Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

BTL THỦ TỤC ĐẶC BIỆT TRỌNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.11 KB, 11 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sư

BLHS

: Bộ luật hình sư

TNHS

: Trách nhiệm hình sư

1


ĐẶT VẤN ĐÊ
Người chưa thành niên là một nhóm đối tượng đặc biệt trong pháp luật hình
sư nói chung và pháp luật tố tụng hình sư nói riêng, bởi những đặc trưng tâm ly
của lứa tuổi này mà khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi còn bị hạn chế và chịu nhiều tác động từ các nhân tố khách quan bên
ngoài. Chính vì vậy, BLTTHS đã xây dưng một chương riêng quy định về thủ
tục tố tụng áp dụng với nhóm đối tượng này, đặt ra đòi hỏi các đối tượng cần
chứng minh trong vụ án hình sư mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên cũng
phải được xây dưng sao cho phù hợp với tâm ly của người chưa thành niên. Từ
những ly do nêu trên, trong phạm vi bài tiểu luận em xin được đi sâu vào phân
tích đề tài: “Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về đối tượng
phải chứng minh trong vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên – so
sánh với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.”


Do kiến thức và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên bài làm còn nhiều
thiếu sót, em rất mong nhận được sư góp y, đánh giá của thầy cô để bài làm
được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

2


GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ
I/ Đối tượng phải chứng minh trong vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa
thành niên theo quy định của BLTTHS 2003.
Khi tiến hành tố tụng đối với người chưa thành niên, ngoài việc xác định
những vấn đề cần chứng minh có tính chất bắt buộc chung đối với các vụ án
hình sư và các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án, cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, toà án còn phải chứng minh còn phải chứng minh
rõ các yếu tố theo khoản 2 Điều 302 BLTTHS 2003 khi tiến hành điều tra, truy
tố và xét xử, cụ thể:
“a) Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của người chưa thành niên;
b) Điều kiện sinh sống và giáo dục;
c) Có hay không có người thành niên xúi giục;
d) Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.”
1. Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về
hành vi phạm tội của người chưa thành niên.
Trước hết, việc xác định tuổi của người chưa thành niên là cần thiết cho vấn
đề có truy cứu TNHS đối với người đó hay không, mặt khác,xác định tuổi còn là
căn cứ cho việc quyết định áp dụng hình phạt thích hợp và đảm bảo chế độ thi
hành án đúng quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên.
Trường hợp không biết chính xác ngày, tháng sinh của bị can, bị cáo thì
việc xác định tuổi được thưc hiện theo quy định tại Điều 6 Thông tư liên tịch số
01/2011, cụ thể như sau:

-

Nếu xác định được tháng sinh nhưng không xác định được ngày sinh thì lấy

-

ngày cuối cùng của tháng đó để xem xét TNHS đối với bị can, bị cáo.
Nếu xác định được quy của năm sinh nhưng không xác định được ngày, tháng
sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng của quy đó để xem xét TNHS
đối với bị can, bị cáo.
3


-

Nếu xác định được nửa đầu năm hay nửa cuối năm của năm sinh thì lấy ngày 30

-

tháng 6 hoặc 31 tháng 12 của năm đó để xem xét TNHS đối với bị can, bị cáo.
Nếu không xác định được nửa năm nào, quy nào, tháng nào trong năm thì lấy
ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó để xem xét TNHS đối với bị can, bị

-

cáo.
Trường hợp không xác định được năm sinh của bị can, bị cáo là người chưa
thành niên thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của ho
Việc xác định mức độ phát triển về thể chất, tinh thần, mức độ nhận thức có
thể được thưc hiện thông qua lời khai của cha mẹ, giáo viên, bạn bè ho, qua

