Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bien doi khi hau Bai cua Thuy Tham 2012 BK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.68 KB, 14 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Anh Tham BCH QS BK Hello! Chao moi nguoi I. Vấn đề biến đổi khí hậu hiện nay Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo. Định nghĩa chung nhất cho sự biến đổi khí hậu là sự thay đổi các đặc điểm mang tính thống kê của hệ thống khí hậu khi xét đến những chu kỳ dài hoặc hàng thập kỷ hoặc lâu hơn, mà không kể đến các nguyên nhân. Theo đó, những thay đổi bất thường trên những chu kỳ ngắn hơn một vài thập kỷ, như El Niño, không thể hiện sự thay đổi khí hậu. Thuật ngữ này đôi khi được sử dụng để nhắc đến những trường hợp đặc biệt của biến đổi khí hậu do tác động của hoạt động con người; ví dụ, trong Công ước Khung của Liên hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (United Nations Framework Convention on Climate Change) định nghĩa biến đổi khí hậu là "là sự thay đổi của khí hậu mà hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp do tác động của hoạt động con người dẫn đến thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu và ngoài ra là những biến thiên tự nhiên của khí hậu được quan sát trên một chu kỳ thời gian dài." Thay đổi khí hậu đồng nghĩa với ấm lên toàn cầu. II. Nguyên nhân làm biến đổi khí hậu Nguyên nhân chính làm biến đổi khí hậu trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ và bể chứa khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác.Các biểu hiện của sự biến đổi khí hậu trái đất gồm: - Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung. - Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất..

<span class='text_page_counter'>(2)</span> - Sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển. - Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người. - Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác. - Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển. Các quốc gia trên thế giới đã họp tại New York ngày 9/5/1992 và đã thông qua Công ước Khung về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc. Công ước này đặt ra mục tiêu ổn định các nồng độ khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp của con người đối với hệ thống khí hậu. Mức phải đạt nằm trong một khung thời gian đủ để các hệ sinh thái thích nghi một cách tự nhiên với sự thay đổi khí hậu, bảo đảm việc sản xuất lương thực không bị đe doạ và tạo khả năng cho sự phát triển kinh tế tiến triển một cách bền vững. Nguyên nhân của sự biến đổi khí hậu (BĐKH) hiện nay, tiêu biểu là sự nóng lên toàn cầu đã được khẳng định là chủ yếu do hoạt động của con người. Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp (khoảng từ năm 1750), con người đã sử dụng ngày càng nhiều năng lượng, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch (than, dầu, khí đốt), qua đó đã thải vào khí quyển ngày càng tăng các chất khí gây hiệu ứng nhà kính của khí quyển, dẫn đến tăng nhiệt độ của trái đất. Những số liệu về hàm lượng khí CO2 trong khí quyển được xác định từ các lõi băng được khoan ở Greenland và Nam cực cho thấy, trong suốt chu kỳ băng hà và tan băng (khoảng 18.000 năm trước), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển chỉ khoảng 180 -200ppm (phần triệu), nghĩa là chỉ bằng khoảng 70% so với thời kỳ tiền công nghiệp (280ppm). Từ khoảng năm 1.800, hàm lượng khí.