Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

thực trạng tuân thủ điều trị methadone của người nghiện tại tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (825.66 KB, 61 trang )

BỘYTẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

THỰC TRẠNG TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ METHADONE CỦA
NGƯỜI NGHIỆN TẠI TỈNH TUYÊN QUANG

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

NAM ĐỊNH - 2020


BỘYTẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH

NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG

THỰC TRẠNG TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ METHADONE CỦA
NGƯỜI NGHIỆN TẠI TỈNH TUYÊN QUANG

Chuyên ngành: Điều dưỡng Nội người lớn

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS. VŨ THỊ LÀ

NAM ĐỊNH - 2020


i


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau đại học
trường Đại học Điều dưỡng Nam Định đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ
em trong quá trình học tập, nghiên cứu để em có thể hồn thành chun đề này.

Tơi xin chân thành cảm ơn toàn thể cán bộ thuộc 02 Phòng khám ngoại
trú điều trị thay thế Methadone tại thành phố Tuyên Quang và huyện Sơn
Dương đã tận tình giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề.

Với tất cả sự kính trọng và biết ơn sâu sắc của người học trò, em
xin bày tỏ lòng biết ơn tới ThS. Vũ Thị Là người Cơ kính mến đã dạy dỗ,
tận tình chỉ bảo, định hướng và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Và cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với Ban lãnh đạo bệnh
viện Thanh Nhàn, gia đình, bạn bè đã ln bên cạnh dành cho em mọi sự động viên,
khích lệ và hỗ trợ để em vượt qua mọi khó khăn trong quá trình học tập, nghiên cứu.

Nam Định, ngày 15 tháng 01 năm 2021

Học viên

Nguyễn Thị Thu Hương


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của bản thân Tôi.
Các số liệu, kết quả trong chuyên đề này là trung thực và chưa ai cơng
bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Nếu có sai sót tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Nam Định, ngày 15 tháng 01 năm 2021


Người cam đoan

Nguyễn Thị Thu Hương


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN

iv

LỜI CAM ĐOAN

ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

iii

DANH MỤC BẢNG

iv

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

v

ĐẶT VẤN ĐỀ

1


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN

3

1.1. Cơ sở lý luận

3

1.1.1 Một số khái niệm

3

1.1.2. Điều trị thay thế nghiện chất dạng thuốc phiện bằng Methadone

4

1.1.2.1. Đặc điểm hóa dược và tác động sinh lý của Methadone

4

1.1.2.2. Chương trình điều trị thay thế CDTP bằng Methadone tại Việt Nam 5
1.1.2.3. Theo dõi quá trình điều trị

6

1.1.2.4. Hiệu quả điều trị thay thế CDTP bằng Methadone trên thế giới

7


1.1.2.5. Hiệu quả điều trị thay thế CDTP bằng Methadone tại Việt nam

8

1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình sử dụng ma túy ở thế giới và Việt Nam
1.2.1.1 Tình hình thế giới
1.2.1.2 Tình hình Việt Nam
1.2.2. Thực trạng tuân thủ điều trị Methadone

9
9
9
10
10

1.2.2.1. Đo lường thực trạng tuân thủ điều trị thay thế CDTP bằng Methadone
1.2.2.2. Thực trạng tuân thủ điều trị thay thế CDTP bằng Methadone

10
12

1.2.2.3. Một số yếu tố liên quan tới tuân thủ điều trị thay thế bằng Methadone
CHƯƠNG 2: MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT

14
16

2.1. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang


16

2.1.1 Tình hình sử dụng ma túy tại tỉnh Tuyên Quang
2.1.2. Tình hình điều trị thay thế bằng Methadone tại tỉnh Tuyên Quang

16
16


2.2. Quy trình thu thập số liệu
2.2.1. Cơng cụ thu thập số liệu
2.2.2. Quy trình thu thập số liệu

17
17
19

2.3 Thực trạng tuân thủ điều trị methadone của người nghiện tại tỉnh Tuyên Quang

năm 2020
2.3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu

20
20

2.3.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu

20

2.3.1.2. Đặc điểm sử dụng chất gây nghiện


22

2.3.1.3. Đặc điểm điều trị Methadone

24

2.3.1.4. Tình trạng sức khỏe

24

2.3.1.5. Hành vi nguy cơ khác của đối tượng

25

2.3.1.6. Biện pháp hỗ trợ tuân thủ điều trị

26

2.3.2. Thực trạng tuân thủ điều trị thay thế CDTP bằng Methadone
CHƯƠNG 3: BÀN LUẬN

27
30

3.1. Thực trạng tuân thủ điều trị

30

3.2. Giải pháp để giải quyết/khắc phục vấn đề


32

CHƯƠNG 4: KẾT LUẬN

34

4.1. Thực trạng tuân thủ điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone

của các bệnh nhân tại 2 phòng khám ngoại trú tỉnh Tuyên Quang.:

34

4.2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao việc tuân thủ điều trị methadone của người

nghiện tại tỉnh Tuyên Quang.
KHUYẾN NGHỊ

34
36

TÀI LIỆU THAM KHẢO

37

PHỤ LỤC I

44

PHỤ LỤC II


51

PHỤ LỤC III

52


iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BKT

Bơm kim tiêm

CDTP

Chất dạng thuốc phiện

HIV/ AIDS

Human Immunodeficiency Virus/ Acquired Immune Deficiency

Syndrome
(Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người)
MMT

Methadone Maintenance Therapy
(Điều trị thay thế bằng Methadone)

NCMT


Nghiện chích ma túy

QHTD

Quan hệ tình dục

SD

Standard deviation (Độ lệch chuẩn)

TB

Trung bình


iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu

19

Bảng 3.2: Tiền sử sử dụng chất gây nghiện của đối tượng nghiên cứu

21

Bảng 3.3: Tiền sử tiêm chích ma túy của đối tượng nghiên cứu

21


Bảng 3.4: Tiền sử cai nghiện của đối tượng nghiên cứu

22

Bảng 3.5: Đặc điểm điều trị thay thế CDTP bằng Methadone

23

Bảng 3.6: Tình trạng chất lượng cuộc sống của đối tượng nghiên cứu

23

Bảng 3.7: Tình trạng nhiễm HIV/AIDS của đối tượng nghiên cứu

24

Bảng 3.8: Đặc điểm các hành vi sức khỏe của đối tượng nghiên cứu

24

Bảng 3.9: Thực trạng nhận hỗ trợ từ bạn bè của đối tượng nghiên cứu

25

Bảng 3.10: Thực trạng không tuân thủ điều trị thay thế CDTP

26

Bảng 3.11: Tỷ lệ tuân thủ điều trị thay thế CDTP bằng Methadone theo các phương


pháp đo lường khác nhau

27


v
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Các biện pháp hỗ trợ tuân thủ điều trị được sử dụng của đối tượng nghiên

