Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
I - khái quát về Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là một trong những ngành công nghiệp lâu đời nhất. Trải
qua quá trình phát triển của xã hội loài người Ngân hàng và nghề Ngân hàng
không ngừng được hoàn thiện và phát triển. Nếu như trong thời kỳ sơ khai
hoạt động của Ngân hàng chỉ giới hạn trong việc giữ hộ của cải hoặc thanh
toán hộ thì cho đến nay hoạt động của Ngân hàng đã được mở ra trên rất
nhiều các lĩnh vực với công nghệ ngày càng hoàn thiện. Thực tế nhiều năm qua
đã chứng tỏ cho thấy rằng : Ngân hàng là một ngành nghề không thể thiếu
được trong nền kinh tế, nó đóng vai trò làm môi giới, làm trung gian cho sự
gặp gỡ của cung và cầu tiền tệ, thông qua việc huy động vốn tạm thời nhàn rỗi
từ dân cư và các tổ chức trong xãa hội rồi cho vay lại đối với cá nhân, các tổ
chức đang có nhu cầu về vốn. Điều này góp phần đẩy mạnh tốc độ quay vòng
của vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, biền tiền nhàn rỗi vào đầu tư sản xuất
kinh doanh, tránh lãnh phí của cải vật chất cho xã hội. Qua đó đẩy mạnh tốc độ
phát triển kinh tế mà tình hình hoạt động của Ngân hàng phản ánh rất chính
xác tình hình nền kinh tế, sự vững mạnh, phồn vinh hay yếu kém của nền kinh
tế được phản ánh rất rõ qua hoạt động của Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại ra đời như một đứa con ưu tú nhất của nền kinh
tế hàng hoá và chính Ngân hàng thương mại đến lượt mình đã ghóp phần
quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Ngân hàng thương mại đầu tiên được thành lập vào năm 1782 và đã có
rất nhiều Ngân hàng được thành lập từ những năm 1800 đến nay vẫn đang
hoạt động chứng rỏ sức sống bền bỉ và sự tồn tại khách quan của các NHTM.
Trong các định chế tài chính thì NHTM là định chế quan trọng nhất vì nó giữ
phần lớn của xã hội.
Hệ thống NHTM : Bao gồm các NHTM Quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân
hàng tư nhân với chức năng chính là kinh doanh thông qua hoạt động trung
gian tài chính và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Hệ thống Ngân hàng
thương mại hoạt động dưới sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước thông qua các
quy chế, quy định về hoạt động và thông qua việc thực hiện các văn bản, chế độ
của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện các định hướng trong chính sách tiền tệ
tài chính của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống NHTM có nhữn đòn bẩy tác động
quan trọng đến sản xuất và lưu thông đó là : tiền mặt, tín dụng, lãi suất ...
NHTM có một loên hệ vừa bao quát, vừa thâm nhập vào từng đơn vị cơ sở của
nền kinh tế.
NHTM đã có mạng lưới rộng khắp địa bàn sản xuất phân phối lưu thông,
tiêu dùng trong cả nước. Hơn thế nữa, nó còn có quan hệ rộng rãi và có vai trò
quan trọng về tiền tệ, tín dụng, thanh toán giữa nước ta với nước ngoài.
Với mô hình tổ chức trên, hoạt động của NHTM bao gồm những nội dung
chủ yếu sau :
+ Tạo nguồn vốn thông qua các hoạt động như : huy động vốn nhàn rỗi
trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước dưới các hình
thức:
- Tiền quỹ tiết kiệm có kỳ hạn.
- Tiền quỹ tiết kiệm không kỳ hạn.
- Phát hành kỳ phiếu Ngân hàng.
- Hậu tiền ký gửi
v.v...
Vay từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước : vay các Ngân hàng
Nhà nước, nhận vốn điều hoà trong hệ thống.
+ Sử dụng vốn tự có và vốn vay thông qua hoạt động tín dụng thực hiện
các dự án đầu tư dưới hình thức ghóp vốn hay mua trái phiếu kho bạc, tài trợ
xuất nhập khẩu, đầu tư kinh doanh bất động sản, kinh doanh vàng bạc đá
quý ...
