Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Lễ hội báo bản làng nộn khê, xã yên từ, huyện yên mô, tỉnh ninh bình thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ VĂN HÓA – NGHỆ THUẬT
**********

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Lễ hội Báo bản làng Nộn Khê, xã Yên Từ,
huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình – Thực trạng và giải pháp

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện

: Lê Thị Hương

Lớp:

HÀ NỘI - 2011

1


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi.
Nếu có điều gì sai trái tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.

Sinh viên

Lê Thị Hương

2



MỤC LỤC

trang

MỞ ĐẦU……………………………...………………………………..………..3
Chương 1: KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA CỦA LÀNG
NỘN KHÊ, XÃ YÊN TỪ, HUYỆN N MƠ, TỈNH NINHBÌNH…………...…..…………..7

1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế của làng Nộn Khê……………………………....7
1.2. Đặc điểm lịch sử, văn hóa của làng Nộn Khê…………………..………..….9
Chương 2: THỰC TRẠNG LỄ HỘI BÁO BẢN LÀNG NỘN KHÊ, XÃ YÊN
TỪ, HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH………….……………….…..…..18
2.1. Khái niệm chung…………………………..……………….……..………..18
2.2. Nguồn gốc lễ hội Báo bản làng Nộn Khê……………..……………..….....25
2.3. Diễn trình lễ hội Báo bản làng Nộn Khê……….…………………….…….35
2.3.1. Công tác chuẩn bị………………………..…………………………..…..35
2.3.2. Các nghi lễ……………………..…………………………………..…….37
2.3.3. Các hoạt động hội…………………..…………………………..………..41
2.3.4. Những thay đổi trong lễ hội Báo bản làng Nộn Khê xưa và nay…….......43
2.3.5. Ý nghĩa của lễ hội Báo bản làng Nộn Khê………………………….....…44
Chương 3: Ý KIẾN NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỄ HỘI
BÁO BẢN LÀNG NỘN KHÊ……………………………………………….....51
3.1. Đánh giá thực trạng lễ hội Báo bản làng Nộn Khê……………………...…51
3.1.1. Tích cực……………………………………………………………….….51
3.1.2. Hạn chế…………………………………………………………………..52
3.2.Ý kiến nhằm bảo tồn và phát huy giá trị của lễ hội Báo bản làng Nộn Khê.55
KẾT LUẬN …………………………………………………………………....61
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………...…..63
PHỤ LỤC………………………………………………………………...….…65


3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa cổ truyền đã trở thành phong tục
tập quán của dân tộc Việt Nam. Lễ hội được tổ chức để nhằm thỏa mãn nhu cầu
sinh hoạt văn hóa, nhu cầu tâm linh của nhân dân, đồng thời góp phần vào cơng
tác giáo dục truyền thống văn hóa chống ngoại xâm của dân tộc ta trước đây và
cho thế hệ mai sau. Lễ hội còn là nơi thu hút, sáng tạo nhiều loại hình nghệ thuật,
thể thao và các trò chơi dân gian, là bảo tàng sống về văn hóa tinh thần. Thơng
qua sinh hoạt lễ hội, nhiều mơn nghệ thuật, nhiều trị chơi, diễn xướng ….được
phục hồi, theo đó nó có sự tác động sâu sắc đến tình cảm, góp phần xây dựng
nhân cách và tâm hồn trong sáng của con người, giáo dục nâng cao truyền thống
đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”. Lễ hội là địa điểm đến lý tưởng, hấp dẫn đối
với người dân, lễ hội không những đưa họ đến với những di tích, góp phần tơn
tạo, tu sửa di tích, danh lam thắng cảnh, mà còn nâng cao ý thức trách nhiệm của
cả cộng đồng trong việc bảo vệ chống xuống cấp di tích. Thơng qua lễ hội thì
những mơ ước, nguyện vọng và năng lực sáng tạo văn hóa của nhân dân sẽ được
thể hiện, qua đó góp phần quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa, để nâng
cao lịng tự tơn dân tộc, là thành lũy để kháng chống lại những văn hóa phẩm độc
hại, hướng con người đến với cái chân, thiện, mỹ trong xã hội.
Công tác quản lý và tổ chức lễ hội trong những năm qua được sự quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp, các ngành và sự hưởng ứng mạnh mẽ của các tầng
lớp nhân dân trong phong trào Toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa. Lễ
hội hoạt động theo đúng quy định của Nhà nước và phát huy vai trò chủ thể,
năng lực sáng tạo trong tổ chức lễ hội của nhân dân. Thông qua hoạt động của
các Ban tổ chức lễ hội, từng bước phát huy vai trị chỉ đạo, quản lý của chính


4


quyền cơ sở và vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, của các đơn vị, cá nhân,
các già làng, trưởng thôn và các nghệ nhân dân gian.
Tuy nhiên thời gian qua, công tác quản lý và tổ chức lễ hội bộc lộ những
yếu kém như sự quá tải về số lượng khách tham gia lễ hội. Trong khi đó khn
viên di tích, danh thắng và khơng gian tổ chức lễ hội có giới hạn, khơng đáp ứng
nổi với nhu cầu thực tế, dẫn đến tình trạng lộn xộn, ùn tắc giao thông, tư thương
nâng giá dịch vụ làm phiền lịng du khách, tạo những hình ảnh phản cảm, làm
biến dạng bức tranh đẹp của lễ hội Việt Nam. Bên cạnh đó là sự mất cân đối giữa
nguồn lực đầu tư và hiệu quả tổ chức. Một số địa phương tổ chức lễ hội bằng
ngân sách Nhà nước nhưng lễ hội thiếu hiệu quả, gây lãng phí tiền của Nhà nước
và nhân dân. Cùng với sự lãng phí là bệnh ganh đua, phơ trương thanh thế dịng
họ, lãng xã trong tổ chức lễ hội. Nhiều lễ hội dân gian kéo dài quá thời gian quy
định, tổ chức thiếu căn cứ khoa học làm cho nội dung nhiều lễ hộ trùng lặp,
không thể hiện được bản chất đặc trưng. Việc khai thác và phát huy các trò diễn
xướng, trò chơi, hoạt động thể thao dân gian còn hạn chế. Bên cạnh những nghi
thức đã định, có biểu hiện pha tạp, vay mượn hoặc cải biên làm biến dạng nghi
thức lễ hội dân gian cho nên có nguy cơ bị phai mờ bản sắc các lễ hội.
Lịch sử phát triển nhân loại cho thấy văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, nó khơng chỉ là mục tiêu mà cịn là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của từng quốc gia. Văn hóa là từ nội hàm rất rộng bao trùm cả lĩnh vực
lịch sử, giáo dục, xã hội,… Văn hóa giúp cho lịch sử con người nhận thức được
không gian và mọi vật xã hội tiến tới chân – thiện – mỹ. Trải qua bao biến
chuyển của lịch sử, nếu có một điều đáng tự hào của nhân loại nói chung, đó
chính là thành tựu văn hóa. Lịch sử trên thế giới đã chứng minh: lớp bụi thời
gian sẽ làm phai mờ tất cả, trừ giá trị văn hóa mãi mãi lưu truyền. Trong thời đại
ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển và các quốc gia trên thế giới ngày