cứu

25


1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Điều trị thay thế chất dạng thuốc phiện (CDTP) bằng Methadone là một
trong những phương pháp điều trị bằng thuốc cho những người lệ thuộc
CDTP, đặc biệt là bạch phiến (Heroin). Điều trị nghiện CDTP giúp người bệnh
phục hồi chức năng tâm lý, xã hội, lao động và tái hòa nhập cộng đồng [1].
Nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy, điều trị thay thế
nghiện CDTP bằng Methadone là một phương pháp “tiêu chuẩn vàng” đối với
người nghiện Heroin, giúp người nghiện dần từ bỏ Heroin, phục hồi sức khỏe
và các chức năng xã hội [2], [3], từ đó làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV [4, 5].
Điều trị nghiện CDTP bằng Methadone bắt đầu được thí điểm tại Việt Nam
năm 2008 tại Hải Phịng và thành phố Hồ Chí Minh. Đến nay, dịch vụ này đã nhanh
chóng được mở rộng quy mơ tại Việt Nam, giúp giảm tỷ lệ người nghiện chích ma
túy và tỷ lệ người nhiễm mới HIV. Tính tới tháng 3/2019, mơ hình điều trị CDTP
bằng Methadone đã được triển khai trên toàn quốc (63/63 tỉnh thành phố), cung

cấp dịch vụ cho hơn 51.300 người nghiện ma túy, đạt 63,3% kế hoạch đề ra [6].
Tuân thủ điều trị thay thế CDTP bằng Methadone là yếu tố tiên quyết đảm bảo
cho sự thành cơng của chương trình, bởi thực tế cho thấy khi bệnh nhân không tuân
thủ điều trị, không đến uống thuốc hàng ngày sẽ có nguy cơ tái sử dụng lại CDTP và
tham gia vào các hoạt động phạm pháp [7]. Tỷ lệ không tuân thủ điều trị và bỏ điều trị
trong nhóm bệnh nhân điều trị Methadone có sự khác nhau theo từng quốc gia và
từng địa phương. Tỷ lệ bỏ điều trị giảm dần theo thời gian và thấp hơn nhiều so với
các quốc gia khác trên thế giới [8]. Tại Mỹ và Canada, tỷ lệ bệnh nhân không tuân thủ
tương ứng là 17% và 15,5% [9, 10]. Trong khi đó, tỷ lệ này ở một số nước Châu Âu
như Pháp và Anh được ghi nhận tương ứng lên tới 65.2% và 42% [11, 12]. Tại Trung
Quốc, tỷ lệ bệnh nhân không tuân thủ giao động từ 36,3% đến 88,2% [13, 14].
Tuyên Quang bắt đầu triển khai cơ sở điều trị thay thế CDTP bằng Methadone
đầu tiên vào tháng 12 năm 2016. Tính tới năm 2019, trên tồn tỉnh có 3 cơ sở điều trị
tại thành phố Tuyên Quang, huyện Sơn Dương và huyện Yên Sơn với hơn 300 bệnh
nhân đang được điều trị. Với đặc điểm của một tỉnh miền núi, Tuyên Quang cũng có
những yếu tố cản trở làm ảnh hưởng tới việc điều trị thay thế CDTP bằng Methadone.
Người dân miền núi thường khó khăn trong đi lại, tiếp cận các dịch vụ y tế; trong khi


2
đó, điều trị Methadone có tính đặc thù địi hỏi việc đến cơ sở y tế hàng ngày để
uống thuốc; chính điều này là một trở ngại có thể gián tiếp làm ảnh hưởng tới
hiệu quả điều trị do không tuân thủ điều trị vì vậy các nghiên cứu tại vùng miền
núi đến nay vẫn còn hạn chế. Việc đánh giá mức độ tuân thủ điều trị Methadone
sau một thời gian triển khai hoạt động trên địa bàn là cần thiết nhằm cung cấp
bằng chứng và định hướng cho các nhà lập kế hoạch tại Tuyên Quang. Mặc dù có
nhiều nghiên cứu tại Việt Nam về vấn đề này, tuy nhiên hầu hết được thực hiện ở
đồng bằng, nghiên cứu này phần nào giúp vẽ lên bức tranh toàn diện về tình hình
tuân thù điều trị thay thế CDTP bằng Methadone tại các vùng miền ở Việt Nam.
Mặt khác, nghiên cứu cũng giúp các cơ sở cung cấp dịch vụ có những điều chỉnh

kịp thời nhằm tăng tính tn thủ của bệnh nhân và từ đó tăng cường hiệu quả
điều trị. Chính vì vậy chúng tơi thực hiện chun đề “Thực trạng tuân thủ điều trị
Methadone của người nghiện tại tỉnh Tuyên Quang” với 2 mục tiêu sau:

1. Mô tả thực trạng tuân thủ điều trị methadone của người nghiện
tại tỉnh Tuyên Quang năm 2020
2. Đề xuất một số giải pháp nâng cao việc tuân thủ điều trị
methadone của người nghiện tại tỉnh Tuyên Quang


3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm
Chất ma túy: Theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
phòng, chống ma túy số 16/2008/QH12 của Quốc hội ban hành ngành
03/06/2008, “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được
quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành” [15].
Chất gây nghiện (CGN): là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh,
dễ gây tình trạng nghiện đối với người sử dụng.
Chất dạng thuốc phiện: CDTP (opiats, opioid) là tên gọi chung cho nhiều
chất như thuốc phiện, Morphine, Heroin, Methadone, Buprenorphine, Pethidine,
Fentanyle là những CGN mạnh (gây khối cảm mạnh), có biểu hiện lâm sàng
tương tự và tác động vào cùng điểm tiếp nhận tương tự ở não [1, 16].

