Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Nghiên cứu cơ sở khoa học xác định một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh phục hồi rừng thứ sinh nghèo tại huyện chợ đồn bạch thông tỉnh Bắc Cạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 126 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





TRIỆU ĐỨC VĂN





NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC, XÁC ĐỊNH MỘT SỐ BIỆN PHÁP
KỸ THUẬT LÂM SINH PHỤC HỒI RỪNG THỨ SINH NGHÈO TẠI
HUYỆN CHỢ ĐỒN, BẠCH THÔNG TỈNH BẮC KẠN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM HỌC


CHUYÊN NGÀNH: LÂM HỌC
MÃ SỐ : 60 62 60





Ngƣời hƣớng dẫn: TS. Lê Sỹ Trung








Thái Nguyên, tháng 1 năm 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





TRIỆU ĐỨC VĂN








NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC, XÁC ĐỊNH MỘT SỐ BIỆN PHÁP
KỸ THUẬT LÂM SINH PHỤC HỒI RỪNG THỨ SINH NGHÈO TẠI
HUYỆN CHỢ ĐỒN, BẠCH THÔNG TỈNH BẮC KẠN







LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM HỌC










Thái Nguyên, tháng 1 năm 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
LỜI CẢM ƠN

Để đánh giá kết quả sau ba năm đào tạo cao học lâm nghiệp 2006-2009,
được sự nhất trí của Khoa Đào tạo sau đại học, Trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên, tôi thực hiện Luận văn tốt nghiệp “Nghiên cứu cơ sở khoa học, xác định
một số biện pháp kỹ thuật lâm sinh phục hồi rừng thứ sinh nghèo tại huyện Chợ
Đồn, Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn”
Cho phép tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới T.S. Lê Sỹ Trung đã hướng
dẫn nhiệt tình, truyền đạt những kinh nghiệm quý báu, những ý tưởng trong nghiên
cứu khoa học và giúp tôi hoàn thành bản luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông lâm Thái
Nguyên, Khoa đào tạo Sau đại học, các giảng viên, các anh chị em đồng nghiệp ở
Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Kạn đã quan tâm giúp đỡ tôi hoàn thành bản
Luận văn này.
Do hạn chế về trình độ, thời gian và kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu,
bản luận văn chắc không tránh khỏi thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp, bổ sung của các thầy giáo, cô giáo, bạn bè đồng nghiệp để bản luận
văn được hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 8/2009
Tác giả


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng bản thân. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào khác.
Tác giả luận văn



TRIỆU ĐỨC VĂN
















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5

MỤC LỤC Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
CHƢƠNG I: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. Trên thế giới 3
1.1.1. Cấu trúc rừng
3
1.1.2. Tái sinh rừng tự nhiên
5
1.1.3. Nghiên cứu về phục hồi:
5
1.1.3.1. Quan điểm nhận thức về phục hồi rừng
5
1.1.3.2. Lược sử hình thành và phát triển của các biện pháp kỹ thuật
phục hồi rừng

8
1.2. Ở Việt Nam 13

1.2.1. Cấu trúc rừng
13
1.2.2. Tái sinh rừng tự nhiên
14
1.2.3. Nghiên cứu về phục hồi
16
1.2.3.1. Quan điểm nhận thức về phục hồi rừng ở Việt Nam
16
1.2.3.2. Lược sử hình thành và phát triển của các biện pháp kỹ thuật
phục hồi rừng

17
1.2.3.3. Nghiên cứu về khoanh nuôi và phục hồi rừng ở Việt Nam
19
1.2.3.4. Thống kê các biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng
24
CHƢƠNG II: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI TẠI
KHU VỰC NGHIÊN CỨU

27
2.1. Huyện Chợ Đồn 27
2.1.1. Điều kiện tự nhiên - Kinh tế xã hội huyện Chợ Đồn
27
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
27
2.1.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội:
28
2.1.2. Xã Quảng Bạch
30
2.1.3. Xã Yên Mỹ

30
2.2. Huyện Bạch Thông 31
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
2.2.1 Điều kiện tự nhiên - Kinh tế xã hội
31
2.2.1.1. Điều kiện tự nhiên
31
2.2.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
32
2.2.2. Xã Dương Phong
34
2.2.3. Xã Lục Bình
34
2.3. Thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội 35
CHƢƠNG III: MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM NỘI DUNG VÀ
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

37
3. 1. Mục tiêu nghiên cứu 37
3.1.1. Về lý luận
37
3.2.2. Về thực tiễn
37
3.2. Phạm vi nghiên cứu 37
3.3. Đối tƣợng nghiên cứu 37
3.4. Nội dung nghiên cứu 37
3.5. Phƣơng pháp nghiên cứu 38
3.5.1. Ngoại nghiệp
38

3.5.2. Nội nghiệp
40
3.5.2.1. Nghiên cứu cây tầng cao
40
3.5.2.2. Nghiên cứu đặc điểm cây tái sinh.
41
CHƢƠNG IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 42
4.1.Hiện trạng sử dụng tài nguyên rừng tại khu vực nghiên cứu
42
4.1.1. Thực trạng về quy hoạch sử dụng rừng 42
4.1.2. Quản lý rừng
43
4.1.3. Các biện pháp kỹ thuật lâm sinh đã và đang áp dụng cho các loại rừng.
44
4.2. Một số chính sách liên quan đến tái tạo rừng 45
4.2.1. Chính sách về đất đai
45
4.2.2. Chính sách về hỗ trợ tài chính
46
4.2.3. Chính sách về quyền và trách nhiệm của chủ rừng tham gia quản
lý phát triển rừng.

48
4.3. Một số đặc trƣng của các trạng thái rừng nghèo 50
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
4.3.1. Đặc điểm tầng cây cao
50
4.3.1.1. Tính đa dạng của tầng cây cao
50

4.3.1.2. Tổ thành cây tầng cao 51
4.3.1.3. Trữ lượng gỗ có trong các trạng thái rừng 53
4.3.2 Đặc điểm cây tái sinh 54
4.3.2.1. Tổ thành cây tái sinh 54
4.3.2.2. Mật độ và chất lượng cây tái sinh 55
4.3.3. Điều kiện đất đai tại khu vực nghiên cứu 57
4.4. Đề xuất các giải pháp kỹ thuật lâm sinh
58
4.4.1. Lựa chọn các loài cây mục đích 58
4.4.2. Những thuận lợi, khó khăn trong quản lý và phát triển rừng 61
4.4.3. Giải pháp về kỹ thuật 68
CHƢƠNG V: KẾT LUẬN - TỒN TẠI - KIẾN NGHỊ 76
5.1. Kết luận 76
5.1.1. Hiện trạng tài nguyên rừng
76
5.1.2. Về hình thức quản lý
76
5.1.3. Về cơ chế chính sách đối với phát triển lâm nghiệp
76
5.1.4. Lựa chọn loài cây mục đích
77
5.1.5. Cấu trúc rừng
77
5.1.6. Các giải pháp lâm sinh 78
5.2. Tồn tại 78
5.3. Kiến nghị
78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79-81
PHỤ LỤC 82-115








