Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Tìm hiểu di tích đình phù lưu (xã trung nghĩa, huyện yên phong, tỉnh bắc ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.51 MB, 110 trang )

1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA DI SẢN VĂN HĨA
**********

NGUYỄN THỊ XOAN

TÌM HIỂU DI TÍCH ĐÌNH PHÙ LƯU
(XÃ TRUNG NGHĨA, HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
NGÀNH BẢO TÀNG HỌC

Người hướng dẫn: PGS.TS NGUYỄN VĂN TIẾN

HÀ NỘI – 2012


2
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian nghiên cứu và làm việc nghiêm túc, được sự giúp đỡ,
chỉ bảo tận tình của các thầy cơ giáo, tơi đã hồn thiện bài khóa luận này.
Lời đầu tiên, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn tới các thầy giáo, cơ giáo đã tận
tình giảng dạy, động viên, khích lệ và giúp đỡ tơi hồn thiện bài khóa luận
này.
Đặc biệt, tơi xin dành lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
PGS.TS Nguyễn Văn Tiến - người đã trực tiếp hướng dẫn khoa học, giúp đỡ
và chỉ bảo cho tôi từ khi xác định đề tài, xây dựng đề cương cho tới khi hồn
thiện bài khóa luận.
Qua đây tơi cũng xin chân thành cảm ơn Ban quản lý di tích tỉnh Bắc
Ninh, Phịng Văn hóa huyện n Phong, chính quyền xã Trung Nghĩa, các cụ


cao niên trong thôn Phù Lưu đã cung cấp tư liệu và tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi tiếp cận, khảo sát di tích đình làng Phù Lưu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ tơi hồn
thiện bài khóa luận này.
Là một sinh viên năm thứ tư, chưa được tiếp xúc nhiều với thực tế, kiến
thức cịn hạn chế, thời gian có hạn, khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cơ giáo và bạn bè để
khóa luận tiến bộ hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2012
Sinh viên
Nguyễn Thị Xoan


3

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1 
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 5 
2. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 6 
3. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 7 
4. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................... 7 
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 7 
6. Bố cục khóa luận ....................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: ĐÌNH PHÙ LƯU TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ ........... 8 
1.1 Vài nét về vùng đất nơi di tích tồn tại ..................................................... 8 
1.1.1 Vị trí địa lý - tên gọi di tích ............................................................... 8 
1.1.2 Truyền thống văn hóa...................................................................... 12 
1.1.3 Dân cư và đời sống kinh tế của dân cư ........................................... 16 
1.2 Lịch sử xây dựng và quá trình tồn tại của đình Phù Lưu ...................... 18 

1.3 Sự tích các vị thần được thờ tại đình ..................................................... 20 
 

CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT VÀ LỄ HỘI ĐÌNH
LÀNG PHÙ LƯU .......................................................................................... 30 
2.1 Giá trị kiến trúc ...................................................................................... 30 
2.1.1 Không gian cảnh quan ..................................................................... 30 
2.1.2 Bố cục mặt bằng .............................................................................. 32 
2.1.3 Các đơn nguyên kiến trúc................................................................ 33 
2.2 Giá trị nghệ thuật ................................................................................... 37 
2.2.1 Trang trí kiến trúc ............................................................................ 37 
2.2.2 Hệ thống di vật tiêu biểu trong di tích............................................. 45 
2.3 Lễ hội đình làng Phù Lưu ...................................................................... 51 
2.3.1 Các ngày lễ trong năm ..................................................................... 52 
2.3.2 Lễ hội chính ..................................................................................... 56 


4
 
CHƯƠNG 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI TÍCH ĐÌNH
LÀNG PHÙ LƯU .......................................................................................... 65 
3.1 Thực trạng di tích đình Phù Lưu............................................................ 65 
3.1.1 Thực trạng kiến trúc ........................................................................ 65 
3.1.2 Thực trạng di vật ............................................................................. 67 
3.1.3 Thực trạng tổ chức lễ hội ................................................................ 68 
3.2 Một số giải pháp bảo tồn di tích đình Phù Lưu ..................................... 70 
3.2.1 Cơ sở pháp lý................................................................................... 70 
3.2.2 Các giải pháp bảo quản kiến trúc .................................................... 72 
3.2.3 Bảo quản các di vật trong di tích ..................................................... 75 
3.2.4 Một số giải pháp về quản lý và bảo vệ di tích................................. 76 

3.3 Giải pháp bảo tồn lễ hội đình làng Phù Lưu .......................................... 76 
3.4 Khai thác và phát huy giá trị di tích đình làng Phù Lưu........................ 78 
 
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87 
PHỤ LỤC 


5

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Phù Lưu là một làng Việt cổ thuộc xứ Kinh Bắc xưa, nằm bên con sơng
Cầu thơ mộng trữ tình, đã đi vào các tác phẩm thơ ca của biết bao thế hệ văn
nghệ sĩ. Nơi đây là một trong những nơi tích tụ văn hóa đậm đặc trong mình
cả về bề rộng lẫn chiều sâu của mấy nghìn năm lịch sử với những giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể vơ cùng độc đáo.
Di tích lịch sử văn hóa là nơi ghi dấu những công sức, tài nghệ của con
người trong lịch sử để lại, là quá trình kết tinh tài năng, trí lực sáng tạo để
chúng trở thành những bằng chứng xác thực, cụ thể nhất về lịch sử và bản sắc
văn hóa của mỗi dân tộc. Các di tích lịch sử văn hóa tiềm ẩn dưới dáng vẻ rêu
phong, cổ kính đồng thời cũng là một “bảo tàng sống” lưu giữ các giá trị nghệ
thuật về kiến trúc, điêu khắc và cả phong tục cổ truyền, tín ngưỡng của người
Việt xưa. Chúng là những di sản quý giá khơng chỉ của dân tộc mà cịn là tài
sản của tồn nhân loại. Những di tích ấy sẽ trở nên có ý nghĩa nếu ta đi sâu
vào nghiên cứu, phân tích, bóc tách các lớp văn hóa chứa đựng trong đó để
phần nào hiểu rõ hơn về cội nguồn văn hóa dân tộc, để biết lựa chọn khai thác
cũng như bảo tồn, phát huy những tinh hoa, truyền thống đạo đức, thuần
phong mỹ tục, lấy đó để làm nền tảng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam

vừa mang dư âm cổ truyền vừa mang màu sắc hiện đại.
Trong hệ thống các di tích lịch sử văn hóa của dân tộc, ngơi đình ln
chiếm một vị trí quan trọng. Đối với mỗi một làng quê Việt Nam, hình ảnh
cây đa, giếng nước, sân đình đều rất đỗi thân quen với mỗi người. Đình làng
đã trở thành một bộ phận khơng thể thiếu trong đời sống tinh thần của người
Việt. Đình làng giữ vai trò là một trung tâm sinh hoạt văn hóa của làng xã.