nhận xét của tổ dân phố, của Đoàn thanh niên nơi người chưa thành niên hoc
tập, lao động và sinh sống; qua tài liệu y tế, kết luận giám định trong trường hơp
có nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn của ho. Ngoài ra, trong
trường hợp cần thiết có thể sử dụng kiến thức của các chuyên gia trong lĩnh vưc
tâm ly hoc, các giáo viên giàu kinh nghiệm,… để xác định mức độ phát triển,
năng lưc nhận thức của người chưa thành niên. Thông qua hoạt động này, cơ
quan tiến hành tố tụng có thể xác định rõ mức độ trách nhiệm, mức độ lỗi của
người chưa thành niên đối với hành vi mà ho thưc hiện và đối với hậu quả mà
hành vi do ho thưc hiện gây ra.
2. Điều kiện sinh sống và giáo dục.
Việc xác định rõ điều kiện sinh sống và giáo dục của người chưa thành niên
phạm tội giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định chính xác hơn về mức độ
trách nhiệm, tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện phạm tội, từ đó xây dưng
phương pháp giáo dục, cải tạo đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
Thưc tế cho thấy, môi trường xung quanh cũng như điều kiện sinh sống và giáo
dục có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình hình thành nhân cách của người chưa
thành niên cũng như hành vi phạm tội của ho. Cụ thể những vấn đề sau đây cần
đươc xem xét:

-

Người chưa thành niên trước hết do bị ảnh hưởng bởi những yếu tố tiêu cưc
trong chính môi trường gia đình của ho, trưc tiếp là những người cùng chung
sống trong gia đình như ông bà, anh chị em.
4


-

Nếu gia đình là ảnh hưởng đầu tiên và quan trong nhất trong việc đào tạo tư

cách và tình cách của người chưa thành niên thì nhà trường cũng góp phần hết

-

sức quan trong vào việc hình thành nhân cách của nhóm đối tượng này.
Những hiện tượng tiêu cưc ngoài xã hội cũng ảnh hưởng đến đầu óc nhạy cảm
và hiếu động của người chưa thành niên. Ảnh hưởng không lành mạnh của môi
trường xung quanh tác động lớn đến người chưa thành niên, ởi ho đang ở độ tuổi
hiếu động, hăng hái, nhiều khi bồng bột, không có khả năng tư kiềm chế bản
thân và thích thú các hoạt động giao tiếp nên dễ bị kích động, lôi kéo.
Như vậy, điều kiện sinh sống và giáo dục người chưa thành niên có ảnh
hưởng đến việc xác định một số điểm liên quan tới hành vi phạm tội do người
chưa thành niên gây ra và khả năng cải tạo, giáo dục ho. Do đó, khi tiến hành
điều tra, truy tố, xét xử đối với những vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa
thành niên, cần xác định những yếu tố sau:

-

Điều kiện sống của gia đình;
Thái độ của cha mẹ đối với việc giáo dục con cái.
Môi trường sinh hoạt xung quanh, nội dung giáo dục của nhà trường, nơi làm
việc, nơi cư trú có ảnh hưởng đến hành vi của người chưa thành niên phạm tội
hay không.
3. Có hay không có người thành niên xúi giục.
Xúi giục là hành vi trưc tiếp, cụ thể tác động đến tư tưởng, nhận thức của
một hoặc một số người chưa thành niên để người này hoặc những người này
thưc hiện một tội phạm hoặc một số tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS.
Do đặc trưng tâm ly của nhóm đối tượng người chưa thành niên, ho thường bị
các đối tượng xấu lợi dụng triệt để sư bồng bột, non nớt, nhẹ dạ cả tin, thiếu
kinh nghiệm sống cũng như hoàn cảnh cụ thể của từng em để lôi kéo, kích động,

dụ dỗ các em đi vào con đường phạm tội, thậm chí đe doạ khống chế buộc phải
phạm tội.
Xác định có hay không người có người thành niên xúi giục là một trong
những yếu tố xác định đúng tính chất hành vi phạm tội, bởi thưc tiễn điều tra,
truy tố và xét xử cho thấy, trong một vụ án hình sư có sư tham gia của người
5