5



càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc trở thành trung tâm của sự chú ý.
Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước Việt Nam nhiều lần khẳng định vai trị
quan trọng của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người,
đồng thời đặt mục tiêu “Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn
hóa dân tộc”.
Đối với từng quốc gia đều có những nét văn hóa rất riêng, rất đặc trưng
của quốc gia dân tộc mình gắn liền với sắc thái văn hóa của tất cả các dân tộc
sinh sống trên quốc gia đó. Đối với từng đơn vị hành chính (tỉnh, huyện) của một
quốc gia, bên cạnh tất cả các sắc thái văn hóa của các dân tộc đang sinh sống cịn
có những địa danh, khu di tích lịch sử, các lễ hội truyền thống…góp phần tạo
nên những nét văn hóa đơn nhất, rất đặc sắc của đơn vị hành chính đó. Do đó,
nếu biết phát huy và phát triển các giá trị văn hóa của mỗi con người, của các
cộng đồng dân tộc, của từng khu di tích lịch sử, của từng lễ hội truyền thống một
cách lành mạnh thì càng có điều kiện thúc đẩy q trình tăng trưởng kinh tế, giải
quyết tốt các vấn đề xã hội.
Do vậy, hiện đang là một sinh viên Khoa quản lý văn hóa, Trường Đại học
văn hóa Hà Nội; là một người con của quê hương Yên Mô - Ninh Bình, tơi muốn
góp phần bảo vệ bản sắc văn hóa của q hương mình nói riêng và của dân tộc
Việt Nam nói chung, nên tơi đã chọn đề tài: “ Lễ hội Báo bản làng Nộn Khê, xã
Yên Từ, huyện n Mơ, tỉnh Ninh Bình – Thực trạng và giải pháp” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu và làm rõ những giá trị văn hóa truyền thống của Lễ hội Báo bản
làng Nộn Khê trong cuộc sống đương đại. Từ đó đề xuất ý kiến nhằm phát huy
giá trị văn hóa của Lễ hội Báo bản làng Nộn Khê.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

6



Lễ hội Báo bản làng Nộn Khê, xã Yên Từ, huyện n Mơ, tỉnh Ninh Bình.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Đề tài này giải quyết các nhiệm vụ sau:
♦ Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa của làng Nộn Khê, xã n Từ,
huyện n Mơ, tỉnh Ninh Bình.
♦ Khảo tả lễ hội Báo bản làng Nộn Khê.
♦ Đề xuất ý kiến nhằm bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Báo bản làng Nộn Khê.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
 Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
 Phương pháp quan sát.
 Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu.
 Phương pháp điền dã kết hợp với phỏng vấn.
6. Đóng góp của đề tài.
♦ Khẳng định giá trị của lễ hội Báo bản làng Nộn Khê.
♦ Hệ thống các tài liệu về lễ hội Báo bản làng Nộn Khê.
♦ Làm tư liệu tham khảo cho công tác quản lý lễ hội ở địa phương.
7. Cấu trúc của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa của Làng Nộn
Khê, xã Yên Từ, huyện n Mơ, tỉnh Ninh Bình.
Chương 2: Thực trạng lễ hội Báo bản làng Nộn Khê, xã Yên Từ, huyện Yên
Mô, tỉnh Ninh Bình.
Chương III: Ý kiến nhằm bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội Báo bản làng
Nộn Khê.

7



Chương 1
KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HĨA CỦA LÀNG
NỘN KHÊ, XÃ N TỪ, HUYỆN N MƠ, TỈNH NINH BÌNH.
1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế của làng Nộn Khê, xã Yên Từ, huyện Yên
Mô, tỉnh Ninh Bình.
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên.
Nộn Khê là tên một làng cổ thuộc xã n Từ, huyện n Mơ, tỉnh Ninh
Bình. Ngày nay, làng Nộn Khê có phía Bắc giáp làng Quảng Phúc (xã n
Phong, huyện n Mơ), phía Đơng giáp làng Quảng Từ (cũng xã n Từ), phía
Nam giáp thơn Dân Chủ (trước kia gọi là xóm Trại Quảng Từ) và sơng đào, bên
kia sơng là làng Bình Hải (xã n Nhân, huyện n Mơ), phía Tây là cánh đồng
của làng, bên kia cánh đồng là làng Cơi Trì (xã n Mỹ, huyện n Mơ).
Diện tích đất của làng Nộn Khê là 135 mẫu, trong đó có 54 mẫu đất thổ cư,
81 mẫu là đất nông nghiệp. Dân số năm 2009 là 3.795 nhân khẩu, trong đó có
1.234 lao động thu nhập chính là nghề chế biến chiếu cói xuất khẩu.
Hiện nay, làng có 4 xóm: xóm Chung, xóm Cầu, xóm Thượng, xóm Chùa;
có 4 Chi bộ Đảng với 120 đảng viên; chính quyền có 4 xóm trưởng và các đoàn
thể quần chúng (Mặt trận Tổ quốc, Hội người cao tuổi, Hội phụ nữ, Đoàn thanh
niên, Cựu chiến binh, Hội nơng dân), các chi hội trưởng ở các xóm trong làng.
Bốn xóm của làng Nộn Khê (là xóm Thượng, xóm Chung, xóm Cầu, xóm
Chùa) tạo thành hình chữ “thập” (+), trung tâm làng là Đình làng (năm Minh
Mệnh Bính Dần – 1836); đầu làng là Trường Nộn Khê (xây dựng những năm
đâu thế kỷ XX); tiếp vào đường Cao tới sân Vận động (khánh thành năm 1941);
qua phía Nam làng là Chợ Hơm sát xóm Cầu; qua đường Ngự Đạo tới Cầu Ngói
bắc ngang dịng sơng Trinh Khê phía Tây làng; dọc bên này sông là Miếu
Thượng, Miếu Nam, bên kia sơng là Phủ thờ Mẫu; giữa xóm Chùa có ngôi chùa