6
Việc tìm hiểu về đình làng, xác định các mặt giá trị của nó khơng chỉ có
ý nghĩa trong việc tìm hiểu văn hóa người Việt mà cịn bổ sung nguồn tư liệu
khoa học cho việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của làng
Việt cổ trong đời sống xã hội hiện nay.
Đình làng Phù Lưu là một ngơi đình đẹp, có nghệ thuật trang trí trên
kiến trúc độc đáo, có nhiều đóng góp trong đời sống văn hóa, tinh thần của
người dân địa phương. Nội dung và giá trị nghệ thuật của ngơi đình là vốn
quý vô giá trong việc phát huy truyền thống yêu nước, giữ gìn những tài sản
do ơng cha để lại và tự hào về tài năng sáng tạo của tổ tiên.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, tơi đã chọn di tích đình Phù Lưu,
thơn Phù Lưu, xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình. Hy vọng bài khóa luận sẽ góp phần vào việc
giới thiệu về di tích, giá trị của di tích và góp phần đưa ra một số giải pháp
bảo vệ, phát huy giá trị của di tích đình Phù Lưu.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu về vùng đất, con người nơi di tích đình làng Phù Lưu tồn tại,
làm cơ sở cho việc nghiên cứu di tích.
- Từ những nguồn tư liệu có được, tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại
của đình Phù Lưu từ khi xây dựng đến nay và xác định những giá trị của di
tích trên hai phương diện:
+ Giá trị văn hóa vật thể: kiến trúc, di vật

+ Giá trị văn hóa phi vật thể: lễ hội đình làng
- Nghiên cứu thực trạng di tích, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm
bảo vệ và phát huy giá trị vốn có của di tích trong bối cảnh hiện nay.
- Cung cấp thông tin cho những người quan tâm muốn học tập nghiên
cứu, tìm hiểu về di tích đình làng Phù Lưu.


7
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là di tích đình làng Phù Lưu thuộc
thơn Phù Lưu, xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: nghiên cứu di tích đình Phù Lưu trong khơng
gian lịch sử, văn hóa của làng Phù Lưu, xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong,
tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi thời gian: nghiên cứu di tích đình Phù Lưu gắn liền với q
trình hình thành, tồn tại của di tích từ khi hình thành đến nay trong phạm vi
nguồn tư liệu có được.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin: Duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử.
- Phương pháp khảo sát, điền dã: quan sát, miêu tả, ghi chép, chụp ảnh,
ghi âm…
- Tập hợp, hệ thống hóa các tư liệu liên quan đến di tích để phân tích,
đánh giá…
- Phương pháp liên ngành: Bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa, Bảo tàng
học, Sử học, Mỹ thuật học, Dân tộc học, Văn hóa học, Khảo cổ học, Xã hội
học, Du lịch học…
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,

khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Đình Phù Lưu trong diễn trình lịch sử
Chương 2: Giá trị kiến trúc nghệ thuật và lễ hội đình làng Phù Lưu
Chương 3: Bảo tồn và phát huy giá trị di tích đình làng Phù Lưu


8

CHƯƠNG 1
ĐÌNH PHÙ LƯU TRONG DIỄN TRÌNH LỊCH SỬ
1.1 Vài nét về vùng đất nơi di tích tồn tại
1.1.1 Vị trí địa lý - tên gọi di tích
Đình Phù Lưu hiện nay thuộc địa phận làng Phù Lưu, xã Trung Nghĩa,
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Huyện Yên Phong có tên gọi từ trước thời nhà Trần, sách Bắc Ninh
toàn tỉnh Dư địa chí có viết: “trị sở từ đời Trần trở về trước vẫn có tên gọi là
huyện Yên Phong”. Yên được hiểu là “An”, là mảnh đất xinh đẹp, thanh bình,
hịa hợp; “Phong” là đầy đủ, phong lưu, giàu có, tốt đẹp.
Huyện n Phong nằm ở phía Tây tỉnh Bắc Ninh, có tọa độ địa lý
khoảng từ 2108’45 đến 21014’30 độ vĩ Bắc và trong khoảng từ 105057’30 đến
10604’15 độ kinh Đơng. Phía Bắc giáp với huyện Hiệp Hịa và huyện Việt
Yên của tỉnh Bắc Giang; phía Nam giáp huyện Từ Sơn; phía Tây Nam giáp
huyện Tiên Du và thành phố Bắc Ninh; phía Tây giáp với huyện Đơng Anh và
huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
Yên Phong có tổng diện tích tự nhiên là 9.868,11 ha, dân số là 123.719
người, mật độ dân số 1.277 người/ km2. Địa hình chủ yếu là đồng bằng, độ
cao trung bình so với mực nước biển là 4,5m. Được hình thành chủ yếu do
quá trình bồi tụ phù sa của hệ thống sơng Hồng và sơng Thái Bình, trực tiếp là
3 con sông: sông Cầu, sông Ngũ Huyện Khê và sông Cà Lồ. Khí hậu nhiệt đới
trung bình cả năm là 230C, nhiệt độ trung bình mùa nóng từ 24 - 290C, 3

tháng có nhiệt độ dưới 200C là tháng 12, tháng 1 và tháng 2; lượng mưa trung
bình 1.512mm/năm; độ ẩm trung bình 82,5%.
Nằm sát với trung tâm huyện lỵ Yên Phong, xã Trung Nghĩa có tổng
diện tích tự nhiên là 777,11 ha, dân số là 9.283 người, mật độ dân số 1.195
người/km2. Xã Trung Nghĩa nằm bên bờ Bắc sông Ngũ Huyện Khê, xã có


9
chiều dài theo hướng Đông Nam - Tây Bắc khoảng 2500m. Phía Bắc xã giáp
với đường tỉnh lộ 286 và đường quốc lộ 18; phía Nam giáp sơng Ngũ Huyện
Khê và xã Phú Lâm (Từ Sơn); phía Đơng giáp xã Long Châu và xã Đơng
Phong; phía Tây giáp với xã Đông Thọ.
Trước Cách mạng Tháng 8/1945, trên địa bàn xã Trung Nghĩa trước đó
gồm có 4 xã, 1 thơn, nằm ở 2 tổng:
+ Xã Yên Từ, xã Đông Mơi thuộc tổng Mẫn Xá
+ Xã Ngô Xá, xã Tiên Trà, thôn Phù Lưu thuộc tổng Nội Trà
Khoảng những năm từ 1889 - 1907, thôn Phù Lưu được tách ra thành
đơn vị hành chính cấp xã. Địa bàn xã Trung Nghĩa thời điểm này gồm có 5 xã
thuộc 2 tổng:
+ Xã Yên Từ, xã Đông Mơi thuộc tổng Phong Quang
+ Xã Tiên Trà, xã Phù Lưu, xã Ngô Nội thuộc tổng Nội Trà
Sau khi cách mạng Tháng 8/1945 thành công, đầu năm 1946, đơn vị
hành chính cấp tổng, cấp phủ bị xóa bỏ, một số xã nhỏ được hợp nhất thành
xã lớn:
+ Xã Yên Từ, xã Đông Mơi hợp nhất thành xã Đông Từ
+ Xã Tiên Trà, xã Phù Lưu, xã Ngô Nội hợp nhất thành xã Nội Trà
Đến tháng 9/1948, hai xã Đông Từ và Nội Trà hợp nhất thành xã Trung
Nghĩa. Tên xã Trung Nghĩa là một biểu tượng đẹp đẽ của truyền thống thượng
võ gắn liền với truyền thống lao động sản xuất cần cù, sáng tạo. Đó là sự kết
tinh của đức tính trung thực, chịu đựng hy sinh và tinh thần nghĩa hiệp cao cả

của nhân dân toàn xã. Xã Trung Nghĩa thuộc huyện Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh, những năm 1963 - 1997 thuộc tỉnh Hà Bắc, từ năm 1997 đến nay thuộc
tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay xã gồm có 5 thơn: Ngơ Nội, Tiên Trà, Phù Lưu,
Đông Mai, Yên Từ.
Làng Phù Lưu nằm ở khu vực trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội của xã Trung Nghĩa. Phía Tây của làng giáp với thơn Ngơ Nội; phía Đơng