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> CO2 bắt đầu tăng lên, vượt con số 300ppm và đạt 379ppm vào năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với thời kỳ tiền công nghiệp, vượt xa mức khí CO2 tự nhiên trong khoảng 650 nghìn năm qua. Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí mêtan (CH4), ôxit nitơ (N2O) cũng tăng lần lượt từ 715ppb (phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên 1774ppb (151%) và 319ppb (17%) vào năm 2005. Riêng các chất khí chlorofluoro carbon (CFCs) vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng lên toàn cầu lớn gấp nhiều lần khí CO2, vừa là chất phá hủy tầng ôzôn bình lưu, chỉ mới có trong khí quyển do con người sản xuất ra kể từ khi công nghiệp làm lạnh, hóa mỹ phẩm phát triển. Đánh giá khoa học của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) cho thấy, việc tiêu thụ năng lượng do đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành sản xuất năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng… đóng góp khoảng một nửa (46%) vào sự nóng lên toàn cầu, phá rừng nhiệt đới đóng góp khoảng 18%, sản xuất nông nghiệp khoảng 9% các ngành sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại (3%) là từ các hoạt động khác. Từ năm 1840 đến 2004, tổng lượng phát thải khí CO2 của các nước giàu chiếm tới 70% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu, trong đó ở Hoa Kỳ và Anh trung bình mỗi người dân phát thải 1.100 tấn, gấp khoảng 17 lần ở Trung Quốc và 48 lần ở Ấn Độ. Riêng năm 2004, lượng phát thải khí CO2 của Hoa Kỳ là 6 tỷ tấn, bằng khoảng 20% tổng lượng phát thải khí CO2 toàn cầu. Trung Quốc là nước phát thải lớn thứ 2 với 5 tỷ tấn CO2, tiếp theo là Liên bang Nga 1,5 tỷ tấn, Ấn Độ 1,3 tỷ tấn, Nhật Bản 1,2 tỷ tấn, CHLB Đức 800 triệu tấn, Canada 600 triệu tấn, Vương quốc Anh 580 triệu tấn. Các nước đang phát triển phát thải tổng cộng 12 tỷ tấn CO2, chiếm 42% tổng lượng phát thải toàn cầu so với 7 tỷ tấn năm 1990 (29% tổng lượng phát thải toàn cầu), cho thấy tốc độ phát thải khí CO2 của các nước này tăng khá nhanh trong khoảng 15 năm qua. Một số nước phát triển dựa vào đó để yêu cầu các nước đang phát triển cũng phải cam kết theo Công ước.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Biến đổi khí hậu. Năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn CO2. Năm 2004, phát thải 98,6 triệu tấn CO2, tăng gần 5 lần, bình quân đầu người 1,2 tấn/năm (trung bình của thế giới là 4,5 tấn/năm, Singapo 12,4 tấn, Malaysia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 tấn, Trung Quốc 3,8 tấn, Inđônêxia 1,7 tấn, Philippin 1,0 tấn, Myanma 0,2 tấn, Lào 0,2 tấn). Như vậy, phát thải các khí CO2 của Việt Nam tăng khá nhanh trong 15 năm qua, song vẫn ở mức thấp so với trung bình toàn cầu và nhiều nước trong khu vực. Dự tính tổng lượng phát thải các khí nhà kính của Việt Nam sẽ đạt 233,3 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2020, tăng 93% so với năm 1998. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là trong khi các nước giàu chỉ chiếm 15% dân số thế giới, nhưng tổng lượng phát thải của họ chiếm 45% tổng lượng phát thải toàn cầu; các nước châu Phi và cận Sahara với 11% dân số thế giới chỉ phát thải 2%, và các nước kém phát triển với 1/3 dân số thế giới chỉ phát thải 7% tổng lượng phát thải toàn cầu. Đó là điều mà các nước đang phát triển nêu ra về bình đẳng và nhân quyền tại các cuộc thương lượng về Công ước khí hậu và Nghị định thư Kyoto.Chính vì thế, một nguyên tắc cơ bản, đầu tiên được ghi trong Công ước Khung của Liên hợp quốc về BĐKH là: “Các bên phải bảo vệ hệ thống khí hậu vì lợi ích của các thế hệ hôm nay và mai sau của nhân loại, trên cơ sở công bằng, phù hợp với trách nhiệm chung nhưng có phân biệt và bên các nước phát triển phải đi đầu trong việc đấu tranh chống BĐKH và những ảnh hưởng có hại của chúng” Trong thành phần của khí quyển trái đất, khí nitơ chiếm 78% khối lượng, khí oxy chiếm 21%, còn lại khoảng 1% các khí khác như argon, đioxit cacbon, mêtan, ôxit nitơ, nêon, hêli, hyđrô, ôzôn,… và hơi nước. Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, các khí vết này, đặc biệt là khí CO2, CH4, NOx, và CFCs - một loại khí mới chỉ có trong khí quyển từ khi công nghệ làm lạnh phát triển, là những khí có vai trò rất quan trọng đối với sự sống trên trái đất. Trước hết, đó là vì các chất khí.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> nói trên hấp thụ bức xạ hồng ngoại do mặt đất phát ra, sau đó, một phần lượng bức xạ này lại được các chất khí đó phát xạ trở lại mặt đất, qua đó hạn chế lượng bức xạ hồng ngoại của mặt đất thoát ra ngoài khoảng không vũ trụ và giữ cho mặt đất khỏi bị lạnh đi quá nhiều, nhất là về ban đêm khi không có bức xạ mặt trời chiếu tới mặt đất.Các chất khí nói trên, trừ CFCs, đã tồn tại từ lâu trong khí quyển và được gọi là các khí nhà kính tự nhiên. Nếu không có các chất khí nhà kính tự nhiên, trái đất của chúng ta sẽ lạnh hơn hiện nay khoảng 33oC, tức là nhiệt độ trung bình trái đất sẽ khoảng 18oC. Hiệu ứng giữ cho bề mặt trái đất ấm hơn so với trường hợp không có các khí nhà kính được gọi là “Hiệu ứng nhà kính”. Ngoài ra, khí ôzôn tập trung thành một lớp mỏng trên tầng bình lưu của khí quyển có tác dụng hấp thụ các bức xạ tử ngoại từ mặt trời chiếu tới trái đất và thông qua đó bảo vệ sự sống trên trái đất. Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp về trước, ít nhất khoảng 10.000 năm, nồng độ các chất khí nhà kính rất ít thay đổi, trong đó khí CO2 chưa bao giờ vượt quá 300ppm. Chỉ riêng lượng phát thải khí CO2 do sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng hàng năm trung bình tỷ lệ từ 6,4 tỷ tấn cacbon (xấp xỉ 23,5 tỷ tấn CO2) trong những năm 1990 lên đến 7,2 tỷ tấn cacbon (xấp xỉ 45,9 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong thời kỳ từ 2000 – 2005.Các nhân tố khác, trong đó có các sol khí (bụi, cacbon hữu cơ, sulphat, nitrat…) gây ra hiệu ứng âm (lạnh đi) với lượng bức xạ cưỡng bức tổng cộng trực tiếp là 0,5W/m2 và gián tiếp phản xạ của mây là 0,7W/m2; thay đổi sử dụng đất làm thay đổi suất phản xạ bề mặt, tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức tổng cộng được xác định bằng 0,02W/m2; trái lại, sự gia tăng khí ôzôn trong tầng đối lưu do sản xuất và phát thải các hóa chất và sự thay đổi trong hoạt động của mặt trời trong thời kỳ từ năm 1750 đến nay được xác định là tạo ra hiệu ứng dương đối với tổng lượng bức xạ cưỡng bức lần lượt là 0,35 và 0,12W/m2. Như vậy, tác động tổng cộng của các nhân tố khác, ngoài khí nhà kính, đã tạo ra lượng bức xạ cưỡng bức âm. Vì thế, trên thực tế, sự tăng lên của.