8



cổ Nghiêm Khánh và gần đó là nhà thờ Thiên Chúa giáo. Bao quanh phía Bắc,
Tây và Nam làng là cánh đồng làng thẳng cánh cò bay, trồng lúa và trồng màu.
Một làng quê trải dài trên một ngàn hai trăm mét, những cánh đồng thẳng
cánh cò bay, hai vụ lúa, hai vụ màu, lúa vàng, bông trắng, rau xanh bốn mùa tươi
tốt; trong làng có một hệ thống ao hồ dày đặc, xen kẽ thổ cư; một dải đường Cao
hai bên trồng nhãn, những hàng tre bao bọc phí sau làng quanh năm xanh mát,
chim cò làm tổ, tiếng nói râm ran, hịa với tiếng sáo diều vi vu trên bầu trời, tiếng
sáo mục đồng bên bờ sông Trinh… Đó là lá phổi lớn, là chiếc máy điều hịa
nhiệt độ khổng lồ, tạo nên một khơng khí thanh bình và một môi trường sinh thái
trong sạch cho cả khu vực dân cư đã tồn tại trên năm thế kỷ.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế.
Về nghề nghiệp, từ xưa các cụ đã có sáng kiến phát triển hai mặt nơng
nghiệp và thủ công nghiệp, hai bên dựa vào nhau và hỗ trợ nhau, giống như
đường lối công nông liên minh của thời đại ngày nay. Điều đó đã tạo nên những
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, xây dựng một hạ tầng cơ sơ vững
chắc và trên đó là thượng tầng kiến trúc, là mặt văn hóa tinh thần cũng được phát
huy thuận lợi, có những đặc điểm tốt hơn các địa phương lân cận và được coi là
quê hương văn vật.
Đến nay nghề chính của làng Nộn Khê vẫn là nghề trồng lúa nước, nghề
tiểu thủ công nghiệp, trước kia làm nghề dệt vải, nay chuyển sang làm nghề
chiếu thảm, thêu ren, đan lát. Xưa kia, ca dao vùng đất n Mơ có câu:
Em là con gái Nộn Khê
Sau vụ gặt hái lại về ươm tơ
Tay em thoăn thoắt thoi đưa
Dệt nên tấm vải người ưa người dùng.

9



Bộ phận nhân dân làm nơng nghiệp thì kinh tế của họ phát triển, qua các
năm được mùa liên tiếp tổng sản lượng thu nhập cao nên bình quân lương thực
đầu người của họ từ 450kg đến 500kg/năm. Bên cạnh đó, cịn có khoản thu nhập
khác như: chăn ni gia súc, gia cầm và các loại hoa màu khác.
Tuy nhiên, cho tới nay thì kinh tế của làng vẫn chủ yếu là nông nghiệp thô
sơ nên thu nhập của người dân nhìn chung chưa cao. Những năm gần đây, nhân
dân làng Nộn Khê đã biết tận dụng lợi thế của mình là ln đi đầu với sự phát
triển về nơng nghiệp. Với lợi thế là một thôn thuần nông, sẵn có kinh nghiệm
trồng lúa, trồng màu và ngày càng biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
nên nông nghiệp của Làng ngày càng được nâng cao về sản lượng, năng suất và
diện tích.
Theo như các cán bộ chủ chốt của Làng thì với lợi thế là có diện tích đất
nơng nghiệp khá rộng nên Nộn Khê sẽ ln bán sát nhiệm vụ trọng tâm là sản
xuất nông nghiệp kết hợp với sản xuất sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
thương mại. Ngoài ra trong những năm sắp tới sẽ tập trung kích thích điều tiết
của cơ chế thị trường từng bước xây dựng cơ cấu hợp lý theo hướng giảm tỷ
trọng sản xuất nông nghiệp, tăng tỷ trọng các ngành tiểu thủ công nghiệp và dịch
vụ thương mại.
1.2. Đặc điểm lịch sử, văn hóa của làng Nộn Khê, xã n Từ, huyện n
Mơ, tỉnh Ninh Bình.
1.2.1. Đặc điểm lịch sử.
Theo tục lệ cổ truyền, hàng năm làng Nộn Khê có Lễ hội Báo bản, là một
lễ trọng, cử hành vào ngày 13, 14 tháng Giêng Âm lịch. Tất cả mọi người, từ xưa
tới nay, từ già tới trẻ, từ xa tới gần, không ai là không nghĩ đến ngày Lễ đó. Vì
tất cả mọi người đã ý thức được rằng: Bản là gốc, Báo Bản là nhớ tới gốc, là báo
cáo công đức tiền nhân, những người trước đây đã xây dựng nên làng xóm quê

10



hương này, theo nghĩa “Uống nước nhớ nguồn”. “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
Ngày lễ Báo bản cũng là ngày hội truyền thống phát huy tinh thần và nếp sống
văn hóa của q hương, là ngày gặp mặt đơng vui của tất cả bà con tại làng và bà
con đồng hương xa quê, nhân dịp đầu xuân, trở về thăm lại làng xưa, nhớ tới gốc
cũ.
Nhớ tới gốc cũ, tức là nhớ tơi lịch sử quê hương. Về lịch sử của Làng Nộn
Khê thì các văn bản xưa khơng cịn lưu trữ được đầy đủ, nay chỉ còn căn cứ được
vào một vài tư liệu, như câu đối ở Đình làng:
“Nam lục Nộn duật lai, nãi cương nãi lí”
“Lê Hồng Đức dĩ hậu, hữu cán hữu niên”.
Cho biết rằng: từ đất Lục Nộn, Hà Nam và từ đời Hồng Đức, triều Lê, các
cụ đã tới đây lập nên xóm làng này.
Thế phả họ Bùi (chiếm xạ) có ghi: “Thủy tổ Bùi Cơng Mẫn, tự Do Sinh, kì
tiên Nam Châu, Lục Nộn nhân Lê Hồng Đưc nguyên niên thủy nhập bốc trúc Côi
Khê, mộ dân lập ấp, tùng kỳ cựu ấp chi danh…”. Nghĩa là: Cụ Thủy tổ Bùi Công
Mẫn, tự là Do Sinh, người xã Lục Nộn, thuộc Nam Châu (tức là Hà Nam ngày
nay), năm Hồng Đức thứ nhất bắt đầu vào dựng nhà ở Côi Khê, mộ dân lập ấp và
theo tên ấp cũ (tức là ấp Côi Khê).
Vậy ấp cũ Côi Khê là ấp nào? Theo Gia phả họ Đinh, thì Cụ Đinh Cơng
Hất cũng từ năm Hồng Đức thứ nhất (tức là năm 1470) vào lập ấp ở Hoàng Kim,
tục gọi là làng Lẻ gần đây, đặt tên ấp là Côi Khê. Bài văn bia miếu họ Đinh ở
Hồng Kim (làng Lẻ) có viết: “Lê Hồng Đức nguyên niên, ngô ấp chiếm xạ Côi
Khê, xứ điền canh chưng…”. Nghĩa là: từ năm Hồng Đức thứ nhất (1470), các
cụ đã vào chiếm xạ, lập ấp Côi Khê, mở mang đồng ruộng…
Điều này, xưa nay các Họ trong Làng đều công nhận là: theo thời gian,
cũng năm Hồng Đức thứ nhất, cụ Công Hất họ Đinh đã vào trước, ở tại phía Bắc