10
giáp sơng Ngũ Huyện Khê; phía Bắc giáp thơn Tiên Trà; phía Nam giáp với
đường 179 cách 6km xi đường về phía Nam đi Từ Sơn, theo đường quốc lộ
1A cách 20km đi Hà Nội.
Xưa, làng Phù Lưu có tên Nơm là “Chờ Lá”, dấu ấn này vẫn cịn thể
hiện trong câu ca xưa:
“Ba làng Mịn, bảy làng Chờ
Một làng Ô Cách chơ vơ giữa đồng”
Điều này nói lên rằng, Phù Lưu là một trong bảy làng Chờ xưa, đó là:
Chờ Phú Mẫn, Chờ Trung Bạn, Chờ Ngân Cầu, Chờ Tiên Trà, Chờ Ngô Nội,
Chờ Phù Lưu, Chờ Nghiêm Xá.
Phù Lưu theo nghĩa Hán có nghĩa là “Cây”, hoặc đồng nghĩa với từ
“Lá”. Nguồn gốc của làng phải chăng xuất xứ từ một lồi cây, lồi lá, nhưng
là cây gì? lá gì? ở một xứ đồng chiêm trũng nước ngập lâu ngày thì đến nay
khơng cịn ai nhớ được.
Trải qua các giai đoạn lịch sử dựng nước và giữ nước, địa danh hành
chính của làng cũng có nhiều lần thay đổi.
Khi mới thành lập, làng có tên gọi là làng Lá, thuộc tổng Nội Trà,
huyện Yên Phong, xứ Kinh Bắc. Thời phong kiến Việt Nam, làng có tên gọi
là Phù Lưu, thuộc tổng Nội Trà, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, trấn Bắc
Ninh (1802), từ năm 1831 thuộc tỉnh Bắc Ninh. Cuối thế kỷ XIX, đầu năm
1930 trở thành đơn vị hành chính độc lập, Phù Lưu tách khỏi Tiên Trà, xã Phù

Lưu thuộc tổng Nội Trà, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đầu
năm 1946, hợp nhất 3 xã Tiên Trà, Phù Lưu, Ngô Nội thành xã Nội Trà, Phù
Lưu thuộc xã Nội Trà, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1948, xã Nội
Trà sát nhập với xã Đông Từ thành xã Trung Nghĩa, Phù Lưu thuộc xã Trung
Nghĩa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Từ năm 1963 - 1997 thuộc tỉnh Hà
Bắc, từ 1997 đến nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.


11
Đình làng Phù Lưu là một ngơi đình đẹp, có nghệ thuật kiến trúc và
trang trí kiến trúc độc đáo, được khởi dựng từ thời Hậu Lê (thế kỷ XVII) và
được trùng tu lớn vào thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Đến nay đình vẫn cịn lưu
giữ được khá ngun vẹn kiến trúc cổ, các tài liệu, hiện vật quý và một số
mảng chạm khắc từ thời Hậu Lê. Vì vậy, việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị
của di tích là hết sức cần thiết và quan trọng. Với lịng trân trọng, giữ gìn những
di sản văn hóa vô giá của ông cha để lại, tập thể các cụ trong ban Mặt trận làng,
hội người cao tuổi cùng các cấp lãnh đạo trong thôn đã thay mặt cho nhân dân
làng Phù Lưu làm đơn đệ trình lên các cấp cơ quan chức năng của Nhà nước đề
nghị xếp hạng cho di tích để đặt di tích nằm trong sự bảo vệ của Luật pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đáp ứng nguyện vọng chính đáng đó của
nhân dân Phù Lưu, sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh đã cử cán bộ
chuyên mơn của Ban quản lý di tích tỉnh về khảo sát, nghiên cứu di tích, tiến
hành lập hồ sơ khoa học pháp lý cho di tích đình làng Phù Lưu, trình Bộ văn hóa
Thể thao và Du lịch xem xét xếp hạng cho di tích.
Xét trên những giá trị cơ bản của di tích, đình làng Phù Lưu đã được bộ
Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng đình là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp
Quốc gia theo quyết định số 271/QĐ - BVHTTDL ngày 02 tháng 02 năm
2012. Tên gọi của di tích là:
Di tích kiến trúc - nghệ thuật đình làng Phù Lưu
Xã Trung Nghĩa, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh

Hiện nay, điều kiện giao thông phát triển nên có thể đi đến di tích một
cách thuận tiện bằng các loại phương tiện giao thông đường bộ với các tuyến
đường khác nhau. Từ thủ đô Hà Nội xi theo quốc lộ 1A về phía Bắc Ninh,
đến giữa thị xã Từ Sơn thì rẽ trái vào đường tỉnh lộ 295, đi khoảng 8km nữa
đến ngã tư thị trấn Chờ - trung tâm huyện lỵ Yên Phong thì rẽ phải vào đường
tỉnh lộ 286, đi thêm khoảng 600m là tới đường vào thôn Ngô Nội, rẽ phải vào
đường liên thôn rồi đi tiếp khoảng 1,5km là tới thôn Phù Lưu và đình làng


12
Phù Lưu. Hoặc đi từ trung tâm thành phố Bắc Ninh theo đường tỉnh lộ 286
khoảng 14km tới đường vào thôn Ngô Nội, rẽ tay trái vào đường liên thôn
qua làng Ngơ Nội khoảng 1,5km nữa là tới di tích.
1.1.2 Truyền thống văn hóa
* Truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng
Trải qua các thời kỳ đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, làng
Phù lưu là nơi chứng kiến và diễn ra nhiều sự kiện lịch sử đánh giặc giữ làng
mỗi khi có họa xâm lăng.
Thời kỳ Bắc thuộc, nơi đây cịn sự tích lưu truyền về Thánh Tam Giang
- Thành hồng làng, người đã có công giúp Triệu Việt Vương đánh thắng giặc
nhà Lương vào thế kỷ VI.
Năm 1743, một tướng thuộc dòng họ Nguyễn Đặng phị vua cầm qn
đi đánh giặc lập nhiều cơng lớn, ông được vua mến, dân tin, được phong danh
hiệu “Vệ quốc”. Một lần điều quân đánh giặc không may ngựa bị sa đầm lầy,
ông đã hy sinh. Nhân dân địa phương ghi nhớ công lao, hàng năm cúng giỗ
ông vào ngày 18 tháng Chạp.
Dưới thời phong kiến, giặc cướp nổi lên ở các địa phương luôn luôn đe
dọa uy hiếp nhân dân, chúng tiến hành các vụ cướp phá tài sản, mùa màng,
gây nhiều tội ác… Nhân dân Phù Lưu đã đồn kết cùng nhân dân Tiên Trà,
Ngơ Nội chiến đấu chống lại bọn giặc cướp bảo vệ bản xã, giúp đỡ hàng tổng.