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
MỘT SỐ KÝ HIỆU DÙNG TRONG LUẬN VĂN

C/ha : Cây/ha
D
1.3
: Đường kính thân cây tại vị trí 1,3m (cm)
D
T
: Đường kính tán cây (m)
G : Tổng tiết diện ngang lâm phần (m2/ha)
G% : % tiết diện ngang
H
vn
: Chiều cao vút ngọn
H
dc
: Chiều cao dưới cành
HTPB : Hình thái phân bố
N-ha : Mật độ (cây/ha)
N% : Tỷ lệ % mật độ
N-D
1.3

: Phân bố số cây theo cỡ kính
N-D
T
: Phân bố số cây theo đường kính tán
OTC : Ô tiêu chuẩn
ODB : Ô dạng bản





















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9


DANH MỤC KÝ HIỆU TÊN CÂY

TT Ký hiệu Tên loài TT Ký hiệu Tên loài
1 Tb Thôi ba 17 Tta Thẩu tấu
2 Trt Trám trắng 18 Bh Bồ hòn
3 Ck Cánh kiến 19 Lv Lim vang
4 Dt Dẻ trắng 20 Kld Kháo lá dài
5 Du Du 21 Ss Sau sau
6 Ch Chẹo 22 Ml Mò lông
7 V Vạng 23 Tn Thành ngạnh
8 Bs Ba soi 24 Xn Xoan nhừ
9 Dg Dẻ gai 25 Xđ Xoan đào
10 Mđ Mán đỉa 26 Ch Chẹo
11 Vt Vối thuốc 27 Tti Trâm tía
12 Cm Chòi mòi 28 Cl Cáng lò
13 Tra Trẩu 29 Lm Lòng mang
14 Ln Lá nến 30 Ph Phay
15 Kct Kháo cuống to 31 Sr Sung rừng
16 Re Re 32 Lk Loài khác


























Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10

DANH LỤC CÁC BẢNG VÀ CÁC HÌNH VẼ

Danh mục các bảng và hình vẽ

TT
Nội dung
Trang
4.1. Quy hoạch sử dụng rừng tại khu vực nghiên cứu 42
4.2. Các hình thức quản lý rừng tại khu vực nghiên cứu 43
4.3. Các biện pháp lâm sinh đã và đang áp dụng 44
4.4. Thống kê thành phần loài tại các trạng thái rừng nghèo 50
4.5. Tổ thành tầng cây gỗ ở trạng thái IIa 51
4.6. Tổ thành tầng cây gỗ ở trạng thái IIb 51

4.7. Tổ thành tầng cây gỗ ở trạng thái IIIa1 52
4.8. Tổ thành tầng cây gỗ ở trạng thái Vầu +Gỗ 52
4.9. Thống kê trữ lượng của một số trạng thái rừng nghèo 53
4.10 Tổ thành cây gỗ tái sinh ở trạng thái Ic 54
4.11 Tổ thành cây gỗ tái sinh ở trạng thái IIa 54
4.12 Tổ thành cây gỗ tái sinh ở trạng thái IIb 54
4.13 Tổ thành cây gỗ tái sinh ở trạng thái IIIa1 55
4.14 Tổ thành cây gỗ tái sinh ở trạng thái Vầu + Gỗ 55
4.15 Thống kê mật độ và tỷ lệ chất lượng cây tái sinh ở các trạng thái 56
4.16 Tổng hợp kết quả điều tra phấu diện đất 57
4.17 Thống kê cây mục đích được lựa chọn cho các trạng thái 59
4.18 Kết quả điều tra thuận lợi, khó khăn trong Qlý P.Triển rừng 62

Hình vẽ

4.1 Thành phần loài 50
4.2 Trữ lượng rừng 53
4.3 Chất lượng cây tái sinh 56








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng tự nhiên hỗn loài có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với đời sống con

người. Ngoài chức năng cung cấp gỗ củi và lâm đặc sản - thực vật quí hiếm, chúng
còn đóng vai trò chủ đạo trong phòng hộ, chống xói mòn rửa trôi đất, điều hoà khí
hậu bảo vệ môi trường sống.
Rừng tự nhiên ở nước ta hiện nay hầu hết là rừng thứ sinh ở mức độ thoái
hoá khác nhau. Nguyên nhân chủ yếu là con người khai thác lạm dụng, đốt nương
làm rẫy. Độ che phủ của rừng đã giảm từ 43 % năm 1943 xuống 27,2 % năm 1993;
thời kỳ 1980 - 1990, bình quân mỗi năm hơn 100 nghìn ha rừng bị mất (Chiến lược
phát triển lâm nghiệp).
Những năm gần đây, thực hiện chủ trương chuyển đổi từ lâm nghiệp nhà
nước tập trung sang lâm nghiệp xã hội, chính phủ đã giao quyền sử dụng đất lâm
nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình để trồng rừng, khoanh nuôi, bảo vệ. Các chủ
trương chính sách này đã có tác dụng tích cực, rừng đã được bảo vệ và dần dần
phục hồi trở lại, diện tích rừng ngày càng tăng, đất trống đồi núi trọc giảm, theo số
liệu công bố của Bộ Nông Nghiệp & PTNT năm 2007, độ che phủ toàn quốc đã đạt
38,2% . Các giải pháp kỹ thuật dựa trên cơ sở lợi dụng triệt để khả năng tái sinh,
diễn thế tự nhiên của thảm thực vật, cùng với các giải pháp đúng đắn về chính sách
đất đai, vốn, lao động đã góp phần nâng cao độ che phủ của rừng trên phạm vi toàn
quốc. Tuy nhiên, do những nghiên cứu về rừng tự nhiên, đặc biệt về rừng thứ sinh
nghèo còn ít, thiếu tính hệ thống cho nên thiếu các biện pháp kỹ thuật áp dụng cụ
thể với từng vùng sinh thái khác nhau.
Xét về tổng quan diện tích rừng tuy có tăng nhưng chất lượng và tính đa
dạng sinh học rừng tự nhiên nhiều nơi tiếp tục bị suy giảm, nhiều loài thực vật quí
hiếm đã bị mất, tạo nên các khu rừng tự nhiên kém chất lượng và chỉ còn tồn tại
những loài cây không có giá trị kinh tế.
Cùng với sự phát triển lâm nghiệp của cả nước nói chung với xu thế hội
nhập quốc tế, sản xuất lâm nghiệp phải bền vững và có tính cạnh tranh cao. Bắc
Kạn là tỉnh miền núi là nơi đầu nguồn của lưu vực các con sông: Sông cầu, Sông
năng, Sông bằng giang, có diện tích đất lâm nghiệp chiếm tới 80% diện tích đất tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12