Nghiện ma túy: Theo tổ chức Y tế Thế giới, nghiện ma tuý là tình trạng
lệ thuộc về mặt tâm thần hoặc thể chất hoặc cả hai, khi một người sử dụng ma
túy lặp đi lặp lại theo chu kỳ hoặc dùng kéo dài liên tục một thứ ma túy và tình
trạng lệ thuộc này làm thay đổi cách cư xử, bắt buộc đương sự luôn cảm thấy
sự bức bách phải dùng ma túy để có được những hiệu ứng về mặt tâm thần

của ma túy và thốt khỏi sự khó chịu, vật vã do thiếu ma túy [17, 18].
Methadone: Methadone là một CDTP tổng hợp, có tác dụng dược lý tương
tự như các CDTP khác, nhưng không gây nhiễm độc hệ thần kinh trung ương và
khơng gây khối cảm ở liều điều trị, có thời gian bán hủy dài (trung bình là 24 giờ)
nên chỉ cần sử dụng 1 lần trong ngày là đủ để khơng xuất hiện hội chứng cai.
Methadone có độ dung nạp ổn định nên ít phải tăng liều khi điều trị lâu dài [1].
Điều trị thay thế bằng Methadone (Methadone Maintenance Therapy - MMT):
Điều trị thay thế nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone là một điều trị lâu dài, có
kiểm sốt, giá thành rẻ, được sử dụng theo đường uống nên giúp dự phòng các bệnh
lây truyền qua đường máu như HIV, viêm gan B, viêm gan C, đồng thời giúp người
bệnh phục hồi chức năng tâm lý, xã hội, lao động và tái hoà nhập cộng đồng [1].


4
1.1.2. Điều trị thay thế nghiện chất dạng thuốc phiện bằng Methadone

1.1.2.1. Đặc điểm hóa dược và tác động sinh lý của Methadone
1.1.2.1.1. Đặc điểm hóa dược của Methadone
Methadone là 1 loại thuốc á phiện tổng hợp (Synthetic opiate) có
tác dụng lâu hơn bạch phiến, làm giảm bớt cơn thèm và triệu chứng vã
thuốc, được sản xuất đầu tiên với mục đích làm thuốc giảm đau trong
chiến tranh thế giới thứ II. Methadone là một chất đồng vận với các chất
dạng thuốc phiện như Morphine, Heroin nhưng có thời gian bán hủy
chậm hơn và do dó có tác dụng kéo dài hơn đối với người bệnh [26].
Methadone có thể tan trong mỡ và gắn vào các mô trong cơ thể bao gồm phổi,
gan, thận, lách, do đó nồng độ Methadone tại các mô này cao hơn hẳn nồng độ
Methadone trong máu. Vì vậy, Methadone sau đó được vận chuyển chậm từ các cơ
quan này vào trong máu, Methadone sử dụng đường uống có sinh khả dụng cao và
thời gian bán hủy dài, có thể sử dụng liều uống hàng ngày để điều trị.


Methadone được chuyển hóa chủ yếu tại gan qua hệ thống men
Cytochrome P450. Khoảng 10% liều Methadone uống được đào thải ra khỏi
cơ thể dưới dạng không đổi. Phần cịn lại được chuyển hóa và các sản
phẩm chuyển hóa (hầu hết khơng có tác động) được thải trừ qua nước tiểu
và phân. Methadone cũng được bài tiết qua mồ hôi và nước bọt.

1.1.2.1.2. Tác động sinh lý của Methadone
Các tác dụng của Methadone bao gồm: giảm đau, êm dịu, ức chế hô hấp và phê
sướng. Mức độ phê sướng khi sử dụng Methadone bằng đường uống ít hơn so với
tiêm chích Heroin [27]. Ngồi ra, Methadone cũng gây ra các tác dụng khác như: hạ
huyết áp, co đồng tử (thu hẹp đồng tử), giảm ho và giải phóng Histamin gây ngứa da.
Các tác động lên hệ tiêu hóa bao gồm: giảm co bóp dạ dày, giảm nhu động ruột, tăng
co thắt cơ trịn mơn vị, tăng co thắt cơ Oddi, có thể gây co thắt đường mật. Tác động
trên hệ nội tiết bao gồm làm giảm Hormone kích thích nang trứng (FSH) và giảm
Hormone kích thích hồng thể (LH), tăng Prolactin, giảm Hormone kích thích thượng
thận (ACTH), giảm Testosterone, tăng Hormone chống lợi niệu (ADH). Các chức năng
nội tiết có thể trở lại bình thường sau 2-10 tháng sử dụng Methadone [27].


5
Các tác dụng ngoại ý của Methadone thường được kể đến là: rối loạn giấc ngủ,
nôn và buồn nôn, táo bón, khơ miệng, tăng tiết mồ hơi, giãn mạch và ngứa, rối loạn
kinh nguyệt ở phụ nữ, chứng vú to ở nam giới, suy giảm tình dục bao cả gồm liệt
dương, giữ nước và tăng cân [28]. Nghiên cứu của Brown và cộng sự (2005) trên 92
người bệnh MMT cho thấy, 14% người bệnh có dấu hiệu của rối loạn tình dục, đặc biệt
có mối quan hệ tỷ lệ thuận với liều dùng và mức độ rối loạn các cơ quan trong cơ thể
[29]. Nghiên cứu của Rhodin và cộng sự (2006) theo dõi 60 người bệnh MMT trong 8
năm ghi nhận các phản ứng phụ bao gồm buồn nôn và rối loạn nhịp tim [30].

Khi điều trị ở liều ổn định, độ dung nạp tăng dần cho đến khi kỹ năng

nhận thức và khả năng chú ý khơng cịn bị ảnh hưởng. Triệu chứng táo bón,
suy giảm tình dục, và đơi khi tăng tiết mồ hơi có thể vẫn tiếp tục gây khó chịu
cho người bệnh trong suốt quá trình MMT. Hầu hết người đã sử dụng Heroin
đều xuất hiện một số tác dụng ngoài ý muốn khi sử dụng Methadone.
1.1.2.2. Chương trình điều trị thay thế CDTP bằng Methadone tại Việt Nam Trước
năm 2008, cai nghiện tập trung là mơ hình được áp dụng chủ yếu tại

Việt Nam. Tuy nhiên, bản chất nghiện là bệnh lý mạn tính nên cắt cơn đơn
thuần thường có tỷ lệ tái nghiện cao trên 90% [31]. Bên cạnh đó, hình thức cai
nghiện tự nguyện tại cộng đồng mặc dù cho thấy có hiệu quả nhưng chưa có
cơ chế đầu tư phù hợp nên khó nhân rộng [32]. Mơ hình MMT hiện là mơ hình
cai nghiện tại cộng đồng đang được quan tâm và chú trọng nhất.
Theo Khoản 1 Điều 7 Nghị định số 96/ 2012/ NĐ-CP, ở Việt Nam, chỉ
những bác sĩ được đào tạo cấp chứng chỉ mới có quyền kê đơn tại các cơ sở
điều trị được cấp phép của Sở Y tế địa phương. Cũng theo nghị định này, đối
tượng được đăng kí tham gia MMT phải đáp ứng được các tiêu chí sau [33]:

– Là người nghiện CDTP.
– Có nơi cư trú rõ ràng.
– Tự nguyện tham gia điều trị nghiện CDTP và cam kết nghiện CDTP. Đối với
người nghiện CDTP chưa đủ 16 tuổi, chỉ được điều trị nghiện CDTP khi có sự đồng

ý bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp của người đó.

