Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Vai tro cua Quoc hoi trong hoat dong kiem tra giamsat cac van ban luat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.76 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>VAI TRÒ CỦA QUỐC HỘI TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM TRA, GIÁM SÁT CÁC VĂN BẢN LUẬT A. GIẢI THÍCH TỪ NGỮ - Giám sát: là việc Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. 1 - Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật: là việc xem xét, đánh giá và kết luận về tính hợp Hiến, hợp pháp của văn bản nhằm phát hiện những nội dung trái pháp luật, kịp thời đình chỉ việc thi hành, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ văn bản có nội dung sai trái nhằm đảm bảo tính hợp Hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động của Chính phủ và các Bộ, cơ quan ngang bộ 2 nhằm xem xét, định đoạt văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành (gồm thông tư, thông tư liên tịch, các văn bản cá biệt của Bộ, Cơ quan ngang bộ), văn bản quy phạm pháp luật và văn bản cá biệt của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.3 - Văn bản quy phạm pháp luật: là văn bản do cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền ban hành theo một trình tự, thủ tục luật định, chứa đựng các quy tắc xử sự chung, được áp dụng nhiều lần và được bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp của Nhà nước, từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế. 4 Văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: 1. Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. 2. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước. 3. Nghị định của Chính phủ. 5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. 6. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. 7. Thông tư của Viện trưởng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 8. Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. 9. Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước. 10. Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính phủ với cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị - xã hội. 1. Khoản 1, điều 2 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội 2003. Khoản 1, điều 90 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: “Chính phủ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, xử lý văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái pháp luật của bộ, cơ quan ngang bộ”. Khoản 1, điều 91 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có trách nhiệm kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của mình và của bộ, cơ quan ngang bộ về những nội dung có liên quan đến ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.” 3 Xem điều 1 Nghị định số 40/2010/NĐ-CP (12-4-2010) của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. 4 TS. Phan Trung Hiền, Lý luận nhà nước và pháp luật (quyển 2), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.24. 2.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> 11. Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. 12. Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. 5 (Nghị quyết của Hội đồng nhân dân; Quyết định, Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân)6.. - Hệ thống hoá pháp luật: gồm hoạt động tập hợp hoá và pháp điển hoá. Tập hợp hoá: là việc thu thập, sắp xếp các văn bản quy phạm pháp luật theo một hoặc một số tiêu chí nhất định (ví dụ như: theo cơ quan ban hành, theo giá trị pháp lý, theo lĩnh vực, theo ngành mà các văn bản quy phạm pháp luật đó cùng điều chỉnh). Pháp điển hoá: là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong đó không chỉ tập hợp các văn bản đã có theo một hoặc một số tiêu chí nhất định và loại bỏ những văn bản đã lỗi thời, mâu thuẫn, mà quan trong hơn là sửa đổi các quy phạm cũ, ban hành thêm những quy phạm mới, hoặc nâng cao giá trị pháp lý của các quy phạm cũ.. B. NỘI DUNG BÁO CÁO I. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT Ở VIỆT NAM 1) Hoạt động giám sát trong thời kỳ phong kiến ở Việt Nam Trong lịch sử hình thành bộ máy nhà nước quân chủ phong kiến Việt Nam, hầu hết các triều đại đã lập ra những chức quan, tổ chức chuyên trách để giúp nhà vua thực hiện chức năng giám sát việc thi hành pháp luật. a. Về chủ thể giám sát qua các triều đại phong kiến: - Thời Lý: lập ra các chức quan như Hành khiển, Tả hữu giám thị đại phu. - Thời Trần: lập ra Ngự sử đài, là cơ quan đầu tiên của Nhà nước phong kiến Việt Nam giúp nhà vua thực hiện chức năng giám sát. - Thời Lê: sau khi chiến thắng quân Minh, vua Lê Thái Tổ tiếp tục duy trì Ngự sử đài, trong Ngự sử đài có các quan Ngự sử đạo giữ chức năng giám sát 13 xứ thừa tuyên. Bên cạnh Ngự sử đài, các vua Lê lập ra Lục khoa, là tổ chức các quan chịu trách nhiệm giám sát hoạt động của 6 bộ: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công. - Thời Nguyễn: lập ra cơ quan giám sát mới gọi là Viện đô sát và sáp nhập Lục khoa trở thành một bộ phận của Viện đô sát. Viện đô sát của nhà Nguyễn là một cơ quan hoạt động độc lập có chức năng giám sát tất cả các cơ quan trong triều đình và các địa phương. b. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan giám sát - Can ngăn nhà vua - Đàn hặc các quan chức nhà nước (Tố giác tội lỗi của các quan chức nhà nước) - Nhận đơn kiện, điều tra, xét xử lại các vụ án, phúc duyệt các bản án tử hình 5 6. Xem Điều 2 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008. Xem khoản 2, điều 1 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2004..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Kiểm tra định kỳ việc giải quyết các vụ án đã thụ lý, kiểm tra việc giam giữ người.  Nhận xét: - Ưu điểm: cơ quan giám sát thời phong kiến được quyền can ngăn quyền lực tuyệt đối của vua trong trường hợp vua phạm lỗi lầm, ra điều lệ hà khắc làm hại dân,… - Hạn chế khách quan: trong xã hội phong kiến thường thì “phép vua thua lệ làng” nên có rất ít các văn bản luật được ban hành, vì vậy, hoạt động giám sát chỉ tập trung vào việc giám sát việc thực hiện pháp luật (tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, áp dụng pháp luật). Hạn chế chủ quan: do vua là người đứng đầu cả nước nên bao giờ vua cũng là người quyết định cuối cùng kết quả giám sát (do bản chất quyền lực nhà nước tập trung vào tay một người nên không tránh khỏi những trường hợp vua ra quyết định tuỳ tiện). 2)Lịch sử hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam Hiến pháp 1946 là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên quy định thẩm quyền giám sát của Quốc hội. Các quy định về việc Nghị viện và Ban thường vụ Nghị viện biểu quyết thông qua các sắc luật của Chính phủ đã thể hiện Nghị viện không chỉ giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong việc ban hành văn bản pháp luật của Chính phủ, mà còn kiểm tra hoạt động của Chính phủ.7 Kế thừa và phát triển quy định trên của Hiến pháp 1946, các bản Hiến pháp năm 19598, 19809 và 1992 đều đã ghi nhận chức năng này theo hướng chi tiết và đầy đủ hơn. Điều 83 Hiến pháp 1992 quy định: “…Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”. Trên cơ sở quy định này của Hiến pháp, nhằm cụ thể hoá hơn nữa về cơ sở pháp lý và nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của chức năng này, ngày 17/6/2003, Quốc hội nước ta đã chính thức thông qua Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội. II. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ QUỐC HỘI, THẨM QUYỀN BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI 1. Giới thiệu chung về Quốc hội Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.. 7. Điều 36, Hiến pháp 1946 quy định: “Khi Nghị viện không họp, Ban thường vụ có quyền: a) Biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ. Những sắc luật đó phải đem trình Nghị viện vào phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn hoặc phế bỏ. b) Triệu tập Nghị viện nhân dân. c) Kiểm soát và phê bình Chính phủ.” 8 Xem các điều 52, 57, 58, 59, 104 và 108 Hiến pháp 1959 sẽ thấy sự mở rộng về phạm vi thẩm quyền giám sát với quy định hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội - cơ quan hoạt động thường xuyên của Quốc hội; sự cụ thể hoá về hình thức và cách thức thực hiện. 9 Xem Điều 83, Điều 100 Hiến pháp 1980..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. 10 2. Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội a) Các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành:  Hiến pháp: Hiến pháp Việt Nam thuộc loại Hiến pháp cứng (Hiến pháp cương tính), tức là loại hiến pháp phải được thông qua bởi một cơ quan đặc biệt là Quốc hội lập hiến (chứ không phải cơ quan lập pháp) hoặc toàn dân biểu quyết. Thủ tục thông qua hoặc sửa đổi hiến pháp cũng được quy định khá chặt chẽ, ngặt nghèo hơn. Chẳng hạn nếu như việc thông qua bình thường chỉ cần quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tán thành thì đối với Hiến pháp phải có 2/3 hoặc 3/4 tổng số đại biểu tán thành.11 Vì vậy, vai trò của Hiến pháp trong việc ban hành các đạo luật là rất quan trọng, Hiến pháp là văn bản luật chủ đạo, là đạo luật gốc làm cơ sở để ban hành các đạo luật khác. Nên nếu thay đổi Hiến pháp thì tất yếu các văn bản quy phạm pháp luật khác cũng phải thay đổi theo. Bộ luật, Luật: Bộ luật, luật của Quốc hội quy định các vấn đề cơ bản thuộc lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, tài chính, tiền tệ, ngân sách, thuế, dân tộc, tôn giáo,… Các văn bản này dùng để điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản thuộc các lĩnh vực về đối nội và đối ngoại của quốc gia. Bộ luật, luật có tính chất cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp theo những ngành luật hoặc các lĩnh vực pháp luật chuyên biệt, ví dụ; Bộ luật dân sự, bộ luật Hình sự,… Bộ luật thường điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội rộng lớn và có tính bao quát, bộ luật là xương sống của ngành luật. Trong khi đó, luật là văn bản quy phạm pháp luật có phạm vi điều chỉnh không rộng lớn lắm.  Nghị quyết của Quốc hội: Nghị quyết của Quốc hội ở Việt Nam được sử dụng để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội có tầm quan trọng nhất định và trong nhiều trường hợp mang tính chất nhất thời. 1. Nghị quyết được ban hành để quyết định nhiệm vụ pháp triển kinh tế-xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương,… 2. Nghị quyết dùng để ổn định chế độ công tác của Quốc hội và cơ quan trực thuộc Quốc hội. 10 11. Xem điều 1 Luật tổ chức Quốc hội 2001. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 1999, tr.60..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> 3. Nghị quyết dùng để phê chuẩn điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. 4. Nghị quyết còn dùng để quyết định các vấn đề khác thuộc thẩm quyền của Quốc hội. b) Các văn bản quy phạm pháp luật do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành  Pháp lệnh: Pháp lệnh có giá trị thấp hơn Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội nhưng lại có giá trị rất cao so với các văn bản còn lại. Pháp lệnh là những văn bản có tính luật. Pháp lệnh điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhưng do mối quan hệ đó chưa hoàn toàn rõ ràng thì Quốc hội sẽ ủy quyền lập pháp để Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh.  Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Nghị quyết để giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh, hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh,… III. HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CÁC VĂN BẢN LUẬT CỦA QUỐC HỘI Quốc hội có thẩm quyền tối cao trong hoạt động giám sát, xem xét các văn bản quy phạm pháp luật: 1. Quốc hội giám sát các văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội (pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội) và Chủ tịch nước; 2. Giao cho Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội quyền giám sát, xem xét các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp cấp Trung ương; 3. Giao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát, Đoàn Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Quốc hội quyền giám sát văn bản quy phạm pháp luật được ban hành bởi Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 1. Chủ thể của hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội a) Chủ thể có thẩm quyền đề nghị xử lý các văn bản có dấu hiệu trái với Hiến pháp và luật, nghị quyết của Quốc hội: gồm UBTVQH, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội. b) Chủ thể có thẩm quyền xử lý các văn bản có dấu hiệu trái với Hiến pháp và luật, nghị quyết của Quốc hội.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 2. Đối tượng của hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội 1) Văn bản QPPL của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. 2) Văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân 3. Phương thức giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội a) Giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Căn cứ điều 7,15, và 27 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội 2003. - Quốc hội có quyền xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao,Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội 12. - Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có quyền xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của ủy ban thường vụ Quốc hội13. - Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội 14 có quyền xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên 15. -  Khi VBQPPL của CP, TTCP, TANDTC,VKSNDTC có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội16 Khi VBQPPL của CP, TTCP, TANDTC,VKSNDTC có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. 