11



(Hồng Kim) nhưng có lẽ vì ít người hoặc vì đất đai, điều kiện canh tác không
thuận lợi nên đã chuyển xuống phía Nam, nhập với khu vực họ Bùi. Nên vì thế,
tuy đến vùng này trước nhưng chỉ được coi là “kế canh”, không được tôn là
“chiếm xạ” như cụ Bùi Cơng Mẫn.
Bài văn bia miếu Họ Đinh cịn có đoạn: “Đinh cổ Hồng Kim, hậu tịch vị
Nộn…”. Nghĩa là: họ Đinh trước ở Hoàng Kim, sau nhập tịch vào làng Nộn. Lại
có đoạn: “Chí Hồng Thuận gian, Đinh bát tiên sinh thủy dữ ấp tiên hiền đơn
khất kế canh…”. Nghĩa là: Vào khoảng năm Hồng Thuận (tức là năm 1509 –
1516, đời vua Lê Tương Dực) tám Cụ họ Đinh cùng cả ấp làm đơn xin kế canh
(tức là nhập vào với khu vực họ Bùi).
Đôi câu đối ở cổng miếu Thượng cũ cũng chứng minh rằng: họ Đinh đến
trước. Đôi câu đối viết:
“Giang biên từ miếu kim y tích”
“Xạ đẩu linh tinh bắc dĩ nam”.
Nghĩa là: tịa miếu bên sông này vẫn như cũ, bát nhang vị linh thần đã từ
Bắc vào Nam. Sự tích ấy là nói miếu họ Đinh ở làng Lẻ đã có trước, sau các Cụ
mới xây dựng ngôi miếu Thượng này. Thế phả họ Bùi có ghi rõ: “Nhi phiềm dĩ
Nộn, nhân sở cư tại Cơi Khê, cổ tích kỳ ấp, viết Nộn Khê…”. Nghĩa là: Vì nhớ
tới gốc cũ là Lục Nộn và nhân đương ở Côi Khê nên đã lấy chữ Nộn thay vào
chữ Côi mà gọi là Nộn Khê.
Từ xưa đến nay, các bậc tiền bối và con em trong làng đã đóng góp mồ
hơi, nước mắt, máu xương cho việc xây dựng làng xóm, cho việc dựng nước và
giữ nước. Gia phả các dòng họ, lịch sử thành văn đều có ghi lại những người con
của làng và sự kiện diễn ra tại làng. Qua các cuộc chinh phạt Chiêm Thanh,
kháng chiến chống quân Thanh và các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc, chống thực dân Pháp, phát xít Nhật, đế quốc Mỹ và bọn bành trướng

12



Trung Quốc, nhân dân làng Nộn Khê đã đóng góp cho đất nước những người con
ưu tú của mình trên các lĩnh vực chiến đấu và xây dựng đất nước. Hàng trăm liệt
sĩ, mấy chục thương bình, hàng trăm bộ đội, cơng an, hàng trăm cán bộ, giáo
viên,….đã góp mặt vào sự nghiệp vẻ vang đó của quê hương và đất nước.
Trong thời kỳ Cần Vương, làng đã có 2 vị là cụ Đinh Duy Nham và cụ
Phạm Ba Thạc đi theo Hồng Hoa Thám, nghĩa sỹ n Bái.
Cịn nhiều cụ khác tuy rằng bất đắc chí khơng giúp được việc nước thì
giúp việc làng, với kiến thức văn học và uy tín đạo đức sẵn có các cụ đã đứng ra
xây dựng xóm làng, sửa sang mọi mặt nhất là mặt văn hóa tinh thần, đã sáng lập
thơn, bồi đắp thêm tinh thần và nếp sống tốt đẹp, gọi là thuần phong mỹ tục mà
ngày nay chúng ta còn được rất nhiều ảnh hưởng.
Trong thời gian Mặt trận Đông Dương kết hợp mặt trận bình dân (1936 –
1939) quê hương Nộn Khê đã nảy sinh ra nhiều nhân tố tiến bộ, hưởng ứng
phong trào tìm hiểu Chủ nghĩa Mác – Lênin, tổ chức các nhóm đọc sách và lưu
hành sách, báo cách mạng, tham gia chiến đấu với nhiều hình thức. Đến thời
Việt Minh (1941 – 1945) Nộn Khê lại phát triển thêm các nhân tố trung hiếu,
thành lập các đoàn thể cứu quốc, chuẩn bị theo lệnh khởi nghĩa của Tổng bộ Việt
Minh. Trong thời gian này, được nhân dân lưu ý là đồng chí Phạm Thế Phiệt và
đồng chí Phạm Văn Đước là những đồng chí có những hành động trong việc giải
truyền đơn, cắm cờ kêu gọi nhân dân chống Nhật khi chúng bắt nhân dân ta đào
sông Phương Nại phục vụ cho chiến lược quân sự chúng, đó là những bơng hoa
ưu tú của q hương này. Có những hình ảnh đẹp nhất, nổi nhất đã in sâu trong
tâm trí của mỗi người dân khơng bao giờ phai nhạt, như: Đoàn từ mẫu, hội Các
mẹ chiến sỹ, hội Bạch đầu quân, đội Lão du kích, mà trong đó các cụ đã đổ máu,
hy sinh ngay trên mảnh đất quê hương này như cụ Bùi Văn Ước. Bên cạnh đó,
cũng khơng ai qn được hình ảnh đội Thiếu niên Nhi đồng thường xuyên sinh

