Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Tìm hiểu công tác giáo dục của bảo tàng hậu cần quân đội nhân dân việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.64 MB, 116 trang )

Trờng Đại học Văn hoá H Nội
Khoa DI SảN VĂN HãA
------------------------

TÌM HIỂU CƠNG TÁC GIÁO DỤC CỦA
BẢO TÀNG HẬU CẦN QUN I
NHN DN VIT NAM
Khoá luận tốt nghiệp
ngnh BảO TNG HäC
Mã số: 52320305

Người hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN THỊ THẮM

Hμ Néi – 2013

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lý do chon đề tài ...................................................................................... 4
2. Mục đích nghiên cứu................................................................................ 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 6
5. Bố cục bài khóa luận ................................................................................ 6
CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
BẢO TÀNG HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM ........... 7
1.1. Khái quát về Bảo tàng Hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam...... 7
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của Bảo tàng Hậu cần Quân đội Nhân
dân Việt Nam .............................................................................................. 7


1.1.2. Đặc trưng và chức năng của Bảo tàng Hậu cần Quân đội nhân dân
Việt Nam ................................................................................................... 11
1.1.3. Cơ cấu tổ chức ................................................................................ 18
1.2. Các hoạt động nghiệp vụ của Bảo tàng Hậu cần ............................. 18
1.2.1. Công tác nghiên cứu khoa học........................................................ 18
1.2.2. Công tác sưu tầm ............................................................................ 19
1.2.3. Công tác kiểm kê – kho bảo quản ................................................... 20
1.2.4. Công tác trưng bày .......................................................................... 21
1.2.5. Công tác giáo dục tuyên truyền ...................................................... 22
1.3. Vai trị của cơng tác giáo dục trong hoạt động của bảo tàng.......... 22
1.4. Tầm quan trọng của công tác giáo dục ở Bảo tàng Hậu cần quân
đội nhân dân Việt Nam .............................................................................. 28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC CỦA BẢO
TÀNG HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM .................. 32
2.1. Một số khái niệm cơ bản .................................................................... 32
2.2. Khái quát nội dung trưng bày của Bảo tàng Hậu cần..................... 36
2.3. Đối tượng hoạt động giáo dục của Bảo tàng Hậu cần Quân đội .... 42
2.4. Các hình thức giáo dục của Bảo tàng Hâu cần Quân đội ............... 43
2.4.1. Công tác hướng dẫn khách tham quan............................................ 43
2.4.2. Các hình thức giáo dục khác của Bảo tàng Hậu cần ...................... 55

2


2.5. Đánh giá hiệu quả hoạt động giáo dục tại Bảo tàng Hậu cần ......... 63
2.5.1. Nghiên cứu sổ ghi cảm tưởng ......................................................... 63
2.5.2. Trưng cầu ý kiến khách tham quan tại Bảo tàng ............................ 65
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG CỦA BẢO TÀNG
HẬU CẦN ........................................................................................... 74

3.1. Một số nhận xét về hoạt động giáo dục truyền thống của Bảo tàng
Hậu Cần ...................................................................................................... 74
3.1.1. Những ưu điểm ............................................................................... 74
3.1.2. Những điểm hạn chế ....................................................................... 78
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục của
Bảo tàng Hậu cần ....................................................................................... 80
3.2.1. Nâng cao chất lượng các hoạt động nghiệp vụ ............................... 80
3.2.2. Nâng cao chất lượng hệ thống trưng bày ........................................ 86
3.2.3. Nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giáo dục của Bảo tàng và
năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ bảo tàng ........................................ 87
3.2.4. Áp dụng khoa học công nghệ thông tin trong công tác giáo dục ... 92
3.2.6. Tiến hành xã hội hóa các hoạt động Bảo tàng ................................ 94
KẾT LUẬN ......................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 98
PHỤ LỤC

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chon đề tài
Ai đã từng đi qua các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ xâm lược và bảo vệ Tổ quốc mới thấm thía hết tình nghĩa, cơng lao, sự hy
sinh của những người lính hậu cần. Những người lính hậu cần trong chiến
tranh chịu đựng vất vả hy sinh không kém những người lính các quân binh
chủng khác. Nhiều năm qua, mặc dù cịn nhiều khó khăn, song đội ngũ cán
bộ, nhân viên của Bảo tàng Hậu cần (Cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần) đã
không quản vất vả, chủ động sưu tầm, phục chế, lưu giữ và bảo quản nhiều
hiện vật có giá trị.
Một trong những chức năng quan trọng của bảo tàng là tuyên truyền

giáo dục. Trong sáu khâu công tác bảo tàng thì tuyên truyền giáo dục là khâu
cuối cùng có chức năng truyền tải nội dung trưng bày của bảo tàng thơng qua
những hiện vật, tài liệu, hình ảnh.
Nằm trong hệ thống bảo tàng quốc gia nói chung và hệ thống bảo tàng
quân đội nói riêng, cho tới nay Bảo tàng Hậu cần đã sưu tầm được khoảng
15.000 tài liệu hiện vật gốc, đã và đang trưng bày, giới thiệu những tài liệu
hiện vật gốc phản ánh trung thực tầm vóc to lớn của bồ đội Hậu cần trên các
chiến trường, phản ánh quá trình xây dựng chiến đấu và trưởng thành của bộ
đội Hậu cần và ngành Hậu cần Quân đội trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những năm qua Bảo tàng Hậu cần đã chú trọng đổi mới tồn diện các
khâu cơng tác nghiệp vụ trong đó có cơng tác giáo dục. Hoạt động giáo dục
không chỉ giới hạn trong phạm vi bảo tàng là trưng bày cố định thông qua hệ
thống trưng bày tại Bảo tàng mà còn mở rộng với các hoạt động giáo dục
ngồi bảo tàng thơng qua nhiều hình thức hấp dẫn như: trưng bày triển lãm
lưu động; giao lưu với các đơn vị, trường học; thi tìm hiểu lịch sử truyền

4


thống ngành Hậu cần… khiến cho hình ảnh Bảo tàng trở nên quen thuộc và
trở thành một địa chỉ văn hóa hấp dẫn lơi cuốn mọi tầng lớp nhân dân.
Với ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động giáo dục của Bảo tàng Hậu
cần, nghiên cứu hiệu quả tuyên truyền giáo dục, nhận rõ những mặt được và
chưa được của công tác tuyên truyền giáo dục tại Bảo tàng Hậu cần để góp
phần xây dựng Bảo tàng Hậu cần ngày càng lớn mạnh đáp ứng được những
yêu cầu chính trị trong giai đoạn cách mạng mới của đất nước. Sau khi tiếp
cận, nghiên cứu, tìm hiểu bảo tàng đồng thời thấy đây là vấn đề mới, mang
nhiều ý nghĩa, chưa có cơng trình nào tiếp cận nên tơi đã quyết định chọn đề
tài “ Tìm hiểu cơng tác giáo dục của Bảo tàng Hậu cần Quân đội Nhân dân

Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp Đại học ngành Bảo tàng.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu q trình hình thành và phát triển của Bảo tàng Hậu cần.
- Xác định đặc trưng, chức năng của Bảo tàng Hậu cần.
- Nghiên cứu thực trạng công tác giáo dục của Bảo tàng Hậu cần, các
hình thức hoạt động giáo dục tuyên truyền của Bảo tàng.
- Đánh giá hiệu quả hoạt động giáo dục truyền thống của bảo tàng.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống
của Bảo tàng Hậu cần.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu công tác giáo dục của Bảo tàng
Hậu cần.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: nghiên cứu trong phạm vi của Bảo tàng Hậu cần.
+ Thời gian: chủ yếu tập trung nghiên cứu từ thời điểm năm 2010 (Khi
Bảo tàng được xây dựng mới và chính thức mở cửa đón khách tham quan tại
địa điểm hiện nay)

5


4. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài vận dụng phương pháp luận khoa học của nghĩa Mác - Lenin
trong quá trình nghiên cứu, tiếp cận đối tượng.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: sử học, bảo tàng học, tâm lý học,
lịch sử quân sự, giáo dục học.
- Phương pháp điều tra xã hội học.
- Khóa luận cịn sử dụng một số phương pháp như: tổng hợp, phân tích,
thống kê, so sánh.
5. Bố cục bài khóa luận

Ngồi phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phần Phụ lục khóa
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Quá trình hình thành và phát triển của Bảo tàng Hậu
cần Quân đội Nhân dân Việt Nam
Chương 2: Thực trạng hoạt động giáo dục truyền thống của Bảo
tàng Hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Chương 3: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giáo
dục truyền thống của Bảo tàng Hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam

6


CHƯƠNG 1
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
BẢO TÀNG HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1. Khái quát về Bảo tàng Hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của Bảo tàng Hậu cần Quân đội
Nhân dân Việt Nam
Bảo tàng Hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam ( sau đây gọi tắt là
Bảo tàng Hậu cần) là một bảo tàng có nhiệm vụ nghiên cứu, sưu tầm, gìn giữ
các hiện vật về lịch sử ngành Hậu cần.
Lịch sử hậu cần quân sự Việt Nam luôn gắn với lịch sử của lực lượng vũ
trang và lịch sử vẻ vang của dân tộc. Mỗi khi đất nước bị xâm lược là cả nước
đoàn kết, chung sức chung lịng, tồn dân đánh giặc, tồn dân làm công tác hậu
cần. Công tác hậu cần luôn đặt lên hàng đầu của mọi tổ chức quân sự trong q
trình dựng nước đi đơi với giữ nước ở mỗi dân tộc và mỗi quốc gia. Từ thực tế
lịch sử, cha ông ta đã chỉ rõ: Đạo làm tướng phải biết nuôi quân, dạy quân, dùng
quân, luôn chăm lo xây dựng quân đội để “Quốc thịnh binh cường”.
Kế thừa truyền thống “Nuôi quân đánh giặc”, “thực túc binh cường”
của cha ông ta, lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam cũng khẳng định đậm nét:

Bảo đảm Hậu cần là một mặt hết sức quan trọng của quân đội ta trong tồn bộ
đường lối qn sự của Đảng. Nó có tính chất quyết định: đánh hay rút, thắng
lợi hay thất bại đều phụ thuộc rất lớn vào công tác đảm bảo hậu cần.
Hơn nửa thế kỉ qua, bằng công sức, trí tuệ và xương máu, lớp lớp cán
bộ chiến sĩ, công nhân viên ngành hậu cần quân đội đã xây đắp nên truyền
thống vẻ vang của mình. Đó là truyền thống tự lực tự cường khắc phục khó
khăn, hết lịng phục vụ bộ đội; là sự cần kiệm liêm chính chí cơng vơ tư, sống
trong sạch lành mạnh; là quyết tâm không ngừng học tập, rèn luyện, nắm

7


vững nghiệp vụ, làm chủ khoa học kĩ thuật; là tinh thần gắn bó với nhân dân,
phát huy sức mạnh của nhân dân trong công tác hậu cần quân đội.
Cùng với sự ra đời và phát triển ngành Hậu cần, các hoạt động lưu giữ,
bảo quản các tài liệu hiện vật phản ánh về lịch sử ngành cũng được chú ý.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
cuối năm 1954, Tổng cục chính trị - Bộ Quốc phịng có chủ trương tổ chức
các hoạt động văn hóa, trưng bày triển lãm phục vụ kỉ niệm 10 năm thành lập
Quân đội , chào mừng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Hưởng ứng chủ
trương trên, Tổng cục Hậu cần đã tổ chức sưu tầm, thu thập được nhiều hình
ảnh, hiện vật, tài liệu lịch sử về ngành Hậu cần Quân đội ở các chiến dịch, các
chiến trường trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp để tổ chức
trưng bày triển lãm ở phố Yết Kiêu - Hà Nội, phục vụ nhiệm vụ chính trị cho
quân đội và đất nước. Cũng từ đó, cơng tác bảo tàng truyền thống của Tổng
cục Hậu cần được hình thành và đi vào hoạt động tích cực, có hiệu quả.
Trong hơn 50 năm hoạt động, Bảo tàng Hậu cần đã tổ chức sưu tầm,
đăng kí, bảo quản, lưu giữ được trên 15.000 hiện vật. Trong đó có nhiều hiện
vật, bảo vật quý của Bác Hồ, của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước,
Quân đội với ngành Hậu cần quân đội, nhiều hiện vật của các anh hùng, liệt

sỹ, cán bộ nhân viên hậu cần đã trực tiếp tham gia ở các chiến trường trên các
trận tuyến hậu cần của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và
trong thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Trong những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Bảo tàng Hậu cần đã cử nhiều cán bộ, nhân viên đến các chiến trường,
trên các trận địa để sưu tầm, thu gom nhiều hiện vật của ngành Hậu cần quân
đội, làm phong phú thêm khối lượng hiện vật tại Bảo tàng của ngành. Trong quá
trình hoạt động, Bảo tàng Hậu cần đã tổ chức được trên 100 đợt trưng bày triển
lãm cấp quốc gia, toàn quân, toàn ngành và trong Tổng cụ Hậu cần đạt hiệu quả

