Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

Báo cáo đề tài: Đảng lãnh đạo thực hiện đối ngoại, hội nhập quốc tế và biện pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của tổ quốc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.89 KB, 58 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TPHCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA


ĐỀ TÀI 6

ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐỐI NGOẠI,
HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ BIỆN PHÁP BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO CỦA TỔ QUỐC HIỆN
NAY ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Môn: Đường lối cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam
GVHD: Nguyễn Hữu Kỷ Tỵ

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 06 năm 2020


MỤC LỤC

2


LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại tồn cầu hóa và sự tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công
nghệ, hội nhập quốc tế là tất yếu, là nhu cầu tồn tại và phát triển của các nước. Đối với Việt
Nam, hội nhập quốc tế là định hướng chiến lược lớn nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Không chỉ thế, hội nhập quốc tế còn giúp
nước ta mở rộng thị trường, thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ
nguồn nhân lực, tạo ra sự đang dạng về hàng hóa, duy trì hịa bình và ổn định khu vực cũng
như quốc tế. Tuy nhiên việc hội nhập lại mang tới những thách thức như gia tăng cạnh tranh
giữa doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia
vào thị trường bên ngoài, tăng phân cách giàu – nghèo, nguy cơ bị xói mịn văn hóa, gia


tăng tình trạng nhập cư bất hợp pháp, tội phạm xuyên quốc gia.
Vì vậy Đảng cần có những chủ trương chính sách cụ thể về mục tiêu, nhiệm vụ, tư
tưởng chỉ đạo để thực hiện đối ngoại, hòa nhập quốc tế, nhằm đưa Việt Nam ngày càng
phát triển song hạn chế hết mức các thiệt hại mà hội nhập quốc tế mang lại.
Rõ ràng việc đưa nước ta hội nhập vào quốc tế là bước đi mang tính tất yếu, mang đến
nhiều cơ hội nhưng bên cạnh đó cũng đem đến các thách thức mới khi những biến động thế
giới hay khu vực đều có thể ảnh hưởng đến hịa bình và chủ quyền Việt Nam. Đặc biệt tại
thời điểm này là về chủ quyền biển đảo, khi mà thời gian gần đây ở khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương, vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Đông giữa các quốc gia trong khu vực
nói chung và Trung Quốc với Việt Nam nói riêng diễn biến rất phức tạp. Cụ thể là vào ngày
18/04/2020, Trung Quốc thực hiện thông báo thành lập quận Tây Sa (tức quần đảo Hoàng
Sa, Việt Nam) và quận Nam Sa (tức quần đảo Trường Sa, Việt Nam) tại “thành phố Tam
Sa”.
Ý thức được tầm quan trọng đó, trước tình hình trên, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển
đảo thiêng liêng của Tổ quốc và ngoại giao đã và đang là một mặt trận và ưu tiên hàng đầu.
Cả hai vấn đề đối ngoại, hội nhập và chủ quyền biển đảo đều ảnh hưởng lớn và có mối
liên hệ mật thiết với nhau. Vì vậy đặt ra u cầu Đảng ngồi việc có những chủ trương
chính sách thích hợp về đối ngoại, hội nhập - sự nghiệp của tồn dân và của cả hệ thống
chính trị - mà song song với đó cũng cần có những biện pháp đúng đắn kiên quyết mà khéo
léo để giữ vững chủ quyền biên đảo; đảm bảo hài hòa được hai vấn đề này để đưa Việt Nam
3


phát triển một cách vững bền. Đó chính là lí do nhóm quyết định tìm hiểu về vấn đề hội
nhập quốc tế và tranh chấp biển Đông.

4


I. Đảng lãnh đạo thực hiện đối ngoại, hội nhập quốc tế và biện

pháp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc hiện nay
1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, tư tưởng chỉ đạo và một số chủ trương, chính sách lớn về
mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế của Đảng
1.1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo
Trong các văn kiện liên quan đến lĩnh vực đối ngoại, Đảng ta đều chỉ rõ cơ hội và thách
thức của việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, trên cơ sở đó Đảng xác định mục tiêu,
nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo và công tác đối ngoại.
- Cơ hội và thách thức:
Về cơ hội: Xu thế hồ bình, hợp tác phát triển và xu thế tồn cầu hoá kinh tế tạo thuận
lợi cho nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế. Mặt khác, thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới đã nâng cao thế và lực của nước ta trên trường quốc tế, tạo tiền đề
mới cho quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
Về thách thức: Những vấn đề tồn cầu như phân hố giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm
xuyên quốc gia... gây tác động bất lợi đối với nước ta.
Nền kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ: Sản phẩm,
doanh nghiệp và quốc gia; những biến động trên thị trường quốc tế sẽ tác động nhanh và
mạnh hơn đến thị trường trong nước, tiềm ẩn nguy cơ gây rối loạn, thậm chí khủng hoảng
kinh tế – tài chính.
Ngồi ra, lợi dụng tồn cầu hố, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài “dân chủ”,
“nhân quyền” chống phá chế độ chính trị và sự ổn định, phát triển của nước ta.
Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan hệ, tác động qua lại, có thể chuyển
hố lẫn nhau. Cơ hội khơng tự phát huy tác dụng mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ
hội. Tận dụng tốt cơ hội sẽ tạo thế và lực mới để vượt qua thách thức, tạo ra cơ hội lớn hơn.
Ngược lại, nếu khơng nắm bắt, tận dụng thì cơ hội có thể bị bỏ lỡ, thách thức sẽ tăng lên,
lấn át cơ hội, cản trở sự phát triển. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp, nhưng tác động đến
đâu còn tuỳ thuộc vào khả năng và nỗ lực của chúng ta. Nếu tích cực chuẩn bị, có biện pháp
đối phó hiệu quả, vươn lên nhanh trước sức ép của các thách thức thì khơng những sẽ vượt
qua được thách thức, mà cịn có thể biến thách thức thành động lực phát triển.
5