– Khơng thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc theo quy định của pháp luật.


6
Tại Việt Nam, MMT lần đầu tiên được thí điểm vào năm 2008 tại hai thành phố

lớn là Hải Phòng và Hồ Chí Minh, chương trình cho thấy những hiệu quả thực sự [7]
và được chấp thuận nhân rộng nhanh chóng trên cả nước (từ 1735 người bệnh với 6
cơ sở điều trị năm 2016 nhân rộng ra 57/61 tỉnh thành trên cả nước, cung cấp dịch vụ
cho hơn 44 nghìn người bệnh tính đến đầu năm 2019 [34]. Với khoảng 200 nghìn
người nghiện ma túy, chính phủ Việt Nam đã lên kế hoạch hành động nhằm tăng số
người nghiện ma túy được tiếp cận với MMT lên tới 80 nghìn vào năm 2018

[34] [35-37]. Tính tới tháng 3/2019, mơ hình điều trị CDTP bằng Methadone
đã được triển khai trên toàn quốc (63/63 tỉnh thành phố), cung cấp dịch vụ
cho hơn 51.300 người nghiện ma túy, đạt 63,3% kế hoạch đề ra [6].

1.1.2.3. Theo dõi quá trình điều trị
Quy trình theo dõi quá trình điều trị được thực hiện như sau [28]:
a. Theo dõi lâm sàng
Các theo dõi lâm sàng cần thực hiện trong quá trình điều trị thay thế bằng

Methadone như:
– Các hành vi nguy cơ cao tiếp diễn trong quá trình điều trị: tiếp tục
sử dụng CDTP và các chất gây nghiện khác.
– Các dấu hiệu của hội chứng cai, dấu hiệu ngộ độc và quá liều.
– Tiến triển của các bệnh cơ thể kèm theo: điều trị HIV/AIDS bằng
thuốc ARV, điều trị lao, điều trị nấm, điều trị viêm gan.
– Các rối loạn tâm thần: chú ý vấn đề trầm cảm và tự sát.
– Các tình trạng bệnh lý khác.
– Mức độ phục hồi các chức năng lao động, tâm lý và xã hội.
b. Xét nghiệm nước tiểu
Việc xét nghiệm nước tiểu là cần thiết, nhằm xác định người bệnh
có sử dụng CDTP; phục vụ cho chẩn đốn, đánh giá và điều chỉnh liều
Methadone thích hợp; góp phần đánh giá hiệu quả điều trị.
Các nguyên tắc xét nghiệm nước tiểu là:

– Đảm bảo người bệnh không biết trước.
– Lấy nước tiểu dưới sự giám sát của nhân viên y tế.
– Khơng sử dụng loại sinh phẩm có phản ứng chéo với Methadone.


7
– Xét nghiệm nước tiểu được thực hiện khi nghi ngờ người bệnh tái
sử dụng chất gây nghiện (CDTP, Benzodiazepine, Barbiturate...).
Trong năm đầu của điều trị, tần suất xét nghiệm tùy thuộc vào chỉ
định của bác sỹ, nhưng không nên xét nghiệm ít hơn 1 lần/tháng. Từ
năm thứ hai trở đi tiến hành làm xét nghiệm nước tiểu khi có chỉ định.
Khi kết quả xét nghiệm nước tiểu cho thấy có chất gây nghiện,
cần có các bước xử trí như sau:
– Xem lại liều Methadone đang điều trị và điều chỉnh liều nếu cần thiết.

– Tăng cường tư vấn và áp dụng các liệu pháp tâm lý thích hợp.
– Trong giai đoạn điều trị duy trì, khi đã được chỉ định liều Methadone thích
hợp và áp dụng các biện pháp tư vấn mà người bệnh vẫn tiếp tục sử dụng CDTP
(kết quả xét nghiệm nước tiểu vẫn dương tính 3 lần liên tiếp trở lên), cơ sở điều
trị cần hội chẩn để xem xét việc có tiếp tục điều trị nữa hay không.

1.1.2.4. Hiệu quả điều trị thay thế CDTP bằng Methadone trên thế giới
Điều trị thay thế nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone đã được
triển khai ở rất nhiều nước trên thế giới cho những kết quả nhất định.
Tại Canada, Pam Francis và cộng sự tiến hành nghiên cứu đánh giá một số kết
quả điều trị Methadone cho kết quả có 80% bệnh nhân khơng sử dụng ma túy hoặc
rượu tại thời điểm đánh giá; 95,5% bệnh nhân tự nhận thấy hành vi nguy cơ cao của
bản thân giảm đáng kể từ lúc tham gia chương trình điều trị Methadone, 84,1% bệnh
nhân báo cáo rằng điều kiện nhà ở của họ đã được cải thiện, 61,4% bệnh nhân báo
cáo rằng tình trạng việc làm có sự cải thiện đáng kể, 81,2% bệnh nhân báo cáo đã hỗ

trợ, giúp đỡ gia đình nhiều hơn kể từ khi tham gia điều trị Methadone. Ngồi ra có
84,1% bệnh nhân cho rằng hành vi phạm tội của họ giảm đáng kể, chỉ có 2,5% bệnh
nhân đã vi phạm pháp luật kể từ khi tham gia điều trị Methadone [38].

Lars Moller và cộng sự tiến hành nghiên cứu trên 701 bệnh nhân chiếm
96,2% bệnh nhân đang được điều trị tại tất cả các cơ sở cấp phát Methadone
của Kyrgyzstan. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân có việc làm tăng
lên 15% trong quá trình điều trị và tỷ lệ bệnh nhân hài lòng về sức khỏe tăng
từ 0% trước điều trị lên 78,2% trong khi điều trị. Hành vi phạm tội và sử dụng
heroin cũng giảm đáng kể so với trước quá trình điều trị [39].


8
Nghiên cứu của Guohong Chen và Takeo Fujiwara tiến hành tại tỉnh Giang Tô,
Trung Quốc cho thấy, sau 1 năm điều trị tỷ lệ tiêm chích Heroin trước điều trị là 89,4 %
đã giảm xuống còn 14,1% (p<0,01), tỷ lệ bệnh nhân có hành vi vi phạm pháp luật từ
19,1% giảm xuống còn 3,1% (p<0,01), hành vi chống đối xã hội, bao gồm cả hành vi
trộm cắp, mại dâm, và kinh doanh Heroin giảm sau khi điều trị (p<0,05). Không có
trường hợp nào nhiễm mới HIV sau 1 năm điều trị Methadone [40].