8


cao. Bảo tàng đã vinh dự được đón Bác Hồ đến thăm triển lãm Hậu cần năm
1959. Hiện nay bút tích của Bác Hồ đang được lưu giữ, trưng bày tại Bảo tàng.
Chấp hành Quyết định số 613/QĐ - QP ngày 13 tháng 7 năm 1995 của
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, về việc củng cố tổ chức biên chế và đồng thời
quyết định chuyển Bảo tàng Hậu cần đến địa điểm 25H - Phan Đình Phùng Hà Nội, tiến hành tổ chức hoạt động phục vụ thường xuyên khách tham quan
tại Bảo tàng.
Ngày 27 tháng 3 năm 1997, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định
số 377/QĐ - QP về chuẩn bị đầu tư xây dựng nâng cấp Bảo tàng Hậu cần,
nhưng do phát triển quy hoạch tổng thể khu cơ quan bộ quốc phòng nên dự án
xây dựng Bảo tàng Hậu cần phải tạm dừng để bàn giao khu đất này cho ban
quản lý dự án 678 Bộ Quốc phòng.
Ngày 1 tháng 12 năm 2000, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra Quyết định
số 2841/ QĐ - QP về việc quyết định xếp hạng II cho Bảo tàng Hậu cần trong
hệ thống Bảo tàng quốc gia.
Tại địa điểm 25H - Phan Đình Phùng, Bảo tàng Hậu cần nằm trong
khn viên 1.300m2 với diện tích trưng bày 433m2 trong đó 312m2 là trưng
bày trong nhà và 121m2 là trưng bày ngoài trời. Bảo tàng đã trưng bày giới

thiệu hơn 400 hiện vật và 150 ảnh tư liệu trong tổng số 14.748 hiện vật và
1.500 ảnh tư liệu lịch sử mà Bảo tàng quản lý.
Hàng năm, Bảo tàng đã đón tiếp và phục vụ khoảng 14.000 lượt khách
đến tham quan. Bảo tàng còn chủ động bám sát phục vụ cho các hoạt động tập
trung của ngành và của Tổng cục, bước đầu đã thực hiện được chức năng là
trung tâm văn hóa lịch sử của ngành và của Tổng cục Hậu cần.
Thông qua các hoạt động thiết thực, Bảo tàng Hậu cần đã nhiều lần
được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội tới thăm, động viên và
cho nhiều ý kiến chỉ đạo. Bảo tàng Hậu cần đã được tặng 01 huân chương

9


chiến công hạng 2, 01 danh hiệu đơn vị quyết thắng và 13 bằng khen về thành
tích hoạt động và phục vụ cơng chúng.
Tuy nhiên, trước địi hỏi của tình hình mới, diện tích và vị trí của Bảo
tàng Hậu cần tại 25H - Phan Đình Phùng cịn nhiều bất cập. Diện tích trưng
bày của Bảo tàng hẹp, khơng thể hiện hết nội dung trưng bày. Bảo tàng lại
chung cổng ra vào với lữ đoàn 144 nên việc phát huy các chức năng xã hội của
Bảo tàng bị hạn chế. Do đó, việc xây dựng mới Bảo tàng là yêu cầu bức thiết.
Trên tinh thần của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về
phát triển nền văn hóa nước ta, “nâng cao chất lượng hệ thống Bảo tàng lịch
sử”, “Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc”; theo quyết định số
613/QĐ- QP năm 1995 của Bộ trưởng Bộ Quốc phịng, trong đó có việc nâng
cấp Bảo tàng Hậu cần, tờ trình số 846/TTr - CT của Tổng cục Chính trị đã
được Thủ trưởng Bộ Quốc phòng phê duyệt chủ trương xây dựng Bảo tàng
Hậu cần quân đội.
Năm 2003, Bảo tàng bắt đầu được xây dựng lại tại xã Mỹ Đình- huyện
Từ Liêm - Hà Nội với tổng diện tích mặt bằng là 13.000m2. Trong đó riêng
diện tích trưng bày Bảo tàng là 1.500m2, diện tích kho lưu trữ hiện vật là

700m2. Tên gọi chính thức của Bảo tàng là Bảo tàng Hậu cần Qn đội nhân
dân Việt Nam.
Hiện nay, cơng trình xây dựng đã hoàn tất, Bảo tàng Hậu cần đã
chuyển về địa điểm mới tại Mỹ Đình. Phần trưng bày của Bảo tàng đang được
khẩn trương thực hiện và đến năm 2009 Bảo tàng đã chính thức mở cửa đón
khách tham quan.
Trong suốt quá trình hoạt động và phát triển, Bảo tàng từng bước hoàn
thiện về cơ sở vật chất, nhân lực và đặc biệt là hoàn chỉnh hệ thống trưng bày,
phục vụ nhu cầu tham quan của công chúng, đảm bảo thực hiện chức năng và
nhiệm vụ của bảo tàng.

10


1.1.2. Đặc trưng và chức năng của Bảo tàng Hậu cần Quân đội nhân
dân Việt Nam
1.1.2.1.Đặc trưng
Đặc trưng là khái niệm chỉ những nét riêng biệt nhất, những dấu hiệu
riêng biết nhất để chỉ một sự vật, một hiện tượng này phân biệt với sự vật,
hiện tượng khác. Từ đó có thể xác định rõ nội dung cơ bản của Bảo tàng Hậu
cần khác với các Bảo tàng khác và trên cơ sở đó xác định rõ nội dung cụ thể
của các hoạt động nghiệp vụ cũng như định hướng cho phát triển tương lai.
Tìm hiểu đặc trưng của bảo tàng nhằm mục đích nhận thức được những
điểm riêng biệt, cơ bản của bảo tàng, trên cơ sở đó có thể khẳng định bảo tàng
ra đời, tồn tại và phát triển là một hiện tượng của xã hội, nhưng khác với các
hiện tượng khác. Đặc trưng cơ bản của bảo tàng là sưu tầm, giữ gìn, bảo quản
các hiện vật gốc, sưu tập hiện vật gốc có giá trị bảo tàng. Trên cơ sở hiện vật
gốc, sưu tập hiện vật gốc có giá trị bảo tàng, bảo tàng tổ chức trưng bày nhằm
thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của mọi tầng lớp công chúng. Đồng thời, bảo tàng
dựa vào cảm tính trực tiếp, có thể tạo ra những điều kiện thuận lợi để nhận thức

những tài liệu hiện vật gốc, sưu tập hiện vật gốc ít hoặc hồn tồn khơng có ở
ngồi bảo tàng cũng như trong thời gian đó về một sự vật, hiện tượng cụ thể.
Từ đó có thể thấy rằng đặc trưng của Bảo tàng Hậu cần là tiến hành các
hoạt động chun mơn nhằm gìn giữ các tài liệu, hiện vật gốc về quá trình
xây dựng và trưởng thành, chiến đấu và phục vụ chiến đấu giành thắng lợi vẻ
vang của bộ đội Hậu cần. Và thông qua trưng bày các tài liệu, hiện vật gốc
trung thực và độc đáo này Bảo tàng tạo điều kiện để khách tham quan nhận
thức bằng cảm tính những vật chứng lịch sử góp phần vào việc giáo dục ý
thức quốc phịng, hướng nghiệp về cơng tác hậu cần cho thế hệ trẻ, đáp ứng
yêu cầu thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, ý
thức dân tộc và niềm tự hào dân tộc cốt lõi để tìm ra những điểm riêng biệt
nhất của Bảo tàng Hậu cần khác với các bảo tàng khác. Như vậy riêng việc