13



hoạt, với tiếng trống ếch, với đội múa tiên, với tiếng ca hùng tráng ngày đêm như
mở hội trong dân, khơi động lòng người bùng lên một tinh thần say xưa yêu cách
mạng của toàn thể nhân dân. Các hội nghị lớn của huyện, của tỉnh, của khu cũng
thường xuyên được tổ chức ở đây, mà như người ta thường mệnh danh: “Nộn
Khê là thủ đô của huyện, của tỉnh”.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng
như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc làng Nộn Khê có hàng trăm con em lên
đường tham gia chiến đấu ở khắp các chiến trường. Làng có 95 liệt sỹ, 1 bà mẹ
Việt Nam anh hùng và 45 thương bệnh binh (đây là con số ước tính chưa đầy đủ)
đã xả thân vì đất nước và cịn nhiều người hăng hái tiến lên. Có những người ở
tiền tuyến ngày đêm nắm chắc tay súng sẵn sàng đánh giặc, có người lại kiên trì
xây dựng làng trong mọi lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn hóa, chính trị nghệ
thuật….Khơng nơi nào là khơng có những người cán bộ là con em của dân làng
Nộn Khê. Đấy là những phần tử ưu tú đã được Đảng, Nhà nước đào tạo, song
cũng là do từ cái hạt nhân, cái mần mống đã được ấp ủ. Được hấp thụ bởi cái
tinh hoa và truyền thống quý báu của mảnh đất quê hương văn vật này mà nảy
sinh ra như vậy.
Làng cũng đã ủng hộ cho hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc trên 20
tấn lương thực, thực phẩm và hàng trăm triệu đồng, có trên 300 gia đình mua trái
phiếu, công trái quốc gia.
Trong “Tuần lễ vàng” do Chủ tịch Hồ Chính Minh phát động thời kỳ sau
cách mạng tháng Tám năm 1945, làng Nộn Khê đã ủng hộ 2 cây vàng, hàng tạ
đồng và bạc để đúc súng phục vụ cho kháng chiến.
Với những thành tích và công lao cống hiến cho 2 cuộc kháng chiến và
kiến cuốc nên làng Nộn Khê đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều huân
huy chương các loại và bằng khen: 420 gia đình được tặng bản gia đình vẻ vang,

14



8 bảng vàng danh dự, 82 bằng Tổ quốc ghi công, 214 huân huy chương chống
Pháp, chống Mỹ, 45 huân chương chiến thắng, 335 huân chương chiến sĩ vẻ
vang (loại nhất, nhì, ba) và hàng trăm huân chương chiến sĩ giải phóng, 7 huân
chương độc lập và huân chương chiến công, 61 bằng khen và 12 kỷ niệm
chương, 1 huân chương lao động hạng 3 cho ngành tiểu thủ công nghiệp với
thành tích làm hàng xuất khẩu đảm bảo kỹ thuật và thu nhập cao.
1.2.2. Đặc điểm văn hóa.
Nộn Khê là một làng có nền văn hiến lâu đời, có nghề truyền thống từ xa
xưa, nghề truyền thống đó phản ánh nét đẹp bản sắc văn hóa quê hương. Là một
làng xưa kia có một số cụ đỗ đạt khoa bảng, có trình độ văn thơ như: cụ Đồ
Thúy, cụ Phạm Quý Liêm, cụ Tổng Sư, cụ Đồ Tiệm, cụ Sứ Đỉnh,….
Làng Nộn Khê có nhiều cơng trình văn hóa cổ như: 01 đình, 01 chùa, 01
miếu, 01 phủ, 01 nhà thờ Họ giáo, trong đó Đình làng là trung tâm văn hóa của
cả làng. Làng Nộn Khê xưa kia có Hương ước quy định rất nghiêm ngặt để nhằm
thực hiện duy trì nề nếp gia phong, kỷ cương lệ làng phép nước.
Trước đây làng có xây dựng một đội văn nghệ nghiệp dư, hàng năm hoạt
động rất sôi nổi, ln có những đêm biểu diễn phục vụ nhân dân. Ngày nay, vì
cơ chế chuyển đổi của Nhà nứơc và sự tác động của nền kinh tế thị trường nên
đội văn nghệ đã bị mai một.
Một nét đẹp văn hóa của làng là lễ hội truyền thống Báo bản đã có từ xa
xưa, hàng năm tổ chức vào ngày 14 tháng Giêng âm lịch với ý nghĩa ghi nhớ
công ơn của các đấng tiên liệt đã có cơng xây dựng nên làng Nôn Khê tươi đẹp,
trù phú như ngày nay. Nên đã có hai vế câu đối ca ngợi quê hương văn vật này
là:
Đất nước bốn ngàn xuân
Chống giặc ngoại xâm oanh liệt.

15



Quê hương năm thế kỷ
Xây nền văn hiến vẻ vang.
Lễ hội là dịp cho tất cả người dân trong làng gặp gỡ, vui chơi và cùng gắn
kết với nhau hơn nữa. Một minh chứng đơn giản cho việc gắn kết cộng đồng nơi
đây, đó chính là để phục vụ cho nhu cầu tinh thần của chính nhân dân trong làng,
mọi người đã hồn tồn chủ động trong việc tự đóng góp kinh phí hoạt động, chứ
khơng hề trơng chờ vào nguồn tài trợ của cấp trên.
Ngày nay thì đời sống của nhân dân làng Nộn Khê đã có nhiều thay đổi.
Vật chất được nâng lên, nhân dân trong làng đã có nhiều hình thức để hưởng thụ
văn hóa nhưng những giá trị văn hóa cổ truyền vẫn được người dân giữ gìn và
duy trì.
Chính quyền và nhân dân làng Nộn Khê đang tích cực thực hiện theo Nghị
quyết Trung ương V khóa VIII của Đảng với nội dung chính là: Quyết tâm xây
dựng Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Phong
trào đã góp phần khơng nhỏ trong việc giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh
tế - xã hội ở nơi đây. Trong đó, đặc biệt quan tâm việc nâng cao chất lượng việc
xây dựng Gia đình văn hóa, Làng văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa, góp phần
thúc đẩy việc xây dựng văn hóa cho cả cộng đồng.
Một thành cơng trong việc xây dựng đời sống văn hóa cho nhân dân của
chính quyền nơi đây là họ đã biết tận dụng chính nhân lực là quần chúng nhân
dân. Cộng với sự nỗ lực của các ngành, các cấp cho tới nay đời sống của đại bộ
phận nhân dân trong làng đã được nâng lên một bậc cả về vật chất và tinh thần.
Nhiều gia đình tới đăng ký thi đua danh hiệu Gia đình văn hóa, nhiều gương tốt
việc tốt. Hội nghề cũng được thành lập giúp đỡ nhau trong làm ăn cũng như
trong cuộc sống. Nhiều hội thi văn hóa văn nghệ của Đồn thanh niên, người cao
tuổi thu hút được sự tham gia nhiệt tình của quần chúng. Tất cả những hoạt