- Những cơ hội và thách thức trong tiến trình pháp triển kinh tế xã hội 5 năm 20162020 (Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII)
Cơ hội:
Hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Tồn cầu
hố, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy
mạnh. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đơng Nam Á đã trở thành một
cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế - chính trị chiến
lược ngày càng quan trọng.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế
của đất nước ngày càng được nâng cao. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng
đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc
tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở ra
rộng lớn.1
Thách thức:
Kinh tế thế giới phục hồi chậm, khơng đồng đều và cịn nhiều khó khăn. Khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương vẫn là trung tâm phát triển năng động của kinh tế thế giới. Vaitrò trung tâm kết nối của ASEAN trong các thiết chế khu vực tiếp tục được khẳng định
nhưng còn nhiều thách thức. Hịa bình và hợp tác phát triển là xu thế lớn nhưng chủ nghĩa
dân tộc cực đoan, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động khủng bố tiếp tục gia tăng. Cácnước lớn tăng cường sức mạnh quân sự và cạnh tranh chiến lược trong khu vực ngày càng
quyết liệt. Tranh chấp lãnh thổ, đặc biệt là tranh chấp trên Biển Đông diễn biến gay gắt,
phức tạp.
Các quốc gia đều điều chỉnh chiến lược phát triển, tăng cường liên kết, vừa hợp tác,
vừa cạnh tranh, nhất là trong thương mại, đầu tư, nhân lực, khoa học, công nghệ. Hội nhập
quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập kinh tế. Việc thực hiện các hiệp
định thương mại tự do đã có và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cùng
với việc hình thành Cộng đồng ASEAN trong năm 2015 mở ra nhiều cơ hội thuận lợi cho
phát triển nhưng cũng đặt ra khơng ít khó khăn, thách thức.
1 />
6



Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ "diễn biến hồ bình" của thế
lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên,
công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí,...2
- Mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại:
Về nhiệm vụ: Lấy việc giữ vững môi trường hồ bình, ổn định tạo các điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc đổi mới, để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ
quốc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định nhiệm vụ của công cuộc đối
ngoại là: “giữ vững mơi trường hịa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế
của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới”3.
Về mục tiêu: Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế là để tạo thêm nguồn lực
đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước; kết hợp nội lực với các nguồn lực từ bên ngoài tạo
thành nguồn lực tổng hợp để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh; phát huy vai trị và nâng cao vị thế của Việt
Nam trong quan hệ quốc tế; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới và hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Tư tưởng chỉ đạo:
Trong quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế phải quán triệt đầy đủ, sâu sắc các
quan điểm:
Một là: Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính là xây dựng thành công và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng của
Việt Nam.

2 />3 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr.236.

7



Lợi ích dân tộc “bao hàm trong đó tất cả những gì tạo thành điều kiện cần thiết cho sự
trường tồn của cộng đồng với tư cách quốc gia dân tộc có chủ quyền, thống nhất, độc lập,
lãnh thổ tồn vẹn; cho sự phát triển đi lên về mọi mặt của quốc gia dân tộc theo hướng làm
cho đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng ngày càng phong phú, tốt đẹp hơn; cho sự
nâng cao không ngừng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh tranh quốc gia trên
trường quốc tế, vị trí, vai trị, uy tín quốc tế của quốc gia dân tộc”. Các dân tộc trên thế giới
đều coi lợi ích căn bản nhất của dân tộc là Tổ quốc độc lập, thống nhất, giàu mạnh, lãnh thổ
toàn vẹn (bao gồm vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo, thềm lục địa), nhân dân làm chủ
đối với Tổ quốc mình. Lợi ích dân tộc không phải những mong muốn, áp đặt chủ quan mà
là những yếu tố, quan hệ khách quan hình thành trong lịch sử cần được nhận thức và xử lý
đúng đắn. Xét đến cùng, những nhân tố về điều kiện tự nhiên và xã hội đó đều do cộng
đồng dân tộc tạo lập, giữ gìn bằng mồ hơi, nước mắt và máu xương của nhiều thế hệ. Lợi
ích dân tộc khơng bất biến mà thay đổi theo hoàn cảnh cụ thể. Có những yếu tố mang giá trị
lâu dài, vĩnh cửu. Có những yếu tố chỉ tồn tại trong giai đoạn nhất định. Trong thời kỳ đất
nước bị ngoại xâm thì lợi ích tối cao của dân tộc là giải trừ nạn ngoại xâm, đấu tranh giải
phóng dân tộc. Trong bối cảnh dân tộc đứng trước xu thế tất yếu của một cuộc cách mạng
xã hội, giải phóng nhân dân khỏi cảnh áp bức, tối tăm của chế độ xã hội đã lỗi thời, đồng
thời mở đường cho đất nước phát triển đi lên, thì lợi ích cách mạng chính là lợi ích cao
nhất, trực tiếp nhất của dân tộc4. Với bối cảnh hiện nay của Việt Nam, việc xây dựng thành
công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa chính là nhiệm vụ nhằm bảo đảm cho
lợi ích dân tộc chân chính.
Nghĩa vụ là một công việc, một hành vi phải làm hoặc không được làm theo bốn phận
của bản thân chủ thể, khi bị ràng buộc giữa các bên liên quan mà cụ thể ở đây ta đề cập
chính là giữa Việt Nam và quốc tế. Việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế góp phần chứng tỏ và
nâng sức mạnh tổng hợp quốc gia, năng lực cạnh trang quốc gia trên trường quốc tế cùng vị
trí, vai trị và uy tín quốc tế của dân tộc. Từ quan điểm hồ bình, hợp tác, sẵn sàng quan hệ
bình thường với các nước chế độ khác trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền của nhau
bình đẳng, cùng có lợi. Khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của các nước khác, tức là tôn

trọng quyền tối cao ở trong nước và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế của quốc gia khác.
Giải quyết các tranh chấp quốc tế dựa trên phương pháp hịa bình, đảm bảo hài hịa giữa lợi
ích quốc gia và lợi ích chung của cộng đồng quốc tế và lợi ích chính đáng của các quốc gia
4 />
8


khác. Tham gia góp phần giải quyết các vấn đề toàn cầu dựa trên năng lực của quốc gia như
giảm lượng khí thải CO2, ngăn chặn chặt phá rừng, bảo tồn động vật hoang dã, giảm thiểu ô
nhiễm nguồn nước, hiệu ứng nhà kính, … Cụ thể, một số hành động thực hiện nghĩa vụ
quốc tế của Việt Nam như là hỗ trợ Malaysia tìm kiếm máy bay mất tích MH370; hỗ trợ
quốc tế trong việc phục hồi, giúp đỡ các nạn nhân trong cơn bão Haiyan (2013) như
Phillipines gần 100.000USD; tài trợ cho Triều Tiên 100 triệu tấn gạo trong nhiều năm liền;

Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự cường đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa
dạng hoá quan hệ đối ngoại.
Quan hệ đa phương là hình thức ngoại giao giữa nhiều quốc gia, nhằm mục đích giải
quyết những vấn đề chung như chiến tranh, hồ bình, hợp tác và đấu tranh để cùng tồn tại
và phát triển. Các quốc gia có thể thiết lập quan hệ đa phương thông qua việc ký kết, thừa
nhận các điều ước, công ước, hiệp định... quốc tế. Vậy, đa phương hóa, đa dạng hóa quan
hệ đối ngoại chính là thắt chặt, làm sâu sắc thêm mối quan hệ với các đối tác chiến lược và
các quốc gia có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Việt Nam.
Có thể hiểu đây giống như là “hịa nhập mà khơng hịa tan”, bên cạnh việc giữ vững
độc lập tự chủ, tự cường của đất nước, tức là năng lực để giữ vững chủ quyền, đường lối
đối nội, đối ngoại, con đường phát triển,… ta phải mở rộng quan hệ để có thể tiếp thu và
học hỏi được những kinh nghiệm, bài học, đường lối phát triển thực tiễn hay tận dụng được
sự hỗ trợ kịp thời từ các quốc gia phát triển hơn ở các lĩnh vực khác nhau.
Tính đến nay có rất nhiều điều ước quốc tế đa phương mà Việt Nam là thành viên, trên
nhiều lĩnh vực (chính trị, thương mại, nhân quyền...) có thể kể đến như: Công ước quốc tế
các quyền kinh tế, xã hội và văn hố 1966; Cơng ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị

1966; Cơng ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em 1989; Công ước Berne năm 1971 về
việc bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật; Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc
tế năm 1980 (CISG); … Ta khơng chỉ đối ngoại song phương Việt Nam – Lào – Campuchia
mà còn đối ngoại đa phương với các tổ chức trong khu vực như ASEAN, lớn hơn là các tổ
chức trên thế giới như Liên Hiệp Quốc, WHO, tổ chức Ngân hàng Thế giới, … Ta cịn đa
dạng hóa trong lĩnh vức đối ngoại, khơng chỉ trong kinh tế mà cịn trong chính trị, văn hóa,
… Ví dụ như: Giải bóng đá các quốc gia Đông Nam Á AFF Cup, lễ hội hoa anh đào tổ chức
tại Việt Nam để giao lưu văn hóa Việt Nhật.
9


Ba là: Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; cố gắng thúc đẩy
mặt hợp tác, nhưng vẫn phải đấu tranh dưới hình thức và mức độ thích hợp với từng đối
tác; đấu tranh để hợp tác; tránh trực diện đối đầu, tránh để bị đẩy vào thế cô lập.
Trong những điều kiện nhất định và những mối quan hệ xác định thì hợp tác hay đấu
tranh, mặt này có thể nổi trội hơn so với mặt kia. Sau các cuộc đấu tranh quyết liệt, chiều
hướng hợp tác thường biểu hiện ra bên ngoài mạnh mẽ hơn. Đồng thời, dưới cái vỏ bọc của
“hợp tác”, các đối tác đều nhằm vào mục tiêu tăng cường nội lực của chính mình, chờ sự
“tự suy yếu tương đối” của các đối tác khác để tìm kiếm những hình thức và mức độ tập
hợp lực lượng mới, tăng thêm thế và lực về chính trị cũng như an ninh, từng bước điều
chỉnh chính sách và mối quan hệ đối với các đồng minh và đối tác. Trong tiến trình hội
nhập chúng ta phải giữ vững mục tiêu, định hướng xã hội chủ nghĩa. Q trình đó gắn liền
với cuộc đấu tranh giữ vững độc lập tự chủ về chính trị, tơn trọng chủ quyền lãnh thổ; thực
hiện đa phương hoá và đa dạng hoá với nhiều đối tác khác nhau cùng có chung mục đích
đơi bên đều có lợi và bảo đảm cho đất nước vừa phát triển nhanh kinh tế vừa tiến lên theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng; có sự phối hợp chặt chẽ
của nhiều cơ quan, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội và tồn thể nhân dân. Trong q
trình giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, không được tách rời đường lối, chủ

trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đường lối, chủ trương hội nhập quốc tế.
Nhận thức rõ bản chất của việc giải quyết mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh là giải
quyết những mâu thuẫn về lợi ích. Trong đó, có những mâu thuẫn lợi ích cơ bản và không
cơ bản, trước mắt và lâu dài, cục bộ và tồn bộ... Cơng việc này địi hỏi phải tiến hành tập
trung, kiên trì, có sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các đồn thể chính trị - xã
hội, các doanh nghiệp và người lao động. Đồng thời, cần phát huy tốt nguồn sức mạnh,
động lực chủ yếu và có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc là khối đại đoàn kết toàn dân tộc 5. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng việc đấu
tranh không phải để đối đầu mà là để hợp tác, tránh việc trực diện đối đầu cũng như nguy
cơ của việc bị đẩy vào thế cô lập.

5 />
10


Bốn là: Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân
biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hồ bình, hợp tác với khu vực; chủ động
tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và toàn cầu.
Chế độ chính trị xã hội được hiểu là nội dung phương thức tổ chức và hành động của hệ
thống chính trị trong một quốc gia mà trung tâm là nhà nước. Nó được cấu thành bởi sự kết
hợp của các yếu tố chính trị, kinh tế - xã hội, tư tưởng văn hóa và pháp luật. Ta có thể hiểu
được rõ nét nhất thơng qua mơ hình tổ chức nhà nước; trong hiến pháp của mỗi nhà nước
quy định về nguồn gốc và tính chất của quyền lực, sự phân bổ và tổ chức các cơ quan quyền
lực và mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực, về những quan hệ của nhà nước với cơng
dân, các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội, giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội, giữa
các dân tộc trong nước và thế giới. Theo chủ nghĩa Mác-Lenin thì trong lịch sử
lồi người đã sẽ tuần tự xuất hiện 05 hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến
cao: cộng sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy), chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, chủ nghĩa tư bản và xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta khẳng định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập

và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt
Nam đều là đối tác”. Đó là với mối quan hệ với từng vùng quốc gia lãnh
thổ, ta còn phải tham gia vào quan hệ hịa bình, hợp tác với khu vực, chủ
động tham gia các tổ chức đa phương, khu vực và tồn cầu. Ngày
7/6/2019, trong khn khổ Khóa 73 Đại hội đồng Liên hợp quốc, Việt
Nam đã được đông đảo các quốc gia thành viên tín nhiệm cao bầu làm
Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021. Việc
Việt Nam lần thứ hai trong vòng hơn 10 năm được bầu làm thành viên cơ
quan có vai trị hàng đầu của Liên hợp quốc trong việc duy trì hịa bình,
an ninh quốc tế khơng chỉ là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với
vị thế của Việt Nam đổi mới, hội nhập, mà còn là sự tin tưởng, kỳ vọng
vào những đóng góp trách nhiệm của Việt Nam đối với hịa bình, an ninh
khu vực và quốc tế trong những năm tới. Với chính sách đối ngoại hịa bình,
hịa hiếu, độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, sẵn sàng đóng góp
có trách nhiệm và tích cực thúc đẩy hịa bình, an ninh, phát triển và tiến bộ trên thế giới,
Việt Nam đã tham gia tích cực vào nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng, như Hiệp
11


hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Cộng đồng Pháp ngữ, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp
tác Á - Âu (ASEM)… Với thế và lực mới của đất nước, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của
Lãnh đạo Đảng và Nhà nước, niềm tin và sự ủng hộ của nhân dân, chúng ta sẽ hợp tác cùng
nhau thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước và vận dụng, phát huy sáng tạo,
linh hoạt tư tưởng phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh về hịa bình và hợp tác quốc tế, “giữ
gìn hịa bình thế giới tức là giữ gìn lợi ích của nước ta” 6. Chúng ta quan hệ với các nước
trong chế độ xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng quan hệ với các nước ở châu Phi, ta hỗ trợ
lương thực, ta cũng kết bạn với kẻ đứng đầu tư bản chủ nghĩa như Mỹ, ta cũng kết thân với
các nước từng xâm lược ta như Mỹ, Anh, Pháp,Nhật...
Năm là: Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc;

bảo vệ mơi trường sinh thái trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết nền kinh tế của các quốc gia vào các tổ
chức kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó các nước thành viên chịu sự ràng buộc theo
những quy định chung của cả khối. 7 Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, sự phát triển vượt
bậc của các lực lượng sản xuất cùng với sự ra đời của các nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy
mạnh mẽ tiến trình liên kết, hợp tác giữa các quốc gia. Các quốc gia có nền kinh tế phát
triển mạnh cần mở rộng thị trường giao thương hàng hóa, đầu tư và chuyển giao cơng nghệ
ra nước ngồi (tài ngun, lao động và thị trường); từ đó gia tăng ảnh hưởng kinh tế và
chính trị của mình trên trường quốc tế. Các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển hơn cũng
cần thúc đẩy tiến tình quan hệ hợp tác kinh tế với các nền kinh tế lớn nhằm tranh thủ nguồn
vốn, công nghệ cũng như cơ hội xuất khẩu hàng hóa. Theo các cấp độ liên kết, mức độ hợp
tác giữa các thành viên, có thể phân loại thành các loại hình sau: khu vực mậu dịch tự do,
liên minh thuế quan (liên minh hải quan), thị trường chung, liên minh tiền tệ, liên minh kinh
tế. Bất kỳ một quốc gia, một địa phương nào muốn phát triển, muốn nâng cao đời sống của
mỗi người dân đều phải nỗ lực hết mình nhằm đạt được hiệu quả cao nhất của tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế, ta phải giữ vững ổn định
chính trị, kinh tế - xã hội; giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.

6 />7 />
12


Môi trường sinh thái là phần không gian mà ở đó các yếu tố cấu tạo nên mơi trường có tác
động trực tiếp đến sự sinh trưởng và phát triển của chủ thể bên trong nó.
Việt Nam đã và đang làm rất tốt công việc chọn lọc, định hướng nhưng vẫn nên chú ý
để đảm bảo thực hiện tốt kể cả trong thời gian sắp tới trước chủ nghĩa tiêu dùng của các
quốc gia tư bản hay tâm lý sính ngoại, … Năm 2018 chứng kiến sự vào cuộc sâu rộng và
quyết liệt của cả hệ thống chính trị trong cơng tác hội nhập, nổi bật là việc Ban Bí thư ban
hành Chỉ thị số 25-CT/TW về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030,
đánh dấu bước chuyển về nhận thức và hành động về đối ngoại đa phương với trọng tâm là

hội nhập kinh tế, và việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày
4/9/2018 về đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn.
Sáu là: Phát huy tối đa nội lực đi đôi với thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
bên ngoài; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ; tạo ra và sử dụng có hiệu quả các lợi thế
so sánh của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế.
Tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực về con người, các thể chế chính sách, là khoa học
cơng nghệ, trình độ quản lý, phát huy các nội lực đi đôi với ngoại lực để phát triển. Giai
đoạn 2019-2020 đánh dấu việc Việt Nam chính thức triển khai các Hiệp định Thương mại
tự do thế hệ mới, trong đó Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương
sẽ có hiệu lực với nước ta từ ngày 14/1/2019. Đây cũng là giai đoạn nước ta hoàn thành các
cam kết trong nhiều khuôn khổ hợp tác kinh tế quan trọng như Hiệp định Thương mại tự do
ASEAN - Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – Hồng Cơng
(AKFTA); hồn tất các mục tiêu Bogor và thơng qua tầm nhìn APEC sau 2020; đảm nhiệm
cương vị nước Chủ tịch ASEAN năm 2020. Việc triển khai hiệu quả công tác hội nhập, liên
kết kinh tế tiếp tục đòi hỏi quyết tâm và nỗ lực đồng bộ của các cấp, các ngành và tồn xã
hội trong đó lưu ý một số vấn đề sau:
Một là, phát huy vai trị thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động
đóng góp, tích cực tham gia xây dựng, định hình các thể chế đa phương, các diễn đàn kinh
tế có tầm quan trọng, phù hợp khả năng và điều kiện cụ thể của chúng ta, trong đó cần chú
trọng nâng cao hiệu quả tham gia các diễn đàn kinh tế tại châu Á – Thái Bình Dương.
Hai là, hồn thiện chính sách, khung khổ pháp lý đồng bộ và tồn diện với tầm nhìn dài
hạn nhằm triển khai hiệu quả các cam kết quốc tế của Việt Nam. Trong đó, chú trọng sửa
đổi, bổ sung và ban hành mới các văn bản, quy định pháp luật liên quan đến các cam kết
13