11


tìm ra những đặc trưng của Bảo tàng Hậu cần là điều rất quan trọng để trên cơ
sở đó mà xác định rõ nội dung cụ thể của các hoạt động nghiệp vụ cũng như
định hướng phát triển trong tương lai.
Bảo tàng Hậu cần có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Bảo tàng là nơi nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, giữ gìn các
tài liệu hiện vật gốc, sưu tập hiện vật gốc phản ánh quá trình xây dựng và
trưởng thành, chiến đấu và phục vụ chiến đấu giành thắng lợi vẻ vang của bộ
đội Hậu cần.
Thứ hai: Trên cơ sở tài liệu hiện vật gốc, sưu tập hiện vật gốc, Bảo tàng
Hậu cần tiến hành các hoạt động nghiệp vụ như: nghiên cứu, sưu tầm, kiểm
kê, bảo quản, trưng bày, giáo dục. Nội dung trưng bày của bảo tàng được xây
dựng nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa, tìm hiểu truyền thống anh hùng và lịch
sử vẻ vang của ngành Hậu cần quân đội.
Thứ ba: Bảo tàng đã tạo điều kiện thuận lợi để công chúng cảm nhận trực

tiếp những hiện vật gốc, phản ánh lịch sử truyền thống của lực lượng Hậu cần.
1.1.2.2. Chức năng
Thuật ngữ “chức năng” được giải thích trong cuốn “Từ điển tiếng Việt”
của Viện Ngơn ngữ học do Hồng Phê chủ biên (xuất bản năm 2004) như sau:
“chức năng là thuật ngữ chỉ tác dụng, vai trị bình thường hoặc đặc trưng của
một người nào đó hoặc một cái gì đó”1.
Chức năng của một hiện tượng ln có sự thay đổi, hay hiểu một cách
khác nói đến chức năng là nói đến nhiệm vụ cụ thể của nó. Chức năng của
Bảo tàng cũng khơng phải là bất biến bởi vì bảo tàng là một thiết chế thuộc
thượng tầng kiến trúc của xã hội nên nó phải phụ thuộc vào hạ tầng cơ sở xã
hội của nó.
1

Hồng Phê (chủ biên)( 2004), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ xuất bản, Tr.191.

12


Việc xác định đúng chức năng của bảo tàng có ý nghĩa quan trọng vì
chỉ khi nào xác định rõ vai trị của bảo tàng thì mới thấy được tầm quan trọng
của nó trong xã hội. Từ đó, mới có định hướng hoạt động, đầu tư phát triển
bảo tàng một cách đúng đắn.
Chính vì ý nghĩa đó mà đến nay khi nói về chức năng bảo tàng có nhiều
quan niệm khác nhau trong giới bảo tàng học và trên thế giới cũng như ở nước ta.
Đây là vấn đề liên quan tới định nghĩa bảo tàng. Các nhà bảo tàng học Mác xít
khẳng định bảo tàng có hai chức năng chủ yếu là chức năng nghiên cứu khoa học
và giáo dục phổ biến khoa học. Từ điển thuật ngữ bảo tàng của Viện bảo tàng
cách mạng Liên Xô xuất bản năm 1987 xác định hai chức năng đó là chức năng tư
liệu hóa và chức năng tuyên truyền giáo dục. Trong bài “Đôi nét về sự trưởng
thành của ngành bảo tồn bảo tàng sau 50 năm” đã cho rằng bảo tàng với 2 chức

năng cơ bản là nghiên cứu khoa học và giáo dục khoa học.
Trong cuốn Cơ sở bảo tàng học của trường đại học Văn hóa Hà Nội do
PGS.TS. Nguyễn Thị Huệ xuất bản năm 2010 đã đưa ra 5 chức năng.
- Chức năng nghiên cứu khoa học.
- Chức năng giáo dục tuyên truyền.
- Chức năng bảo quản di sản văn hóa.
- Chức năng tài liệu hóa khoa học.
- Chức năng thơng tin, giải trí và thưởng thức.
Xuất phát từ vai trò của bảo tàng trong xã hội, đặc biệt qua nghiên cứu
thực tiễn hoạt động, Bảo tàng Hậu cần thực hiện các chức năng cơ bản của
mình như sau:
1/ Chức năng nghiên cứu khoa học.
Bảo tàng thực hiện chức năng nghiên cứu khoa học - một trong những
chức năng cơ bản quan trọng nhất, nó có vai trò, ý nghĩa to lớn đối với bảo
tàng đồng thời là tiền đề, là cơ sở cho mọi hoạt động của bảo tàng.

13


Nghiên cứu khoa học là hoạt động của trí tuệ đồng thời cũng để sản
sinh ra trí thức. V.L.Lênin đã viết: “khơng có cơng tác nghiên cứu khoa học,
các bảo tàng không thể đem lại tri thức cần thiết cho nhân dân chúng ta”.
Đối với Bảo tàng Hậu cần, công tác nghiên cứu khoa học gồm hai
hướng đó là nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, hai hướng này không
đối lập nhau mà bổ sung cho nhau.
Đối tượng nghiên cứu khoa học là các hiện vật gốc phản ánh những
điểm cơ bản về quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, những hiện vật
về quá trình ra đời, chiến đấu, trưởng thành và chiến thắng của bộ đội Hậu cần.
Giá trị khoa học của hiện vật gốc ngày càng được nâng cao hơn bởi sự đầu tư
nghiên cứu của cán bộ Bảo tàng. Những hiện vật đó chính là đối tượng nghiên

cứu nhằm khám phá những nội dung giá trị lịch sử - văn hóa - khoa học của
hiện vật, sưu tâp hiện vật để phục vụ nhu cầu tìm hiểu của cơng chúng.
Các hoạt động nghiên cứu khoa học ở Bảo tàng Hậu cần có tác dụng
định hướng nhiệm vụ nghiên cứu ở từng khâu nghiệp vụ như sưu tầm, kiểm
kê, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả của
các khâu công tác nghiệp vụ này.
2/ Chức năng giáo dục tuyên truyền.
Đặc trưng của giáo dục khoa học ở bảo tàng là lấy hiện vật gốc làm cơ
sở. Thông qua hoạt động trưng bày tại bảo tàng và các hình thức tuyên truyền
khác. Chức năng giáo dục tuyên truyền ở Bảo tàng Hậu cần thông qua hiện
vật gốc trên hệ thống trưng bày nhằm phổ biến tri thức, giáo dục tình cảm,
giáo dục thẩm mỹ, cung cấp cho cơng chúng bảo tàng những sử liệu được lựa
chọn, sắp xếp theo chủ định, làm cho người xem lĩnh hội được những tri thức
mới, tạo cho họ những cảm xúc và óc thẩm mỹ, làm giàu thêm trí tuệ và tâm
hồn họ từ đó góp phần tuyên truyền giáo dục truyền thống hào hùng của các
thế hệ cán bộ, chiến sỹ hậu cần qua các thời kỳ đã cống hiến, hy sinh xương