16



động này đã góp phần đẩy lùi những hiện tượng không lành mạnh trước đây như
những hủ tục lạc hậu, đám cưới, đám ma gây mất thời gian và tiền của. Chính vì
thế mà các sinh hoạt văn hóa của nhân dân trong làng diễn ra trật tự, lành mạnh
và có chiều sâu.
Làng Nộn Khê có một Nhà văn hóa nằm ở trung tâm của làng. Nhà văn
hóa nơi đây phát huy được vai trò trong đời sống tinh thần của nhân dân trong
làng. Nó đã và đang phát huy tác dụng tốt, giữ vai trò như một nhà hoạt động đa
năng, là nơi sinh hoạt, hội họp, sinh hoạt thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ cho
nhân dân như: họp chi bộ Đảng, họp thơn, họp các đồn thể, tổ chức biểu dương
khen thưởng các tâp thể, cá nhân có thành tích trong cộng đồng dân cư…Bên
cạnh những buổi sinh hoạt chính trị xã hội, Nhà văn hóa còn là địa chỉ hấp dẫn
của mọi tầng lớp nhân dân, là nơi hội tụ của khá nhiều các loại hình như các câu
lạc bộ, hội (Sinh vật cảnh, Thơ, Cầu lơng,….).
Truyền thống văn hóa đó đã có từ rất lâu đời: Hiếu học là một điểm nổi
bật. Xưa kia, làng có rất nhiều thầy đồ giỏi, các cụ từ cảnh hàn vi rùi mài kinh
sử, đã làm nên khoa bảng vẻ vang, một sớm vinh quy. Các cụ đã làm dạng dỡ
thanh danh cho mình, cho họ hàng làng xóm q hương. Các cụ cịn muốn mang
tài trí ra ứng dụng với đời, song vì thời thế, hồi bão không thành. Nhiều người
đỗ đạt nhưng không làm quan, chỉ đi dạy học.
Ngày nay, rất nhiều con em có trình độ đại học, cao học, nhiều thạc sĩ, tiến
sĩ, giáo sư, phó giáo sư, hàng trăm giáo viên, giảng viên các bậc học, nhiều cán
bộ lãnh đạo hoặc chủ chốt trong các ngành, các lĩnh vực. Truyền thống yêu thích
và sáng tác thơ văn; những thuần phong mỹ tục, như “Uống nước nhớ nguồn”
qua lễ hội Báo bản …. Văn hóa của bốn xóm ngày nay, con số học sinh đỗ Đại
học, Cao đẳng hàng năm bình quân khoảng 25 cháu, các tập thơ in hàng năm của
Câu lạc bộ Thơ Nộn Khê (đã in 11 tập, với hàng nghìn bài thơ) chưa kể các bài

17



thơ và tập kịch của các cá nhân…. Danh hiệu “Làng văn hóa” trong đợt phong
đầu tiên, năm 1999, theo Quyết định số 07/CN.VH ngày 26/02/1999 của Ủy ban
nhân dân tỉnh Ninh Bình; danh hiệu “Làng nghề”; danh hiệu “Làng khuyến học”
và rất nhiều bằng khen của Thủ tướng, của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp,
thủ trưởng cơ quan các ngành….
Nhìn lại bước đường lịch sử của quê hương, nhân dân Nộn Khê luôn tự ý
thức là phải có trách nhiệm duy trì và phát huy hơn nữa những di sản quý báu
của cha ông, phải bảo tồn cái hay, cái đẹp, tiếp thu cái mới của khoa học kỹ thuật
và bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời, loại bỏ những gì là cổ hủ, lỗi thời, lạc hậu.
Việc cần thiết hiện nay là phải bồi đắp lại, sửa sang lại những đã hư hỏng, đã mất
mát, làm cho quê hương ta tươi đẹp hơn để không phụ công lao xây dựng của
tiền nhân và không hổ tiếng là người dân đất Nộn Khê văn vật. Những quy ước
về các mặt trong cuộc sống mới, nhất là về mặt văn hóa – xã hội cần được
nghiên cứu xây dựng và thực hiện thật nghiêm chỉnh. Ngày nay, con cháu phải
cùng nhau bồi đắp cho “gốc” ấy ngày thêm vĩ đại, cho cành lá ngày thêm xanh
tươi, cho hoa quả ngày thêm tốt đẹp. Đó là ý thức và hành động thực tế nhất,
chân thành nhất để đền đáp công ơn của tổ tiên đã xây dựng, cùng các liệt sỹ đã
hy sinh oanh liệt mà gìn giưz làng quê này.

18


Chương 2
THỰC TRẠNG LỄ HỘI BÁO BẢN LÀNG NỘN KHÊ, XÃ N TỪ,
HUYỆN N MƠ, TỈNH NINH BÌNH.
2.1. Khái niệm chung.
2.1.1. Khái niệm Văn hóa.
Mặc dù khoa học nghiên cứu về văn hóa đã hình thành từ vài trăm năm
nay và ngày càng phát triển, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm văn

hóa chung nhất, được thống nhất cao nhất. Tuy nhiên, để khái niệm vừa có tính
kế thừa, vừa có tính khái qt cao hơn nữa, có thể đi đến một khái niệm rộng
nhất: “Văn hóa là tồn bộ những gì do con người sáng tạo ra có tính giá trị”.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm Văn hóa, như:
Khái niệm Văn hóa của Liên Xơ (cũ): “Văn hóa là tồn bộ giá trị vật chất
và tinh thần, được nhân loại sáng tạo trong quá trình hoạt động thực tiễn lịch sử
- xã hội; các giá trị ấy nói lên trình độ phát triển của lịch sử loài người”.
Trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam”, Giáo sư Viện sĩ Trần Ngọc Thêm
đã đưa ra khái niệm về Văn hóa như sau: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tọa và tích lũy qua q trình hoạt
động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội”.
Năm 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương
thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm
thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.

19


Tại Hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mêhicơ để bắt đầu thập kỷ văn hóa
UNESCO. Hội nghị đã thống nhất và đưa ra một định nghĩa về Văn hóa như sau:
“Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần
và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một
nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối
sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập
tục và tín ngưỡng”.