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> nhiệt độ trung bình toàn cầu quan trắc được trong thời gian qua đã bị triệt tiêu một phần, nói cách khác, sự tăng lên của riêng hàm lượng khí nhà kính nhân tạo trong khí quyển làm trái đất nóng lên nhiều hơn so với những gì đã quan trắc được, và điều đó càng khẳng định sự biến đổi khí hậu hiện nay là do các hoạt động. của. con. người. chứ. không. phải. do. quá. trình. tự. nhiên.. Ngoài ra, còn một nguyên nhân cơ bản nữa là nước biển dâng. Nước biển dâng là sự dâng mực nước của đại dương trên toàn cầu, trong đó không bao gồm triều, nước dâng do bão… Nước biển dâng tại một vị trí nào đó có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với trung bình toàn cầu vì có sự khác nhau về nhiệt độ của đại dương và các yếu tố khác. Mực nước biển được đo thông qua hệ thống thiết bị đo triều ký đặt tại các trạm hải văn hoặc các máy đo độ cao vệ tinh. Theo Báo cáo đánh giá lần thứ tư của Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC), sự nóng lên của hệ thống khí hậu đã rõ ràng được minh chứng thông qua số liệu quan trắc ghi nhận sự tăng lên của nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước biển trung bình toàn cầu, sự tan chảy nhanh của lớp tuyết phủ và băng, làm tăng mực nước biển trung bình toàn cầu. Mực nước biển tăng phù hợp với xu thế nóng lên do sự đóng góp của các thành phần chứa nước trên toàn cầu được ước tính gồm: giãn nở nhiệt của các đại dương, các sông băng trên núi, băng Greenland, băng Nam cực và các nguồn chứa nước trên đất liền.Các kết quả nghiên cứu gần đây đưa ra dự báo mực nước. biển. sẽ. cao. hơn. từ. 0,5. –. 1,4m. vào. cuối. thế. kỷ. XXI.. Ở nước ta, biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến các thủy vực nội địa (sông, hồ, đầm lầy...) qua sự thay đổi nhiệt độ nước và mực nước làm thay đổi lớn tới thời tiết (chế độ mưa, bão, hạn hán, cháy rừng...), lưu lượng, đặc biệt là tần suất và thời gian của những trận lũ và hạn hán lớn sẽ làm giảm sản lượng sinh học bao gồm cả các cây trồng nông, công và lâm nghiệp. Đồng thời, biến đổi khí hậu.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> cũng ảnh hưởng đến sự diệt vong của nhiều loài động, thực vật bản địa, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Một số tác động cụ thể của biến đổi khí hậu tới đa dạng sinh học như: Ở Sapa, nhiều loài cây trên dãy Hoàng Liên Sơn đang phải "sơ tán" lên cao hơn để tồn tại. Giới khoa học gọi dây là hiện tượng "dịch chuyển vành đai nhiệt lên cao". Đặc trưng trong số đó có thông Vân San Hoàng Liên, một loài chỉ tìm thấy duy nhất tại đây. Trước đây loài này chỉ sinh trưởng ở độ cao 2.200m - 2.400m, thì nay chỉ có thể gặp ở độ cao 2.400m - 2.700m. Cùng với nó, Thông thích Xi - Pan, Thông thích Sa pa và một số loài khác cũng đang "leo" dần lên cao. Vườn quốc gia Xuân Thủy, mực nước biển đã dâng lên từ 50 - 70 cm so với năm 1994. Một phần diện tích rừng phi lao phòng hộ được trồng từ năm 1997 ở khu vực Cồn Lu với mục đích phòng hộ đã bị chết do nước biển dâng. III. Hậu quả của việc biến đổi khí hậu Biển đổi khí hậu khiến hoa nở sớm hơn, mùa sinh sản của động vật thay đổi và hoạt động quân sự tăng mạnh ở Bắc Cực.Nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng khoảng 0,74 độ C trong vòng 100 năm qua. Phân tích vai trò của biến đổi khí hậu trong từng sự kiện thời tiết là việc khó, song trên thực tế giới khoa học đã thấy rõ một số hậu quả, cụ thể: 1. Hoa nở sớm hơn, nhiều loài thực vật biến mất Một nghiên cứu về thực vật xung quanh thành phố Concord, bang Massachusette, Mỹ cho thấy, so với những thập kỷ cuối của thế kỷ 19, thời điểm nở hoa của 43 loài cây phổ biến nhất trong khu vực này đến sớm hơn trung bình 10 ngày. Nhiều loài thực vật khác, bao gồm 15 loài phong lan, đã biến mất. 2. Hoạt động quân sự tăng rõ rệt ở Bắc Cực Khi băng ở Bắc Cực tan, cả thế giới đều quan tâm tới những nguồn tài nguyên bên dưới băng. Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ ước tính Bắc Cực sở hữu 30% lượng khí đốt và 13% trữ lượng dầu mỏ chưa được phát hiện trên thế giới. Do đó, hoạt động quân sự tại Bắc Cực có xu hướng tăng. Mỹ, Nga, Đan Mạch,.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Phần Lan, Na Uy, Ireland, Thụy Điển và Canada – những nước có một phần lãnh thổ nằm trong Bắc Băng Dương – đã tổ chức nhiều cuộc đàm phán về an ninh tại Bắc Cực và các vấn đề biên giới. Nhiều nước, bao gồm Mỹ, đang đưa binh sĩ tới cực bắc của trái đất để chuẩn bị cho hoạt động tuần tra biên giới và phòng ngừa thảm họa khi sự hiện diện của con người tại Bắc Cực ngày càng nhiều hơn. 4. Mùa sinh sản của động vật thay đổi Do nhiệt độ tăng, mùa sinh sản của chim cánh cụt đang thay đổi. Một nghiên cứu, vừa được công bố vào tháng 3, chứng minh rằng chim cánh cụt Gentoo đã thích nghi rất nhanh với thời tiết ấm hơn, vì hoạt động sinh sản của chúng không phụ thuộc vào băng trên mặt biển như những loài chim cánh cụt khác. Chim cánh cụt không phải là những động vật đầu tiên thích nghi với biến đổi khí hậu. Nhiều trung tâm bảo vệ động vật tại Mỹ cho biết, họ số lượng mèo bị bỏ rơi tăng lên do mùa sinh sản của mèo kéo dài hơn. 5. Cuộc sống của gấu trắng khó khăn hơn Một nghiên cứu vào năm 2011 cho thấy gấu trắng con phải bơi qua chặng đường dài hơn để tìm những tảng băng ổn định. Tốc độ tan băng nhanh ở Bắc Cực buộc nhiều con gấu trắng bơi liên tục trong hơn 12 ngày để kiếm mồi. Tỷ lệ tử vong của những gấu con tăng tới 45% nếu chúng phải bơi hơn 48 km, trong khi tỷ lệ đó chỉ là 18% nếu chúng bơi qua khoảng cách ngắn hơn. 6. Động vật di chuyển lên cao hơn Nhiều loài động vật di chuyển tới vị trí cao hơn để thích nghi với sự tăng lên của nhiệt độ. Chẳng hạn, lượng tuyết trên các đỉnh núi giảm vào mùa đông cho phép những con nai sừng tấm ở phía bắc bang Arizona, Mỹ kiếm thức ăn ở những sườn núi cao hơn trong suốt mùa đông. Nai sừng tấm ăn nhiều loại cây quan trọng đối với chim – như thích, dương lá rung – khiến số lượng chim giảm. 7. Tốc độ di chuyển của động vật tăng Các loài động vật đang dịch chuyển khỏi sinh cảnh của chúng với tốc độ lớn chưa từng có: trung bình 17,6 km về phía hai cực của trái đất mỗi năm. Tốc độ dịch chuyển đạt mức lớn nhất ở những khu vực mà nhiệt độ tăng nhiều nhất..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Chẳng hạn, loài chim chích Cetti đã di chuyển hơn 150 km về hướng bắc trong hai thập kỷ qua. IV. Một số ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới Việt Nam Việt Nam là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hằng năm chịu ảnh hưởng của nhiều thiên tai do thời tiết như các cơn bão nhiệt đới, hạn hán, lũ lụt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 nóng và ẩm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 lạnh và khô. Mùa mưa bão từ tháng 6 đến tháng 12. Hạn hán xảy ra trong các tháng khác nhau ở các vùng khác nhau. Miền Bắc, cao nguyên Trung Bộ, và miền Nam từ tháng 11 đến tháng 4; Bắc Trung Bộ, và Trung Bộ từ tháng 6 đến tháng 7; Nam Trung Bộ từ tháng 3 đến tháng 8. Các số liệu ghi nhận xu hướng tăng nhiệt độ ở cả 3 miền, với mức tăng từ 0,5 đến 1°C trong vòng 1 thế kỷ qua. Đi cùng với tăng nhiệt độ, lượng mưa trung bình hằng năm tăng không đáng kể, nhưng tần suất cũng như lượng mưa hằng tháng thay đổi. Mùa mưa có lượng mưa tăng cao, mùa khô lượng mưa giảm đi dẫn tới các sự kiện thời tiết bất thường có xu hướng tăng lên. Trong 50 năm qua, nhiệt độ trung bình tại VN đã tăng 0,7 độ C, mực nước biển dâng 20cm. Việt Nam đã và đang chịu ảnh hưởng biến đổi