thành niên thì người chưa thành niên thường chỉ giữ vai trò thứ yếu và chịu sư
điều khiển, chỉ đạo của người thành niên thưc hiện hành vi phạm tội nhất định.
Việc xác định yếu tố này có y nghĩa quan trong trong việc xác định mức độ
trách nhiệm của người chưa thành niên phạm tội. Theo điểm i khoản 1 Điều 46
BLHS 1999 thì phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức là một trong những
tình tiết giảm nhẹ, thậm chí trong nhiều trường hợp còn là yếu tố loại trừ TNHS
đối với người chưa thành niên. Ngoài ra, để phát hiện đồng phạm trong vụ án
mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên, đảm bảo không để lot tội phạm,
không làm oan người vô tội. Hơn nữa, theo điểm n khoản 1 Điều 48 BLHS 1999
thì xúi giục người chưa thành niên phạm tội là một tình tiết tăng nặng.
4. Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Trên thưc tế thì có những nguyên nhân và điều kiện không thể phủ nhận
dẫn đến việc thưc hiện hành vi phạm tội của người chưa thành niên, đó là môi
trường gia đình, nhà trường, xã hội; đặc điểm tâm ly lứa tuổi là điều kiện ảnh
hưởng và tác động lẫn nhau một cách biện chứng làm phát sinh tội phạm ở
người chưa thành niên.
Việc xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội nhằm giúp các cơ quan
tiến hành tố tụng đề ra các biện pháp xử ly phù hợp, khách quan, toàn diện và
đúng đắn theo quy định của pháp luật, đồng thời yêu cầu các cơ quan hoặc tổ
chức hữu quan áp dụng những biện pháp cần thiết nhằm khác phục nguyên nhân
và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan hoặc tổ chức đó, góp phần to lớn
vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bên cạnh đó còn góp phần giáo

dục, giúp đỡ người chưa thành niên cải tạo tốt, tái hoà nhập cộng đồng và trở
thành một công dân có ích.
Trong quá trình tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện phạm tội cần chú y
những vấn đề sau:
-

Nguồn gốc phát sinh những quan niệm, những thói quen phạm pháp như sư giáo
dục của gia đình, sư lôi kéo rủ rê của bạn bè, sư tiêm nhiễm thói hư tật xấu của
những người xung quanh.
6


-

Những tình tiết dẫn tới việc hình thành y đồ phạm tội và điều kiện dẫn đến việc

-

người chưa thành niên thưc hiện tội phạm.
Điều kiện tìm kiếm hoặc có được công cụ, phương tiện phạm tội.
Động cơ thúc đẩy người chưa thành niên thưc hiện tội phạm.
II/ Điểm mới của BLTTHS 2015 về đối tượng phải chứng minh trong vụ án
mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên.
Những đối tượng phải chứng minh trong vụ án mà bị can, bị cáo là người
chưa thành niên được quy định tại Điều 416 BLTTHS 2015. Về cơ bản quy định
này vẫn giữ nguyên tinh thần của Điều 302 BLTTHS 2003, tuy nhiên có một số
sửa đối và bổ sung như sau:
Thứ nhất, có sư thay đổi trong việc sử dụng thuật ngữ và kĩ thuật lập
pháp.Việc thay thế thuật ngữ “trình độ phát triển” bằng “mức độ phát triển” đã
diễn đạt chính xác hơn sư phát triển theo từng mức độ của lứa tuổi người chưa

thành niên.Điều này đã giúp việc xác minh trở nên thuận lợi, khách quan hơn.
Ngoài ra, việc sử dụng thuật ngữ “Người chưa thành niên, người thành
niên” cũng được sửa đổi thành “người dưới 18 tuổi, người đủ 18 tuổi trở lên”.
Như vậy, BLTTHS 2015 đã chỉ rõ đối tượng cần chứng minh là “người dưới 18
tuổi, người đủ 18 tuổi trở lên”.
Việc quy định đối tượng chứng minh là người chưa thành niên như
BLTTHS 2003 gây khó khăn cho điều tra viên, cơ quan tố tụng trong việc xác
định tuổi, ngoài ra tạo kẽ hở cho một số đối tượng cố tình hiểu sai quy định pháp
luật để làm sai quy trình tố tụng.1
Thứ hai, bổ sung thêm vấn đề cần xác minh, đó là hoàn cảnh phạm tội trong
các vụ án hình sư có người bị buộc tội là người chưa thành niên.Đây là quy định
hoàn toàn mới so với BLTTHS 2003. Bên cạnh nguyên nhân và điều kiện phạm
tội thì hoàn cảnh phạm tội cũng là một yếu tố quan trong cần xác định giúp cơ
quan tiến hành tố tụng biết được điều gì đã tác động người chưa thành niên dẫn
1Trường Đại hoc Luật Hà Nội, Văn Đình Thắng, tr. 19, Luận văn thạc sĩ luật hoc “Thủ tục tố tụng đối
với người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sư Việt Nam”, Hà Nội, 2016.
7