14


máu trên các trận tuyến hậu cần, giữ gìn và phát huy bản chất cách mạng,
những truyền thống vẻ vang của bộ đội hậu cần.
Bảo tàng Hậu cần là bảo tàng thuộc loại hình lịch sử quân sự nên nội
dung phản ánh của Bảo tàng bao gồm nhiều vấn đề đặc trưng nhất là phản ánh
lịch sử ngành Hậu cần quân đội trong quá trình dựng nước và giữ nước từ thời
đại Hùng vương đến nay. Thông qua hiện vật gốc Bảo tàng giáo dục truyền
thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm, lòng tự hào về sự nghiệp dựng nước
và giữ nước của dân tộc, giáo dục lịch sử ngành Hậu cần và những phẩm chất
cao đẹp của con người Việt Nam. Từ những đặc điểm riêng, Bảo tàng cần tìm
ra những nét đặc sắc để đưa vào nội dung phản ánh, tạo ra hiệu quả giáo dục

thiết thực nhằm biến những giá trị tiềm tàng thành những giá trị văn hóa hiện
thực, làm cho các giá trị đó đi vào đời sống của mọi người góp phần hình
thành những phẩm chất truyền thống mới tốt đẹp hơn.
3/ Chức năng bảo vệ di sản văn hóa vật chất về lịch sử Hậu cần.
Chức năng bảo vệ di sản văn hóa vật chất được cụ thể trong bảo tàng là
bảo vệ hiện vật bảo tàng. Hiện vật bảo tàng là cơ sở vật chất để hình thành, tồn
tại, phát triển của bảo tàng, bởi vậy, bảo vệ hiện vật bảo tàng đồng nghĩa với bảo
vệ bảo tàng. Thực hiện chức năng này, Bảo tàng Hậu cần bảo vệ các hiện vật
được lưu giữ tại bảo tàng. Các hiện vât phản ánh quá trình hình thành, chiến đấu,
trưởng thành và chiến thắng của bộ đội Hậu cần. Bảo vệ hiện vật bao gồm nhiều
vấn đề. Trước hết là bảo vệ về mặt pháp lý đối với hiện vật, sau là bảo vệ hiện
vật được an toàn, giữ cho hiện vật tồn tại được lâu dài trước tác động của thiên
nhiên, môi trường, sự phá hoại của con người. Thực hiện chức năng bảo vệ di
sản văn hóa vật chất về lịch sử ngành Hậu cần chính là thực hiện Luật di sản văn
hóa, thực hiện nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
đường lối đổi mới của Đảng bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp
của dân tộc trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

15


4/ Chức năng tư liệu hóa các sự kiện, hiện tượng bằng hiện vật gốc.
Các nhà bảo tàng học cho rằng “tư liệu hóa khoa học là việc nghiên
cứu, thu thập, chọn lựa các tài liệu hiện vật gốc tiêu biểu cho những giai đoạn
của cả quá trình phát triển của hiện tượng đó. Đó là việc lập hồ sơ lý lịch khoa
học, miêu tả tài liệu văn kiện về hiện vật đó, là việc đảm bảo đầy đủ những
thủ tục quy định về mặt khoa học và pháp lý nhằm giữ gìn lâu dài
những hiện vật đó trong bảo tàng để phục vụ nghiên cứu khoa học, giáo dục,
phổ biến kiến thức khoa học cho đất nước”1.
Bảo tàng Hậu cần thực hiện chức năng tư liệu hóa các sự kiện, hiện

tượng thông qua kết quả nghiên cứu sự kiện, hiện tượng mà tiến hành sưu tầm
hiện vật giúp cho việc tái hiện các sự kiện, hiện tượng một cách chân thực,
gắn với lịch sử, góp phần lý giải các sự kiện, hiện tượng một cách khách quan
để từ đó rút ra những kinh nghiệm, những bài học cho hiện tại và tương lai.
Đồng thời tiến hành tư liệu hóa hiện vật và xây dựng các sưu tập hiện
vật đặc trưng của Bảo tàng Hậu cần. Sưu tập hiện vật có vai trị cực kỳ to lớn
đối với bảo tàng. Nhiều nhà bảo tàng học và sử học ở Việt Nam xác định các
sưu tập hiện vật “ quyết định sự ra đời của một bảo tàng” và “ không chỉ có
thế, nó cịn quyết định chính sự tồn tại và phát triển của bảo tàng”. Công tác
xây dựng sưu tập hiện vật là việc quan trọng để nâng cao hàm lượng khoa học
đối với nghiệp vụ bảo tàng. Đó là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập,
vừa đem lại kết quả cụ thể cho công tác nghiệp vụ của bảo tàng.
Xây dựng các sưu tập hiện vật “là một hoạt động khoa học ở mức độ
cao và mang tính đặc thù. Đối tượng và tồn bộ sự vận động của nó dựa
trên nền tảng hiện vật”2. Tuy vậy, việc xây dựng các sưu tập hiện vật không
phải bao giờ cũng hoàn thiện ngay từ đầu mà phải tiến hành liên tục. Liên
tục bổ sung thông tin để các sưu tập hiện vật ngày càng có giá trị hơn. Để
1

2

Cơ sở bảo tàng học – Trường Đại học Văn hóa Hà Nội xuất bản năm 1990.
Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (1994), Sưu tập hiện vật bảo tàng, Nxb Văn hóa, tr. 22

16


làm được điều đó địi hỏi cơng tác tư liệu hóa phải tiến hành cơng phu,
phức tạp với sự phối hợp của tất cả các khâu công tác nghiệp vụ của bảo
tàng. Mỗi sưu tập hiện vật bao giờ cũng có những tiêu chí xác định u cầu

tối thiểu về mặt khoa học. Dù là sưu tập lớn hay sưu tập nhỏ đều phải được
hội đồng khoa học thẩm định, được Giám đốc phê duyệt và đăng ký vào sổ
sưu tập hiện vật để khẳng định về mặt pháp lý. Đây là một trong những yêu
cầu mang tính nguyên tắc của cơng tác tư liệu hóa các sưu tập hiện vật bảo
tàng. Hiện vật bảo tàng là nguồn sử liệu, bản thân hiện vật chứa đựng
những thông tin về lịch sử tự nhiên, xã hội. Tư liệu hóa hiện vật giúp cho
việc nhận biết hiện vật “gốc” hay “làm lại”, nội dung lịch sử có chính xác
khơng, đưa vào sưu tập nào là phù hợp. Tư liệu hóa là làm sáng tỏ những
thông tin về hiện vật, bổ sung, sửa chữa thông tin cho hiện vật một cách
đúng và đầy đủ nhất.
Chức năng tư liệu hóa sự kiện, hiện tượng bằng hiện vật gốc chính là
hoạt động để tạo dựng nên hiện vật bảo tàng với đầy đủ yêu cầu khoa học của
nó làm cơ sở cho việc tái hiện các sự kiện hiện tượng. Tư liệu hóa sự kiện,
hiện tượng bằng hiện vật gốc địi hỏi tính khoa học cao, mang đậm nét kỹ
năng thao tác nghiệp vụ và sản phẩm của nó ở dạng dữ liệu sự kiện…
Từ đó hoạt động nghiên cứu khoa học sử dụng tạo ra sản phẩm của
mình, đó là những cơng trình, những đề tài khoa học hàm chứa những phát
kiến, phát minh, phát hiện, tạo ra những tri thức mới cho chính bảo tàng hoặc
cho các ngành khoa học khác.
Xác định chức năng của Bảo tàng Hậu cần là vấn đề hệ trọng. Nó có ý
nghĩa tiên quyết để định hướng hoạt động, phát triển của bảo tàng trong giai
đoạn trước mắt và lâu dài. Trong quá trình hoạt động, trước yêu cầu ngày
càng cao của xã hội, ngoài các chức năng trên, trong tương lai Bảo tàng Hậu
cần có thể thực hiện nhiều chức năng khác như chức năng trung tâm thơng tin,
trung tâm văn hóa…