khí hậu, thiên tai bão lụt hạn hán đã diễn ra khốc liệt hơn trước. Biến đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng đến Việt Nam theo những xu hướng sau: - Giảm mưa dông; - Giảm sương mù; - Hạn hán tăng cả về tần suất và cường độ; - Mùa lạnh thu hẹp; - Bão tăng về tần suất, nhất là vào cuối năm và ảnh hưởng đến các tỉnh Nam Trung Bộ. Theo các mô hình dự báo biến đổi khí hậu, với các kịch bản khác nhau dựa trên các kịch bản phát thải khí nhà kính toàn cầu ở 3 mức: mức thấp (B1), trung bình (B2) và cao (A2, A1FI), trong đó Việt Nam ưu tiên và lấy kịch bản trung bình làm định hướng. Kết quả dự báo đến năm 2100, nhiệt độ trung bình ở nước ta sẽ tăng cao từ 1,2 đến 2,5°C, mực nước biển dâng tương ứng từ 38 đến 55cm..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Nhiệt độ sẽ tăng đáng kể ở các khu vực Tây Bắc, Đông Bắc và cao nguyên Trung Bộ. Trong mùa mưa, lượng mưa sẽ tăng đáng kể ở các khu vực Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ. Vào nửa sau thế kỷ XXI, Đồng bằng sông Cửu Long sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp và khốc liệt do nước biển dâng. Những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH ở Việt Nam Biến đổi khí hậu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nguồn tài nguyên nước. Nguồn nước mặt khan hiếm trong mùa khô gây hạn hán, và quá dư thừa trong mùa mưa gây lũ lụt. Nguồn nước ngầm bị suy giảm dẫn đến cạn kiệt do khai thác quá mức và thiếu nguồn bổ sung. Ngành nông nghiệp cũng sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp của BĐKH. Do nhiệt độ tăng cao, vùng trồng cây nhiệt đới có xu hướng di chuyển về phía Bắc. Vùng trồng cây ôn đới có xu hướng giảm về diện tích. Hạn hán và lũ lụt góp phần ảnh hưởng đến diện tích canh tác. Ngành lâm nghiệp bị ảnh hưởng do diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp bởi nước biển dâng. Đa dạng sinh học giảm do các loài kém chịu hạn hán, ngập lụt có xu hướng bị tuyệt chủng, các loài có khả năng chống chịu hạn hán, lũ lụt sẽ phát triển. Bên cạnh đó cháy rừng và sâu bệnh sẽ ảnh hưởng đến ngành lâm nghiệp. Các ngành khác cũng chịu ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau: - Vận tải và năng lượng - Dầu khí và kinh tế biển - Sức khỏe cộng đồng - Thủy sản Trong báo cáo mới đây, ADB đã rút ra một số kết luận và khuyến cáo cho Chính phủ Việt Nam: Việt Nam đã và đang chịu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Trong thế kỷ XXI, những ảnh hưởng này còn trầm trọng và khốc liệt hơn nữa. Theo ủy ban liên chính phủ về BĐKH, nếu không có các biện pháp mạnh mẽ để giảm lượng khí thải toàn cầu thì đến 2100, nhiệt độ Trái đất có thể tăng đến 4,8°C so với năm 1990..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Cuộc chiến chống lại BĐKH đòi hỏi nỗ lực toàn cầu nhằm tìm ra giải pháp toàn cầu mang tính xây dựng và trách nhiệm. Là quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề do BĐKH, Việt Nam cần đóng góp vào nỗ lực chung của thế giới bằng các chính sách nhằm giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH. Việt Nam đã rất nỗ lực trong việc thích ứng với các ảnh hưởng của BĐKH, nhưng vẫn cần phải cố gắng hơn nữa để thích ứng, nhất là trong các lĩnh vực lập kế hoạch, tăng cường khả năng thích ứng của cộng đồng, nhất là cho người nghèo. Thi hành những chính sách tích cực trong các ngành kinh tế chịu ảnh hưởng của BĐKH. Đối với Việt Nam, ưu tiên thích ứng với BĐKH, nhưng cần tăng cường các nỗ lực làm giảm nhẹ tác nhân gây BĐKH. Chính điều