Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Giá trị lịch sử, văn hóa của sưu tập tiền cổ được lưu giữ tại bảo tàng vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.99 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI

*******&******

NGUYỄN THỊ NGUYỆT

GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HOÁ CỦA SƯU TẬP TIỀN CỔ
ĐƯỢC LƯU GIỮ TẠI BẢO TÀNG VĨNH PHÚC

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số
: 60 31 06 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN SỸ TOẢN

HÀ NỘI – 2013


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tôi xin chân thành cảm ơn Ban
giám hiệu trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Phịng Đào tạo Sau đại học,
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, q thầy cơ đã tận tình dạy dỗ, truyền thụ
kiến thức bổ ích cho tơi trong suốt q trình học tập ở trường và thời gian
thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới TS. Nguyễn
Sỹ Toản đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện
luận văn tốt nghiệp.
Qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban lãnh đạo và các anh chị


trong Bảo tàng đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp thơng tin, tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt thời gian qua.
Đồng thời, xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên, giúp đỡ cho tơi
trong suốt q trình học tập và thực hiện luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc tìm hiểu, thu thập các thơng tin,
tư liệu cũng như trong việc trình bày nội dung các vấn đề nhưng do trình độ
cịn hạn chế nên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Vậy tơi kính mong
nhận được sự đóng góp, chỉ bảo của các q thầy cơ để tơi có thể hồn thiện
được bản luận văn này.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2013
TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Nguyệt


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Nguyễn Sỹ Toản. Những nội dung trình bày trong luận
văn là kết quả nghiên cứu của tôi, trên cơ sở nghiên cứu và kế thừa kết quả
những cơng trình nghiên cứu đã được công bố. Những chỗ sử dụng kết quả
nghiên cứu của người khác đều được trích dẫn rõ ràng. Tơi hồn tồn chịu
trách nhiệm trước nhà trường về sự cam đoan này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 10 năm 2013
TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Nguyệt


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

LAN

: Mạng nội bộ

tr

: Trang

TCN

: Trước công nguyên

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 7
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ SƯU TẬP TIỀN CỔ ĐƯỢC LƯU GIỮ TẠI
BẢO TÀNG VĨNH PHÚC................................................................................ 13
1.1. Khái niệm “sưu tập” và tình hình nghiên cứu tiền cổ ở Việt Nam .... 13
1.1.1. Khái niệm sưu tập và sưu tập tiền cổ .............................................. 13

1.1.2. Vài nét về tình hình nghiên cứu tiền cổ ở Việt Nam ...................... 14
1.2. Khái quát sưu tập tiền cổ tại Bảo tàng Vĩnh Phúc ............................... 19
1.2.1. Vài nét về Bảo tàng Vĩnh phúc ....................................................... 19
1.2.2. Quá trình sưu tầm và thu thập hiện vật của sưu tập........................ 22
1.2.3. Thống kê hiện vật trong sưu tập ..................................................... 23
1.2.4. Phân loại sưu tập............................................................................. 24
Chương 2: NHỮNG GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA SƯU TẬP TIỀN CỔ
ĐƯỢC LƯU GIỮ TẠI BẢO TÀNG VĨNH PHÚC ........................................ 46
2.1. Giá trị lịch sử của sưu tập........................................................................ 46
2.1.1. Nguồn sử liệu góp phần nghiên cứu lịch sử dân tộc ....................... 46
2.1.2. Nguồn sử liệu góp phần nghiên cứu sự phát triển kinh tế - xã hội
đương thời................................................................................................. 49
2.1.3. Nguồn sử liệu góp phần nghiên cứu sự phát triển tiền tệ Việt Nam..... 52
2.2. Giá trị văn hóa của sưu tập ..................................................................... 58
2.2.1. Giá trị văn hóa vật thể..................................................................... 58
2.2.2. Giá trị văn hóa phi vật thể .............................................................. 66


Chương 3: GIẢI PHÁP VỀ BẢO QUẢN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA
SƯU TẬP TIỀN CỔ ĐƯỢC LƯU GIỮ TẠI BẢO TÀNG VĨNH PHÚC .... 73
3.1. Thực trạng công tác bảo quản và phát huy giá trị sưu tập tiền cổ tại
Bảo tàng Vĩnh Phúc ......................................................................................... 73
3.1.1. Công tác bảo quản sưu tập .............................................................. 73
3.1.2. Công tác khai thác phát huy giá trị của sưu tập .............................. 77
3.2. Giải pháp bảo quản và phát huy giá trị của sưu tập............................ 78
3.2.1. Giải pháp về bảo quản sưu tập ........................................................ 78
3.2.2. Giải pháp về phát huy giá trị của sưu tập tiền cổ............................ 89
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 100
PHỤ LỤC ............................................................... Error! Bookmark not defined.