nhiên, để sử dụng rừng có hiệu quả, góp phần xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi
trường sinh thái, giữ nguồn nước, bảo vệ đất, bảo tồn đa dạng sinh học, ngoài việc
đầu tư trồng rừng mới còn một diện tích rừng tự nhiên khá lớn 224.151,4 ha (báo
cáo qui hoạch 3 loại rừng tỉnh Bắc Kạn 2007) đa số là rừng nghèo, và rừng phục
hồi, biện pháp tác động khoanh nuôi bảo vệ là chủ yếu chưa có những giải pháp kỹ
thuật lâm sinh tác động hợp lý để nâng cao chất lượng của rừng, trong khi đó hiện
nay trên địa bàn tỉnh các công trình khoa học nghiên cứu về lâm nghiệp hầu như
không có đặc biệt là lĩnh vực rừng tự nhiên nghèo. Xuất phát từ những hạn chế nói
trên, tôi nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu cơ sở khoa học, xác định một số biện pháp
kỹ thuật lâm sinh phục hồi rừng thứ sinh nghèo tại huyện Chợ Đồn, Bạch Thông
tỉnh Bắc Kạn”. Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở một phần của đề tài khoa
học về rừng tự nhiên tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2008 - 2010, trong đó tác giả luận văn
là cộng tác viên chính của đề tài.



















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
CHƢƠNG I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới
1.1.1. Cấu trúc rừng
Về cơ sở sinh thái của cấu trúc rừng
Nghiên cứu cơ sở sinh thái cấu trúc rừng điển hình là Baur G.N. (1964) đã
nghiên cứu các vấn đề về cơ sở sinh thái học trong kinh doanh rừng mưa trong đó
đã đi sâu nghiên cứu các nhân tố cấu trúc rừng, các kiểu xử lý về mặt lâm sinh áp
dụng cho rừng mưa tự nhiên [1].
Catinot (1965) nghiên cứu cấu trúc hình thái rừng thông qua việc biểu diễn
các phẫu đồ rừng, nghiên cứu các nhân tố cấu trúc sinh thái thông qua việc mô tả
phân loại theo các khái niệm dạng sống, tầng phiến...tác giả cho rằng muốn ổn định
hệ sinh thái rừng nhất thiết phải nắm vững quy luật vận động, biết cách điều tiết
mối qua hệ trong sự phức tạp [6].
Odum E.P (1971) đã hoàn chỉnh học thuyết về hệ sinh thái trên cơ sở thuật
ngữ hệ sinh thái (ecosystem) của Tansley A.P, năm 1935. Khái niệm hệ sinh thái
được làm sáng tỏ là cơ sở để nghiên cứu các nhân tố cấu trúc trên quan điểm sinh
thái học [35].
Theo các quan điểm trên, các tác giả đã làm sáng tỏ các khái niện về hệ sinh
thái rừng và đây là những cơ sở nghiên cứu các nhân tố cấu trúc đứng trên quan
điểm sinh thái học.
Về mô tả hình thái cấu trúc rừng:
Rừng mưa nhiệt đới đã được nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu, như:
Catinot R. (1965), Plaudy J... Các tác giả đã biểu diễn hình thái cấu trúc rừng bằng
những phẫu diện đồ ngang và đứng. Các nhân tố cấu trúc được mô tả theo các khái
niệm: dạng sống, tầng phiến... Rollet (1971) đã đưa ra hàng loạt phẫu đồ mô tả cấu
trúc hình thái rừng mưa, như tương quan giữa chiều cao với đường kính D1.3,

tương quan giữa đường kính tán với đường kính D1.3 và biểu diễn chúng bằng các
hàm hồi quy [1], [6].
Nghiên cứu định lượng cấu trúc rừng:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Với xu thế chuyển từ nghiên cứu định tính sang nghiên cứu định lượng,
thông kê toán học đã trở thành công cụ cho các nhà khoa học lượng hóa các quy
luật của tự nhiên và xã hội.
Trong các nghiên cứu về rừng tự nhiên, nghiên cứu định lượng quy luật phân
bố số cây theo đường kính (N-D1.3), phân bố số cây theo chiều cao (N-H) phân
chia tầng thứ được nhiều tác giả thực hiên có hiệu quả, ngoài việc phản ánh cấu
trúc nội tại của lâm phần làm căn cứ đề xuất các biện pháp kinh doanh còn làm cơ
sở để điều tra, thống kê tài nguyên rừng.
Nghiên cứu cấu trúc tầng thứ rừng tự nhiên có rất nhiều quan điểm:
Rừng tự nhiên có tầng tán không phân biệt rõ ràng, nên việc phân chia tầng
tán còn hạn chế: Đối với rừng mưa nhiệt đới nhiều tác giả chia 3 tầng: Tầng cây
cao (tầng vượt tán), tầng tán chính, tầng dưới tán. Một số tác giả khác chia tầng tán
rừng thành 5 tầng: Tầng trội, tầng chính, tầng dưới tán, tầng cây bụi và trảng cỏ
(Walton, Myutt Smith 1955) [6], [24].
Một nghiên cứu khác, Raunkiaer (1934) đã đưa ra công thức xác định phổ
dạng sống chuẩn được xác định theo tỷ lệ phần trăm giữa số lượng cá thể của từng
dạng sống so với tổng số cá thể trong một khu vực [1].
Phân bố số cây theo đường kính (N/D)
Nhà khoa học đầu tiên đề cập đến là Mayer (1934), Ông đã mô tả phân bố số
cây theo đường kính bằng phương trình toán học có dạng đường cong liên tục
giảm, về sau phương trình này lấy tên Ông (Phương trình Mayer). Ngoài ra còn có
khá nhiều tác giả khác đề xuất một số hàm toán học như: Loetsch (1973) dùng hàm
Beta để nắm phân bố thực nghiệm, J.L.F Batista & H.T.Z Docouto (1992) nghiên
cứu rừng nhiệt đới ở Marsanboo – Brazin dùng hàm toán Weibull để mô tả phân bố
N/D [9], [10].

