng thức cà phê…Đây sẽ trở thành khu
truyền bá văn hoá cà phê không chỉ trong nước mà ra toàn thế giới…mang
những trọng trách và nhiệm vụ cao cả thể hiện tònh yêu với cà phê và với
đất nước.
Nhằm nâng cao năng lực cạnh trạnh trong xuất khẩu cà phê của Việt
nam,trong một số đề án nghiên cứu đã đưa ra mục tiêu : cần đưa cà phê VN
lên sàn giao dịch quốc tế, đặc biệt ở Anh và Mỹ. Không chỉ nắm tình hình
giá cả thị trường thế giới, sàn giao dịch còn đảm bảo kỹ thuật trồng cao so
với cà phê thế giới. Ngoài ra, sàn sẽ tác động lại việc sản xuất, đặc biệt là
giống. Để thực hiện những mục tiêu trên thì cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa
các doanh nghiệp và chính sách nhà nước tạo nên một khối thống nhất,vững
mạnh trong xuất khẩu cà phê ra thế giới.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu cà phê
của Việt Nam.

23
3.2.1. Nghiên cứu xâm nhập thị trường thế giới về xuất khẩu cà
phê.
Tình hình Thế giới.
Nguy cơ hạn hán trong giai đoạn ra hoa của các đồn điền cà phê
Braxin đang trở thành mối lo chính suốt hai tháng qua, và đặc biệt tác động
mạnh lên thị trường cà phê thế giới trong hai tuần cuối tháng 9. Tình trạng
khô hạn từ tháng 7 đến tháng 9 là hiện tượng rất bình thường ở Braxin, thậm
chí còn có lợi cho việc ra hoa và chín đồng đều của quả, những yếu tố cần
thiết để tạo nên chất lượng tốt cho hạt cà phê. Mưa lớn vào tháng 7 làm tăng
độ ẩm của đất, thêm vào đó vụ mùa năm 2008/09, được dự báo là sẽ đạt mức
cao kỷ lục, có thể vượt qua mức 48 triệu bao đã từng thu được trong vụ mùa
năm 2002/03. Nhưng người trồng cà phê ở một số nơi lại nhìn nhận tình
hình hiện nay một cách ảm đạm, họ cho rằng vụ mùa tới đã bị thiệt hại và
tình thế này sẽ chẳng thể cải thiện được ngay cả khi trời sẽ mưa.
Thời tiết đang là yếu tố chi phối thị trường cà phê kỳ hạn tại Luân
Đôn và Niu Yóoc. So với tháng 8, giá cà phê tháng 9 tăng rất mạnh. Trong
phiên giao dịch ngày 20/9 giá cà phê arabica đã tăng lên mức cao nhất trong
vòng hai năm rưỡi (1,3315 USD/lb). Nguyên nhân chính là do hoạt động
mua vào của các quỹ và của giới đầu cơ tăng mạnh trước triển vọng nguồn
cung cà phê khan hiếm ngày càng rõ nét. Giới kinh doanh cho biết thời tiết
khô hạn kéo dài ở Braxin, nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới và động đất
mạnh 6,8 độ ricte tại Colombia, nước sản xuất lớn thứ ba thế giới là nguyên
nhân chính đẩy giá cà phê tăng cao. Vành đai cà phê của Braxin đã trải qua
những ngày cực kỳ khô hạn trong suốt tháng 8 và đến cuối tháng 9 vẫn chưa
có mưa. Thêm vào đó, nguồn cung robusta có dấu hiệu khan hiếm trong
ngắn hạn, đặc biệt với hợp đồng tháng 11 vì Việt Nam nước sản xuất robusa
lớn nhất thường bắt đầu thu hoạch cà phê vào tháng 10 nhưng năm nay phần
lớn sản lượng sẽ không được thu hoạch đúng hạn để giao hàng vào tháng 11
như mọi năm, (xem Biểu đồ 1).

Các chuyên gia cho biết từ nay cho đến giữa năm 2008, cung cà phê
thế giới sẽ eo hẹp do sản lượng cà phê của Braxin giảm mạnh, giảm gần 10
24
triệu bao so với vụ trước. Xuất khẩu cà phê trong tháng 8 của Braxin đã
giảm 23% so với tháng 8 năm ngoái. Trong tháng 9, Braxin xuất khẩu được
1,93 triệu bao cà phê nhân, giảm 16,9% so với mức 2,32 triệu bao của tháng
9 năm 2006. Khối lượng hàng giao trong tháng 9 gồm 1,71 triệu bao cà phê
Arabica, giảm 19,4% so với 2,13 triệu bao năm ngoái; và 213.195 bao cà
phê robusta, tăng 10,6% so với 192.680 bao năm trước. Xuất khẩu cà phê
hòa tan đạt 281.140 bao, tăng 46,6% so với 191.754 bao của tháng 9 năm
2006. Tính chung, tổng khối lượng xuất khẩu giảm 12,1% xuống mức 2,21
triệu bao nhưng kim ngạch xuất khẩu trong tháng 9 tăng 2% lên 304,58 triệu
đô la Mỹ.
Xuất khẩu cà phê tháng 9 của Braxin (60-kg/bao)

Robustar Arabica Cà phê
nhân
Cà phê
hoà tan
Tổng
khối
lượng
Tổng
kim
ngạch
( Triệu
USD)
Tháng
9/07
213.195 1712891 1.926.08

6
281.140 2.207.22
6
304,577
Tháng
9/06
192.680 2.126.03
4
2.318.71
4
191.754 2.510.46
8
298,617
Mức
thay đổi
20.515 -413.143 -392.628 89.386 -303.242 59,60
% thay
đổi
10.6 -19,4 -16,9 46,6 -12,1 2,0

25

×