Cũng tại Giang Tô, Trung Quốc, Feng Su-qing và cộng sự nghiên cứu cho
thấy, sau khi được điều trị Methadone, tỷ lệ tiêm chích ma túy (TCMT) đã giảm từ
73,0% xuống còn 16,7%. Kết quả cho thấy chương trình điều trị Methadone góp
phần thay đổi các hành vi liên quan đến TCMT, giảm thiểu số lần liên lạc với bạn
nghiện. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy các bệnh nhân này cần cải thiện
nhận thức của bản thân, hợp tác điều trị và cần được sự hỗ trợ của cộng đồng
nhiều hơn nhằm nâng cao hiệu quả của chương trình điều trị Methadone [41].

1.1.2.5. Hiệu quả điều trị thay thế CDTP bằng Methadone tại Việt nam


Một số nghiên cứu tiến hành tại Việt Nam cho thấy chương trình
MMT đã mang lại những kết quả tích cực.
Nghiên cứu của Hồng Đình Cảnh và các cộng sự trên 965 bệnh nhân tại 2
thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phịng năm 2011. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
bệnh nhân giảm sử dụng ma túy (tỷ lệ dương tính với ma tuý khi xét nghiệm nước
tiểu giảm mạnh từ 98,2% trước khi điều trị xuống 15,5% sau 12 tháng và 12,4%
sau 24 tháng; tỷ lệ TCMT giảm mạnh từ 92,7% xuống 7,5% sau 12 tháng điều trị và
6,7% sau 24 tháng); tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS giữ nguyên ở mức 28,4%; có việc làm
tăng lên thêm 9,0% - 11,9%, có vấn đề sức khoẻ tâm thần giảm tương ứng là
36,9% và 34,8% (sử dụng thang do mức độ trầm cảm Kessler). Đây là một trong
những nghiên cứu tiên phong về chương trình điều trị Methadone [42].
Nghiên cứu của Nghiêm Lê Phương Hoa nhằm bước đầu tìm hiểu hiệu quả
điều trị thay thế nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone và những khó khăn của
bệnh nhân trong quá trình tiếp cận và điều trị trên 112 bệnh nhân. Kết quả cho thấy tần
suất sử dụng ma túy trong 2 tuần đầu dò liều giảm 2 lần so với trước điều trị; 52,2%
bệnh nhân thất nghiệp trước điều trị đã có việc làm sau 3 tháng điều trị; 78,9% bệnh
nhân có nguy cơ về sức khỏe tâm thần trước điều trị đã khơng cịn nguy cơ sau


9
3 tháng điều trị. Tìm hiểu một số khó khăn của bệnh nhân cho thấy
bệnh nhân ngại tiếp cận với cơ sở điều trị vì phải thơng qua cơng an, lo
lắng vì sẽ bị ngừng điều trị nếu quay lại trại giam [22].
Phạm Thị Đào nghiên cứu trên 220 bệnh nhân điều trị MMT cho
thấy, tỷ lệ bệnh nhân sử dụng Heroin giảm còn 14,5% sau 9 tháng điều
trị. Nghiên cứu không phát hiện trường hợp nhiễm HIV mới, tỷ lệ thất
nghiệp giảm từ 60% xuống còn 15,4% [43].
Nghiên cứu của Bùi Thị Nga, Nguyễn Anh Quang và Nguyễn Thanh
Long thực hiện vào năm 2012 trên 400 người TCMT, nhằm mơ tả kết quả của
chương trình điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone nhằm can thiệp

dự phòng lây nhiễm HIV trên nhóm TCMT tại Thành phố Hà Nội. Kết quả cho
thấy tần suất sử dụng Heroin hàng ngày của bệnh nhân giảm rõ rệt: trước
điều trị 1,24 lần/ngày; giai đoạn dò liều 1,07 lần/ngày sau 7 ngày, 0,33 lần/ngày
sau 30 ngày và sau 3 tháng điều trị là 0,08 lần/ngày [44].
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Hải thực hiện vào năm 2013 nhằm đánh giá
hiệu quả điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone tại tỉnh Hải Dương từ
năm 2010 đến 2013 trên 699 bệnh nhân. Kết quả cho thấy sau điều trị chỉ phát hiện
4 trường hợp nhiễm HIV mới; chỉ cịn 9,2% bệnh nhân dương tính với Heroin sau
12 tháng điều trị; tỷ lệ bệnh nhân sử dụng ma túy đá giảm từ 6,2% xuống 1,9% sau
12 tháng; 98,6% bệnh nhân chấp nhận đóng phí điều trị Methadone [45].

1.2 Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình sử dụng ma túy ở thế giới và Việt Nam
1.2.1.1 Tình hình thế giới
Hiện nay, ước tính có từ 167 đến 315 triệu người nghiện ma túy trên thế giới và
con số này đang có chiều hướng ổn định trong thời gian gần đây [19]. Tại Châu Á, do
dân số rất cao nên dù tỷ lệ người nghiện ma túy ở đây không cao, số lượng người
nghiện ma túy vẫn chiếm tới hơn 40% số người nghiện toàn thế giới [19]. Theo báo
cáo của tổ chức Phòng chống ma túy và tội phạm Liên Hợp Quốc, vùng Đơng và Đơng
Nam Á có tỷ lệ người nghiện chích ma túy (NCMT) lớn nhất thế giới với 27% tổng số
người nghiện. Tiếp đó là những nước thuộc vùng Đông và Đông Nam châu Âu (chiếm
21% tổng số người nghiện chích tồn thế giới, chiếm 1,3% số người trong


10
độ tuổi từ 15-64 của vùng) [19]. Trung Quốc, Liên bang Nga và Hoa Kỳ là
những nước có số lượng người NCMT lớn nhất (chiếm 46% tổng số
người nghiện ma túy) [19].
Tại châu Phi, các báo cáo cho thấy, sử dụng các chất nghiện dạng thuốc
phiện đang có xu hướng tăng lên đáng kể trong thời gian gần đây. Ở Senegal, một

nghiên cứu năm 2011 chỉ ra số lượng người sử dụng Heroin có giảm đi, nhưng
mức tiêu thụ ma túy tổng hợp lại tăng lên [20]. Tại Seychelles, Heroin và cần sa là
những CGN phổ biến nhất mà đối tượng NCMT sử dụng [21]. Trong khi đó, ở
Châu Mỹ, các CGN chủ yếu là cần sa và Cocaine. Số lượng người sử dụng ma túy
đang có xu hướng ổn định và ở mức cao tại Hoa Kỳ. Ước tính có khoảng 14,9%
(năm 2011) số người từ 12 tuổi trở lên có sử dụng những CDTP [22]. Ngược lại, số
liệu của Canada lại cho thấy, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên ở nước này sử dụng
cần sa đã giảm từ 10,7% năm 2010 xuống 9,1% năm 2011 [19].