Phân bố số cây theo chiều cao (N/H)
Phương pháp kính điển được nhiều nhà khoa học sử dụng là vẽ phẩu diện đồ.
Qua đó sẽ nhận thấy sự phân bố, sắp xếp trong không gian của các loài cây điển
hình là Richards (1950) [24]. Có nhiều dạng hàm toán học khác nhau để mô tả
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
phân số này, tùy thuộc vào điều kiện và kinh nghiệm mà các tác giả sử dụng các
hàm toán học khác nhau
1.1.2. Tái sinh rừng tự nhiên
Do sự phát triển công nghiệp thế kỷ XIX, trong ngành lâm nghiệp của thế
giới đã hình thành xu hướng thay thế rừng tự nhiên bằng rừng nhân tạo năng suất
cao nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế nhưng sau thất bại về tái sinh nhân tạo ở
Đức và một số nước nhiệt đới mà Beard (1947) đã gọi là "bệnh sởi trồng rừng" do
thiếu yếu tố sinh thái học, nhiều nhà khoa học đã nghĩ tới việc quay trở lại với tái
sinh tự nhiên [28].
Trong phương thức áp dụng cho rừng đều tuổi của Malayxia (MUS, 1945),
nhiệm vụ đầu tiên được ghi trong lịch trình là điều tra tái sinh theo ô vuông 1/1000
mẫu Anh (4 m
2
), để biết xem tái sinh có đủ hay không và sau đó mới tiến hành các
tác động tiếp theo [18].
Van steens (1956) đã nghiên cứu hai đặc điểm tái sinh phổ biến ở rừng mưa
nhiệt đới: Tái sinh phân tán liên tục của loài cây chịu bóng và tái sinh vệt của loài
cây ưa sáng [18], [23].
Richards P.W (1952) đã tổng kết việc nghiên cứu tái sinh trên các ô dạng
bản và phân bố tái sinh tự nhiên ở rừng nhiệt đới, đã kết lúận cây tái sinh có dạng
phân bố cụm, một số có dạng phân bố Poisson. Để giảm sai số trong khi thống kê
tái sinh tự nhiên, Barnard (1955) đã đề nghị một phương pháp "điều tra chẩn đoán"
mà theo đó kích thước ô đo đếm có thể thay đổi tuỳ theo giai đoạn phát triển của
cây tái sinh [24].

Baur G.N (1962) [1] Đối với rừng nhiệt đới, các nhân tố như ánh sáng, độ
ẩm của đất, kết cấu quần thụ cây bụi, thảm tươi là những nhân tố ảnh hưởng trực
tiếp đến tái sinh, sự thiếu hụt ánh sáng ảnh hưởng đến sự phát triển của cây con,
nhưng đối với sự nầy mầm thì ảnh hưởng đó không rõ.
1.1.3. Nghiên cứu về phục hồi:
1.1.3.1. Quan điểm nhận thức về phục hồi rừng
Trước khi tìm hiểu thế nào là phục hồi rừng chúng ta cần hiểu rõ về quá trình
suy thoái rừng. Sự suy thoái rừng được hiểu một cách khái quát: là quá trình dẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
đến phá vỡ cấu trúc rừng, mất sự đa dạng của loài cây bản địa, các quá trình sinh
thái đặc trưng nên hiện trạng rừng tự nhiên và năng suất của chúng.
Sự suy thoái rừng có thể xẩy ra ở nhiều hình thức và được biểu hiện ở nhiều
qui mô khác nhau. Sự suy thoái xẩy ra khi các sự kiện phi tự nhiên gây ra những
xáo trộn trong các quá trình tự nhiên làm tổn hại đến sự cân bằng sinh thái. Một số
tác giả quan niệm suy thoái rừng chỉ bao gồm sự giảm sút hoặc suy yếu khả năng
sản xuất gỗ của một diện tích rừng do ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài, đặc biệt
là các hoạt động của con người; sự giảm bớt về diện tích không thuộc khái niệm
suy thoái rừng (Serna,1986). Một số khác quan niệm suy thoái rừng bao gồm cả sự
chuyển đổi mục đích sử dụng rừng và sử dụng rừng theo kiểu bóc lột, dù cho nó
thoả mãn các lợi ích kinh tế và xã hội (Wil de Jong, Đỗ Đình Sâm, Triệu Văn
Hùng, 2006). Grainger (1988) đã đưa ra khái niệm suy thoái thảm thực vật bằng
cách định nghĩa đó là một sự giảm sút tạm thời hoặc vĩnh viễn về mật độ, cấu trúc,
tổ thành loài hoặc năng suất của thảm thực vật. Sự suy thoái có thể là kết quả của
các hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến thảm thực vật (như khai thác, đốt cháy rừng,
gió bão) hoặc các thành phần trong hệ sinh thái rừng nhưng không ảnh hưởng trực
tiếp đến rừng (như nước, tính chất đất và không khí). Trong môi trường nhiệt đới,
suy thoái rừng ở qui mô lớn và cường độ cao là hiện tượng thường xẩy ra do sự
bùng nổ về dân số và nhu cầu ngày càng cao về các sản phẩm gỗ nhiệt đới trong
quá trình phát triển của các quốc gia. Rừng nhiệt đới đang trong quá trình giảm sút

với tốc độ chưa từng thấy và dẫn đến sự suy thoái của các hệ sinh thái. Dù cho có
sự khác nhau về quan điểm trong việc định nghĩa về suy thoái rừng nhưng các tác
giả đều công nhận kết quả của quá trình suy thoái rừng là rừng thứ sinh nghèo
(degraded secondary forests).
Phục hồi rừng có thể được hiểu một cách khái quát là quá trình ngược lại của
sự suy thoái. Theo quá trình diễn thế, sau khi phải chịu những tác động phi tự
nhiên phá vỡ bằng sinh thái; với khả năng tự điều chỉnh tự nhiên và cơ chế nội cân
bằng sinh thái thì nó có xu hướng vận động thiết lập một trạng thái cân bằng mới
(gần giống với trạng thái ban đầu), quá trình này được gọi là diễn thế phục hồi.
Nhưng với những tác động quá mạnh vượt ra ngoài ngưỡng tự điều chỉnh của hệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
sinh thái rừng thì quá trình phục hồi lại sẽ rất chậm hoặc thậm chí nó không xảy ra.
Lúc này cần những hoạt động của con người nhằm thúc đẩy quá trình đó hoạt động
mạnh nhất trong thời gian ngắn nhất. Như vậy, hoạt động phục hồi rừng được hiểu
là các hoạt động có ý thức của con người nhằm làm đảo ngược quá trình suy thoái
rừng. Để phục hồi lại các hệ sinh thái rừng đã bị thoái hoá, chúng ta có rất nhiều
lựa chọn tuỳ thuộc vào từng đối tượng và mục đích cụ thể. Lamb và Gilmour
(2003) đã đưa ra ba nhóm hành động nhằm làm đảo ngược quá trình suy thoái rừng
là cải tạo, khôi phục và phục hồi rừng. Các khái niệm này được hiểu như sau:
- Cải tạo hay là thay thế (reclamation or replacement): khái niệm này được
hiểu là sự tái tạo lại năng suất và độ ổn định của một lập địa bằng cách thiết lập
một thảm thực vật hoàn toàn mới để thay thế cho thảm thực vật gốc đã bị thoái hoá
mạnh. Ở vùng nhiệt đới, các xã hợp thực vật được thay thế này thường đơn giản
nhưng lại có năng suất cao hơn thảm thực vật gốc. Các lập địa rừng nghèo kiệt,
trảng cây bụi… là đối tượng của hoạt động này và cũng là những cơ hội cho việc
thiết lập các rừng công nghiệp sử dụng các loài cây nhập nội sinh trưởng nhanh
hơn và có giá trị kinh tế cao hơn so với thảm thực vật gốc.
- Khôi phục (restoration): hiểu một cách chính xác về mặt lý thuyết thì khôi
phục lại một khu rừng bị suy thoái (rừng nghèo) là đưa khu rừng đó trở về nguyên