Nhiều toán cướp đã bị đánh bại, được hàng tổng mến phục, cho hưởng đặc ân
được quản lý riêng một cầu thịt ở chợ Chờ để thu thuế. Ghi nhận công lao
chống giặc cướp, tinh thần đoàn kết thượng võ và nghĩa cử cao đẹp của nhân
dân ba làng Chờ, năm Cảnh Hưng ngũ niên (1744) vua Lê đã ban thưởng 3
chữ vàng “Trung nghĩa dân” cho các làng Phù Lưu, Ngô Nội, Tiên Trà. Bức
đại tự này vẫn được treo trang trọng trong ngơi đình của ba làng.
Đầu thế kỷ XIX, giặc Pháp xâm lược và cai trị nước ta, hưởng ứng
phong trào Cần Vương, nhân dân Phù Lưu không tiếc sức người sức của ủng


13
hộ quân lương cho nghĩa binh. Trong phong trào “Nông dân Yên Thế” của
Hoàng Hoa Thám, nhiều trai binh của làng đã tham gia hoạt động trong đội
quân của Đề Thám, tiêu biểu là dịng họ Trần Đình có người làm đến chức
tướng lĩnh.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều thanh niên yêu
nước làng Phù Lưu đã tập hợp nhau lại rải truyền đơn, áp phích, tuyên truyền
vận động quần chúng ủng hộ Việt Minh chống giặc Pháp.
Thực hiện chủ trương “Tiêu thổ kháng chiến” và phong trào hưởng ứng
“Tuần lễ vàng”, nhân dân Phù Lưu đã không quản ngại khó khăn gian khổ huy
động ủng hộ kháng chiến 20 tấn lương thực, 700kg gạo, 15 người tham gia đóng
góp trái phiếu, hiến dâng một quả chng đồng nặng 300kg để chế tạo vũ khí; đã
phá một tịa tiền tế ở đình, một nhà Tam bảo ở chùa, đào 13 hầm hào xung
quanh làng, xây dựng làng chiến đấu đề phòng quân địch đánh chiếm.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, người dân Phù Lưu đã
tiếp sức người sức của để chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam. Làng có trên
40 con em lên đường nhập ngũ tham gia chiến đấu ở các chiến trường, 14
người đã anh dũng hy sinh, được Đảng, nhân dân suy tơn liệt sỹ, họ đã góp
phần làm nên những thắng lợi vẻ vang của quân và dân ta. Với những cống
hiến và thành tích đã đạt được, trên 30 con em Phù Lưu đã được Đảng, Nhà

nước ta tặng thưởng huân, huy chương các loại.
Trong thời kỳ xây dựng và phát triển, nhiều tấm gương tiêu biểu được
Đảng tin, dân mến bầu vào các trọng trách chủ chốt của xã như: đồng chí Lưu
Văn Khoa, Nguyễn Văn Thụ, Trần Đình Diệu, Nguyễn Cơng Pha…
* Truyền thống văn hóa
Vốn là một làng Việt cổ, Phù Lưu có một bản sắc văn hóa hết sức độc
đáo và phong phú thơng qua các hoạt động tín ngưỡng tại đình, chùa và đặc
biệt là việc thờ cúng tổ tiên. Trong tâm thức của người dân Phù Lưu nói riêng
và người dân Việt nói chung, tục thờ cúng tổ tiên có vai trị quan trọng. Đó là


14
sự bày tỏ lịng thành kính, biết ơn của con cháu đối với tổ tiên. Trong các gia
đình đều có ban thờ tổ tiên, được đặt ở nơi trang trọng nhất trong nhà, họ tin
rằng tổ tiên mình ln ngự trị trên đó để che chở phù hộ cho con cháu. Tất cả
những đồ ăn ngon nhất, tinh khiết nhất, đẹp mắt nhất như hoa quả đầu mùa,
cơm gạo mới… bao giờ cũng được đặt lên bàn thờ thắp hương trước sau đó
con cháu mới được ăn. Vào các ngày mùng 1, ngày rằm, ngày lễ tiết hay trong
gia đình có việc hiếu, hỷ… đều thắp hương thỉnh cầu tổ tiên về chứng giám.
Giá trị lớn nhất của tục thờ cúng tổ tiên là tạo thành truyền thống, nếp sống
cho các thế hệ sau luôn ghi nhớ và thực hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Giá trị khác còn thể hiện ở việc tạo nên sự đoàn kết giữa những người cùng
huyết thống, củng cố quan hệ gia đình, bảo trợ của cải thiêng liêng.
Ngồi tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người dân Phù Lưu cịn có hoạt
động tín ngưỡng ở đình, chùa. Chùa làng có tên gọi là “Vân La tự”, tọa lạc
trên một địa thế đẹp, cảnh quan đẹp, cây cối xanh tốt quanh năm, trong chùa
có nhiều tượng Phật. Tại chùa hiện còn bảo lưu được hai tấm bia đá dựng năm
1622 và 1690 cho biết việc tu sửa chùa vào thời gian này. Trong bia đá có
đoạn viết: “Nguyên chùa Vân La là nơi danh lam cổ tích, các sãi vãi, thiện
nam tín nữ cùng tồn thể nhân dân trong thôn đã phát tâm Bồ Đề hưng công

đúc tượng: Thánh phụ, Thánh mẫu, tứ vị Bồ Tát, bát tướng Kim Cương, thập
bát La Hán, đúc tượng Di Đà, xây nhà oản, mọi việc đều hoàn thành tốt đẹp,
nhân đó mà dựng bia”. Qua đoạn văn khắc trên bia này đã cho thấy, chùa Vân
La là một trong những ngơi chùa có lịch sử từ rất lâu đời với quy mô lớn, đẹp
nổi tiếng trong vùng. Chùa nằm gần khu dân cư, tín đồ chủ yếu là người dân
trong làng, chùa phản ánh đậm nét tư duy nông nghiệp phù hợp với nền kinh
tế của một địa phương thuần nơng.
Đình làng thờ nhị vị Đức Thánh Tam Giang là “Tam Giang khước
địch đại vương” (Trương Hống) và “Tam Giang uy địch tôn thần”
(Trương Hát), là nhị vị tướng qn đã có cơng giúp Triệu Việt Vương