này cũng mang lại sức mạnh và tính cạnh tranh cho nền kinh tế. Xây dựng nền kinh tế phát thải thấp với công nghệ tiên tiến, giảm phát thải do phá rừng. Các nguồn vốn tài trợ và chuyển giao công nghệ là rất cần thiết, góp phần thực hiện thành công các chính sách thích ứng và giảm nhẹ tác động BĐKH ở Việt Nam. Vì vậy Chính phủ cần tăng cường khả năng sử dụng hiệu quả các nguồn vốn vay của nước ngoài. Hợp tác quốc tế, chia sẻ kinh nghiệm tạo điều kiện cho việc đối phó có hiệu quả với các ảnh hưởng mang tính khu vực như nguồn nước, dịch bệnh. Các ảnh hưởng của BĐKH tác động đến nhiều ngành kinh tế quốc dân, đòi hỏi nỗ lực phối hợp liên ngành, liên bộ để đối phó. Cần có các nguồn vốn cấp thiết dành cho nghiên cứu, nhằm hiểu rõ hơn những ảnh hưởng của BĐKH, đặc biệt là nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền địa phương. Phát hiện các biện pháp hiệu quả và rẻ tiền nhằm thích ứng và giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH. Khủng hoảng kinh tế là cơ hội để tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng phát thải thấp trên cơ sở đổi mới công nghệ. V. Các giải pháp giảm thiểu biến đổi khí hậu GS.TSKH Trương Quang Học đã đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu tới đa dạng sinh học. Trong đó tập trung vào vấn đề nghiên.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> cứu và chủ động xây dựng giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học cần phải được quán triệt một cách toàn diện trong tất cả các cấp, các ngành. Trong kế hoạch đa dạng sinh học quốc gia và các địa phương, cơ quan chức năng cần đặc biệt lưu ý các giải pháp ứng phó phù hợp với các kịch bản của biến đổi khí hậu để trước hết bảo vệ và duy trì nguồn gen trong hệ sinh thái nông, lâm nghiệp, quản lý bền vững và phát triển rừng dầu nguồn, các phương án phù hợp để chuyển đổi cơ cấu cây trồng với các giống phù hợp, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch cho các khu bảo tồn ở vùng đất thấp... Công tác trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng cũng cần phải được đẩy mạnh để có được hiệu quả về nhiều mặt trong đó có tác dụng là giảm thiểu thiên tai, bảo tồn tài nguyên nước và đất. Đối với công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, đặc biệt liên quan tới biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học cách tiếp cận tổng hợp, liên ngành và dựa vào cộng đồng, dựa trên hệ sinh thái cần phải được quán triệt trong tất cả các khâu từ hoạch định chính sách đến lập và triển khai kế hoạch về cả nội dung và tổ chức. Các giải pháp cần toàn diện và đồng bộ từ thể chế, chính sách tới quy hoạch, kế hoạch, công nghệ, trong đó xây dựng năng lực, nâng cao nhận thức và hợp tác quốc tế cần được ưu tiên ở mức phù hợp. VI. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu tới đời sống bộ đội và cách ứng phó Đối với môi trường quân đội, biến đổi khí hậu cũng gây ra những tác động trực tiếp, ảnh hưởng đến kết quả huấn luyện, sức chiến đấu của bộ đội. Các hoạt động của bộ đội thường diễn ra ngoài trời, nên chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi thời tiết, khí hậu. Hoạt động huấn luyện thích hợp nhất trong môi trường có nhiệt độ không khí nằm trong khoảng từ 15-31 0C và độ ẩm tương đối từ 60-80%. Nếu thấp quá, hoặc cao quá, sẽ gây ra những rối loạn nghiêm trọng về điều nhiệt trong cơ thể người, dẫn đến mệt mỏi, suy giảm sức khỏe, giảm khả năng sẵn sàng chiến.