1.2.1.2 Tình hình Việt Nam
Nghiện ma túy tại Việt Nam vẫn đang diễn biến phức tạp với chiều hướng
ngày càng gia tăng. Nếu như năm 1994 có số người NCMT là 55.445 người, đến
năm 1996 số người nghiện là 69.195 người, thì tính đến 30/12/ 2013, cả nước có
trên 180.000 người nghiện ma túy. Số người nghiện đang ở cộng đồng chiếm tỷ lệ
64,5%; số người đang cai nghiện trong các cơ sở Chữa bệnh, Giáo dục, Lao động
xã hội là 22,4%; còn lại là số đang trong các trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ
chiếm 13,1% [23, 24]. Heroin vẫn là CGN được dùng chủ yếu chiếm ¾ số loại CGN
được sử dụng thông dụng; ma túy tổng hợp chỉ chiếm 1/10; còn lại là các loại
như: thuốc phiện 7%; cần sa 1,7%; loại khác 6,3% [25].

1.2.2. Thực trạng tuân thủ điều trị Methadone
1.2.2.1. Đo lường thực trạng tuân thủ điều trị thay thế CDTP bằng Methadone

1.2.2.1.1 Trên thế giới
Trên thế giới, sự tuân thủ của bệnh nhân điều trị thay thế CDTP bằng
Methadone được đo lường bằng nhiều phương pháp khác nhau. Phần lớn các nghiên
cứu đều đo lường số ngày bệnh nhân không uống thuốc như là chỉ báo chính cho tình
trạng khơng tn thủ. Nghiên cứu của Wong và cộng sự (2003) tại Hồng Kong sử
dụng “số ngày đến uống thuốc trong tuần”, nếu bệnh nhân không đến từ 2 ngày trở



11
lên được coi là không tuân thủ điều trị [46]. Một nghiên cứu khác do Shen và cộng
sự tại Trung Quốc cũng áp dụng số ngày không đến điều trị. Cụ thể, bệnh nhân
được coi là không tuân thủ khi số lượng ngày không đến điều trị lớn hơn 180
ngày/365 ngày [14]. Nghiên cứu của Haskew tại Anh sử dụng tiêu chí “khơng điều
trị 3 ngày liên tiếp” là tiêu chí đánh giá tình trạng khơng tn thủ của bệnh nhân
[11]. Trong khi đó, nghiên cứu của Zhou và cộng sự tại Trung Quốc sử dụng tiêu
chuẩn “không điều trị 7 ngày liên tiếp” để đánh giá không tuân thủ [13].
Ngồi phương pháp ghi nhận số ngày khơng điều trị, một số tác giả sử dụng
phương pháp đánh giá dựa trên sự tự khai báo của bệnh nhân thông qua thang đo
trực quan (visual analogue scale - VAS). VAS là thang đo có khoảng điểm từ 0 đến 100,
trong đó 0 điểm là hồn tồn khơng tn thủ và 100 điểm là hoàn toàn tuân thủ. Thang
đo VAS đã được ứng dụng rộng rãi trong việc đo lường tuân thủ điều trị trong một số
nhóm đối tượng như bệnh nhân nhiễm HIV [47, 48], bệnh nhân điều trị tim mạch [49]
hay bệnh viêm ruột [50]. Thang đo VAS được đánh giá là một trong những công cụ
tiện dụng, đơn giản, khơng tốn kém, khơng tốn thời gian và có tính giá trị có thể chấp
nhận cho việc đánh giá tuân thủ điều trị [48]. Đối với các bệnh nhân đang điều trị
những bệnh cần tuân thủ điều trị tuyệt đối như HIV, ngưỡng VAS lớn hơn 95 được coi
là tuân thủ tối ưu [48]. Đối với bệnh nhân điều trị Methadone, Zhou và cộng sự, bên
cạnh việc sử dụng tiêu chuẩn số ngày không đến điều trị, sử dụng thang đo VAS để
bệnh nhân tự đánh giá % mức độ tuân thủ, nếu bệnh nhân nhận mức độ tuân thủ từ
90 điểm trở lên thì được coi là tuân thủ điều trị [13].

1.2.2.1.2. Việt Nam
Hướng dẫn điều trị thay thế nghiện các CDTP bằng Methadone (Ban hành
kèm theo Quyết định số 3140/QĐ-BYT ngày 30 tháng 8 năm 2010 của Bộ trưởng
Bộ Y tế) đưa ra nguyên tắc khi tham gia vào chương trình điều trị MMT [51]:

– Việc điều trị phải đúng chỉ định, đúng liều lượng, đúng quy trình

để đảm bảo an toàn và hiệu quả tối đa cho người bệnh.
– Phải tư vấn cho người bệnh về điều trị thay thế nghiện các CDTP
bằng thuốc Methadone trước, trong và sau điều trị.
– Người bệnh phải đến cơ sở điều trị để uống thuốc Methadone
hàng ngày dưới sự giám sát trực tiếp của nhân viên y tế.
– Hàng tuần cơ sở điều trị phải thảo luận, đánh giá những bệnh nhân chưa ổn


12
định hoặc có diễn biến đặc biệt.
Như vậy, việc thực hiện đúng nguyên tắc MMT như điều trị đúng quy định,
đúng liều, đúng quy trình, tới cơ sở điều trị uống thuốc hàng ngày dưới sự giám
sát của nhân viên y tế được xem là tuân thủ điều trị. Một số nghiên cứu của
Hồng Đình Cảnh [52], của Trần Vũ Hồng [53] và của Lê Nhân Tuấn sử dụng tiêu
chí về số ngày bỏ điều trị liên tục làm căn cứ đánh giá tình trạng khơng tn thủ.
Tuy nhiên, cho tới nay, chưa có tiêu chuẩn cụ thể cho việc đánh giá mức độ tuân
thủ điều trị mà chỉ dựa trên nội dung quyết định số 3140/QĐ-BYT ban hành ngày
30 tháng 8 năm 2010 về hướng dẫn điều trị thay thế nghiện CDTP. Theo đó, là khả
năng bệnh nhân uống các thuốc được kê đơn không bỏ liều nào với điều kiện:
đúng thuốc, đúng liều, đúng thời gian, đúng cách [51].