trạng ban đầu của nó. Đưa về nguyên trạng bao gồm cả các thành phần thực vật,
động vật và toàn bộ các quá trình sinh thái dẫn đến sự khôi phục lại hoàn toàn tính
tổng thể của hệ sinh thái.
- Phục hồi (rehabilitation): khái niệm phục hồi rừng được định nghĩa như là
gạch nối (trung gian) giữa cải tạo và khôi phục. Trong trường hợp này, một vài cố
gắng có thể được thực hiện để thay thế thành phần dễ thấy nhất của thảm rừng gốc,
đó thường là tầng cây cao bao gồm cả các loài bản địa được thay thế bằng các loài
có giá trị kinh tế và sinh trưởng nhanh hơn.
Ngoài ba nhóm hành động này, việc phục hồi rừng còn bao gồm:
- Trồng rừng (afforestation): trồng rừng được hiểu là sự chuyển đổi từ đất
không có rừng thành rừng thông qua trồng cây, gieo hạt thẳng hoặc xúc tiến tái
sinh tự nhiên (Smith, 2002).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
Trồng lại rừng (reforestation): Là hoạt động trồng rừng trên đất không có
rừng do bị mất rừng trong một thời gian nhất định.
Sự khác nhau giữa trồng lại rừng và trồng rừng nằm ở thời gian không có
rừng của đối tượng (đất trồng rừng), hoạt động trồng rừng ở đối tượng có thời gian
rất lâu không phải là rừng thì gọi là trồng rừng; còn hoạt động đó trên đối tượng
mới không có rừng trong thời gian ngắn thì gọi là trồng lại rừng. Trong nhiều
trường hợp, trồng rừng, trồng lại rừng được hiểu đồng nghĩa với sự cải tạo (hay là
sự thay thế). Theo chúng tôi thì nên hiểu cải tạo rừng là hoạt động thay thế rừng
nghèo kiệt thành rừng trồng có năng suất cao hơn, còn trồng rừng và trồng lại rừng
là hoạt động gây lại rừng trên đất trống đồi núi trọc.
Phục hồi rừng có thể được giải thích như một phương pháp phối hợp giữa
các hoạt động thay thế, phục hồi và khôi phục. Hoạt động phục hồi có thể thay đổi
tuỳ thuộc vào mục đích, điều kiện của đối tượng (rừng nghèo) và rừng mong muốn
đạt đến.
1.1.3.2. Lược sử hình thành và phát triển của các biện pháp kỹ thuật phục
hồi rừng

Cùng với sự phát triển của nền lâm sinh học nhiệt đới các nhà lâm sinh đã
không ngừng nỗ lực để tìm một hướng đi an toàn cho rừng mưa nhiệt đới. Cùng
với sự phát triển đó phục hồi rừng là vấn đề có bề dày lịch sử. Nó được đề cập tới
rất sớm từ 100 năm nay trên nhiều lĩnh vực quản lý núi đồi, đồng cỏ, rừng và sinh
vật hoang dã. Philip năm 1883 đã xuất bản cuốn phục hồi rừng. Leopold (1935) đã
nghiên cứu phục hồi 24 ha đồng cỏ. Ông cho rằng hệ sinh thái phải được bảo vệ
một cách hoàn chỉnh, quần thể sinh vật phải ổn định và đẹp.
Đến thập kỷ 50 thế kỷ 20 nhiều nhà khoa học châu âu, bắc Mỹ và Trung
Quốc đều chú ý đến vấn đề môi trường, xây dựng một loạt các công trình phục hồi
và phòng chống sự thoái hoá khoáng sản, đất và nước bằng cách áp dụng các biện
pháp sinh vật. Farnworth (1973) đã nêu ra phương hướng nghiên cứu phục hồi
rừng mưa nhiệt đới. Nhiều hội nghị ở Mỹ năm 1975 đã đưa ra các biện pháp kỹ
thuật, kế hoạch nghiên cứu liên quốc gia về vấn đề này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Nhưng phục hồi hệ sinh thái rừng đã trở thành vấn đề nóng bỏng từ thập kỷ
80 của thế kỷ 20. Năm 1980 Cairn chủ biên cuốn “ Quá trình phục hồi hệ sinh thái
bị tổn thất” 8 nhà khoa học đã tham gia biên soạn nhiều vấn đề về sự tổn thất hệ
sinh thái và các biện pháp khắc phục. Năm 1985 thành lập một hiệp hội khoa học
phục hồi hệ sinh thái quốc tế. Lĩnh vực khoa học này đã bắt đầu từ đó. Từ năm
1990 nhiều tác phẩm về phục hồi hệ sinh thái của Peng Weilin đã được xuất bản.
Do sự suy thoái rừng có rất nhiều mức độ nên các hoạt động phục hồi rừng
cũng rất đa dạng, điều này phụ thuộc vào hiện trạng của rừng khi tiến hành phục
hồi. Trong lâm sinh nhiệt đới các biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng rất đa dạng
nhưng cơ sở xuyên suốt của các biện pháp đó là việc vận dụng tái sinh tự nhiên hay
nhân tạo hay sự vận dụng cả hai hình thức tái sinh này phụ thuộc vào từng quốc
gia, từng lập địa cụ thể.
Có rất nhiều cách đưa ra lí do cần phải trồng rừng. Năm 1944 Tansley đưa ra
“giả thuyết về diễn thế gia tốc”: ở các khu rừng mưa không phải là đâu đâu cũng
có thể áp dụng được những kĩ thuật tái sinh tự nhiên. Tại một số nơi, có những