17


Với đặc trưng và chức năng như vậy, kể từ khi thành lập đến nay Bảo

tàng Hậu cần đã bước đầu khẳng định được vị trí của mình trong hệ thống bảo
tàng quân đội Việt Nam, trở thành một địa chỉ sinh hoạt văn hóa hấp dẫn của
cán bộ, chiến sĩ và quần chúng nhân dân.
1.1.3. Cơ cấu tổ chức
Cùng với sự phát triển và trưởng thành về lĩnh vực chuyên môn trong
những năm qua Bảo tàng luôn chú trọng tới cơng tác xây dựng đơn vị vững
mạnh tồn diện, thường xuyên củng cố tổ chức biên chế không ngừng được
lớn mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển của Bảo tàng Hậu cần, hầu hết
cán bộ, nhân viên, đều được đào tạo cơ bản có gần 100% đồng chí tốt nghiệp
đại học trong đó có 70% tốt nghiệp Đại học Văn hóa Hà Nội, chuyên ngành
bảo tàng, có 01 đồng chí tốt nghiệp Thạc sĩ, 01 đồng chí trình độ Tiến sĩ.
Trong những năm qua, cấp ủy, chỉ huy Bảo tàng Hậu cần đã chú trọng công
tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, công tác chuyên môn, hàng năm
đều cử nhiều cán bộ, nhân viên đi học tập tại các trường đại học trong và
ngoài quân đội.
Cơ cấu tổ chức Bảo tàng Hậu cần được phát triển và hình thành các ban
như: Ban giám đốc, Ban Sưu tầm, Kiểm kê Bảo quản, Ban Trưng bày Tuyên
truyền, Ban Hành chính Tổng hợp. Tồn bộ bộ máy của bảo tàng đến nay đã
hoạt động nhịp nhàng phát huy hiệu quả tốt.
Về tổ chức Đảng, có chi bộ trực thuộc Đảng bộ Cục Chính trị với 22
đồng chí Đảng viên, trong những năm qua chi bộ luôn đạt trong sạch vững
mạnh, 100% Đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ.
1.2. Các hoạt động nghiệp vụ của Bảo tàng Hậu cần
1.2.1. Công tác nghiên cứu khoa học
Công tác nghiên cứu khoa học ở Bảo tàng Hậu cần trong những năm
qua đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động nghiệp vụ.
Nghiên cứu khoa học ở Bảo tàng góp phần tổng kết hoạt động của bảo tàng cả

18



về mặt lý luận và thực tiễn nhằm dự báo tình hình, nhu cầu phát triển của bảo
tàng những năm tiếp theo, đưa ra những hoạch định chiến lược, kế hoạch hoạt
động, phát triển của bảo tàng. Mặt khác, còn giúp cho Giám đốc Bảo tàng
Hậu cần có cách nhìn nhận, đánh giá các vấn đề một cách khoa học, biện
chứng, nhận thức rằng nghiên cứu khoa học phải đi trước một bước, từ đó
quản lý bảo tàng ngày một tốt hơn.
Nghiên cứu khoa học ở Bảo tàng Hậu cần là chìa khóa để mở cửa cho
những hiểu biết ngày càng sâu sắc và chính xác về khoa học bảo tàng, tạo ra,
truyền bá, ứng dụng các vấn đề đó nhằm nâng cao hiệu quả các khâu công tác
nghiệp vụ, mở ra những triển vọng tốt đẹp cho sự nghiệp đổi mới hiện nay ở
Bảo tàng, đáp ứng yêu cầu của xã hội đặt ra cho ngành bảo tàng trong tình
hình hiện nay và tương lai.
Bảo tàng Hậu cần ln chú trọng tới công tác nghiên cứu khoa học
bao gồm cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng. Có thể nói, nghiên
cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng ở Bảo tàng Hậu cần theo vịng trịn
xốy trơn ốc. Một mặt nghiên cứu ứng dụng triển khai, vận dụng những
nguyên lý do nghiên cứu cơ bản đưa ra để phát hiện ra giải pháp. Mặt khác,
nghiên cứu cơ bản cũng dựa trên kết quả của nghiên cứu ứng dụng và triển
khai để tìm ra bản chất và quy luật của lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân,
lịch sử các cuộc kháng chiến của nhân dân ta, quy luật hoạt động của bảo
tàng thuộc loại hình lịch sử xã hội nói chung và của bảo tàng trong hệ
thống bảo tàng qn đội nói riêng.
1.2.2. Cơng tác sưu tầm
Cơng tác sưu tầm ở Bảo tàng Hậu cần được coi là “đầu vào” của Bảo
tàng. Đầu vào này vô cùng quan trọng nó quyết định sự sống cịn, sự giàu có
của một bảo tàng. Dù sử dụng bằng các phương pháp khác nhau, thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau đều nhằm lựa chọn, phát hiện các hiện vật có giá trị
bảo tàng phù hợp với loại hình bảo tàng để bổ sung cho kho cơ sở, phục vụ


19


nâng cấp mở rộng các phần trưng bày của Bảo tàng, kiện tồn các sưu tập,
phục vụ cho cơng tác nghiên cứu khoa học. Sản phẩm nghiên cứu khoa học
của hoạt động sưu tầm là các đề cương sưu tầm và hiện vật gốc sưu tầm được
phản ánh tính chất nghiên cứu của Bảo tàng Hậu cần. Đó cũng là một trong
những trọng tâm của công tác nghiên cứu khoa học của Bảo tàng Hậu cần.
Quy trình nghiên cứu khoa học của công tác sưu tầm phải được tiến hành từ
khi xác định nội dung, chủ đề, chuẩn bị khảo sát, khảo sát thực địa đến kết
thúc cuộc khảo sát. Công tác nghiên cứu tập trung nghiên cứu nội dung sưu
tầm, nghiên cứu ghi chép, mô tả hiện vật.
Để bổ sung hiện vật cho kho cơ sở thì hàng quý, hàng năm Bảo tàng
đều có kế hoạch sưu tầm cụ thể. Kết quả sưu tầm phải đạt kết quả cả về số
lượng và chất lượng và phải thông qua Hội đồng xét duyệt của Bảo tàng mới
được nhập kho cơ sở. Những năm gần đây hoạt động sưu tầm của Bảo tàng
Hậu cần có những bước phát triển mới, trung bình hàng năm sưu tầm được
trên 400 hiện vật các loại, kết quả sưu tầm được đưa đi trưng bày triển lãm.
Việc tổ chức trưng bày triển lãm một mặt tuyên truyền mặt khác động viên
cán bộ chiến sỹ và nhân dân tặng hiện vật cho bảo tàng.
1.2.3. Công tác kiểm kê – kho bảo quản
Công tác kiểm kê bảo quản ở Bảo tàng Hậu cần xác lập thủ tục pháp lý
ghi chép khoa học và bảo quản giữ gìn các hiện vật bảo tàng, làm sáng tỏ
những giá trị thông tin, chứa đựng trong hiện vật đồng thời sử dụng các biện
pháp bảo quản nhằm kéo dài tuổi thọ cho hiện vật, kiên quyết loại bỏ những
hiện vật không đủ tiêu chuẩn hiện vật bảo tàng.
Công tác này nghiên cứu thành phần cấu trúc kho bảo tàng, phân loại
hiện vật, nghiên cứu xây dựng sưu tập; nghiên cứu ứng dụng công nghệ tin
học trong quản lý, khai thác sử dụng hiện vật một cách nhanh nhất, hiệu quả
nhất; nghiên cứu các loại hóa chất, mơi trường, độ ẩm và các thiết bị bảo quản