Văn hóa như là một ngành khoa học tổng hợp bởi tính chất liên ngành của
nó, thể hiện đầy đủ bản chất vừa phong phú, vừa phức tạp của văn hóa.
Xác định được tầm quan trọng của văn hóa, Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm và chỉ đạo sát sao các hoạt động văn hóa trong cả nước. Từ lâu Đảng ta
đã xác định đúng vị trí của việc xây dựng đời sống văn hóa, coi đó là nền tảng
của nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa: “Làm cho văn hóa thấm sâu vào trong
tồn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập
thể cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con
người, tạo ra trên đất nước ta tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học
kỹ thuật phát triển, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại
hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh tiến vững chắc lên Chủ nghĩa xã hội”.
2.1.2. Khái niệm Quản lý văn hóa.
♦ Quan niệm về Quản lý:
Trong đời sống xã hội bao gồm nhiều phương diện nhu cầu, đòi hỏi có
nhiều lĩnh vực hoạt động của con người để đáp ứng những nhu cầu đó: hoạt động
trên lĩnh vực kinh tế, hoạt động trên lĩnh vực chính trị, hoạt động trên lĩnh vực xã
hội, hoạt động trên lĩnh vực khoa học, văn hóa, giáo dục,… Mọi lĩnh vực hoạt
động đều đặt dưới sự chỉ huy của một cơ chế quản lý xã hội toàn bộ đều “ phải

20


có sự chỉ đạo để điều hịa những hoạt động của cá nhân…”, của các thiết chế
trong xã hội,.. C.Mac đã chỉ rõ: “ Bất cứ một lao động xã hội hay lao động
chung nào mà tiến hành trên quy một quy mơ khá lớn đều u cầu phải có một sự
chỉ đạo để điều hòa các hoạt động cá nhân… Một nghệ sĩ độc tấu tự điều khiển
lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”. (C.Mác, Tư bản,
quyển 1 tập 2 trang 28 – 30 NXB Sự thật Hà Nội 1993).
Khái niệm “quản lý” và “lãnh đạo” rất gần gũi nhau, trong ngôn ngữ thông

thường có khi cịn đồng nhất nhau. Tuy vậy, nên có sự phân biệt để thấy rõ vai
trò và chức năng của chúng. Lãnh đạo là hình thức quản lý cao nhất, chung nhất,
là sự quản lý ở cấp chiến lược. Nó là sự chỉ huy chiến lược các hoạt động trong
xã hội theo một đường hướng chính trị, tư tưởng của Đảng lãnh đạo, Đảng cầm
quyền, thể hiện qua những đường lối, nghị quyết của Đảng cầm quyền, cụ thể ở
nước ta là Đảng Cộng sản Việt Nam. Còn quản lý, đó là sự điều khiển chiến
thuật các hoạt động trong xã hội bằng thể chế pháp luật, chính sách, bộ máy quản
lý Nhà nước, ban hành căn cứ theo đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng.
Trong quản lý chiến thuật này có sự quản lý của Chính phủ nói chung và sự quản
lý của từng Ngành, từng Bộ nói riêng.
Khái niệm quản lý cịn liên quan tới khái niệm điều khiển. Cho nên khí nói
tới quản lý, thường phải phân chia ra thành hai dạng quản lý cơ bản: quản lý
trong tự nhiên, trong kỹ thuật và quản lý trong xã hội. Quản lý trong tự nhiên là
điều khiển giới tự nhiên, điều khiển loài vật. Quản lý trong kỹ thuật là điều khiển
máy móc, có thể người điều khiển máy và cũng có thể là máy tự điều khiển máy.
Còn quản lý trong xã hội là điều khiển tồn bộ các hoạt động của xã hội, đó là sự
quản lý bằng người điều khiển người. Ở đây chủ thể điều khiển là con người, mà
khách thể chịu điều khiển cũng là con người với nhiều dạng, nhiều lĩnh vực hoạt
độn của nó.

21


Quản lý là một sự điều tiết cao, mang tính xã hội. Nó ln là một hoạt
động có hướng đích giữa chủ thể quản lý đối với khách thể quản lý, khiến các
hoạt động trong xã hội phải tự giác tuân thủ đi đúng theo những đường hướng
mà Đảng và Nhà nước lãnh đạo vạch ra. Nó là một quá trình tác động giữa chủ
thể quản lý tới đối tượng quản lý, thông qua những biện pháp, phương pháp,
phương tiện quản lý nhằm hồn thiện hóa hoặc làm thay đổi tình trạng hiện hữu.
Nói đến quản lý là nói đến cả một q trình chứ khơng phải chỉ nói đến như một

hành động tức thời hay chỉ như một hành động ngăn chặn. Cho nên cũng có thể
nói rằng, quản lý là một quá trình: đi từ chỗ nắm được, nắm đúng cái hiện có –
thấy được, thấy đúng cái cần có – biết tìm mọi biện pháp khả thi và tối ưu để
đưa từ cái hiện có lên tới cái cần có. Những biện pháp khả thi và tối ưu này có
thể diễn ra ở nhiều mức độ, hình thức khác nhau: xóa bỏ, điều chỉnh, hồn thiện,
làm mới,….với những mức độ can thiệp tồn triệt, nhiều, ít, khơng can thiệp của
Nhà nước hoặc sự tự quản của nhân dân theo quy định của quản lý Nhà nước.
Muốn quản lý tốt, đúng hướng, có hiệu quả, người quản lý cần nắm vững
đường lối, chính sách, nghị quyết, pháp luật của Đảng và Nhà nước, đồng thời
phải thành thạo quy trình vận hành quản lý có khoa học.
♦ Khái niệm Quản lý Văn hóa:
Bắt nhịp với tiến trình phát triển của đời sống xã hội đương đại, từ thực tế
công tác quản lý văn hóa ở nước ta, có thể đưa ra khái niệm: “Quản lý văn hóa
là q trình xây dựng đường lối chính sách và tổ chức hoạt động nhằm bảo tồn
và phát huy tốt nhất giá trị của văn hóa Việt Nam; đồng thời, tiếp thu những tinh
hoa của văn hóa nhân loại, làm giàu cho văn hóa dân tộc”. (TS. Dương Văn
Sáu – Trưởng khoa Văn hóa Du lịch – Trường Đại học Văn hóa Hà Nội).
Đi suốt cả chiều dài mấy nghìn năm lịch sử, người Việt Nam đã viết lên
những trang sử oai hùng trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc và