15
đánh thắng giặc Lương vào thế kỷ thứ VI. Để tưởng nhớ công lao của
thần với dân với nước và mong thần phù hộ cho dân làng bình an, mưa
thuận gió hịa, mùa màng bội thu, nhân dân Phù Lưu đã lập đền thờ và suy
tơn làm thành hồng làng. Giá trị đáng q của tín ngưỡng thờ thành
hồng làng là giáo dục các thế hệ con cháu phải biết tôn trọng, biết nhớ về
cội nguồn và công lao của người xưa.
Trong những phong tục tập quán xưa ở địa phương, cịn có sự tồn tại
của những nghi lễ tơn giáo có xuất xứ và gắn liền với nền sản xuất nông
nghiệp lúa nước như lễ cầu mưa, cầu mát. Mỗi khi gặp hạn hán, dân làng lại
làm lễ cầu mưa. Trước khi đi rước nước, dân làng sắm sửa lễ vật để ra đình lễ
Thánh. Sau khi làm lễ Thánh, đám rước gồm có ơng quan đám đi đầu, sau đến
là hai hàng bát biểu và tiếp đến là hai chiếc kiệu đặt chóe múc nước được
trang hồng lộng lẫy, sau kiệu là tàn lọng, chiêng, trống, bát âm cùng đơng
đảo nhân dân tham dự. Đồn rước bắt đầu khởi hành từ đình làng đến sơng
Cầu múc nước. Một chiếc thuyền đã được chuẩn bị sẵn ở đó, chở người đã
được lựa chọn ra sông lấy nước, nước được múc ở giữa sơng, đựng vào hai
cái chóe có nắp đậy, nước múc đầy rồi thuyền lại quay vào bờ trong tiếng

trống giục giã náo động. Chóe nước được đưa lên kiệu rồi rước về đình làng.
Sau lời đọc văn tế khấn trời đất, nước được té ra xung quanh trong tiếng trống
cầu đảo, cầu cho mưa thuận gió hịa để dân lành cày cấy. Ở địa phương vẫn
còn lưu truyền câu ca về tục cầu mưa:
“Vua Chờ còn mải giết trâu
Để cho vua Nét xách bầu nước đi”
Truyền rằng tục cầu đảo ở đình Phù Lưu rất linh nghiệm, hễ làm lễ cầu
đảo xong thì thể nào trời cũng mưa xuống. Đây là một tục lệ rất cổ của cư dân
nơng nghiệp nói chung, người Việt cổ nói riêng.
Như vậy, những truyền thống văn hóa, xã hội, truyền thống đấu tranh
cách mạng được nhân dân Phù Lưu các thế hệ vun đắp từ ngàn xưa đã trở
thành một nguồn di sản tinh thần quý giá, là niềm tự hào và sức mạnh để con


16
cháu Phù Lưu hôm nay và mai sau tiếp tục phấn đấu vươn lên trong sự nghiệp
đấu tranh giữ nước và xây dựng quê hương tiến bộ, giàu mạnh.
1.1.3 Dân cư và đời sống kinh tế của dân cư
Làng Phù Lưu hiện nay có khoảng 2.780 nhân khẩu, cư trú trong
khoảng 630 hộ gia đình tự quản và có sự liên kết của các dòng họ sinh sống từ
lâu đời. Trong làng có các dịng họ lớn như: Nguyễn Cơng, Nguyễn Như,
Nguyễn Văn, Nguyễn Duy, Trần Đình, Lưu Vạn, Nguyễn Hữu, Chu Văn,
Nguyễn Thế, Nguyễn Đăng, Nguyễn Quang…
Cũng như bao làng Việt cổ khác, làng Phù Lưu có một cơ cấu tổ chức
khá chặt chẽ được liên kết với nhau thông qua các mối quan hệ như quan hệ
huyết thống, quan hệ xóm giềng, quan hệ phường hội, quan hệ hàng giáp…
Trong quan hệ huyết thống gồm có các quan hệ gia đình, dịng tộc, họ
hàng. Mọi thành viên trong gia đình và dịng họ phải chịu sự chi phối điều
hành của người cha, người con trưởng, trưởng họ theo một tôn ti trật tự của 9
thế hệ và quan hệ bề bậc. Bề trên dẫu có ít tuổi vẫn là bề trên, bề dưới dẫu có

cao tuổi vẫn là bề dưới, bề trên nói bề dưới phải chấp hành. Người dân Phù
Lưu coi trọng tình cảm bề bậc anh em nhưng cũng rất coi trọng tình cảm hàng
xóm, phường hội để giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống hàng ngày, trong sản
xuất nông nghiệp, chống lại thiên tai và các tệ nạn xã hội, trộm cướp. Xưa nay
vẫn thường có câu: “Vắng anh em xa có láng giềng gần”.
Quan hệ hàng giáp là một kiểu tổ chức theo truyền thống, chỉ có nam
giới được tham gia và mang tính chất cha truyền con nối (cha ở giáp nào thì
con ở giáp ấy). Xưa, làng có 4 giáp: giáp Đơng, giáp Tây, giáp Giữa và giáp
Lưu. Các giáp có nhiệm vụ tổ chức tế lễ, đình đám, hội hè, tang ma hoặc tham
gia vào các công việc khác của làng.
Làng Phù Lưu nằm trên một khu đất cao, có một trục đường chính chạy
dài từ Đơng sang Tây, dân cư ở theo thế răng bừa, có 10 ngõ lớn chạy từ
hướng Bắc đổ ra trục đường chính, rất thuận tiện cho việc thơng thương, sinh
hoạt, đi lại. Làng có tổng diện tích tự nhiên là 260,6 ha, trong đó diện tích đất


17
canh tác là 118,8 ha (chiếm ~ 68,5%), diện tích đất thổ cư là 10,6 ha (chiếm ~
4,1%), diện tích ao hồ, đầm là 13,1 ha (chiếm ~ 5,1%), diện tích đình, chùa
chiếm ~1,3%, cịn lại là diện tích mương, đường và đất chuyên dùng là 57 ha
(chiếm ~ 21%).
Làng Phù Lưu chủ yếu là làm nông nghiệp trồng lúa nước và các loại
cây hoa màu. Làng có nhiều xứ đồng với tên gọi khác nhau như: đồng Quan,
đồng Cổ Mõ, đồng Ngòi, Cầu Tre, Bãi Khỉ, suốt đồng Cả, đồng Bói, đồng
Mơi, đồng Dọc, đồng Đỗi… Đặc điểm của đồng đất là lồi lõm, bậc thang.
Trước đây khi công tác thủy lợi chưa có điều kiện làm tốt thì đồng ruộng rất
dễ bị hạn hán khi nắng và bị ngập úng khi gặp mưa, hàng năm người dân chỉ
cấy được một vụ lúa, đời sống rất khổ cực. Sau khi hịa bình lặp lại năm 1954,
Phù Lưu hồn thành việc đánh đuổi bọn địa chủ phong kiến, thực hiện chủ
trương cải cách ruộng đất, chia ruộng lại cho dân cày. Đặc biệt đã quan tâm

đến công tác thủy lợi, khoanh vùng chống úng cho các khu đồng, do vậy đồng
đất ngày càng phì nhiêu màu mỡ, hệ số sử dụng quay vòng ruộng đất đạt từ 3
- 4 vụ/năm.
Hiện nay, đời sống nhân dân ngày càng ổn định, phát triển toàn diện,
hộ giàu chiếm 13% tổng số hộ, hộ khá chiếm 45% tổng số hộ, tồn thơn
khơng cịn hộ đói, 100% số hộ có nhà ngói, 80% số hộ có phương tiện xe
máy, 95% số hộ có phương tiện nghe nhìn…
Nhiều cơng trình phúc lợi cơng cộng được quan tâm đầu tư xây dựng
nhằm nâng cao đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân
như: xây dựng đường điện lưới phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, đường
làng ngõ xóm đều được bê tơng hóa, xây dựng trường học, trùng tu tơn tạo
chống xuống cấp các di tích lịch sử văn hóa… Hồn thành xây dựng trường
mầm non của thơn, 100% các cháu trong độ tuổi đi học mầm non đều được
đến trường; bậc tiểu học đạt 100% tổng số cháu trong độ tuổi; bậc trung học
cơ sở đạt 97% tổng số cháu; bậc trung học phổ thông đạt 85% tổng số cháu.