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiền cổ là một di vật có giá trị đặc biệt, vật minh chứng cho sự biến đổi
của lịch sử, như thay thế cả một triều vua hay cả một triều đại, nó ẩn chứa
trong mình nhân sinh quan, thế giới quan của người xưa. Tiền cổ là một loại
sản phẩm phổ biến, có cả ở người giàu và người nghèo, nó ln phục vụ đắc
lực cho cuộc sống con người. Do đó, khi nghiên cứu về tiền cổ, phần nào
chúng ta có thể biết được tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, sự lưu
thơng hàng hóa của thời đại lịch sử ấy…
Việt Nam là một trong những quốc gia có truyền thống lịch sử văn hóa
lâu đời, vị trí nằm ở trung tâm bán đảo Đông Nam Á nên tiền tệ cũng sớm được
hình thành. Thư tịch cũ cũng chứng minh đồng tiền cổ nhất của Việt Nam có từ
thời Đinh Tiên Hoàng. Đây là đồng tiền mở đầu cho thời kì độc lập tự chủ của
dân tộc ta trước thế lực Phong kiến phương Bắc. Từ đó về sau, các triều đại
Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ... đều đúc tiền, không hề bị gián đoạn, để khẳng định sự
tồn tại của triều đại mình nhằm lưu lại cho thế hệ sau này. Cho đến nay, tiền cổ
đã trở thành một loại di vật có giá trị, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Tuy nhiên, tiền cổ ở nước ta vẫn chưa trở thành một chuyên ngành
nghiên cứu. Những nhà nghiên cứu tiền cổ và sưu tập tiền cổ ở nước ta cịn rất
ít, chưa đáp ứng được việc bảo tồn và phát huy giá trị của tiền cổ. Có nhiều
loại tiền cổ được người dân phát hiện ra nhưng do khơng hiểu được giá trị của
nó nên đã khơng bảo tồn được. Mặt khác, số lượng tiền cổ của các thời đã
phát hiện được ở các di chỉ khảo cổ lại nằm rải rác trong các bảo tàng, các sưu
tập của các nhà sưu tập tư nhân, các cửa hiệu mỹ nghệ… Chúng vẫn chưa
được tập hợp có hệ thống ở một nơi cố định. Chính tình trạng trên đã làm cho
tiền cổ bị mất mát nhiều hơn, bị bán ra nước ngồi và đang trơi nổi trên thị
trường bn bán đồ cổ, gây khơng ít khó khăn cho những nhà nghiên cứu.



Bảo tàng Vĩnh Phúc trực thuộc tỉnh Vĩnh Phúc là nơi lưu giữ nhiều cổ
vật có giá trị về lịch sử văn hóa. Hiện nay, bảo tàng đang lưu giữ một khối
lượng lớn tiền cổ khá phong phú, cả tiền Việt Nam và tiền nước ngoài (mà
chủ yếu là tiền Trung Quốc). Tuy nhiên, để công tác bảo quản, trưng bày và
phát huy được giá trị của sưu tập là một hoạt động địi hỏi cần nhiều cơng sức.
Trong giai đoạn hiện nay, khi cánh cửa giao lưu hội nhập, mở rộng với
thế giới bên ngồi; thì việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc của ơng cha ta từ
bao đời nay càng cần thiết hơn bao giờ hết. Do đó, việc nghiên cứu tiền cổ
Việt Nam để tìm hiểu về lịch sử, văn hóa nghệ thuật, kinh tế của mỗi triều đại
là vơ cùng cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.
Chính vì những lý do trên và để góp phần vào việc bảo tồn, gìn giữ và
phát huy hơn nữa giá trị của tiền cổ của nước ta, tôi đã chọn đề tài “Giá trị
lịch sử, văn hóa của sưu tập tiền cổ được lưu giữ tại Bảo tàng Vĩnh Phúc”
làm luận văn cao học chuyên ngành Văn hóa học. Hy vọng đề tài này sẽ góp
được một phần nhỏ bé vào việc bảo vệ và phát huy những di sản văn hóa
mang bản sắc dân tộc trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu
Tiền cổ là một trong những đối tượng nghiên cứu của Khảo cổ học. Vì
vậy, các nhà khảo cổ học trên Thế giới, cũng như Việt Nam khi nghiên cứu về
một xã hội cổ đại, không thể không chú ý đến loại di vật này. Việc nghiên cứu
tiền cổ góp phần quan trọng cho việc giám định di vật hoặc di tích được khai
quật. Ngồi ra, tiền cổ cũng góp phần nào đó phản ánh được tình hình Chính
trị, Lịch sử, Văn hóa – Nghệ thuật …thời bấy giờ.
Ở nước ngoài, việc nghiên cứu tiền cổ đã có một ngành độc lập, gọi là
Tiền cổ học. Trong đó, đối với tiền Việt Nam, đã có rất nhiều tác giả nước
ngoài quan tâm nghiên cứu. Họ đã cơng bố nhiều cơng trình nghiên cứu về
tiền cổ Việt Nam và nói rõ tên các triều đại, có hình ảnh kèm theo, như:



Năm 1900, một nhà nghiên cứu người Pháp tên là Désiré Laroix cho in
cuốn “Cổ tiền học An Nam” quy mô đầu tiên. Sách gồm hai tập, một tập chữ,
một tập ảnh.
Năm 1963, Benard J.Permarin với cuốn “Sưu tập tiền cổ An Nam 968 –
1955”, cơng bố 641 hình các đồng tiền có mơ tả sơ lược.
Năm 1982, Edwardtoda, một người Anh sống ở Thượng Hải đã cho in
cuốn sách bằng tiếng Anh có tên “An Nam và các loại tiền thơng dụng”…
Những người nước ngồi như M.Jsilestre, Toda…cũng có ít nhiều bài
nghiên cứu nhưng chưa có cơng trình nào là chun khảo có tính hệ thống,
đầy đủ. Ở Việt Nam, những cơng trình nghiên cứu về tiền cổ chưa nhiều và
chưa có hệ thống. Có một số cuốn sách đã được xuất bản như:
“Tiền cổ Việt Nam” của Giáo sư Đỗ Văn Ninh, xuất bản năm 1992.
Cuốn sách đã giới thiệu khá đầy đủ các loại tiền Việt Nam qua các triều đại.
“Tiền kim loại Việt Nam” do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam xuất bản vào
thánh 05 năm 2005. Cuốn sách đã giới thiệu từ khi đồng tiền đầu tiên của
nước ta ra đời cho tới năm 2003. Đây là cuốn sách đầu tiên về tiền tệ nước ta
có tính chất khái qt nhất về lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ Việt Nam
qua các thời kì lịch sử.
Trong những bộ sử lớn của nước ta, cũng đã ít nhiều đề cập đến việc
đúc tiền và lưu thơng tiền tệ trong các thời kì lịch sử như: Đại Việt sử kí tồn
thư, Việt sử thơng giám cương mục, Lịch sử Việt Nam, Lịch sử chế độ Phong
kiến Việt Nam, Lịch sử tư tưởng Việt Nam…
Bên cạnh đó, các bài viết, nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu như
Nguyễn Anh Huy, Bình Khang, Hồ Đăng Kế, Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn
Quốc Bình trên một số báo, tạp chí như Xưa nay, Cổ vật tinh hoa, tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, Thông báo khoa học…


Ngoài ra, tiền cổ cũng là một trong những đề tài hấp dẫn, thu hút sinh
viên nghiên cứu khoa học, sinh viên lấy làm đề tài khóa luận tốt nghiệp như:

- Khóa luận “Tìm hiểu tiền cổ Việt Nam thời kì Phong kiến” của sinh
viên Đỗ Thị Hằng Nga, Đại học Văn hóa Hà Nội năm 1999.
- Khóa luận “Bước đầu tìm hiểu sưu tập tiền cổ của Bảo tàng Vĩnh
Phúc” của Lê Thị Hồng Tường, trường Đại học Văn hóa Hà Nội năm 2000.
Đây là những tư liệu quý, có giá trị cho việc tham khảo. Vì vậy, việc
tìm hiểu và kế thừa những nguồn tư liệu trên, phục vụ cho việc nghiên cứu đề
tài luận văn là rất cần thiết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sưu tập tiền cổ được lưu giữ tại Bảo
tàng Vĩnh Phúc.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu mà luận văn đề cập đến là sưu tập và giá trị lịch sử,
văn hóa của sưu tập tiền cổ đang được lưu giữ tại Bảo tàng Vĩnh Phúc.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu giá trị lịch sử, văn hóa của sưu
tập tiền cổ tại Bảo tàng Vĩnh Phúc và đề xuất giải pháp nhằm bảo quản, phát
huy giá trị của sưu tập trong xu thế hội nhập hiện nay
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Trên cơ sở tiếp cận các tư liệu, kết hợp với
khảo sát thực tế, luận văn nghiên cứu giới thiệu tổng quan Bảo tàng Vĩnh
Phúc tình hình nghiên cứu tiền cổ và sưu tập tiền cổ tại Bảo tàng Vĩnh Phúc.
- Nghiên cứu giá trị lịch sử, văn hóa của sưu tập dựa trên cơ sở thống
kê, phân loại, hệ thống hóa và miêu tả sưu tập tiền cổ tại Bảo tàng Vĩnh Phúc.