1.2.2.2. Thực trạng tuân thủ điều trị thay thế CDTP bằng Methadone
1.2.2.2.1. Trên thế giới
Tuân thủ điều trị thay thế CDTP bằng Methadone là yếu tố tiên quyết đảm bảo
cho sự thành cơng của chương trình, bởi thực tế cho thấy khi bệnh nhân không tuân
thủ điều trị, không đến uống thuốc hàng ngày sẽ có nguy cơ tái sử dụng lại CDTP và
tham gia vào các hoạt động phạm pháp [7]. Tỷ lệ không tuân thủ điều trị và bỏ điều trị
trong nhóm bệnh nhân điều trị Methadone có sự khác nhau theo từng quốc gia và
từng địa phương. Tỷ lệ bỏ điều trị giảm dần theo thời gian và thấp hơn nhiều so với
các quốc gia khác trên thế giới [8]. Tại Mỹ và Canada, tỷ lệ bệnh nhân không tuân thủ

tương ứng là 17% và 15,5% [9, 10]. Trong khi đó, tỷ lệ này ở một số nước Châu Âu
như Pháp và Anh được ghi nhận tương ứng lên tới 65.2% và 42% [11, 12]. Tại Trung
Quốc, tỷ lệ bệnh nhân không tuân thủ dao động từ 36,3% đến 88,2% [13, 14].

Nghiên cứu của Shwartz Robert P và cộng sự tại Baltimore, Maryland năm
2008 thực hiện trên 46 bệnh nhân. Kết quả sau một năm điều trị cho thấy, có 18
bệnh nhân duy trì điều trị chiếm 39,1%, cịn lại 28 bệnh nhân đã ra khỏi chương
trình chiếm 60,9% [54]. Nghiên cứu của Steven Alex và cộng sự năm 2008 tại Anh
ở 3 cơ sở điều trị trên 2.624 bệnh nhân cho thấy có 16,7% số bệnh nhân rời khỏi
chương trình trước khi điều trị, 7,8% số người rời khỏi chương trình trong vịng
30 ngày đầu [55]. Nghiên cứu của Roux P., Lion C. và cộng sự năm 2014 trên 145
đối tượng cho thấy có 35,2% số bệnh nhân vẫn duy trì điều trị trong 12 tháng qua,
55,9% khơng tn thủ chặt chẽ và có 9% số người không tuân thủ điều trị [56].


13
Nghiên cứu của Cao X.B và cộng sự tiến hành trên 8 cơ sở MMT nằm tại tỉnh Tứ
Xuyên, Vân Nam, Quảng Tây, Quý Châu và Chiết Giang vào tháng 6/ 2010 trên 539
bệnh nhân cho kết quả: 20,4% bệnh nhân tuân thủ điều trị và có 79,6% bệnh nhân bỏ
liều điều trị. Trong số những bệnh nhân bỏ liều điều trị, có 84,1% bị gián đoạn điều trị
2 – 4 lần; 15,9% có 5 hoặc nhiều hơn 5 lần bỏ liều trong suốt quá trình điều trị. Bệnh
nhân tuân thủ điều trị chủ yếu sống chung với các thành viên trong gia đình hoặc bạn
bè (88,2%) trong khi đó, tỷ lệ này ở nhóm bệnh nhân bỏ liều điều trị chỉ là 78,5%.
Những bệnh nhân tuân thủ điều trị sống trong vịng bán kính 5km quanh cơ sở MMT là
72,7% cao hơn so với nhóm bệnh nhân bỏ liều điều trị (61,3%) [57].

Tại Malaysia, M. Ramli và cộng sự thực hiện nghiên cứu nhằm
đánh giá những kết quả ngắn hạn của việc điều trị thay thế bằng
Methadone ở bờ biển phía Đơng Malaysia trên 172 trường hợp bệnh
nhân. Tỷ lệ duy trì tuân thủ điều trị trong nghiên cứu là 62% [58].

1.2.2.2.2. Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, một số nghiên cứu đã được tiến hành nhằm đánh giá tình trạng
tuân thủ điều trị của bệnh nhân điều trị MMT, tuy nhiên các đánh giá này mới chỉ tập
trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh và Đà Nẵng.

Báo cáo của bộ Y tế về kết quả điều trị thay thế CDTP bằng Methadone
năm 2011 trình bày kết quả nghiên cứu trên 1.000 bệnh nhân ở 06 cơ sở
điều trị (CSĐT) tại thành phố Hải Phòng và thành phố HCM, cho tỷ lệ tuân
thủ điều trị và không bỏ liều nào là 92,5% trong 6 tháng điều trị đầu tiên,
chỉ số này sau 12 tháng và 24 tháng lần lượt là 93,2% và 96% [8].
Nghiên cứu của Hồng Đình Cảnh và cộng sự năm 2009 đánh giá kết quả
sau 6 tháng triển khai đề án tại Hải Phịng và Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy liều
điều trị trung bình trong giai đoạn duy trì của các bệnh nhân là 104mg/ ngày. Liều
duy trì cao nhất là 300mg/ ngày và thấp nhất là 15mg/ ngày. Thời gian dị liều trung
bình của bệnh nhân là 47 ngày. Tỷ lệ bệnh nhân bỏ điều trị được báo cáo là 5%
[42]. Trong khi đó, kết quả triển khai thí điểm điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc
Methadone tại Hà Nội Lê Nhân Tuấn cho thấy: tỷ lệ bệnh nhân ngừng điều trị rất
thấp (5%), tỷ lệ bệnh nhân bỏ 1 liều là 0,23%, bỏ trên 2 liều là 0,036% [59].
Nghiên cứu của Nguyễn Dương Châu Giang năm 2015 về tuân thủ điều trị của
bệnh nhân MMT tại Đà Nẵng trên toàn bộ 274 bệnh nhân đang điều trị ở giai đoạn


14
duy trì từ 3 tháng trở lên tại 2 cơ sở MMT số 1 và số 2 thành phố Đà
Nẵng. Kết quả cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị là 73,4%. Lý do
không tuân thủ là: quên (32,9%), đi xa (13,4%), có sử dụng CGN khác
(5,2%), khơng có người hỗ trợ nhắc nhở (3,1%), lý do khác 6,3% (bị
công an bắt, thử ngưng thuốc để xin ra khỏi chương trình) [60].
1.2.2.3. Một số yếu tố liên quan tới tuân thủ điều trị thay thế bằng Methadone MMT
là một trong những phương pháp điều trị bằng thuốc cho những người

bị lệ thuộc các CDTP, đặc biệt là bạch phiến (Heroin). Người bệnh tham gia chương
trình điều trị thường được khuyên rằng thời gian điều trị tối thiểu là 1 năm và có thể
lâu hơn nữa. Rõ ràng, điều trị thay thế CDTP bằng Methadone là một quá trình lâu dài
và khó khăn (người bệnh phải tới cơ sở MMT hằng ngày để nhận và uống thuốc) đòi
hỏi người bệnh và gia đình phải có quyết tâm cao để theo đuổi tới khi có kết quả. Bên
cạnh những thành cơng mà MMT mang lại, vẫn cịn những tỷ lệ người bệnh khơng
tn thủ hoặc bỏ dở chương trình vì những lý do chủ quan và khách quan.