+ Thực hiện các dịch vụ Ngân hàng : thanh toán hộ, thu hộ, bảo hành
thực hiện các dịch vụ tư vấn khách hàng.
Ngân hàng thương mại hoạt động theo nguyên tắc tự chủ trong kinh
doanh, thực hiện hạch toán kinh tế độc lập, tuân thủ các chế độ, chính sách của
Ngân hàng Nhà nước và chính phủ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với Bộ
Tài Chính, bảo toàn vốn và có lãi.
Thực tế đã chứng tỏ rằng, với mô hình tổ chức trên, thì đây là mô hình tổ
chức thích hợp nhất trong nền kinh tế thị trường, vì nó đáp ứng được đầy đủ
nhu cầu của nền kinh tế, đồng thời phát huy được hết sức mạnh sẵn có trong
mỗi NHTM và phát huy được hết vai trò của cả hệ thống NHTM nói riêng và cả
hệ thống Ngân hàng nói chung.
II - vai trò của hệ thống NHTM đối với nền kinh tế:
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua một thời gian dài
trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nên bước vào cơ chế thị trường gặp
rất nhiều khó khăn. Vấn đề lo đủ vốn để phát triển kinh tế được đưa lên hàng
đầu. Đối với một nền kinh tế như nước ta thì vốn cần cho đầu tư xây dựng cơ
sở hạ tầng là hết sức lớn và không ngừng tăng lên.
Công cuộc đổi mới mở ra toàn diện và bắt đầu đi vào chiều sâu, yêu cầu
phải có vốn để tăng tốc đầu tư, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế thưo
chiều hướng công nghiệp hoá và hiện đại hóa, đảm bảo nhịp độ tăng trưởng
kinh tế nhanh và lâu bền, tạo sự phát triển kinh tế quan trọng cho các năm tới.
Đối với Ngân hàng thương mại, nó thể hiện được sự đáp ứng này đối với
nền kinh tế, thông qua vai trò của mình là :
1) Ngân hàng thương mại là nơi huy động tập trung vốn tạm thời nhàn
rỗi trong xã hội để cung cấp cho nhu cầu của nền kinh tế :
Như chúng ta đã biết trong xã hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn về sự
thừa và sự thiếu vốn một cách tạm thời, tức là có tình trạng một thời kỳ nào đó
người thì thừa tiền, trong khi lại có những người cần tiền. Đối với những
người, những tổ chức có tiền tạm thời nhãn rỗi, thì vấn để đối với họ là làm
sao bảo quản được số tiền đó được an toàn và nếu có thể sinh lợi được thì
càng tốt. Nhưng để thực hiện được điều này, nó còn phụ thuộc vào khả năng,
vào mối quan hệ của từng người, và thông thường những người có tiền tạm
thời nhàn rỗi luôn tìm cách cho những người hay những tổ chức đang có nhu
cầu về vốn vay trong một thời hạn nhất định chứ không trực tiếp đầu tư vào
sản xuất do sự giới hạn và khả năng thu hồi tiền mặt. Tuy nhiên điều này hầu
như rất khó thực hiện được. Do vậy, trong xã hội luôn luôn tồn tại mâu thuẫn
này. Xét về mặt kinh tế thì lượng tiền này nếu được tập trung lại để cho vay với
những người đang có nu cầu sẽ đem lại lợi ích kinh tế cho cả người có tiền
nhàn rỗi và người có nhu cầu về vốn nói riêng và đem lại hiệu quả kinh tế cho
cả nền kinh tế nói chung, Ngân hàng thương mại chính là người thực hiện
chức năng cầu nối này.
2) Ngân hàng thương mại với hoạt động của mình ghóp phần tăng
cường hiệu quả hoạt động của sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói
riêng và của nền kinh tế nói chung.