của Việt Nam trong các Hiệp định Thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương, bao gồm các lĩnh vực sở hữu trí tuệ, mơi
trường, lao động...
Ba là, nâng cao năng lực hội nhập và liên kết kinh tế, chú trọng thực thi các nhóm giải

pháp nêu trong Chỉ thị số 38/CT-TTg ngày 19/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
cường thực hiện và khai thác hiệu quả các Hiệp định Thương mại tự do đã có hiệu lực, Chỉ
thị số 26/CT-TTg ngày 4/9/2018 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh hội nhập kinh tế
quốc tế theo hướng hiệu lực và hiệu quả hơn. Trước mắt, các bộ, ban, ngành, địa phương,
doanh nghiệp cần có phương án, giải pháp khai thác tối đa lợi thế của các Hiệp định
Thương mại tự do, hướng tới mở rộng thị phần tại những ngành hàng xuất khẩu Việt Nam
có thế mạnh, đem lại giá trị gia tăng cao và xác lập chỗ đứng vững chắc trong các chuỗi
cung ứng, mạng sản xuất khu vực và toàn cầu.
Bốn là, đẩy mạnh phổ biến thông tin về thuận lợi và thách thức, nội dung các cam kết
có tác động trực tiếp đến các địa phương và doanh nghiệp trong các Hiệp định Thương mại
tự do thế hệ mới liên quan đến mở cửa thị trường, sở hữu trí tuệ, lao động…
Năm là, nâng cao hiệu quả cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế và phòng
vệ thương mại.8
Bảy là: Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước
đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt dộng đối ngoại của Đảng, ngoại
giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân; giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và
ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phịng và an ninh9.
Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với
phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới phấn đấu vì hồ bình, độc lập và phát triển." Chủ động hội nhập quốc tế,
trước hết là hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan trọng trong đường lối và hoạt động
đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong bối cảnh thế giới tồn cầu hóa và cách
mạng khoa học kỹ thuật diễn ra rất mạnh mẽ hiện nay. Trong tiến trình hội nhập này, Việt
Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hoá
8 />9 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Sđd, tr.238.

14



thị trường, tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiên cho sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Với nhận thức sâu sắc rằng thế giới hiện nay đang phải đối phó với những vấn đề tồn
cầu mà khơng một nước nào có thể tự đứng ra giải quyết được, Việt Nam đã và đang hợp
tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để cùng nhau giải quyết những
thách thức chung như dịch bệnh truyền nhiễm, đói nghèo, tội phạm xun quốc gia, ơ
nhiễm mơi trường, buôn lậu ma túy, ... Đặc biệt từ sau sự kiện 11/9/2001, Việt Nam đã tích
cực tham gia vào nỗ lực chung của các nước tăng cường hợp tác chống khủng bố trên cơ sở
song phương và đa phương nhằm loại trừ tận gốc nguy cơ của khủng bố đối với an ninh và
ổn định của các quốc gia. Thực hiện phương châm “chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu
quả”, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam và các tổ chức thành viên đã quán triệt đầy
đủ và đề ra các giải pháp để thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XII
của Đảng, các Chỉ thị số 04-CT/TW và Chỉ thị 28/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng
về đổi mới và nâng cao hiệu quả của công tác ngoại giao nhân dân nói chung và Liên hiệp
nói riêng, tạo được bước phát triển mới trong công tác ngoại giao nhân dân và trong công
tác xây dựng tổ chức của Liên hiệp, đồng thời khẳng định được vị trí, vai trị chun trách
trong hoạt động ngoại giao nhân dân và hậu thuẫn tích cực cho cơng tác đối ngoại chung
của đất nước, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mạng lưới bạn bè quốc
tế mà các thế hệ ngoại giao nhân dân đi trước đã gây dựng, được củng cố, mở rộng, phát
huy và hoạt động chính trị đối ngoại trên lĩnh vực hịa bình, đồn kết, hữu nghị và hợp tác
nhân dân được nâng cao.
1.1.2. Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh
kế quốc tế
 Đại hội X xác đinh:
Về quan hệ đối ngoại, chúng ta thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ,
hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ quốc tế. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế,
tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững mơi trường hịa bình, tạo các điều kiện
quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp

hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào
15


cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Chúng ta chủ trương đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn
định, bền vững, đồng thời phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế
giới và các tổ chức quốc tế theo các nguyên tắc : tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn
lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc
đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hịa
bình; tơn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Liên tục củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh
tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới; mở rộng quan hệ với
các đảng cầm quyền; mở rộng công tác đối ngoại nhân dân theo phương châm "chủ động,
linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả".
Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy
đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất
nước làm mục tiêu cao nhất. Cụ thể là : chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo
lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến
năm 2020; thực hiện cam kết với các nước về thương mại, đầu tư và các lĩnh vực khác;
chuẩn bị tốt các điều kiện để ký kết và thực hiện các hiệp định thương mại tự do song
phương và đa phương. Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước
ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương; củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song
phương tin cậy với các đối tác chiến lược; khai thác có hiệu quả các cơ hội và vượt qua
những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) 10.
 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI:

So với đại hội X thì tại đại hội XI, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã
quyết định thông qua Dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). So với Cương lĩnh năm 1991, Dự thảo Cương
lĩnh lần này đã bổ sung, phát triển nhiều nội dung quan trọng về những định hướng lớn phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, về hệ thống chính trị và vai
trị lãnh đạo của Đảng.
10 />
16


Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ: Về quan hệ đối
ngoại,thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao
vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế,
góp phần vào sự nghiệp hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của
Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Trước sau như một ủng hộ các đảng cộng
sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong cuộc đấu tranh vì những mục tiêu
chung của thời đại; mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng
khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hồ bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển. Tăng cường hiểu biết, tình hữu nghị và hợp tác giữa nhân dân Việt
Nam với nhân dân các nước trên thế giới. Phấn đấu cùng các nước Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN) xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hồ bình, ổn định, hợp tác
và phát triển phồn vinh11.
Trong Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020 đã đưa ra:
Việc thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Việt
Nam là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; tạo
mơi trường hịa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.Tăng cường quan hệ hữu
nghị, hợp tác với các nước láng giềng; thúc đẩy giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên
giới, lãnh thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan trên cơ sở luật pháp

quốc tế và quy tắc ứng xử của khu vực. Xây dựng đường biên giới hịa bình, hữu nghị, hợp
tác cùng phát triển. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng
đồng ASEAN vững mạnh. Kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng với ngoại giao của Nhà
nước và ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao
văn hoá, giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh.
Nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và
phát triển nhanh, bền vững. Phát huy vai trò và nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài vào phát triển đất nước.
11 />
17


Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút mạnh các nguồn
vốn quốc tế; thu hút các nhà đầu tư lớn, có cơng nghệ cao, công nghệ nguồn; mở rộng thị
trường xuất khẩu12.
Trong báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về các văn kiện Đại
hội XI có xác định:
Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương: Mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ, giữ vững mơi trường hồ bình, ổn định cho sự phát triển, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước;
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới. Tiếp tục đưa các quan hệ quốc tế của đất nước đi vào chiều sâu trên cơ sở giữ
vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực và bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và
giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế. Tham gia các cơ chế hợp tác
chính trị, an ninh, kinh tế song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Củng cố, phát
triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng. Chủ động, tích cực
và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh; tăng cường
quan hệ với các đối tác trong khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Phát

triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, đảng cầm quyền và các chính
đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích, độc lập, tự chủ của đất nước. Phối hợp chặt chẽ hoạt
động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, đối ngoại nhân dân; đối ngoại, quốc
phịng và an ninh; chính trị đối ngoại, kinh tế và văn hoá đối ngoại13.

 Trong Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XII:

Đồng chí Phạm Bình Minh, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, Phó Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại nêu rõ: Năm năm qua, trong bối cảnh tình hình khu vực,
thế giới có nhiều biến động rất phức tạp, khó lường tác động tới an ninh và phát triển của
đất nước, công tác đối ngoại đã được triển khai chủ động, đồng bộ, huy động được sức
12 />13 />
18


mạnh tổng hợp của đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, đạt được
nhiều thành tựu to lớn trong việc triển khai thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng.
Phân tích bối cảnh tình hình thế giới và trong nước giai đoạn tới, Phó Thủ tướng
nhấn mạnh: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc là định hướng chiến lược lớn của Đảng nhằm
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Năm
năm tới là thời kỳ Việt Nam thực hiện đầy đủ các cam kết trong Cộng đồng ASEAN, của Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO), thực hiện các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới,
hội nhập quốc tế với tầm mức sâu hơn nhiều so với giai đoạn trước, đòi hỏi Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta phải nỗ lực rất cao để tận dụng thời cơ, vượt qua những thách thức lớn
trong quá trình hội nhập, để hội nhập quốc tế thực sự trở thành phương tiện hữu hiệu phục
vụ phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc Xã hội chủ nghĩa, bảo đảm lợi ích tối cao của
quốc gia – dân tộc.

Kế thừa quan điểm chỉ đạo về đối ngoại của các kỳ Đại hội trước đây, Đại hội XII của Đảng

Cộng sản Việt Nam đã đưa ra chủ trương có tính bước ngoặt về đường lối đối ngoại trong
điều kiện mới, thể hiện trên một số nội dung sau:
Trước hết, Đảng ta đã gắn nhận định về tình hình thế giới, khu vực và thực tiễn của thời
đại để xác định mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đối ngoại trong những năm tới. Trong 5 năm
tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ cịn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến
nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát
triển vẫn là xu thế lớn. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đơng
Nam Á đã trở thành một cộng đồng, là trung tâm phát triển năng động nhưng cũng là khu
vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn. Đây cũng là khu vực có nhiều nhân tố bất
ổn định, tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trên Biển Đơng cịn diễn ra gay gắt. Các
nước lớn đang điều chỉnh chiến lược, vừa hợp tác, thỏa hiệp, vừa cạnh tranh đấu tranh,
kiềm chế lẫn nhau, tác động mạnh đến tình hình thế giới và khu vực. Ở trong nước, thế và
lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được
nâng cao; tuy nhiên vẫn cịn nhiều khó khăn, thách thức. Nhận thức của Đảng ta về tình
hình thế giới, tình hình khu vực cũng luôn đổi mới và sát thực tiễn trong giai đoạn mới, đây
là một trong những cơ sở trực tiếp để Đảng ta đưa ra quyết sách về đường lối đối ngoại cho
19


phù hợp trong những năm tới. Đảng ta đã nhận định: “Nhận thức đúng về xu thế của thời
đại và cục diện thế giới, khu vực, Đảng, Nhà nước đã có định hướng chỉ đạo và các chính
sách đúng đắn, kịp thời trên cơ sở lợi ích quốc gia - dân tộc”14.
Thứ hai, Đại hội XII của Đảng đã đặt ra yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại,
chủ động hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hịa bình và tạo điều thuận lợi để phát triển
đất nước. Đảng ta xác định đây là một trong những giải pháp quan trọng để phát triển kinh
tế - xã hội 5 năm 2016 – 2020; đồng thời là sự thể hiện nhận thức, đánh giá của Đảng ta về
vai trị to lớn của cơng tác đối ngoại trong tình hình mới. Nâng cao hiệu quả các hoạt động
đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu.
Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế, các hiệp

định thương mại tự do thế hệ mới trong một kế hoạch tổng thể với lộ trình hợp lý, phù hợp
với lợi ích của đất nước. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng
và an ninh… Công tác đối ngoại được đẩy mạnh sẽ tạo môi trường quốc tế thuận lợi, hịa
bình, thiết thực góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Thứ ba, về mục tiêu và nhiệm vụ của đối ngoại, Đảng ta đã xác định trong văn kiện Đại
hội XII: mục tiêu tối thượng là bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi. Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong
quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn là đối tác tin cậy và thành
viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nhằm “phục vụ mục tiêu giữ vững mơi trường
hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao
đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” 15. Sự đúng đắn trong quan
điểm chỉ đạo của Đảng thể hiện ở việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại là bảo đảm
lợi ích quốc gia - dân tộc là một trong những vấn đề quan trọng nhất “Bảo đảm lợi ích tối
cao của quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình
14 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, H, 2016,
tr.152.
15 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, H, 2016,
tr.34-35.