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> đấu của bộ đội, thậm chí còn gây tử vong. Ngoài ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu, bộ đội còn chịu nhiều chi phối về tình hình dịch bệnh ở nơi đóng quân. BĐKH gây ra những đợt mưa lũ kéo dài sẽ làm cho doanh trại quân đội bị ngập lụt, ảnh hưởng đến nguồn nước sinh hoạt. Ngoài ra, sau khi mưa lũ đi qua, sẽ phát sinh các loại dịch bệnh gây ảnh hưởng đến sức khỏe bộ đội. Để ứng phó với biến đổi khí hậu trong môi trường quân đội, cấp ủy, chỉ huy các cấp, các đơn vị cần tăng cường công tác giáo dục -truyền thông về tác hại của biến đổi khí hậu để bộ đội nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mình. Thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện sức khoẻ, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về biến đổi khí hậu trong đơn vị. Đồng thời, có kế hoạch chủ động phòng ngừa và phòng chống thiên tai, thảm họa (mưa bão, lũ lụt, động đất, sạt lở đất...); củng cố doanh trại để tránh tác hại của mưa bão, lũ, lụt. Các kho quân trang, quân lương, vũ khí, đạn dược cần được xây ở nơi cao ráo để tránh nước lũ. Các đơn vị cần được trang bị đủ phương tiện xe cứu hỏa, xe cứu thương, cáng chuyển thương, thang cứu hỏa, vòi cứu hỏa, phao cứu sinh, thuốc cấp cứu... để sử dụng khi có tình huống bất thường xảy ra. Trong đơn vị có thể thành lập một số tổ công tác để giám sát và ứng phó ban đầu với tác động có hại của biến đổi khí hậu, đặc biệt là các thiên tai bất thường (sạt lở đất, đá, lốc xoáy, bão lũ...). Cần tích cực trồng cây tạo bóng mát, điều hòa không khí xung quanh doanh trại. Đối với những đơn vị đóng quân ở vùng núi, cần đặc biệt quan tâm đến củng cố doanh trại, nhà ở kiên cố để tránh tai nạn do đá lở hoặc lốc xoáy gây sập nhà. Sử dụng các phương tiện và biện pháp chống nóng cho bộ đội. Đối với những đơn vị đóng quân ở vùng ven biển, cần xây dựng nhà ở, kho xăng dầu, kho vũ khí kiên cố ở những nơi cao ráo, tránh ảnh hưởng của những cơn bão, nước biển dâng, sóng thần... Để tránh tác động của El Ninô, trong những ngày nắng nóng, không nên bố trí cho bộ đội luyện tập ngoài thao trường hoặc hành quân mang vác nặng đường dài. Vào mùa rét, cần chủ động phòng chống rét cho bộ đội bằng cách.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> củng cố doanh trại, chống gió lùa, trang bị đầy đủ quân trang chống rét, nhất là đối với đơn vị đóng quân ở vùng biên giới, hải đảo. Sau các đợt mưa bão, lũ lụt, quân y các đơn vị cần chủ động tổng vệ sinh doanh trại ngay sau khi nước rút, tổ chức phun thuốc diệt côn trùng để phòng dịch bệnh đường tiêu hóa, bệnh ngoài da, bệnh đau mắt đỏ, bệnh do côn trùng truyền bệnh... Ngoài ra, quân y các đơn vị cần chủ động tham mưu cho chỉ huy các biện pháp phòng chống dịch bệnh, nhất là các bệnh truyền nhiễm mới (SARS, cúm A/H5N1; Ebola...) và các bệnh truyền nhiễm do côn trùng trung gian truyền bệnh như: sốt xuất huyết, sốt rét, viêm não Nhật Bản. Đối với các cơ sở nghiên cứu khoa học, các trung tâm y tế dự phòng, cần tăng cường áp dụng các giải pháp về công nghệ, trang thiết bị hiện đại để phát hiện sớm và kiểm soát bệnh tật phát sinh, phát triển, lây lan trong điều kiện biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu đang là vấn đề bức xúc trên phạm vi toàn cầu, khiến cả thế giới đặc biệt quan tâm. Vì vậy, mỗi người chúng ta cần có những việc làm, hành động cụ thể để chung tay, góp sức cùng nhân loại ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, xây dựng môi trường sống ngày càng trong lành, văn minh..

<span class='text_page_counter'>(15)</span>

×