Đặc trưng cơ bản của Ngân hàng là cho vay có hoàn trả với một mức lãi
suất nhất định và với một thời hạn nhất định, chính điều này đã bắt buộc mọi
cá nhân và doanh nghiệp khi vay vốn của Ngân hàng phải cân nhắc và phải sử
dụng vốn đó một cách có hiệu quả nhất, để có thể bảo toàn vào sinh lợi được
vốn đó, sau đó phải trả vốn vay và lãi đúng thời hạn. Đây chính là động lực
thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường công tác hạch toán, giảm chi phí sản
xuất nhưng phải tăng chất lượng sản phẩm và tăng vòng quay của vốn. Qua
đó, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. Mặt khác, trước khi quyết định một
món vay Ngân hàng thường tiến hành thẩm định tín dụng, chỉ thực hiện cho
vay đối với những cá nhân, doanh nghiệp phải có sự sắp xếp, bố trí tổ chức sản
xuất phù hợp, để có cơ hội vay vốn của Ngân hàng, đây chính là động lực, là cơ
sở giúp cho việc tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp trong nền kinh tế, qua đó tăng hiệu quả nền kinh tế.
3) Ngân hàng thương mại là tổ chức thực hiện phân bổ vốn giữa các
vùng qua đó tạo điều kiện cho việc phát triển đồng đều giữa các vùng khác
nhau trong cùng một quốc gia.
Trong quá trình phát triển kinh tế của một nước và đặc biệt là các nước
đang phát triển, thì hiện tượng thừa và thiếu vốn giữa các vùng diễn ra
thường xuyên. Cho nên một vấn đề cần giải quyết được đặt ra là làm sao thực
hiện được việc tập trung vốn từ vùng có nhu cầu nhưng không có nguồn vốn sẽ
có đủ nguồn vốn để phát triển kinh tế. Chính Ngân hàng thực hiện hoạt động
này thông qua hoạt động điều chuyển vốn của Ngân hàng thương mại trung
ương.
4) Ngân hàng thương mại thông qua hoạt động của mình ghóp phần
quan trọng vào việc chống lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền, ổn định
tình hình kinh tế.
Trong hoạt động của mình, Ngân hàng có thể giảm bớt lượng tiền mặt
trong lưu thông bằng cách tăng lãi suất huy động để thu hút tiền mặt vào đồng
thời tăng lãi suất ở đầu ra để hạn chế lượng tiền mặt ra trong thời kỳ kinh tế
có lạm phát cao, hoặc các Ngân hàng có thể hành động ngược lại khi nền kinh
tế có hiện tượng giảm sút. Qua việc thay đổi trong chính sách huy động và cho
vay như trên, Ngân hàng góp phần làm ổn định sức mua của đồng tiền, ngăn
chặn được sự tăng giá đột ngột, kiềm chế làm phát làm ổn định nền kinh tế.
5) Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa kinh tế trong nước và ngoài
nước, tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước hòa nhập với nền kinh tế
trong khu vực và nền kinh tế trên thế giới.
Một Ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt động và quan hệ rộng rãi
với rất nhiều tổ chức kinh tế. Nó có khả năng huy động được vốn từ các cá
nhân, tổ chức ngoài nước hay tổ chức tài chính tín dụng quốc tế, qua đó đảm
bảo được vốn cho nền kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế
trong nước có thể mở rộng hoạt động của họ ra nước ngoài một cách có hiệu
quả hơn, thông qua hoạt động thanh toán quốc tế, tư vấn tài trợ xuất nhập
khẩu. Ngân hàng có thể làm đại lý cho các tổ chức tài chính, tín dụng nước
ngoài qua đó giúp các tổ chức kinh tế trong nước có thể vau vốn các tổ chức
này để nhập công nghệ cao, nang cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh trạnh
với thị trường quốc tế.
Trên đây, là toàn bộ khái quát về vài trò của hệ thống Ngân hàng thương
mại hoạt động trong cơ chế thị trường. Trên góc độ một sinh viên nghiên cứu
về hoạt động đầu vào của một ngân hàng, mà chủ yếu là hoạt động huy động
vốn ta sẽ xem xét kỹ hơn vấn đền này thông qua việc huy động vốn của một
Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
Iii - cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng thương mại :
Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, Ngân hàng muốn hoạt động
được trước hết phải có vốn. Nhưng vì mặt hàng kinh doanh của Ngân hàng rất
đặc biệt, vì vị trí và vai trò của nó cho nên nhu cầu về vốn của Ngân hàng
thương mại là rất lớn, do vậy nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm :
1) Nguồn vốn tự có :
Nguồn vốn này được hình thành từ hai bộ phần là :
+ Vốn điều lệ: Đây là số vốn ban đầu của một Ngân hàng thương mại,
là tiêu chuẩn được thành lập và đi vào hoạt động của NHTM. Về mặt quy mô
thì vốn điều lệ lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định.