diện tích rừng rộng lớn đã bị phá huỷ do các cách khai thác cạn kiệt hoặc do canh
tác tạm thời, trên những lập địa như thế còn phải trải qua những thời gian dài thì
diễn thế tự nhiên mới sản sinh được những lớp rừng gỗ kinh tế và trồng rừng là
phương sách đẩy nhanh quá trình diễn thế đó. Trong lịch sử có một số kiểu trồng
rừng được áp dụng để khôi phục rừng ở các nước nhiệt đới như sau:
- Trồng rừng kiểu Taungya (Psyllid):
Taungya có nguồn gốc từ Miến Điện và là một trong các đóng góp chủ yếu
của nhiệt đới cho nền lâm học thế giới. Danh từ “taungya” có nghĩa là canh tác trên
đồi núi có tính chất tạm thời, hay nói cách khác là trồng trọt du canh, và cơ sở của
trồng rừng kiểu taungya là lợi dụng những người trồng trọt du canh để trồng nên
những quần thể rừng non sau khi những người trồng trọt bỏ lại đất không canh tác nữa.
Kiểu Taungya đã được sử dụng chủ yếu ở các khu vực rừng nhiệt đới, có
tính chất phân mùa, nhưng nó vẫn được áp dụng ở các khu vực rừng mưa với một
quy mô không nhỏ. Chẳng hạn như ở Ấn Độ (Krishnaswamy, 1952), Pakixtan
(Ghani, 1957), Công gô Kinsaxa (sở lâm nghiệp Công gô, 1958), và Nijerya
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
(Redhead, 1960). Ở khu Mayumbe của Công gô, người ta đã sử dụng một phương
thức giống với taungya để trồng chuối đưa ra thị trường bán lấy tiền.
- Trồng dặm dưới tán kiểu quảng canh ( Extensive Enrichment Planting).
Thuật ngữ “trồng dặm dưới tán” bao hàm việc trồng các cây con vào trong
rừng, và trước khi cây con mọc lên vững vàng thì rừng càng ít phải chịu đựng sự
can thiệp càng tốt. Trồng dặm dưới tán kiểu quảng canh được áp dụng nhiều ở các
khu vực nói tiếng Pháp tại Châu Phi. Năm 1949 qua điểm lại các kết quả thu được
trong trồng rừng kiểu quảng canh, Brasnett đã kết luận rằng cách trồng dặm dưới
tán đem lại một phương pháp để tái sinh từng phần, hoặc để tăng tỷ lệ có giá trị
loài cây ở nơi nào mà: 1) sự tái sinh tự nhiên bị thiếu hụt và không thể thúc đẩy
được một cách thích đáng; 2) có ít cây có thể bán được đến mức là chăm sóc
những đám cây tái sinh tự nhiên nằm rải rác thì tổn phí còn đắt hơn là rừng có thể
bù đắp được; 3) nơi nào mà không thấy có mặt loài cây có giá trị.

- Trồng dặm dưới tán kiểu thâm canh ( Intensive Enrichment Planting)
Khác hẳn với trồng rừng dưới tán kiểu quảng canh, kiểu trồng dậm dưới tán
kiểu thâm canh yêu cầu phải chăm sóc cho toàn bộ quần thể sau khi trồng. Trồng
rừng dưới tán kiểu thâm canh nhằm thiết lập một quần thể có trữ lượng đầy đủ,
nhưng đồng thời cũng lợi dụng bất kì lớp cây tái sinh hợp yêu cầu nào có thể có
mặt trong khoảnh trồng cây, nói chung là trồng dậm dưới tán được áp dụng ở nơi
nào mà lớp cây tái sinh này thiếu hụt. Kiểu trồng này đã được áp dụng ở nhiều nơi
và vào nhiều thời điểm khác nhau và thường đem lại kết quả rất thoả đáng. Ở New
South Wales, phương pháp này đã được dùng để tạo ra một số các rừng trồng cao
tuổi nhất và thành công nhất với loài Araucaria cunninghamii, phương pháp này đã
được dùng ở Xây lan (Holmes. 1956 – 1957 ), Ấn Độ (Krishnaswamy, 1952),
Puectô Ricô và Malaysia.
- Trồng rừng không tàn che bằng lao động trả công (Open Plantation by
Direct labour)
Kiểu tái sinh nhân tạo chủ yếu sau cùng được áp dụng ở các khu vực rừng
mưa là xây dựng những rừng trồng không tàn che bằng lao động trả công, ngược
lại với cách xây dựng các rừng này theo kiểu taungya. Cách làm này là sử dụng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
một loạt loài cây khác nhau, dưới những điều kiện biến đổi khác nhau. Người ta đã
lựa chọn rất nhiều loài cây – Pinus radiata ở Tân Tây Lan, Araucaria spp. ở
Queensland và Tân Ghinê, Tectona và Pinus spp. Ở một số nơi tại Indonesya,
Pinus caribaea ở Xurinam, …Kĩ thuật này đại diện cho hình thức lâm sinh mang
tính chất thâm canh nhất đã được tiến hành và cũng là hình thức tốn nhất nhìn về
số vốn phải bỏ ra, nhưng nó đã chứng tỏ là đem lại lợi nhuận ở mức cao.
Bên cạnh việc vận dụng tái sinh nhân tạo, việc vận dụng tái sinh tự nhiên
cũng diễn ra rất mạnh mẽ ở các khu vực rừng mưa trong việc phục hồi lại hệ sinh
thái rừng. Nó được biểu hiện thông qua các hệ thống kỹ thuật lâm sinh gần với tự
nhiên được áp dụng ở các nước nhiệt đới hay chính là một số phương thức khai
thác đảm bảo tái sinh. Những kỹ thuật này đại diện cho việc phục hồi lại rừng