12. Xem xét, đình chỉ. Khoản 3 Điều 7 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003. QUỐC Trình hội Quốcnăm hội 2003. Khoản 2 Điều 15 Luật Hoạt động giám sát của Quốc UBTVQH 14 HỘI Hiện nay Quốc hội có Hội đồng Dân tộc và chín ủy ban. 15 Khoản 2 Điều 27 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003. 16 Khoản 1, điều 10 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003: “Khi phát hiện văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với VBQPPL của CP, vụ Quốc hội xem xét, đình chỉ việc thi hành và trình Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì Uỷ ban thường TTCP,toàn bộ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất.” Quốc hội xem xét, quyết định việc bãi bỏ một phần hoặc 13. Xem xét, quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản. TANDTC,VKSNDTC có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

<span class='text_page_counter'>(7)</span>  Khi VBQPPL của Uỷ ban Thường vụ quốc hội, Chủ tịch nước có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.17 Khi VBQPPL của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội Không đồng ý với trả lời của Đề nghị UBTVQH, CTN UBTVQH Xem xét, đề nghị bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản. UBTV QH CTN. Phát hiện. Xem xét, trả lời VBQPPL của UBTVQH, Chủ tịch nước có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Trình Quốc hội. QUỐ C HỘI Xem xét, quyết định. ĐẠI BIỂU QUỐ C HỘI. b) Giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Báo cáo. QUỐC HỘI. UBTVQH, Đoàn Đại biểu QH, Đại biểu QH. VBQPPL CỦA HĐND VÀ Chính quan 17 BáoLuật cáo hoạt Kiểm“Khi tra phát hiện văn bản quy phạm pháp Đoạn 2, khoản 1, điều 13 độngphủ, giámBộ, sátCơ của Quốc hội 2003: UBND ngang Bộ, Cơ quan thuộc Giám sát. luật của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội Chính phủ hội, Chủ tịch nước sửa đổi hoặc huỷ bỏ một phần hoặc toàn thì Đại biểu Quốc hội đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc bộ văn bản đó; Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước có trách nhiệm xem xét, trả lời đại biểu Quốc hội. Trong trường hợp Đại biểu Quốc hội không đồng ý với trả lời của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước yêu cầu Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất”..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân. Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân.18  Hình thức xử lý các văn bản quy phạm pháp luật trái với các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội Việc giám sát, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật được tiến hành nhằm phát hiện những nội dung sai trái hoặc không còn phù hợp để kịp thời đình chỉ việc thi hành, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản, đồng thời kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xác định trách nhiệm của cơ quan, cá nhân đã ban hành văn bản sai trái. Một số lỗi sai trái trong văn bản quy phạm pháp luật và hình thức xử lý. Sai căn cứ pháp lý viện dẫn, thể thức, kỹ thuật trình bày, còn nội dung phù hợp với văn bản cấp trên. Đính chính văn bản. Đình chỉ thi hành văn bản. Nội dung trái pháp luật. Bãi bỏ Huỷ bỏ.  Tóm lại: Về trình tự, thủ tục trong hoạt động giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật thường được thực hiện theo các bước cơ bản sau đây: - Chủ thể có thẩm quyền trình bày ý kiến về văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu vi phạm; - Thảo luận (trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ quan đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày bổ sung những vấn đề có liên quan); - Ra quyết định cuối cùng và báo cáo cấp có thẩm quyền (Quốc hội). 18. Khoản 1,2 điều 10 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2004..