18
Xưa kia điều kiện kinh tế khó khăn, trình độ dân trí cịn thấp, nay thơn Phù
Lưu đã có 125 người đỗ bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ ở các chuyên ngành
khác nhau, tiêu biểu là Nguyễn Đức Trung, Lưu Vạn Kha, Nguyễn Văn
Phương…
Sự nghiệp y tế, dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ
em có nhiều chuyển biến tích cực: 100% số cháu trong độ tuổi được tiêm
phòng theo chế độ được quy định, 96% số hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh.
Hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” của Bộ Chính trị, các cán bộ Đảng viên và quần chúng nhân dân đều
đồng tình hưởng ứng tham gia đông đảo. Các thiết chế văn hóa, thể dục thể
thao được quan tâm đầu tư xây dựng, bao gồm có nhà văn hóa và sân vận
động. Thơn có một trạm phát thanh với 4 cụm loa cơng cộng để tun truyền

các chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đến đông đảo
quần chúng nhân dân.
Phấn khích, tự hào trước những kết quả và thành tựu đã đạt được trong
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội dưới sự lãnh đạo
của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương, nhân dân Phù Lưu đang từng
bước phấn đấu xây dựng quê hương mình ngày càng văn minh, giàu đẹp theo
con đường cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa nơng thơn.
1.2 Lịch sử xây dựng và quá trình tồn tại của đình Phù Lưu
Đình Phù Lưu là cơng trình tín ngưỡng tiêu biểu của nhân dân địa
phương, vốn được xây dựng từ lâu đời. Hiện nay khơng cịn bất cứ tài liệu ghi
chép nào cho biết chính xác về niên đại khởi dựng của đình Phù Lưu, trong
làng cũng khơng cịn ai nhớ rõ, nhưng khi nghiên cứu kiểu dáng, đặc điểm và
trang trí chạm khắc trên các bộ phận của kiến trúc tồ đại đình, ta có thể xác
định niên đại tương đối của cơng trình kiến trúc này là vào thời Hậu Lê (thế
kỷ XVII). Mặt khác căn cứ vào tấm bia đá “Hậu thần bi ký”, hiện được đặt ở
trong sân đình, dựng năm 1694 ghi chép về việc đặt hậu đình và các đạo sắc


19
phong hiện cịn bảo lưu được tại đình (trong đó đạo sắc sớm nhất có niên đại
Quang Trung ngũ niên - 1792) đã cho phép ta đốn định: đình Phù Lưu là
ngơi đình cổ được xây dựng từ lâu đời, chí ít là vào thời Lê Trung Hưng
(TKXVII). Sang thời Nguyễn (thế kỷ XIX), đình Phù Lưu được trùng tu tơn
tạo lớn, dấu ấn của lần trùng tu này cịn để lại rõ nét trên một số các bức cốn,
đầu dư tại tồ đại đình và kết cấu kiến trúc trong hậu cung. Tại gian giữa của
tịa đại đình, các đầu dư được tạo tác rất tinh xảo thành các đầu rồng ngậm
ngọc với tư thế đầu rồng nhìn thẳng, trán dô, mắt lồi, miệng rộng, môi dày,
các đao mác ngắn bay ngược về phía sau. Một đầu dư khác thì có nét đao mác
dài hơn, bay ngang. Các bức cốn cũng được chạm khắc rất tinh tế sinh động
với đề tài trang trí chủ đạo là đề tài tứ linh. Những dấu ấn kiến trúc này mang

đậm phong cách nghệ thuật của hai thời Hậu Lê - Nguyễn.
Theo lời kể của các cụ cao niên trong làng thì trước đây đình Phù Lưu
có quy mơ lớn hơn hiện nay, bao gồm: một tòa tiền tế làm theo kiểu chồng
diêm hai tầng tám mái, một tịa đại đình có hình chi vồ, hai tịa giải vũ mỗi
dãy 3 gian. Đến những năm kháng chiến chống Pháp, theo lệnh “Tiêu thổ
kháng chiến” thì tịa tiền tế, hai tịa giải vũ và sàn đình đã bị phá đi chỉ cịn lại
tịa đại đình như hiện nay. Tịa đại đình trước kia cũng có sàn gỗ, khoảng cách
từ mặt đất lên tới mặt sàn gỗ khoảng 0,8m, dấu vết hiện nay vẫn còn lưu lại
trong đình là dấu các lỗ mộng để đóng ván sàn trên các thân cột trong đại
đình, sàn gỗ này đã bị phá hủy theo lệnh “Tiêu thổ kháng chiến”. Từ đó đến
nay cơng trình kiến trúc cổ vẫn được giữ lại nguyên như vậy, không xây dựng
lại các cơng trình đã mất cũng như khơng xây dựng thêm cơng trình nào mới.
Hịa bình lặp lại, khi có điều kiện, nhân dân Phù Lưu đã đóng góp tiền của,
cơng sức tu sửa lại đình, thay hàng tường chấn song gỗ bằng tường gạch như
hiện nay, hàng năm đều tiến hành đảo ngói để chống mưa dột làm hại kiến
trúc. Năm 2006, xây dựng nghi mơn cho đình.


20
Trong đình hiện cịn lưu giữ được nhiều tài liệu, hiện vật cổ như: một
bản thần tích, hai ngai thờ, hai bài vị, các hoành phi, câu đối, nhang án, tượng,
các đồ thờ tự như đôi cây đèn, cây nến, đôi hạc thờ, đỉnh hương trong hậu
cung, đặc biệt là 6 đạo sắc phong vào thời Quang Trung và thời Nguyễn,
trong đó sắc phong có niên đại sớm nhất là đạo sắc “Quang Trung ngũ niên
ngũ nguyệt sơ thất nhật” (Sớm ngày mùng 7 tháng 5 năm Quang Trung thứ 5,
1792). Trong đình cịn lưu giữ bức đại tự in 3 chữ vàng “Trung nghĩa dân”
của vua Lê niên hiệu Cảnh Hưng ngũ niên ban tặng (1744). Phía trước đình,
bên tay trái cịn có một tấm bia đá “Hậu thần bi ký” dựng năm 1694 ghi chép
về việc đặt hậu.
Như vậy, đến nay đình làng Phù Lưu đã có tuổi thọ trên vài trăm năm.