Nghiên cứu tổng quan hệ thống do Lei Zhang và cộng sự tiến hành vào năm
2013 nhằm đánh giá một cách hệ thống tỷ lệ bệnh nhân ra khỏi chương trình và lý
do bệnh nhân ra khỏi chương trình điều trị Methadone từ năm 2004 đến năm 2013
cho kết quả nguyên nhân phổ biến nhất của việc ra khỏi chương trình là do công
an bắt giữ hoặc bị đưa vào các trung tâm cai nghiện bắt buộc (chiếm 22,2%) [61].
Nhiều bệnh nhân cho thấy bệnh nhân ngại tiếp cận với cơ sở điều trị vì phải thơng
qua cơng an, lo lắng vì sẽ bị ngừng điều trị nếu quay lại trại giam [62].
Một nghiên cứu ở Anh năm 2008 cho thấy tuổi, điều kiện sống và tình trạng
TCMT hiện tại là những yếu tố ảnh hưởng tới việc người bệnh tuân thủ điều trị hay
không. Kết quả chỉ ra rằng những người bỏ điều trị sớm là những người trẻ tuổi,
khơng có nhà ở và hiện tại không TCMT [55]. Roux P., Lion C. và cộng sự năm 2014
báo cáo một kết quả nghiên cứu cho thấy việc không tuân thủ điều trị được dự đốn
là gặp nhiều hơn ở nữ, người khơng có nhà cửa ổn định, người uống rượu, người có
sử dụng cocain và thiếu kiến thức về Methadone [56]. Nghiên cứu khác tại Malaysia
cũng cho thấy các yếu tố liên quan tới việc không tuân thủ điều trị là thất nghiệp, điểm
chất lượng cuộc sống thấp và liều dùng Methadone thấp [58].


15
Tại Việt Nam, nghiên cứu ở Đà Nẵng cũng cho thấy các yếu tố liên quan đến
tuân thủ điều trị Methadone của bệnh nhân là: sống cùng vợ/ chồng, có sử dụng
CGN khác trong q trình điều trị (hút, chích, uống), có tiêm chích ma túy trong

q trình điều trị, có người nhà đi cùng tham gia tư vấn - giáo dục nhóm, có liều
điều trị lớn hơn 100mg và xuất hiện hội chứng cai trong quá trình điều trị liều duy
trì [60]. Theo trung tâm y tế dự phịng Thanh Hóa, các ngun nhân dẫn tới tình
trạng bỏ chương trình MMT, hay là khơng tn thủ điều trị khá đa dạng. Chẳng
hạn, trình độ nhận thức, dân trí chưa cao nên kết quả truyền thông tư vấn cho
người NCMT cịn hạn chế. Bên cạnh đó, đặc điểm địa bàn rộng lớn là nguyên
nhân người bệnh gặp trở ngại trong việc tới các cơ sở điều trị. Ngoài ra, người
NCMT còn dễ dàng tiếp cận với ma túy do nguồn cung cấp nhiều, chi phí rẻ...
khiến họ từ chối MMT mặc dù không thiếu thuốc [63].


16
CHƯƠNG 2: MÔ TẢ VẤN ĐỀ CẦN GIẢI QUYẾT
2.1. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tuyên Quang
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía bắc, có diện tích 5.860 km 2, dân số
750.000 người với 22 dân tộc. Tỉnh có 7 đơn vị hành chính gồm 06 huyện và 01 thành
phố; 141 xã, phường, thị trấn; 2.095 thôn bản; tổ dân phố. Phía Bắc giáp tỉnh Hà
Giang, phía Đơng Bắc giáp Cao Bằng, phía Đơng giáp Bắc Kạn và Thái Ngun, phía
Nam giáp Vĩnh Phúc, phía Tây-Nam giáp Phú Thọ, phía Tây giáp Yên Bái.

Hệ thống y tế thành phố Tuyên Quang bao gồm Phòng y tế, trung
tâm y tế thành phố, Trung tâm dân số - kế hoạch hóa gia đình và 13 trạm y
tế xã, phường, khơng có Bệnh viện thành phố. Tổng số cán bộ y tế thành
phố có 92 người, trong đó: phịng y tế: 02 người; trung tâm y tế thành phố:
87 người; Trung tâm dân số kế hoạch hóa gia đình: 03 người. 100% (298/
298) các tổ, xóm, thơn có cộng tác viên y tế thơn bản phối hợp hoạt động.

2.1.1 Tình hình sử dụng ma túy tại tỉnh Tuyên Quang
Tính đến 15/ 11/ 2017, tổng số người nghiện ma tuý quản lý được trên địa
bàn tỉnh Tuyên Quang là 1.138 người. Trong đó, đang cai nghiện tại Trung tâm

Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội của tỉnh: 66 trường hợp; đang quản lý
sau cai (cai giai đoạn 3 cũ) 420 trường hợp. Đang được điều trị bằng thuốc thay
thế Methadone: 237 trường hợp; trong trại tạm giam: 71 trường hợp; đang thực
hiện giáo dục tại xã, phường, thị trấn, cai nghiện tại gia đình cộng đồng là 11
trường hợp; đang ở ngoài xã hội (số trốn cai, số chưa cai hết giai đoạn I theo quy
chế cũ, cai tại nhà, chữa bệnh ra trại): 393 trường hợp [64].

2.1.2. Tình hình điều trị thay thế bằng Methadone tại tỉnh Tuyên Quang Chỉ
tiêu điều trị thay thế CDTP cho người nghiện bằng Methadone ở Tuyên
Quang là 220 người vào năm 2014 và tăng lên 700 người vào năm 2017 [37]. Cơ sở
điều trị thay thế CDTP bằng Methadone thành phố Tuyên Quang thành lập từ 23/ 12/
2013, trú tại phường Tân Quang, thành phố Tuyên Quang với 11 cán bộ Y bác sỹ hiện
đang điều trị cho 284 Bệnh nhân. Tháng 8 năm 2016, MMT huyện Sơn Dương đi vào
hoạt động và đang điều trị cho gần 100 bệnh nhân. Đầu năm 2019, MMT huyện Yên
Sơn triển khai và điều trị cho 9 bệnh nhân. Tính đến 31/01/2018, trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang có 3 cơ sở MMT là MMT thành phố Tuyên Quang, MMT huyện


×