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> IV. Ý NGHĨA HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CÁC VĂN BẢN LUẬT CỦA QUỐC HỘI 1. Bảo đảm cho Hiến pháp, luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong cả nước Mục đích của hoạt động giám sát suy cho cùng, chính là để khẳng định tính hợp lý, khả thi của hoạt động lập pháp, phát hiện những bất cập trong điều chỉnh pháp luật để từ đó, làm tốt hơn chức năng lập hiến và lập pháp 2. Nâng cao công tác hệ thống hoá pháp luật V. MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CÁC VĂN BẢN LUẬT CỦA QUỐC HỘI 1. Tồn tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật thiếu tính hợp Hiến và hợp pháp  Sự mâu thuẫn giữa luật và Hiến pháp Đôi khi trong chính những văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành vẫn còn một số mâu thuẫn. Chẳng hạn: Khoản 5 điều 2 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 khẳng định Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định. 19 Quy định này mâu thuẫn với điều 115 Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) là:“Thủ tướng chính phủ ra quyết định, chỉ thị”. Thực tế cho thấy, đây là nhầm lẫn khách quan vì Hiến pháp có ban hành trước Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 nên có một số chỉnh lý phát sinh về sau khó mà bổ sung vào Hiến pháp được. Về văn bản quy phạm pháp luật thiếu tính hợp pháp thì tồn tại rất nhiều, chủ yếu là các dạng sau đây:  Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không đúng căn cứ pháp lý Ví dụ : Uỷ ban nhân dân tỉnh A đã ban hành Quyết định số 09/2004/QĐ-UBND về việc kiểm soát lưu thông, giết mổ, bảo vệ và khôi phục đàn gia cầm trên địa bàn tỉnh A dựa trên những căn cứ sau: “- Căn cứ vào Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 21/6/1994; - Căn cứ vào Công văn số 34/CV-BNN&PTNT ngày 10/10/2004 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc tăng cường công tác kiểm dịch kiểm soát việc lưu thông, giết mổ và bảo vệ gia cầm; - Căn cứ vào văn bản số 65/TU ngày 09/10/2004 của Tỉnh uỷ chỉ đạo việc dập dịch và khôi phục sản xuất sau khi hết dịch”. Theo quy định của pháp luật tại thời điểm ban hành văn bản, để ban hành một văn bản quy phạm pháp luật cần phải có hai loại căn cứ pháp lý: một là, căn cứ pháp lý về thẩm quyền quản lý nhà nước, thẩm quyền ban hành văn bản và hai là, căn cứ pháp lý về 19. Khoản 5 điều 10 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008: “5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ”..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> nội dung văn bản. Mặt khác, theo quy định tại Thông tư số 01/2004/TT-BTP (nay là Thông tư số 20) thì căn cứ pháp lý làm cơ sở ban hành văn bản quy phạm pháp luật là những văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên hoặc những văn bản quy phạm pháp luật do chính cơ quan ban hành văn bản đã ban hành và đang có hiệu lực tại thời điểm ban hành văn bản mới. Như vậy, có thể thấy, về hình thức, Quyết định số 09 của Uỷ ban nhân dân tỉnh A có đủ cả căn cứ pháp lý về thẩm quyền quản lý nhà nước, thẩm quyền ban hành văn bản và căn cứ pháp lý về nội dung văn bản. Tuy nhiên: Về căn cứ thứ nhất: Tại thời điểm ban hành Quyết định số 05/2004/QĐ-UBND, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 đã hết hiệu lực pháp luật và được thay thế bằng Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2004. Vì vậy, căn cứ này là không chính xác. Về căn cứ thứ hai và căn cứ thứ ba: Công văn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và văn bản của Tỉnh uỷ không phải là văn bản quy phạm pháp luật nên không thể sử dụng làm căn cứ pháp lý ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Như vậy, việc Uỷ ban nhân dân tỉnh A ban hành văn bản quy phạm pháp luật lại căn cứ vào văn bản hết hiệu lực và văn bản không phải là văn bản quy phạm pháp luật là trái với quy định của pháp luật.  Văn bản quy phạm pháp luật ban hành sai thẩm quyền: gồm ban hành đúng thẩm quyền về hình thức và đúng thẩm quyền về nội dung. - Thẩm quyền về hình thức: Ví dụ: Cục trưởng Cục A (thuộc Bộ) ban hành Công văn về việc kiểm dịch thực vật cây có bầu đất, trong đó có hướng dẫn:“Chỉ làm thủ tục kiểm dịch đối với cây mang theo bầu đất theo hình thức tạm nhập tái xuất hoặc quá cảnh”. Theo nội dung trên thì chúng ta có thể dễ dàng nhận biết, Công văn do Cục trưởng Cục A ban hành đã chứa quy phạm pháp luật. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 về thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Cục là đơn vị thuộc Bộ nên không có thẩm quyền đưa ra các quy định có tính quy phạm pháp luật. Hơn nữa, khoản 4 Điều 9 Nghị định số 02/2007/NĐ-CP ngày 05/01/2007 của Chính phủ về kiểm dịch thực vật đã nghiêm cấm: “Đưa thực vật mang theo đất dưới mọi hình thức vào Việt Nam”. Do đó, hướng dẫn tại Công văn trên là không phù hợp với cơ quan nhà nước cấp trên. Như vậy, Công văn trên không những vi phạm thẩm quyền ban hành quy phạm pháp luật mà còn trái pháp luật về mặt nội dung. Theo quy định của pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản, Công văn trên phải bị xử lý hủy bỏ..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> -. Thẩm quyền về nội dung:. Ví dụ: Quyết định số 28/2008/QĐ-Bộ F ngày 12/4/2008 của Bộ F (Bộ F không phải Bộ Nội vụ) quy định về tiêu chuẩn Thanh tra viên Thủy sản. Tại khoản 6 Điều 49 Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức quy định các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: “Chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức thuộc ngành, lĩnh vực quản lý để Bộ Nội vụ thống nhất ban hành…” Mặt khác, Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 05/12/2007 quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang Bộ tại Khoản 6 Điều 12 cũng quy định trách nhiệm của các Bộ: “Xây dựng tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của ngạch công chức thuộc ngành, lĩnh vực do Bộ được phân công, phân cấp quản lý để Bộ Nội vụ ban hành”. Như vậy, các văn bản trên đều quy định thẩm quyền ban hành tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của ngạch công chức chuyên ngành là của Bộ Nội vụ. Do đó, Bộ F quy định về tiêu chuẩn Thanh tra viên Thủy sản trong đó có tiêu chuẩn ngạch Thanh tra viên cao cấp là trái thẩm quyền.  Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật không phù hợp với quy định của pháp luật Ví dụ: Quyết định số 07/2008/QĐ-UBND của UBND tỉnh NA có quy định về tiêu chuẩn đối với người lái xe ô tô vận tải hành khách như sau: “…có thâm niên lái xe (tính từ ngày được cấp giấy phép lái xe) từ 03 năm trở lên”. Theo Luật giao thông đường bộ năm 2001 quy định: “Người lái xe tham gia giao thông phải có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe được phép điều khiển do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Người lái xe phải bảo đảm độ tuổi, sức khỏe theo quy định của Luật này”; Đồng thời, Nghị định số 110/2006/NĐ-CP của Chính phủ về điều kiện kinh doanh vận tải bằng ô tô quy định: “Lái xe, nhân viên phải có lý lịch rõ ràng được chính quyền địa phương xác nhận; giấy chứng nhận sức khỏe; có hợp đồng lao động…”. Như vậy, các văn bản quy phạm pháp luật ở Trung ương không đặt ra điều kiện đối với người lái xe ô tô vận tải hành khách phải có “thâm niên lái xe (tính từ ngày được cấp giấy phép lái xe) từ 03 năm trở lên”. Việc UBND đặt thêm điều kiện này là trái với quy định của pháp luật.  Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành sai trình tự, thủ tục, thể thức, kỹ thuật trình bày theo quy định của pháp luật.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Ví dụ: Ủy ban nhân dân tỉnh M ban hành quyết định có số và ký hiệu như sau: “Quyết định số 2769/QĐ-UBND ngày 20/8/2008 về việc điều chỉnh định mức bêtông hóa đường giao thông nông thôn theo chuẩn đường và thiết kế dự toán mẫu tại Quyết định số 29/2006/QĐ-UBND ngày 07/7/2006 của UBND tỉnh”. Với các nội dung thể hiện tại Quyết định 2769 thì đây là một văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, phần ký hiệu của Quyết định số 2769 thiếu năm ban hành văn bản (xen giữa số và ký hiệu của văn bản) là chưa phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 7 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND: “Văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ban hành phải được đánh số thứ tự cùng với năm ban hành và ký hiệu cho từng loại văn bản”. Về số thứ tự của văn bản: Quyết định số 2769 ban hành ngày 20/8/2008 có số thứ tự là 2769, theo quy định tại Điều 7 của Luật Ban hành văn bản của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004 thì: "...Việc đánh số thứ tự phải bắt đầu từ số 01 theo từng loại văn bản cùng với năm ban hành loại văn bản đó”. Theo đó, số thứ tự của Quyết định này phải được đánh số riêng theo loại văn bản quy phạm pháp luật do UBND ban hành. Đến 20/8/2008, thì UBND tỉnh M không thể ban hành hơn một nghìn văn bản quy phạm pháp luật (loại quyết định). 