Trải qua thời gian, qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, đình Phù Lưu vẫn
vững vàng tồn tại, được các thế hệ người dân bảo vệ, tôn tạo ngày một khang
trang tố hảo. Những giá trị của đình cịn được lưu giữ lại đến ngày nay thật sự
là nguồn di sản văn hóa quý báu của nền điêu khắc cổ Việt Nam nói chung và
của xứ Bắc Ninh - Kinh Bắc nói riêng.
1.3 Sự tích các vị thần được thờ tại đình
Xét về chức năng tơn giáo, ngơi đình là nơi thờ thần của cả làng,
thường là một vị nhưng cũng có khi là nhiều vị được gọi là Thành hoàng làng.
Theo GS. Đào Duy Anh: “Thành hoàng là một biểu hiện của lịch sử,
phong tục, đạo đức, pháp lệ cùng hy vọng chung của cả làng, lại cũng là thứ
quyền uy siêu việt, một mặt liên lạc siêu hình, khiến cho làng xã thành một
đồn thể có tổ chức và hệ thống” 1. Hay theo tác giả Nguyễn Duy Hinh:
“Thành hoàng làng người Việt là một vị thần được dân thờ, sau đó mới được
vua phong chức tước với chức danh thành hoàng” 2. Đình làng Phù Lưu thờ
nhị vị Thánh Tam Giang là “Tam Giang khước địch đại vương” (Trương
1
2

Đào Duy Anh, Việt Nam văn hóa sử cương, H.TPHCM, 1993, tr.207
Nguyễn Duy Hinh, Tín ngưỡng thành hồng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1996, tr.61


21
Hống) và “Tam Giang uy địch tôn thần” (Trương Hát). Trong những năm gần
đây, khoảng từ năm 2000 - 2001, đình Phù Lưu cịn đặt thêm tượng Thánh
Mẫu (mẹ của nhị vị Đức Thánh Tam Giang) vào thờ trong hậu cung.
Trong cuốn “Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam” 3 có ghi về hai vị thần
này như sau:
“Trương Hát: Danh tướng đời Triệu Quang Phục, không rõ năm sinh
năm mất, em ruột Trương Hống. Anh em ông đều là tướng của Việt vương

Triệu Quang Phục, đánh đuổi quân nhà Lương xâm lược nước ta.
Năm Tân Mão 571, Lý Phật Tử tranh quyền, khiến Triệu Việt Vương
căm hận quyên sinh. Anh em ông bỏ vào ở ẩn nơi núi Phù Long. Hậu Nam đế
Lý Phật Tử không dùng ông được, bèn sai người ám sát anh em ông. Biết tin,
anh em ông cùng uống thuốc độc tử tiết.
Sau, đời Nam Tấn vương Ngơ Xương Văn, có giặc Lý Huy ở châu Tây
Long. Tương truyền, anh em ông hiển thánh giúp vua Ngô đánh tan giặc ở
cửa Phù Lan (Lục Đầu Giang). Vua Ngô truy phong ông là Tiểu vương giang
Đô hộ quốc thần vương. Lập đền thờ ở cửa sông Nam Qn (tức Nam Bình
hay sơng Thương ngày nay). Cả vùng lân cận sơng Cầu và sơng Thương có
đến hơn 200 ngơi đền thờ hai anh em ơng. Đền chính thờ ơng ở làng Phượng
Nhãn, phía tả ngạn sơng Thương.
Về sau Dương Bá Trạc cảm đề:
I. “Nước ta còn, giống ta còn, dù chết như sống;
Anh như thế, em như thế, có một khơng hai.”
II.“Mộng hiện phị vua, non nước nhà Nam cịn vạn thuở;
Tiết xung mắng giặc, chúa tơi quân Bắc lạc ba hồn.”
3
Nguyễn Quang Thắng - Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, 1991,
tr.897, 898


22
- Trương Hống: Danh tướng của Việt vương Triệu Quang Phục, khơng
rõ năm sinh năm mất. Ơng và người em là người Trương Hát từng theo giúp
Triệu Việt Vương đánh đuổi quân nhà Lương cướp nước ta.
Năm Tân Mão 571, vì Lý Phật Tử tranh quyền mà bức tử Triệu Việt
vương, hai anh em ông bỏ vào núi Phù Long ở ẩn. Hậu Nam đế Lý Phật Tử
không dụng ông được, âm mưu cho người ám sát. Biết tin ấy, anh em ông tự
tử nơi núi Phù Long, quyết không để cho Lý Phật Tử giết chết.

Sau, anh em ông hiển thánh giúp Nam Tấn vương Ngô Xương Văn dẹp
tan giặc Lý Huy ở cửa Phù Lan (Lục Đầu Giang). Vua Ngô truy phong ông là
Đại vương giang Đô hộ quốc thần vương, lập đền thờ ở cửa sông Như
Nguyệt.
Tương truyền đời Lý, khi Lý Thường Kiệt đánh quân Tống, qua sơng
Như Nguyệt là nơi có đền thờ ơng, đang đêm ông lại hiện lên ngâm mấy câu thơ:
Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Dịch nghĩa:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Dành dành định phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Được bài thơ này cổ vũ, quân ta phấn khởi đánh tan quân Tống.
Cả vùng lân cận sơng Cầu và sơng Thương có đến hơn 200 ngơi đền
thờ hai vị. Đền chính thờ ông ở làng Vọng Nguyệt, cạnh sông Như Nguyệt.”
Theo nội dung của bản thần tích thờ cúng hai vị cịn được lưu giữ tại
đình Phù Lưu thì lý lịch, cơng trạng của các vị thần có thể trích lược như sau:


23
“Xưa kia, ở làng Vân Mẫu có một người đàn bà nghèo, đã luống tuổi
mà vẫn không chồng không con. Một hơm đi tắm ở sơng, chợt có con rắn
cuốn vào người. Về nhà, bà rùng mình cảm động rồi tự dưng có thai. Đúng 9
tháng 10 ngày sau, bà đẻ ra một cái bọc có 5 trứng rồi nở thành 5 người con, 4
trai 1 gái, đặt tên là: Trương Hống,Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và
Đạm Nương.
Ngày qua tháng lại, êm đềm xuân hạ thoi đưa, thấm thoát đàn con đã