20


đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hợp
tác và phát triển... Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục
vụ mục tiêu giữ vững hịa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát
triển đất nước”16.
Hiện nay trên thế giới, tất cả các nước đều coi trọng lợi ích quốc gia khi thực thi chính

sách đối ngoại. Đối với nước ta, xác định đường lối đối ngoại mà đặt lợi ích quốc gia - dân
tộc là mục tiêu hàng đầu là vừa phù hợp với xu thế chung, vừa là ý Đảng lòng Dân và tạo
sự đồng thuận cao trong xã hội.
Thứ tư, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định phương châm và định hướng lớn của
hoạt động đối ngoại là “Đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng
đồng quốc tế”17. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác
chiến lược và các nước lớn có vai trị quan trọng đối với phát triển và an sinh của đất nước,
đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại
các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia
các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh... 18. Triển khai đồng bộ hoạt động đối ngoại,
cả về chính trị, an ninh, quốc phịng, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nâng cao chất lượng công tác
tham mưu về đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường công tác thông tin đối ngoại, hội
nhập quốc tế, tạo đồng thuận trong nước và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế đáp ứng
yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước.
Thứ năm, Đảng lãnh đạo thống nhất, Nhà nước quản lý tập trung đối với các hoạt động
đối ngoại tạo nên diện mạo đa dạng với nội dung và hình thức phong phú của đối ngoại Việt
Nam trong tình hình mới. “Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung
của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của
Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; giữa ngoại chính trị với ngoại giao kinh
tế và ngoại giao văn hóa; giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh”. Trong mỗi kỳ Đại hội,
Đảng ta đều có nghị quyết lãnh đạo, định hướng để tạo nên sự nhất quán và tiếp tục thực
16 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H, 2016,
tr.153.
17, 18 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, H,
2016, tr.35.

18
21



hiện hoạt động đối ngoại. Kết luận số 73 của Bộ Chính trị khóa XI về “Tăng cường quan hệ
đối ngoại của Đảng trong tình hình mới”, hoạt động đối ngoại Đảng tiếp tục được triển khai
chủ động, tích cực, đa dạng, đa tầng nấc từ Trung ương đến địa phương, cả kênh song
phương và đa phương... trong tình hình mới, tập trung vào một số trọng tâm lớn: phát huy
vai trị chính trị, ngoại giao kênh Đảng, tiếp tục tạo nền tảng chính trị vững chắc cho sự
phát triển bền vững, đi vào chiều sâu, thực chất quan hệ giữa nước ta với nước khác, nhất là
các nước láng giềng có chung biên giới, các nước đối tác lớn đã góp phần nâng cao hiệu
quả các hoạt động đối ngoại.
Thứ sáu, Đảng ta rất chú trọng hoạt động đối ngoại với các Đảng anh em, góp phần
định hướng, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa Việt Nam với một số nước,
nhất là các nước láng giềng. Trong thời điểm khó khăn, quan hệ ngoại giao giữa Đảng ta
với các Đảng anh em đã góp phần hiệu quả tháo gỡ vướng mắc, khai thông bế tắc, giữ nhịp
cho quan hệ nhà nước và tổng thể quan hệ chung phát triển ổn định, lành mạnh, đúng
hướng. Trong đó, chủ động mở rộng và tăng cường quan hệ đối ngoại Đảng, đưa các mối
quan hệ đi vào chiều sâu, hiệu quả, thiết thực. Chú trọng tới khâu đột phá là quan hệ với các
đảng cầm quyền, tham chính, và những đảng có vị trí và vai trị quan trọng trong việc hình
thành và triển khai chính sách của các nước đối với Việt Nam. Đồng thời, thông qua kênh
quan hệ Đảng, góp phần củng cố đồn kết nội khối, phát huy vai trò trung tâm, dẫn dắt của
ASEAN trong khu vực, đóng góp tích cực vào q trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vững
mạnh. Chủ động, tích cực tham gia có hiệu quả cao vào các hoạt động đa phương chính
đảng, theo đó phát huy mạnh mẽ vai trò của Đảng ta tại Hội nghị quốc tế các chính đảng
châu Á (ICAPP), các hội nghị, hội thảo của các chính đảng ở các khu vực, nhằm tranh thủ
sự ủng hộ của các chính đảng, các lực lượng chính trị đối với công cuộc bảo vệ và xây dựng
đất nước, bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, đồng thời góp phần vào phong trào tiến bộ trên thế
giới.
Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và Đông Âu sụp đổ, phong trào cộng
sản quốc tế khủng hoảng trầm trọng, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào, thì chủ trương
củng cố và tăng cường tình đồn kết, hợp tác với các Đảng Cộng sản, cánh tả và phong trào
cách mạng, tiến bộ trên thế giới, thể hiện lập trường kiên định trước sau như một của Đảng

ta cũng chính là tình cảm, là nghĩa vụ và trách nhiệm của một Đảng mácxít trong điều kiện
hiện nay. Trong bối cảnh quốc tế tồn cầu hố, việc Đảng ta đoàn kết, củng cố và tăng
cường quan hệ, trao đổi kinh nghiệm và hợp tác mọi mặt với các chính đảng này chính là
22


thực hiện chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân trong tình hình mới. Điều này khơng chỉ
vì lợi ích kinh tế đơn thuần mà cịn có ý nghĩa rất quan trọng về mặt chính trị và an ninh
cho chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy phong trào cộng sản và
cách mạng trên thế giới.
Việc khẳng định tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng
khác thể hiện tư duy đối ngoại linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo cần thiết của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền ở các nước nhằm trao đổi kinh nghiệm
lãnh đạo và quản lý đất nước, góp phần thúc đẩy quan hệ mọi mặt giữa nước ta với nước mà
đảng đó cầm quyền đã góp phần nâng cao vị thế uy tín của Việt Nam trên các diễn đàn đa
phương. Đương nhiên, trong quan hệ với các đảng cầm quyền trên thế giới chúng ta cũng
xác định rõ các nguyên tắc: độc lập tự chủ; bình đẳng; tơn trọng lẫn nhau, khơng can thiệp
vào cơng việc nội bộ của nhau; cùng nhau thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác, vì hịa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ; và Đảng ta không quan hệ với các
đảng, các tổ chức cực đoan.
Trong 30 năm đổi mới, nhất là trong 25 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta đã không ngừng mở rộng và
tăng cường quan hệ đa dạng với các chính đảng ở các nước khác nhau trên thế giới, tích cực
tham gia các diễn đàn, hội nghị, hội thảo quốc tế của các Đảng Cộng sản và cơng nhân, các
đảng cánh tả và các chính đảng ở châu Á. Từ chỗ chỉ có quan hệ với các Đảng Cộng sản và
công nhân, các đảng cánh tả theo khuynh hướng cách mạng, giải phóng dân tộc là chủ yếu,
Đảng ta đã chủ động mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, các đảng tham chính. Đến
nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ ở các mức độ khác nhau với trên 200 đảng ở
115 nước khắp các châu lục; trong đó có trên 100 Đảng Cộng sản và công nhân, hơn 40
đảng cầm quyền, gần 80 đảng đang tham gia Quốc hội - Nghị viện các nước. Đồng thời,