2. Chưa có chế tài thật sự nghiêm khắc với cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái với văn bản quy phạm pháp luật cấp trên Vấn đề đáng quan tâm là: Tại sao trong khi các văn bản quy phạm pháp luật vi phạm bị xử lý (đính chính văn bản, đình chỉ, bãi bỏ, huỷ bỏ) thì cơ quan ban hành nó không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật? - Đính chính văn bản: Trong quá trình kiểm tra phát hiện văn bản chỉ sai về căn cứ pháp lý được viện dẫn, thể thức, kỹ thuật trình bày còn nội dung của văn bản phù hợp với quy định của pháp luật, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp thì đính chính đối với những sai sót đó. - Đình chỉ việc thi hành: Hình thức đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp nội dung trái pháp luật đó nếu chưa được sửa đổi, bãi bỏ, hủy bỏ kịp thời và nếu tiếp tục thực hiện thì có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân. - Hủy bỏ: Hình thức huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền về hình.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> thức, thẩm quyền về nội dung hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật từ thời điểm văn bản được ban hành. - Bãi bỏ: Hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản làm căn cứ ban hành văn bản được kiểm tra đã được thay thế bằng văn bản khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, dẫn đến nội dung của văn bản không còn phù hợp với pháp luật hiện hành hoặc tình hình kinh tế - xã hội thay đổi. Hiện tại chưa có một văn bản nào quy định trách nhiệm pháp lý đối với các cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật sai trái làm tổn hại xã hội. Trừ trường hợp đối với văn bản áp dụng pháp luật có chế tài trong luật Hình sự đối với Tội ra bản án trái pháp luật (điều 295 BLHS 2009) và Tội ra quyết định trái pháp luật (điều 296 BLHS 2009). VI. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 1) Cần nghiên cứu rà soát giảm số lượng chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.Có thể xóa bỏ loại hình văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan tư pháp ban hành để cơ quan này có điều kiện tập trung vào hoạt động xét xử của mình. 2) Cần có biện pháp chế tài đối với các cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái với văn bản quy phạm pháp luật cấp trên. Có nhiều dạng thức sai luật, sai về thể thức văn bản, sai về kỹ thuật trình bày, sai về thẩm quyền nhưng lỗi nặng nhất là sai về nội dung. Chúng ta đều biết rằng nếu ban hành văn bản trái luật thì xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức chịu sự điều chỉnh của văn bản. Những văn bản đó có thể sẽ bị đình chỉ thi hành, bị hủy bỏ theo quy định của Luật ban hành văn bản. Tuy nhiên, vấn đề đây là trách nhiệm của người cơ quan ban hành văn bản. Các văn bản trái luật dù cách này hay cách khác đều dẫn đến sự thiệt hại nhất định cho người dân và các tổ chức. Vậy trách nhiệm của cá nhân/ cơ quan ban hành văn bản như thế nào khi ban hành những văn bản đó. Ở điểm này, Luật pháp chúng ta cũng nên có chế tài nào đó để xử lý đối với những người ban hành văn bản trái luật như vậy mới công bằng và nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cá nhân và cơ quan khi ban hành văn bản..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO A. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1. Luật Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. 2. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008. 3. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 2004. 4. Luật Tổ chức Quốc hội 2001 sửa đổi bổ sung 2007. 5. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội 2003. 6. Nghị định số 40/2010/NĐ-CP (12-4-2010) của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản quy phạm pháp luật. B. SÁCH, TẠP CHÍ KHOA HỌC 7. Đặc san Tuyên truyền pháp luật số 08/2011, Chuyên đề pháp luật về kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội, năm 2011. 8. Hoàng Văn Tú, Quy định của pháp luật về chức năng giám sát của Quốc hội, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 4 (năm 2009), tr.10. 9. Nguyễn Ngọc Điện (cập nhật và bổ sung Nguyễn Phan Khôi), Tập bài giảng Các nguồn của luật, Cần Thơ, 8-2012. 10. Nguyễn Ngọc Điện, Một số vấn đề lý luận về các phương pháp phân tích luật viết, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006. 11. Phạm Văn Hùng, Cơ quan giám sát trong các triều đại phong kiến Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 2 (năm 2000),tr.14. 12. Phan Trung Hiền, Lý luận nhà nước và pháp luật (quyển 2), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011..

<span class='text_page_counter'>(15)</span>

×