khôn lớn. Giữa lúc ấy, bà mẹ qua đời. Vì nhà nghèo, anh em họ Trương chỉ
đủ tiền mua một cỗ quan tài khơng có chốc, rồi đúng đêm mấy anh em khiêng
mẹ ra đồng. Qua tới cổng làng thì bỗng đâu mưa to gió lớn bất chợt nổi lên
đùng đùng. Chiếc quan tài bị rơi xuống đất, trời đất mịt mùng không sao đi
nổi, mấy anh em đành phải ra về, đợi tinh mơ hôm sau sẽ lại ra chôn mẹ. Sớm
hôm sau, khi anh em Hống, Hác (thần tích gọi là Trương Hát, dân gian kể là
Trương Hác) ra tới chỗ quan tài mẹ thì khơng thấy đâu nữa mà chỉ trông thấy
một đống mối to tướng, trên đống mối hở ra hai cái gót chân của mẹ. Đêm
hôm ấy, Trương Hống, Trương Hác ra ấp mộ mẹ. Về khuya, chợt có 2 con
quỷ nhảy từ dưới mồ chui lên đùa nhau. Chúng đùa nhau hồi lâu, để ý thấy 2
anh em tuy sợ hãi hồn siêu phách lạc nhưng vẫn ấp mộ không thôi. Chúng cho
là người có hiếu, lại nhìn thấy tướng diện 2 người có chí khí kiên cường, bèn
tặng cho 2 chiếc áo tàng hình, gọi là “Xích y quỷ bộ” và “Bạch y quỷ bộ”.
Bấy giờ, giặc Lương xâm lấn nước ta, Trương Hống, Trương Hác theo
Triệu Quang Phục đánh giặc. Nhờ có tài võ nghệ và áo tàng hình, nhị nhân
tướng tả xung hữu đột đánh thắng nhiều trận khiến kẻ địch phải mày run mật
vỡ. Hiềm nỗi giặc đông như kiến cỏ nên đánh mãi mà vẫn không tiêu diệt
được thắng.
Một đêm, Trương Hống, Trương Hác nằm ngủ trong một ngơi chùa ở
làng Diềm, bỗng thấy có một người con gái đi vào tự xưng là là người trụ
trì ngơi chùa ấy, người con gái nói rằng: “Nếu hai vị muốn diệt trừ giặc


24
Lương chỉ có một cách là kéo quân về đầm Dạ Trạch mà dùng mai phục
kế”. Dứt lời thì biến mất. Hống, Hác giật mình tỉnh dậy, hóa ra là một giấc
chiêm bao. Nghĩ rằng, âu cũng là lòng trời nên mới cho thần báo mộng. Hai
tướng lập tức kéo quân về Dạ Trạch, quả nhiên giặc Lương bị đánh tan tành
phải chạy về nước.
Thiên hạ thái bình, Quang Phục xưng ngôi vua, gọi là Triệu Việt

Vương. Chẳng được bao lâu thì Lý Phật Tử chiếm ngơi. Phật Tử cho mang rất
nhiều lễ vật đến để mời Trương Hống, Trương Hát ở lại làm quan với hắn.
Song, vì giận kẻ phản bội hai ông nhất mực không chịu. Nhớ tới giấc mộng
giúp mình năm xưa, Trương Hống, Trương Hác từ quan về làng Diềm sinh
sống. Trên đường về Diềm, qua địa phận làng Đống Cao, hai ông vứt đao, vứt
yên ngựa xuống đồng. Những nơi ấy vì thế từ đó có tên là “đồng Mũi Đao”,
“đồng Yên Ngựa”. Ở Diềm, hai ông khai phá một vùng rừng cây nước san
phẳng như gương, cánh đồng này vì thế có tên là “đồng Mặt Gương”.
Vui thú điền viên ở Diềm chưa được mấy chốc thì Lý Phật Tử lại cho
người đến mời hai ông ra làm quan. Hai ông nhất quyết khước từ. Phật Tử
cáu giận mà rằng: “Đã không ra làm quan với ta thì cũng khơng được sống
ở đất này”.
Bức bách quá, hai ông đành phải lên sống ở vùng Đu Đuổm (Thái
Nguyên ngày nay).
Bấy giờ triều đình rối ren, lịng dân ốn hận, giặc ngồi ngấp nghé bờ
cõi. Lý Phật Tử lại tức tốc cho người lên tận Đu Đuổm gọi hai ông về làm
quan để mong chiêu an dân tâm. Hắn nói: “Nếu khơng làm quan thì hai ông
chỉ còn một con đường là tự xử”. Dẫu vậy, Trương Hống, Trương Hác vẫn
quyết không chịu về với kẻ phản bội. Biết chẳng cịn cách nào khác, hai ơng
bèn cho đóng một chiếc thuyền độc mộc, đục sẵn lỗ ở đáy, nhét giẻ vào rồi
xi theo dịng sơng Cầu để về hóa ở quê hương bản quán. Tới đoạn sông
Như Nguyệt, nơi ngã ba hợp lưu giữa sông Cầu và sông Cà Lồ, Trương Hống,


25
Trương Hác cho rút giẻ ra, nước sông tràn vào, thuyền chìm, hai ơng lần lượt
hóa thần. Tương truyền khi mất hai ơng đều hóa thành rắn. Bởi thế, địa
phương nơi mỗi ngài hóa có tên là Xà: Xà trên (Phương La Đồi), Xà dưới
(Phương La Đơng).
Sau khi hai ngài về thần, Ngọc hồng Thượng đế phong làm Long qn

phó sứ, cai quản và tuần hành dọc theo vùng sông Cầu. Lại thêm: Trương
Hống, Trương Hác hóa ở ngã ba sông nên từ đấy dân gian gọi nhị vị nhân
thần này là Đức Thánh Tam Giang. Khắp vùng từ Đu Đuổm tới Lục Đầu,
nhất là từ Ngã Ba Xà trở xuống, hơn 200 làng đều thờ Thánh Tam Giang làm
Thành hồng làng. Dân gian từ xưa có câu: “Thượng chí Đu Đuổm, hạ chí
Lục Đầu” hay “Thượng Ngã Ba Xà, hạ Lục Đầu giang”.
Người dân xã Mai Đình (Hiệp Hịa, Bắc Giang ngày nay) lại truyền
rằng: Khi hai ngài hóa, xác dạt vào bờ Bắc. Bấy giờ có một con lợn nái thả
rơng đã ăn hết gan ruột. Vì thế, từ đó dân Mai Đình khơng thể nào ni được
lợn nái nữa.
Lại rằng, vì thờ làm thần nên dân gian gọi chệch Hác thành Hát. Các lễ
quan phong kiến sau này cứ thế mà ghi vào thần tích.
Tương truyền, Trương Hống, Trương Hác rất căm ghét giặc ngoại bang
nên khi đã hóa thần hai ơng nhiều lần hiển thánh đánh giặc. Thời Lê Đại Hành
kháng Tống, Đức ngài đã phù giúp. Rồi đến thời Lý Thường Kiệt đáng giặc
Tống trên sơng Như Nguyệt thì việc hiển thánh diệu thường của Đức ngài
càng sâu đậm trong ký ức dân gian.
Chuyện rằng, bấy giờ giặc Tống đã tràn đến bờ Bắc sông Như Nguyệt,
thuyền chiến của chúng ngược theo sông Cà Lồ để kéo về Thăng Long. Thái
úy Lý Thường Kiệt đóng đại bản doanh ở Thất Diệu Sơn (Yên Phụ, Yên
Phong ngày nay), dựa vào rừng núi rậm rạp và đồng lầy để đánh giặc. Ơng
cho lập dinh trại đóng qn trên các cánh đồng, những nơi ấy sau đó mang tên
là “đồng Dinh” và “đồng Cổng Trại”. Dân ở mọi nơi vùng xứ Bắc tấp nập


×