22


để lại cho con cháu kho tàng di sản văn hóa vơ cùng đặc sắc, rực rỡ và phong
phú. Kho tàng di sản văn hóa đó chính là máu xương và mồ hôi nước mắt, công
sức của biết bao thế hệ người Việt Nam chúng ta. Không chỉ là di sản của q
khứ, kho tàng di sản văn hóa cịn là tài sản của quốc gia, dân tộc; một động lực
mạnh mẽ trong q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước hơm nay.
Trách nhiệm của những thế hệ kế tiếp là phải giữ gìn những tài sản vơ giá đó một
cách tốt nhất. Khơng chỉ vậy, trách nhiệm của chúng ta là phải tiếp nhân, sử

dụng, khai thác ngày càng hiệu quả, bền vững những thành quả của cha ông để
lại phục vụ cuộc sống hôm nay và nâng nó lên những tầm cao mới. Trong giai
đoạn hiện nay, q trình Cơng nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước đi cùng với
đó là tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng và mạnh mẽ trên tất cả mọi bình
diện của đất nước chúng ta. Điều đó cũng tác động nhanh chóng, mạnh mẽ đến
mọi cơ tầng, mọi mặt của đời sống xã hội Việt Nam, trước hết là đến văn hóa
dân tộc. Trong tình hình đó, cơng tác quản lý văn hóa phải được đặt ra quan
trọng hơn bao giờ hết để góp phần giữ gìn, bảo lưu, phát triển những giá trị tốt
đẹp của văn hóa dân tộc cũng như tiếp thu những tinh hoa của văn hóa nhân loại;
đồng thời, ngăn chặn những luồng tư tưởng, văn hóa độc hại từ bên ngồi xâm
nhập vào đời sống xã hội của đất nước. Đó chính là bản chất và nội dung của
công tác Quản lý văn hóa trong giai đoạn hiện nay.
2.1.3. Khái niệm Lễ hội.
Về mặt học thuật đã có nhiều cách trình bày khái niệm và định nghĩa về lễ
hội. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (2005):
Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lịng tơn kính của
người dân đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người
trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt
văn hóa, tơn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ

23


sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc
cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dịng họ, sự sinh sôi nẩy nở của gia
súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung của
bốn chữ “nhân khang, vật thịnh”. Lễ hội là hoạt động của một tập thể người, liên
quan đến tín ngưỡng và tơn giáo. Do nhận thức, người xưa rất tin vào đất trời,
sông núi, thủy thần, sơn thần, lễ hội cổ truyền đã phản ánh hiện tượng đó. Tơn
giáo có ảnh hưởng đáng kể đối với lễ hội. Tôn giáo thông qua lễ hội làm phương

tiện phô trương thanh thế, ngược lại lễ hội thông qua tôn giáo để thần linh hóa
những gì trần tục.
Như vậy, trước hết “Lễ” là hình thức quy cách – nguyên tắc ứng xử được
thực thi với một đối tượng cử lễ nào đó. Nhà nghiên cứu Văn hóa Đồn Văn
Chúc (1984) cho rằng:
Lễ (cuộc lễ) là sự bày tỏ kính ý đối với một sự kiện xã hội, hay tự nhiên,
tư tưởng hay có thật, đã qua hay hiện tại, được thực theo nghi điểm rộng lớn, tùy
thuộc cấp nhóm xã hội có nhiệm vụ cử hành, nhằm biểu hiện giá trị của đối
tượng được cử lễ. Hội là cuộc vui chơi bằng vơ số hoạt động giải trí cơng cộng,
diễn ra tại một địa điểm nhất định vào dịp cuộc lễ kỷ niệm một sự kiện tự nhiên
xã hội, nhằm diễn đạt sự phấn khích, hoan hỉ của cơng chúng dự lễ.
Có những quan niệm khác nhau về lễ hội nhưng nhìn chung những thành
tố đã cấu thành nên lễ hội thì khơng đổi. Như theo Giáo sư Đinh Gia Khánh: “Lễ
hội là một hiện tượng văn hóa dân gian đáp ứng nhu cầu tinh thần, tình cảm
khơng thể thiếu được trong đời sống của nhân dân các dân tộc trên thế giới cũng
như trong nước ta. Lễ hội là một hiện tượng lịch sử, một hình thái sinh hoạt văn
hóa sinh động, phức tạp, hội tụ nhiều mối quan hệ cộng đồng làng xã của dân
tộc Việt Nam. Nảy sinh và bén rễ từ sinh hoạt văn hóa làng quê xưa, nhân tố cổ
truyền của nền văn minh công nghiệp không ngừng vận động, biến thiên, bồi đắp

24


theo tiến trình lịch sử văn hóa, trở thành một đối tượng hấp dẫn, đáp ứng nhu
cầu của con người qua các thời đại”.
Trong cuốn Folklore một số thuật ngữ đương đại, đã đưa ra định nghĩa về
lễ hội: “ Lễ hội là một hoạt động kỷ niệm định kỳ biểu thị thế giới quan của một
nền văn hóa hay nhóm xã hội thơng qua hành lễ, diễn xướng, nghi lễ và trò chơi
truyền thống. Là một hoạt động hết sức phổ biến, lễ hội có thể là sự kiện có tính
tượng trưng và tính xã hội phức tạp nhất, tồn tại lâu đời trong truyền thống”. Đây

có lẽ là một định nghĩa khá đầy đủ về những lễ hội kỷ niệm đã trở thành truyền
thống.
Có thể có những cách phát biểu khác nhau, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận,
nhưng nhìn chung các nhà nghiên cứu đều vạch rõ hai cơ cấu chức năng trong
một chỉnh thể hiện tượng lễ hội. Tuy nhiên, khi tiếp cận lễ hội theo hướng của
quản lý văn hóa sẽ bao trùm lên tất cả các sự kiện lễ hội đang diễn ra trong
đương đại gồm cả truyền thống dân gian và các sáng tạo mới mang tính bác học.
Trong cuốn Quản lý lễ hội và sự kiện, TS Cao Đức Hải đã đưa ra định nghĩa về
lễ hội như sau: “Lễ hội là tổ hợp các yếu tố và hoạt động văn hóa đặc trưng của
cộng đồng, xoay xung quanh một trục ý nghĩa nào đó, nhằm tơn vinh và quảng
bá cho những giá trị nhất định”. Đây là một cách nhìn có tính hình thức về hiện
tượng và có thể bao trùm mọi hiện tượng được gọi là hội hè.
2.1.4. Khái niệm Quản lý lễ hội.
Quản lý là một khoa học dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật phát triển
của các đối tượng khác nhau, đồng thời quản lý còn là một nghệ thuật. Những
hình thức quản lý có ý thức ln gắn liền với hoạt động có mục tiêu, có kế hoạch
của những tập thể lớn hay nhỏ của con người thực hiện qua những thể chế xã hội
và mục đích, nội dung, cơ chế quản lý và phương pháp quản lý các hiện tượng xã
hội tùy thuộc vào chế độ chính trị xã hội. Mai Hữu Khuê (2003) trong cuốn Lý

25


×