Vốn điều lệ có thể do ngân sách Nhà nước cấp (đối với vốn NHTM quốc
doanh), có thể do các thành viên đóng góp dưới hình thức mua cổ phiếu (đối
với NHTM cổ phần) hoặc vốn điều lệ có thể do cá nhân tự bỏ vốn ra (đối với
Ngân hàng tư nhân).
Loại vốn này nói lên quy mô hoạt động và khat năng cạnh tranh ban đầu
của Ngân hàng. Các Ngân hàng thương mại có trách nhiệm bảo toàn và phát
triển vốn này (đối với NHTM quốc doanh).
+ Vốn tích lũy : Vốn này được hình thành trong quá trình hoạt động
của Ngân hàng thông qua việc trích nộp các quỹ. Cứ mỗi Ngân hàng căn cứ vào
kết quả hoạt động của mình mà trích một phần lợi nhuận nhằm bổ xung vào
vồn tự có của Ngân hàng. Tuy nhiên, tỷ lệ này lại tuỳ thuộc vào quy định của
từng nước.
2) Vốn dự trữ :
Theo quy định chung của các NHTM đều phải mở tài khoản tại các Ngân
hàng trung ương và nộp vào đó các khoản dự trữ bao gồm :
- Dự trữ tối thiểu pháp định.
- Dự trữ để đảm bảo các hoạt động của Ngân hàng.
- Các khoản dự trữ đặc biệt được pháp luật qui định.
3) Nguồn vốn điều hoà trong hệ thống.
Vì các NHTM hoạt động trên các địa bàn khác nhau nên luôn luôn xuất
hiện tình trạng ở Ngân hàng này có hiện tượng thừa vốn do huy động nhiều
nhưng không sử dụng hết, trong khi đó Ngân hàng kia lại thiếu vốn. Sở dĩ có
tình trạng này là do : Về phía Ngân hàng thừa vốn có thể do sự biến động lớn ở
thị trường đầu ra dẫn đến việc không mở rộng được hoạt động trong khi vẫn
phải duy trì việc huy động vốn vì mục đích giữ khách hàng. Còn về phía bên
Ngân hàng thiếu vốn do thị trường đầu ra mở rộng trong khi thị trường đầu
vào không thể mở rộng được hơn nữa, dẫn đến tình trạng thiếu vốn. Chính lúc
này Ngân hàng trung ương hoặc các hội sở chính sẽ thực hiện việc điều phối
chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu trên cơ sở hai bên cùng có lợi.
Chính vì thế, đây có thể coi là một nguồn vốn khá quan trọng, nó giúp
Ngân hàng có thể mở rộng được thị trường đầu ra trong điều kiện thị trường
đầu vào vẫn còn bị hạn chế và qua đó làm tăng lợi nhuận của Ngân hàng.
4) Nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng :
+ Nguồn vốn vay Ngân hàng nhà nước:
NHTM thực hiện việc vay tiền của Ngân hàng Nhà nước thông qua hình
thức chiết khấu các giấy tờ có giá. Khi Ngân hàng có nhu cầu rút tiền mặt của
khách hàng, họ có thể mang các giấy tờ có giá như : tín phiếu, trái phiếu kho
bạc Nhà nước, tiền triết khấu. Nguồn vốn này hình thành chủ yếu là để đảm
bảo kảh năng thanh toán của Ngân hàng.
+ Nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng quốc tế :
Đây là loại vốn vay chiếm tỷ trọng không lớn ở nhữn nước đang phát
triển, bởi vì ở các nước này Ngân hàng muốn có được vốn ở nguồn này phải
được phép của Ngân hàng Nhà nước và thường dưới hình thức vay theo hiệp
định.
5) Nguồn vốn huy động:
Đây là nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất để Ngân hàng có thể hoạt
động để cho vay. Đây là số tiền Ngân hàng nhận được dưới nhiều hình thức
khác nhau.