Đảng ta cũng thường xuyên tham gia và tham gia có hiệu quả các diễn đàn đa phương chính
đảng như: Cuộc gặp quốc tế hàng năm của các Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới
(IMCWP); Hội nghị quốc tế các đảng chính trị châu Á (ICAPP); Diễn đàn Sao Paulo của
các đảng cánh tả....
Đây là kết quả của quá trình cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện, triệt để, khẳng
định đường lối đổi mới của Đảng, trong đó có tư duy đối ngoại là hoàn toàn đúng đắn, sáng
tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại hiện nay.
23


Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam mở rộng quan hệ với các đảng chính trị trên thế
giới trong tình hình hiện nay là đúng đắn, là cần thiết, nhằm tạo nên sự đồng thuận và cổ vũ
cho đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với thế và lực mới do những thành tựu và
kinh nghiệm 30 năm đổi mới mang lại, với vị thế ngày càng nâng cao trên trường quốc tế,
cơ hội rất lớn và thách thức cũng không nhỏ. Đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng qua
các kỳ Đại hội nhất là Đại hội XII đã thể hiện sự nhất quán, sáng tạo và hệ thống với tầm
cao mới. Chúng ta tin tưởng rằng, với kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng của Đảng và đặc
biệt trong 30 năm đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy
sức mạnh tổng hợp để đưa sự nghiệp cách mạng nước ta sang một bước ngoặt mới. Thực
hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, trong thời gian tới hoạt động đối ngoại và hội
nhập quốc tế của nước ta sẽ đạt được nhiều thành tựu to lớn, giữ vững mơi trường hịa bình
và phát huy ngoại lực sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại;
thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

1.2. Biện pháp trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam của Đảng và Nhà nước
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận cấu thành chủ quyền quốc gia, là không gian sinh
tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây cũng là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh, là tuyến phòng thủ hướng đông của
đất nước, tạo khoảng không gian cần thiết giúp kiểm soát việc tiếp cận lãnh thổ trên đất

liền.
Kế thừa và phát triển ý thức chủ quyền biển, đảo của ông cha trong lịch sử dựng nước
và giữ nước, cũng như nhận thức đúng vị trí, vai trị, tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách về biển, đảo. Quản lý, khai thác phải đi đôi với bảo vệ vững chắc chủ quyền,
quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển, làm cho đất nước giàu mạnh là quan
điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.
Hiện nay mật độ dân cư trên biển, đảo và quần đảo thấp, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội
các vùng ven biển, trên biển và trên các đảo còn chưa hồn thiện; khả năng bảo vệ chủ
quyền, lợi ích quốc gia cịn nhiều hạn chế... Do đó, cần phải đầu tư một cách thích đáng về
mọi mặt, bảo đảm cho phát triển kinh tế và tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền, lợi ích
24


quốc gia trên biển; kết hợp chặt chẽ các yếu tố: kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự, tạo
sự liên kết giữa biển, đảo và bờ nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ chủ quyền quốc
gia trên biển. Dựa trên cơ sở này, Đại hội lần thứ IX của Đảng chủ trương: “Xây dựng chiến
lược phát triển kinh tế biển và hải đảo, phát huy thế mạnh đặc thù của hơn 1 triệu kilômét
vuông thềm lục địa. Tăng cường điều tra cơ bản làm cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế biển. Xây dựng căn cứ hậu cần ở một số đảo để tiến ra biển khơi. Kết hợp
chặt chẽ phát triển kinh tế với bảo vệ an ninh trên biển”19
Trong tình hình mới, khi mà Trung Quốc liên tục gây sức ép lên vùng biển, đảo của
nước ta thì Đảng và Nhà nước càng đặt ra yêu cầu cao hơn trong mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ
Tổ quốc. Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong xử lý các mối quan hệ quốc tế và khu
vực hiện nay là phải luôn tỉnh táo, bình tĩnh, khơn khéo, khơng bị kích động, xúi giục gây
xung đột vũ trang, chiến tranh; giải quyết mọi vấn đề bằng biện pháp hịa bình, trên cơ sở
các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực.
Để hiện thực những chủ trương, quan điểm nói trên thì Đảng và Nhà nước phải xác
định rõ sức mạnh và đề ra các biện pháp cụ thể. Trong đó, sức mạnh bảo vệ chủ quyền biển,
đảo là sức mạnh tổng hợp quốc gia, bao gồm và có sự kết hợp chặt chẽ tất cả các mặt trận,

các lĩnh vực hoạt động: quốc phòng, an ninh, kinh tế, chính trị, ngoại giao, pháp lý… Từ
việc nắm rõ sức mạnh, Đảng và Nhà nước đã đề ra và triển khai thực hiện các biện pháp
bảo vệ chủ quyền biển, đảo một cách mạnh mẽ, hết sức linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh, thời điểm cụ thể.
1.2.1. Về quốc phòng, an ninh
Phát huy lực lượng tồn dân, trong đó lực lượng trực tiếp và tại chỗ là lực lượng nịng
cốt. Do đó, cần phải chú tâm tới việc xây dựng lực lượng trực tiếp làm nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền biển, đảo như lực lượng Hải quân, Biên Phòng, Cảnh sát biển, dân quân tự vệ biển
đủ mạnh, có số lượng hợp lý, chất lượng tổng hợp cao, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở.
Ngoài ra, cũng phải kết hợp chặt chẽ giữa sức mạnh của bộ đội chủ lực với khả năng xử lý
tình huống mau lẹ, trực tiếp của các lực lượng quân sự và dân sự ở các địa phương ven
biển, luyện tập các phương án hợp đồng tác chiến trên biển, trong đó kết hợp chặt chẽ nghệ

19 Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr.181-182

25


×