trong điều kiện còn hoàn cảnh rừng, mục tiêu phục hồi còn gắn chặt với mục tiêu
kinh tế từ gỗ của rừng. Điển hình của một số hệ thống kỹ thuật này là:
Ở Malayxia sau nhữ ng năm 1940 - 1950 có phương thứ c rừ ng đề u tuổ i
(MUS: Malayan Uniorm System ) mà thực chất là một kiểu chặt trắng ở nhiệt đới .
MUS là mộ t kiể u chặ t trắ ng củ a Malaysia ra đờ i và thự c hiệ n rộ ng khắ p ở nhữ ng
rừ ng cây họ Dầ u vù ng đấ t thấ p . Phương thứ c nà y đượ c dự a trên mộ t tiề n đề tá i
sinh củ a cá c loà i cây mong muố n đã có sẵ n trên mặ t đấ t rừ ng chưa khai thá c . MUS
đò i hỏ i nhữ ng loà i cây tá i sinh phả i có khả năng thí ch ứ ng vớ i sự giả i phó ng độ tà n
che của tầng cây cao, đặc biệt là sau khi khai quang tầng rừng giữa đồng thời phải
giữ đượ c độ che phủ của tầng lâm hạ để khố ng chế cỏ dạ i . Phương thứ c nà y đượ c
đá nh giá là thà nh công ở vù ng thấ p . Tuy nhiên , khi xuấ t hiệ n cơ giớ i hoá trong
khai thá c, quá trình này đã làm tăng tổ n hạ i cho nhữ ng cây cò n lạ i . Đồng thời, do
nhu cầ u về gỗ củ a Malaysia ngày càng cao dẫ n đế n yêu cầ u về khai thá c rừ ng
mạnh lên và đơn điệu hơn . Trong mộ t số năm gầ n đây , đấ t rừ ng vù ng thấ p đượ c
chuyể n sang mụ c tiêu sử dụ ng đấ t khá c nên MUS đượ c mở rộ ng tớ i nhữ ng rừ ng
cây họ Dầ u ở trên nú i cao hơn (Buschbacher, 1990). Tại những vùng này MUS
không thà nh công vì mộ t số lý do :
- Đị a hì nh, đị a thế khó khăn.
- Thiế u cây tá i sinh mọ c trên đấ t rừ ng trướ c khai thá c.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
- Tái sinh hạt sau khai thác không chắc chắn vì thiếu nguồn giống .
- Cây tá i sinh bị chè n é p bở i cá c loà i cây thứ yế u họ Cau dừ a , tre nứ a v.v...
Sau thấ t bạ i nà y , ở Malaysia đã xuất hiện một vài biện pháp linh hoạt hơn
nhưng hiệ n chưa có cơ sở để đá nh giá . Ví dụ điển hình như phương thức chặt chọn .
Đây là phương thứ c "chỉ thu hoạch những cây đã đượ c lự a chọ n". Xét về mặt lâm
sinh, phương thứ c nà y cố gắ ng giả m thiể u nhữ ng tổ n hạ i cho cây tá i sinh trong lú c
thu hoạ ch và xá c đị nh chu kỳ khai thá c hợ p lý . Hiệ n tạ i chu kỳ chặ t củ a phương
thứ c nà y là 25 - 35 năm và lượ ng chặ t tố i thiể u là 32 cây/ha cho nhữ ng cây có D
1.3


 50 cm ở nhữ ng cây họ Dầ u và D
1.3
 45 cm cho cá c loà i khá c , (Thang &
Tambong, 1990).
Tại một quốc gia Nam Mỹ là Surinam có một thử nghiệm được tiến hành
trong vò ng 17 năm giữ a Trườ ng Đạ i họ c Nông nghiệ p Wagenigen (Hà Lan ) và
Trườ ng Đạ i họ c Tổ ng hợ p Surinam hợ p tác nghiên cứu xây dựng một phương thức
điề u chế có tên gọ i là "phương thứ c điề u chế Celos " (CMS
*
). Mục tiêu lâm sinh
của CMS là tái sinh những loài cây mục đích , thúc đẩy sinh trưởng của những loài
mong muố n và duy trì cân b ằng sinh thái quần thể nhằm giữ ổn định sản lượng
bằ ng cá ch duy trì rừ ng cà ng giố ng giai đoạ n tự nhiên cà ng tố t . Mộ t điể m đượ c
nhấ n mạ nh là mụ c tiêu xử lý lâm sinh có thể là m mấ t cân đố i tỷ lệ cá c loà i phi mụ c
đí ch nhưng không tiêu diệ t hẳ n chú ng . Ưu điể m nổ i bậ t củ a CMS là bả o toà n đ ược
cấ u trú c rừ ng có hầ u hế t cá c cấ p tuổ i , tạo ra được cách lựa chọn trong điều chế
rừ ng. Nhữ ng xá o trộ n trong rừ ng đượ c hạ n chế và dự trữ dinh dưỡ n g khoá ng trong
sinh khố i chỉ bị vi phạ m mộ t phầ n trong nhữ ng tá c độ ng bắ t buộ c .
Vẫn còn một số hệ thống biện pháp nữa sử dụng phương pháp lâm sinh để
xúc tiến tái sinh phục hồi lại rừng mà đã được G. Baur [1] tổng kết khá đầy đủ
trong tác phẩm “Cơ sở sinh thái kinh doanh rừng mưa”. Tuy nhiên, các phương
pháp này được xây dựng là do sự nhiệt tình và kinh nghiệm của các nhà lâm sinh
nhiệt đới, chứ không phải được xây dựng trên cơ sở các thí nghiệm có đối chiếu so
sánh, cho nên đã có những bài học thất bại ở một số nước. Do vậy, khi áp dụng


*
Celos Managment System


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
những kỹ thuật này cho một vùng nào đó cần có những thăm dò, thử nghiệm và
những điều chỉnh trước khi đưa vào áp dụng một cách rộng rãi.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Cấu trúc rừng
Trần Ngũ Phương (1970) đã chỉ ra những đặc điểm cấu trúc của các thảm
thực vật rừng miền Bắc Việt Nam trên cơ sở kết quả điều tra tổng quát về tình hình
rừng miền Bắc Việt Nam từ 1961 đến 1965. Rừng tự nhiên có nhiều tầng, khi tầng
trên già cỗi, tàn lụi rồi tiêu vong thì tầng kế tiếp thay thế…trong mỗi chuỗi diễn thế
tự nhiên như vậy, số lần thay thế tối đa cũng chỉ có thể là 3, vì rừng nhiều tầng tối
đa cũng chỉ có thể có 3 tầng cây gỗ [23] .
Thái Văn Trừng (1978) đã tiến hành phân chia thực vật rừng nhiệt đới thành
5 tầng: tầng vượt tán (A
1
), tầng ưu thế sinh thái (A
2
), tầng dưới tán (A
3
), tầng cây
bụi (B) và tầng cỏ quyết (C). Thái Văn Trường đã cải tiến và bổ sung phương pháp
biểu đồ mặt cắt đứng của Davit – Richards để nghiên cứu cấu trúc rừng Việt Nam,
trong đó tầng cây bụi và thảm tươi được vẽ phóng đại với tỷ lệ nhỏ hơn và ghi ký
hiệu thành phần loài cây của quần thể đối với những đặc trưng sinh thái và hậu vận
cùng biểu đồ khí hậu, vị trí địa lý và địa hình [31].
Trong những năm gần đây có rất nhiều công trình nghiên cứu định lượng về
cấu trúc rừng, nổi bật là các công trình của các tác giả: Đồng Sĩ Hiền (1974),
Nguyễn Hải Tuất (1975) ….Theo Đồng Sỹ Hiền (1974): “Tổng thể những cây hình
thành một khoảng rừng thuần nhất nhiều hay ít. Vì thế trong thực tiễn, rừng tự
nhiên nhiệt đới nước ta, những cây dù khác loài, khác tuổi mọc thành rừng nghĩa là