hiện vật. Việc nghiên cứu khoa học ở hoạt động này bao gồm cả việc xác định

20


hiện vật về nội dung mối quan hệ giữa nội dung hiện vật với sự kiện lịch sử,
tính nguyên gốc, niên đại, chủ nhân hiện vật, những dấu hiệu đặc
trưng…,phân loại, hệ thống hóa chúng và nghiên cứu bảo quản hiện vật.
Sản phẩm của công tác nghiên cứu trong hoạt động này nhằm đưa
các hiện vật vào sổ đăng ký hiện vật, quản lý hiện vật về mọi mặt qua hệ
thống phiếu phích tra cứu như phiếu kiểm kê, phiếu ảnh, các sưu tập, danh
mục hiện vật…
Công tác bảo quản đã áp dụng nhiều thành tựu mới của khoa học kỹ
thuật bảo quản các loại hiện vật với nhiều chất liệu khác nhau. Đó là ứng
dụng phủ màng minla foóc để bảo quản ảnh, sơn phủ kim loại để bảo quản
ảnh, sơn phủ kim loại để sơn phủ các xe tăng ngoài trời, thuốc bảo quản đồ
giấy đồ dệt. Vấn đề ứng dụng quản lý hiện vật bằng công nghệ tin học được
tiến hành ở Phòng Kiểm kê - Bảo quản đã mang lại hiệu quả trong việc
nghiên cứu khai thác sử dụng hiện vật của Bảo tàng.
1.2.4. Công tác trưng bày
Công tác trưng bày của Bảo tàng Hậu cần là giới thiệu hiện vật và
sưu tập hiện vật gốc của Bảo tàng. Hiện vật chính là ngơn ngữ của các phần
trưng bày. Hiện vật với những đặc trưng và tính chất riêng của Bảo tàng
Hậu cần phần nào đã thể hiện rõ tính chất loại hình của Bảo tàng. Các hoạt
động nghiên cứu trưng bày dựa trên nghiên cứu hiện vật được lưu giữ trong
bảo tàng, nghiên cứu chủ đề trưng bày, mỹ thuật của phần trưng bày, xây
dựng cấu trúc đề mục trưng bày, sử dụng hiện vật trong từng nội dung của
phần trưng bày, nghiên cứu giải pháp trưng bày, nghiên cứu ứng dụng
thành quả của các ngành khoa học khác trong thiết kế mỹ thuật, ánh sáng
cho các phần trưng bày… Trong quá trình nghiên cứu trưng bày, kết quả là

đưa hiện vật ra giới thiệu với công chúng bảo tàng, đồng thời chỉ ra các
hiện vật thiếu trong các chủ đề, yêu cầu công tác nghiên cứu sưu tầm bổ

21


sung. Kết quả của cơng tác trưng bày chính là thể hiện kết quả của các
khâu nghiên cứu nghiệp vụ trước đó.
1.2.5. Cơng tác giáo dục tun truyền
Cơng tác giáo dục tuyên truyền ở Bảo tàng Hậu cần đều dựa trên cơ sở
hiện vật gốc dù bằng hình thức giáo dục nào. Các đối tượng khách tham quan,
nghiên cứu đến bảo tàng đều được giới thiệu tiếp cận với hiện vật gốc của
Bảo tàng. Công tác này phải tiến hành từ khâu xác định chủ đề, nghiên cứu
đối tượng đến nhu cầu của khách tham quan để có phương pháp hướng dẫn,
tuyên truyền có hiệu quả, xu hướng phát triển chung là công chúng tự cảm thụ
những giá trị lịch sử, giá trị văn hóa được hàm chứa trong hiện vật bảo tàng.
Trong hơn 50 năm qua, hoạt động giáo dục tuyên truyền của Bảo tàng
Hậu cần chủ yếu được tập trung vào một số nội dung chủ yếu:
Nội dung thứ nhất là xây dựng các nội dung hướng dẫn phù hợp để giới
thiệu đúng và sinh động, hấp dẫn về truyền thống ngành Hậu cần cho quần
chúng trong nước và nước ngồi thơng qua các hiện vật trưng bày. Tùy theo
yêu cầu, đối tượng, trình độ khách đến với bảo tàng mà cán bộ hướng dẫn có
những nội dung và cách hướng dẫn phù hợp như hướng dẫn tham quan khái
quát, hướng dẫn tham quan theo đề tài…
Nội dung tiếp theo là thực hiện các hình thức tuyên truyền thích hợp
với quần chúng và ở từng thời kỳ cụ thể để vận động nhiều khách đến xem
bảo tàng hoặc đưa được nội dung của bảo tàng tới đông đảo quần chúng trên
khắp mọi miền Tổ Quốc. Viết các báo cáo giới thiệu hiện vật, tư liệu trên báo
viết, báo hình. Ngồi ra, bảo tàng cịn khuyến khích tổ chức cuộc sinh hoạt
chính trị như lễ kết nạp Đảng, Đồn, Đội tại Bảo tàng.

1.3. Vai trị của cơng tác giáo dục trong hoạt động của bảo tàng
Ngày nay ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung, bảo tàng
chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống cơ quan văn hóa, khoa học
và giáo dục của xã hội.