đến việc ho thưc hiện hành vi phạm tội. Việc xác định hoàn cảnh phạm tội cũng
có y nghĩa trong việc xác định mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, giúp cơ
quan tiến hành tố tụng định tội danh, định khung hình phạt và mức hình phạt
một cách phù hợp và chính xác hơn.
Thứ ba, quy định cụ thể về cách xác định tuổi của người bị buộc tội, người
bị hại là người dưới 18 tuổi.
Ở BLTTHS 2003 không có quy định cụ thể về việc xác định tuổi của bị can,
bị cáo là người chưa thành niên mà được hướng dẫn tại Điều 6 Thông tư liên
tịch số 01/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối với người
tham gia tố tụng là người chưa thành niên. Tuy nhiên, các quy định tại Điều này
chỉ dừng lại ở phạm vị điều chỉnh dành cho đối tượng là bị can, bị cáo nói chung

mà không áp dụng cho các đối tượng khác như người bị tạm giữ, người bị hại là
người chưa thành niên. Mặt khác, trong thưc tiễn thưc hiện còn nhiều vướng
mắc và chưa đạt hiệu quả bởi cách quy định hướng dẫn khái quát và chưa hoàn
toàn thống nhất, phù hợp để các cơ quan tiến hành tố tụng trong cả nước áp
dụng.
Trên cơ sở pháp điển hoá các văn bản hướng dẫn hiện hành, để giải quyết
triệt để các vướng mặc nảy sinh trong thưc tiễn áp dụng, qua quá trình tổng hợp
y kiến, BLTTHS 2015 đã được bổ sung Điều 417 quy định chặt chẽ, cụ thể cách
xác định tuổi của người bị buộc tội, người bị hại là người dưới 18 tuổi đảm bảo
hợp ly nhất, phù hợp nguyên tắc có lợi cho người bị buộc tội là người chưa
thành niên. Việc quy định cách xác định tuổi như trên sẽ góp phần đảm bảo việc
giải quyết các vụ án liên quan người chưa thành niên trong những trường hợp
cần thiết được thuận lợi, kịp thời, vừa đảm bảo thưc hiện nguyên tắc có lợi đối
với người chưa thành niên phạm tội, đồng thời bảo vệ được tốt hơn quyền và lợi
ích của người bị hại là người chưa thành niên trước sư xâm hại của tội phạm.2

2 PGS. TS. Nguyễn Hoà Bình ( chủ biên), Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sư năm

2015, NXB. Chính trị quốc gia, tr. 355 - 356, Hà Nội, 2016.
8


III/ Những hạn chế trong việc thi hành các quy định về đối tượng cần
chứng minh và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện.
1. Những hạn chế.
Việc xác định độ tuổi bị can, bị cáo là người chưa thành niên trên thưc tiễn
vẫn gặp nhiều vướng mắc, đặc biệt là các đối tượng người chưa thành niên sống
lang thang, không có nơi cư trú cố định, không có giấy tờ nhân thân như giấy
khai sinh, sổ hộ khẩu,… còn gặp khó khăn. Đối với những trường hợp này căn
cứ vào lời khai của người chưa thành niên để làm căn cứ thì tính chính xác

không cao.
Bên cạnh đó, số lượng người chưa thành niên có hoàn cảnh gia đình đặc
biệt hoặc không có nơi cư trú chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong tổng số người
chưa thành niên phạm tội nên việc xác minh điều kiện sinh sống và hoc tập cũng
gặp không ít khó khăn. Việc xác minh cần phải thu thập các tài liệu liên quan
đến môi trường giáo dục, môi trường xung quanh,… sẽ rất khó khăn để thưc
hiện vì gần như không thể xác minh thông qua các tài liệu đó.
Vấn đề xác minh nguyên nhân và điều kiện phạm tội trên thưc tế cũng chưa
được chú y đúng mức. Tuy nhiên để xác định được nguyên nhân nào ảnh hưởng
đến hành vi phạm tội cũng không phải là điều dễ dàng, điều này xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, chẳng hạn như người chưa thành niên thiếu sư giám sát của
nhà trường và gia đình, sư phối hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội còn lỏng
lẻo,… nên trong quá trình tiến hành tố tụng hầu như chỉ căn cứ vào lời khai của
bị can, bị cáo, dưa vào sư giáo dục, quan tâm của gia đình đối với người chưa
thành niên làm căn cứ xác định.
2. Một số kiến nghị.
Việc xác minh độ tuổi bị can bị cáo là người chưa thành niên cần nghiên
cứu, xây dưng các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành các quy định về vấn đề
xác định độ tuổi ngày, tháng, năm sinh thống nhất giữa các cơ quan trong trường
hợp có sư khác biệt về quy định này. Liên ngành Tòa án – Viện kiểm sát cần có