cùng nhau sinh trưởng trên một diện tích nào đó với mật độ nhất định, hình thành
một đơn vị sinh vật học, một lâm phần có quy luật nhất định”
Phân bố số cây theo cỡ đường kính (N-D
1.3
)
Với rừng tự nhiên hỗn giao khác tuổi theo Đồng Sĩ Hiền (1974) cho thấy,
dạng tổng quát của phân bố N-D là phân bố giảm, nhưng do quá trình khai thác
chọn thô không theo quy tắc, nên đường thực nghiệm thường có dạng hình răng
cưa và ông đã chọn hàm Mayer để mô phỏng quy luât cấu trúc đường kính cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
rừng, Nguyễn Hải Tuất (1986) sử dụng phân bố khoảng cách mô tả phân bố thực
nghiệm dạng một đỉnh ở ngay sát cỡ đường kính bắt đầu đo [8], [14]
Bảo Huy (1993) đã thử nghiệm 4 dạng hàm cho từng loài ưu thế, Bằng lăng,
Căm xe, Kháo, Chiêu liêu ở rừng rụng lá và nửa rụng lá Bằng lăng khu vực Tây
Nguyên đã kết luận hàm phân bố khoảng cách thích hợp hơn các dạng phân bố
khác [10].
Trần Văn Con (1991), Lê Minh Trung (1991)….cho rằng hàm Weibull là
thích hợp hơn cả. Theo Đào Công Khanh (1996) dạng tần số tích lũy thích hợp vì
biến động của đường thực nghiệm này nhỏ rất nhiều so với biến động số cây hay
phần trăm số cây ở các cớ kính [7], [16].
Việc nghiên cứu phân bố số cây theo cỡ kính N-D
1.3
trong những năm gần
đây không chỉ phục vụ cho công tác điều tra như xác định trữ lượng lâm phần, tổng
tiết diện ngang, mà còn xây dựng cơ sở khoa học cho các giải pháp kỹ thuật lâm
sinh trong nuôi dưỡng, làm giàu rừng.
Phân bố số cây theo cỡ chiều cao (N-H)
Theo nghiên cứu của Đồng Sỹ Hiền (1974) cho thấy, phân bố số cây theo
chiều cao (N/H) ở các lâm phần tự nhiên hay trong từng loài cây thường có nhiều

đỉnh, phản ánh kết cấu phức tạp của rừng chặt chọn. Thái Văn Trừng (1978) [31]
trong nghiên cứu của mình đã đưa ra các kết quả nghiên cứu cấu trúc của tầng cây
gỗ rừng loại IV. Bảo Huy (1993), [10] Đào Công Khanh (1996) [16]….các tác giả
đều nhận xét chung là phân bố N-H có dạng đường cong một đỉnh và nhiều đỉnh
phụ hình răng cưa, mô tả bằng hàm Weibul là thích hợp hơn cả.
Tóm lại, các nghiên cứu về cấu trúc rừng thường mô hình hóa các quy luật
kết cấu lâm phần, và đề xuất các biện pháp tác động vào lâm phần nhưng lại ít
hoặc chưa chú ý đến các vấn đề sinh thái nên phần nào chưa đáp ứng được mục
tiêu quản lý rừng ổn định, lâu dài.
1.2.2. Tái sinh rừng tự nhiên
Rừng nhiệt đới Việt Nam mang đặc điểm tái sinh của rừng nhiệt đới nói
chung nhưng do bị tác động của con người nên nhưng quy luật tái sinh bị thay đổi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Trần Ngũ Phương (1965) kết luận: “ Trong quá trình một tầng nào đó của
rừng bắt đầu già cỗi thì tầng ấy đã chuẩn bị cho bản thân nó một lớp cây con tái
sinh để sau này sẽ thay thế nó sau khi nó tiêu vong”, tác giả cũng rút ra các quy
luật tái sinh tự nhiên này biểu hiện không đều, khi có khi không, chỗ thưa chỗ dày,
chỗ tốt, chỗ không tốt như vậy mô phỏng theo thiên nhiên một cách thông minh và
mô phỏng theo phương pháp nhân tạo, làm như vậy, cấu trúc phân tầng của rừng
luôn luôn đảm bảo về lượng cũng như về chất [23].
Khi bàn về vấn đề đảm bảo tái sinh trong khai thác rừng, Phùng Ngọc Lan
(1964) đã nêu kết quả tra dặm hạt Lim xanh dưới tán rừng ở lâm trường Hữu Lũng,
Lạng Sơn. Ngay từ giai đoạn nảy mầm, bọ xít là nhân tố gây ảnh hưởng đáng kể
đến tỷ lệ nảy mầm [18].
Theo Vũ Đình Huề (1969) từ các kết quả điều tra tái sinh tự nhiên ở rừng
miền Bắc Việt Nam dựa vào mật độ tái sinh, Ông đã phân chia khả năng tái sinh
rừng thành 5 cấp, rất tốt, tốt, trung bình, xấu và rất xấu. Ông đã tổng kết: “Dưới
tán rừng nguyên sinh, tổ thành tầng cây tái sinh tương tự như tầng cây gỗ, dưới tán
rừng thứ sinh tồn tại nhiều loài cây gỗ kém giá trị và hiện tượng tái sinh theo đám

được thể hiện rõ nét tạo nên sự phân bố số cây không đồng đều trên mặt đất rừng”.
Tác giả cũng đã xây dựng biểu đánh giá tái sinh áp dụng cho những đối tượng rừng
lá rộng miền Bắc.
Khi nghiên cứu về thảm thực vật rừng Việt Nam, Thái Văn Trừng (1978) đã
nhấn mạnh tới ý nghĩa của điều kiện ngoại cảnh đến các giai đoạn phát triển của
cây tái sinh [31].
Nguyễn Văn Trương (1983) khi nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc rừng
với lớp cây tái sinh tự nhiên trong rừng hỗn loài đã rút ra kết luận: Muốn cho rừng
phát triển liên tục trong điều kiện quy luật đào thải tự nhiên hoạt động rõ ràng lớp
cây dưới phải nhiều hơn lớp cây kế tiếp nó ở phía trên. Điều kiện này không thực
hiện được trong rừng tự nhiên ổn định mà chỉ có trong rừng chuẩn sự tái sinh liên
tục đã có sự điều tiết khéo léo của con người [18].
Nghiên cứu đặc điểm quá trình tái sinh của rừng tự nhiên ở Hữu Lũng –
Lạng Sơn và vùng Ba Chẽ - Quảng Ninh, Vũ Tiến Hinh (1991) nhận xét: Hệ số tổ

×