22


Như chúng ta đã biết các di sản văn hóa khơng những phải được giữ
gìn cẩn thận mà cịn phải để phục vụ cho việc tuyên truyền khoa học và giáo
dục quần chúng. Các di sản văn hóa tự nó khơng có ý nghĩa gì nếu chúng ta
khơng tổ chức việc tham quan để tuyên truyền về nó. Đó là công cụ, phương
tiện để giáo dục tư tưởng cho quần chúng.
Bảo tàng là cơ quan có nhiệm vụ sưu tầm, gìn giữ và tổ chức các hoạt
động để phát huy giá trị của di sản văn hóa vào mục tiêu giáo dục khoa học cho
các đối tượng nhân dân. Trong hoạt động, Bảo tàng luôn chú ý đến phục vụ lợi
ích cho xã hội bằng việc thực hiện chức năng của mình. Chức năng của bảo
tàng cũng chính là ý nghĩa xã hội của bảo tàng trong quan hệ đối với xã hội.
Đặc trưng của công tác giáo dục khoa học ở bảo tàng là sử dụng hiện
vật gốc làm cơ sở cho việc tiến hành các hoạt động tuyên truyền - giáo dục.
Toàn bộ hoạt động của bảo tàng đều dựa trên cơ sở hiện vật gốc. Hiện vật gốc
là nguồn nhận thức trực tiếp cảm tính cho nhận thức của con người, giúp cho
người xem nhận thức được quá khứ lịch sử một cách trung thực, rung động
bằng trái tim và khối óc, từ đó khơi dậy một niềm tin bền vững nhất.
Phương pháp tuyên truyền giáo dục của Bảo tàng là phương pháp tiếp
thu trực tiếp, để người xem xem xét, tìm hiểu các sự kiện lịch sử ở dạng tự
nhiên. Chính vì vậy sẽ để lại cho người xem những ấn tượng, xúc động mạnh
mẽ. Đây là nét độc đáo làm cho công tác giáo dục của bảo tàng có hiệu quả
hơn bao giờ hết và là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống văn hóa
cộng đồng. Nghị quyết Đại hội lần thứ IV nêu rõ “mục đích bảo tàng của ta là

tuyên truyền và giáo dục quần chúng. Vì vậy tất cả hoạt động nghiệp vụ của
bảo tàng đều lấy việc phục vụ cho các đối tượng quần chúng làm thước đo
chất lượng, hiệu quả của mình. Khơng có cơng tác tun truyền và giáo dục
quần chúng thì cơng tác bảo tàng sẽ mất hết ý nghĩa”.
Như vậy công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng là khâu công tác cuối
cùng đồng thời cũng là tiêu chí, mục đích của tồn bộ hoạt động của bảo tàng.

23


Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, nhận thức được hiệu quả của công tác giáo dục của
Bảo tàng, chúng ta càng thấy được vai trò to lớn của nó trong việc phục vụ
các mục tiêu kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác công tác giáo
dục của Bảo tàng muốn đạt được kết quả tốt khơng có con đường nào khác
buộc chúng ta phải nhìn nhận nó một cách khoa học, gắn nó với thực tại, đời
sống văn hóa - xã hội hiện nay.
Ý nghĩa của công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng của bảo tàng
được thể hiện ở chỗ Bảo tàng giữ một vai trò rất lớn trong việc làm thức dậy
và khai thác được tiềm năng tinh thần của dân tộc ta. Tiềm năng đó chính là
một trong hai yếu tố đảm bảo cho công cuộc đổi mới của đất nước ta đi đến
thắng lợi, đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đang tiến hành công cuộc
đổi mới. Thực tế chỉ ra rằng, bất cứ một hoạt động nào, một công việc nào
hay một cuộc cách mạng nào đều có mục đích rõ ràng. Để đạt được mục đích
đó cần phải có quyết tâm cao, muốn có quyết tâm cao và lịng dũng cảm nhất
thiết phải có niềm tin. Niềm tin nói đến ở đây là niềm tin vào truyền thống
cha ơng, niềm tin vào dân tộc mình, niềm tin vào sự nghiệp mình đang thực
hiện. Cơng cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay là sự nghiệp to lớn của tồn dân
tộc. Muốn vậy phải có sức mạnh tổng hợp, phải khai thác triệt để cả tiềm
năng vật chất và tiềm năng tinh thần. Do đó việc giáo dục truyền thống cho

các thế hệ Việt Nam giữ một vai trò quan trọng, cần được chú ý hơn bao giờ
hết. Giáo dục truyền thống có thể tiến hành bằng nhiều cách thức khác nhau.
Nhưng với ưu thế của mình, việc giáo dục truyền thống thơng qua hoạt động
của Bảo tàng sẽ giữ một ưu thế hơn hẳn.
Để tiến hành công tác tư tưởng, giáo dục, các bảo tàng có thể sử
dụng nhiều hình thức khác nhau nhưng có một điểm mà chúng ta dễ dàng
nhận thấy đó là: các bảo tàng tiến hành công tác giáo dục dựa trên cơ sở tài
liệu, văn hóa gốc. Và cũng chỉ có hiện vật gốc mới đủ sức thuyết phục

24


người ta tin vào một sự kiện hay một hiện tượng lịch sử nào đó nhờ sự tồn
tại hiện hữu thực tế của chúng.
Bảo tàng là một công cụ đắc lực trong sự nghiệp cách mạng nói chung
và mặt trận tư tưởng văn hóa nói riêng. Nói cách khác bảo tàng là lĩnh vực
đặc biệt của ngành văn hóa mà thơng qua nó người ta phát hiện ra q khứ,
hiểu hiện tại và định hướng tương lai.
Ngày nay trong thời đại cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, chúng
ta đã và đang chịu sự tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường và quá trình
“mở cửa” giao lưu với các nước trên mọi lĩnh vực thì hơn bao giờ hết chúng
ta phải sử dụng bảo tàng như một cơng cụ đắc lực và có hiệu quả trong lĩnh
vực tư tưởng văn hóa, bởi tác dụng của nó rất lớn đối với giáo dục, đào tạo
những con người có nhân cách và có kiến thức. Với các hình thức hoạt động
đặc trưng của mình Bảo tàng đã giáo dục tư tưởng, ý thức, tình cảm, thẩm
mỹ… và truyền thụ những kiến thức khoa học cho quần chúng nhân dân. Mà
như chúng ta đã biết, nhân cách và kiến thức là những tiêu chuẩn quan trọng
của con người trong xã hội chủ nghĩa, những con người đang và sẽ góp phần
vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Như vậy để có được những con người nhân cách, có kiến thức, bảo

tàng phải tiến hành cơng tác giáo dục, trong đó việc giáo dục truyền thống là
một nội dung chủ yếu. Việc giáo dục truyền thống thông qua các hoạt động
của bảo tàng dựa trên cơ sở các tài liệu, hiện vật gốc của lịch sử mới là những
bằng chứng xác đáng, tạo được lòng tin cho mọi người vì đúng như cha ơng ta
thường nói: “Trăm nghe khơng bằng một thấy”.
Như vậy, nói đến cơng tác giáo dục truyền thống không chỉ giáo dục
truyền thống lịch sử, cụ thể hơn là giáo dục tinh thần yêu nước, tinh thần dũng
cảm và khí phách kiên cường của quân và dân ta trong các cuộc khởi nghĩa,
cuộc cách mạng và cuộc kháng chiến trong suốt quá trình dựng nước và giữ
nước, mà rất cần thiết phải tuyên truyền giáo dục cho quần chúng nhân dân

25


×