9


những văn bản thống nhất quy định chặt chẽ về vấn đề xác minh độ tuổi của bị
can, bị cáo là người chưa thành niên.
Về phía Nhà nước cần phối hợp với các cơ quan tư pháp và trường hoc
trong việc nghiên cứu xây dưng các chương trình giáo dục pháp luật ở nhà
trường nhằm giúp trẻ nhận thức được về các quy định pháp luật cơ bản và cần
thiết ngay khi còn hoc tập trong trường.

Về phía các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải có tinh thần trách nhiệm
trong việc thu thập chứng cứ chứng minh các đối tượng trong vụ án mà bị can,
bị cáo là người chưa thành niên. Khi tiếp xúc lấy lời khai từ những người chưa
thành niên, cơ quan điều tra cũng nên xây dưng những bảng hỏi phù hợp, thân
thiện và dễ hiểu, dễ tiếp cận đối với tâm ly người chưa thành niên. Điều tra viên,
cán bộ điều tra, kiểm sát viên được phân công điều tra vụ án có bị can bị cáo là
người chưa thành niên cần tìm hiểu và nghiên cứu kỹ về tâm ly và nhân thân của
những người này.
Đảng và Nhà nước cần xây dưng những chính sách liên quan tới tăng
cường xây dụng và phát triển các trung tâm dành cho những trẻ mồ côi, trẻ có
điều kiện sinh sống còn thấp so với mặt bằng chung. Bên cạnh đó cũng nên đưa
ra những chính sách phát triển kinh tế, xã hội đối với những địa phương còn khó
khăn về moi mặt từ đó nâng cao y thức pháp luật của toàn dân, nhất là thế hệ trẻ
của đất nước.
KẾT LUẬN
Trong tố tụng hình sư, việc xác định đối tượng chứng minh có vai trò quan
trong để có thể phát hiện nhanh chóng, xử ly chính xác, công minh người phạm
tội, không để lot tội phạm và không làm oan người vô tội. Do đó, việc xác minh
các đối tượng cần chứng minh trong một vụ án hình sư phải thật cẩn trong, kỹ
lưỡng và chính xác, đặc biệt khi bị can, bị cáo là người chưa thành niên. Việc
xây dưng thủ tụng tố tụng đặc biệt đối với nhóm người chưa thành niên phạm tội

10


đã đạt được nhiệm vụ của tố tụng hình sư đặt ra là giáo dục moi công dân tôn
trong và tuân thủ đúng pháp luật.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.

Trường Đại hoc Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng hình sư Việt Nam, NXB.

2.

Công an nhân dân, Hà Nội, 2014.
Hoc viện khoa hoc xã hội, GS. TS. Võ Khánh Vinh, Bình luận khoa hoc Bộ luật
Tố tụng hình sư của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB. Tư pháp,

3.

Hà Nội, năm 2012.
PGS. TS. Nguyễn Hoà Bình ( chủ biên), Những nội dung mới trong Bộ luật tố

4.
5.
6.

tụng hình sư năm 2015, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.
Bộ luật Tố tụng hình sư 2003.
Bộ luật Tố tụng hình sư 2015.
Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT – VKSTC – TANDTC – BCA – BTP –
BLĐTBXH hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sư

7.

2003.
Trường Đại hoc Luật Hà Nội, Văn Đình Thắng, Luận văn thạc sĩ luật hoc “Thủ
tục tố tụng đối với người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng hình sư Việt

Nam”, Hà Nội, 2016.

11



×