- Nghiên cứu thực trạng bảo quản và phát huy giá trị của sưu tập, từ đó
đề xuất giải pháp nhằm bảo quản, phát huy giá trị lịch, sử văn hóa của sưu tập.
5. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ việc tiếp cận đối tượng nghiên cứu dưới góc độ văn hóa
học, luận văn sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:

- Vận dụng dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương và đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành như: khảo cổ học, sử
học, văn hóa học, bảo tàng học, mỹ thuật học...
- Phương pháp khảo sát, miêu tả, thống kê, phân loại, chụp ảnh và xử lý
thông tin tư liệu...
6. Đóng góp của đề tài
- Góp thêm tư liệu để có nhận thức một cách hệ thống và đầy đủ hơn
về giá trị lịch sử, văn hóa của sưu tập tiền cổ được lưu giữ tại bảo tàng
Vĩnh Phúc.
- Khẳng định giá trị lịch sử, văn hóa của sưu tập, đồng thời qua nghiên
cứu, góp thêm hiểu biết về tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, hoạt động giao
lưu văn hóa của các triều đại xưa.
- Luận văn nêu ra được thực trạng của công tác lưu giữ, bảo quản và
trưng bày sưu tập tại Bảo tàng Vĩnh Phúc. Qua đó, đưa ra được những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác trưng bày, nghiên cứu, bảo quản sưu
tập tại bảo tàng; và phát huy được những giá trị của sưu tập.


7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm có 3 chương cụ
thể như sau:
Chương 1: Tổng quan sưu tập tiền cổ được lưu giữ tại Bảo tàng
Vĩnh Phúc
Chương 2: Những giá trị tiêu biểu của sưu tập tiền cổ được lưu giữ
tại Bảo tàng Vĩnh Phúc
Chương 3: Giải pháp về bảo quản và phát huy giá trị của sưu tập tiền
cổ được lưu giữ tại Bảo tàng Vĩnh Phúc


S


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ SƯU TẬP TIỀN CỔ ĐƯỢC LƯU GIỮ
TẠI BẢO TÀNG VĨNH PHÚC
1.1. Khái niệm “sưu tập” và tình hình nghiên cứu tiền cổ ở Việt Nam
1.1.1. Khái niệm sưu tập và sưu tập tiền cổ
Khái niệm sưu tập được đề cập khá nhiều; tuy nhiên, sưu tập trong mỗi
lĩnh vực, chun ngành lại có tính chất và đặc thù riêng của từng chuyên
ngành đó. Nhưng nói chung, sưu tập là một khái niệm chỉ việc thu thập, gìn
giữ, sắp xếp những đồ vật một cách có hệ thống theo một chủ đề, chủ điểm
nào đó.
Trong lĩnh vực Bảo tàng học nói riêng, ngành Văn hóa nói chung, khái
niệm sưu tập được nhắc đến rất nhiều. Luật Di sản văn hố có viết: “Sưu tập
là một tập hợp các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia hoặc di sản văn hố phi vật
thể được thu thập, gìn giữ, sắp xếp có hệ thống theo những dấu hiệu chung về
hình thức, nội dung và chất liệu để đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử, tự nhiên,
xã hội”.
Tuy nhiên, trong Từ điển Tiếng Việt, sưu tập được đề cập đến khá đơn
giản, chỉ là việc “tìm kiếm và tập hợp lại”.
Sưu tập được coi là một thú chơi, một hoạt động nghiên cứu có sự đầu
tư về thời gian, cơng sức, kĩ năng…của người sưu tập. Đó có thể là việc sưu
tập tem thư, tiền cổ, sưu tập cơn trùng, trang sức, xe cộ…Trong đó, sưu tập
tiền cổ là một loại sưu tập đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ, đây là loại hình sưu tập
những hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa của một thời lịch sử đã qua; là hoạt
động đòi hỏi người chơi cần có các kĩ năng cần thiết, chuyên ngành về bảo
tàng để có thể bảo quản, quản lý cũng như trình bày một cách chuyên nghiệp,
thể hiện được sự sáng tạo và tâm huyết của người sở hữu sưu tập.



Tiền cổ là những đồng tiền hết thời hiệu tiêu dùng, tuy khơng cịn lưu
thơng nữa nhưng tùy vào đặc điểm và sự hiếm có mà giá trị của chúng trở nên
rất đặc biệt.
Từ đây, ta có thể hiểu Sưu tập tiền cổ là sưu tập tiền kim loại, tiền giấy
hoặc cả hai, thường được sưu tập theo thời gian lưu hành tiền tệ của một quốc
gia, theo các chuyên đề về phong cảnh, hoạ tiết, hoa văn trang trí hay theo nội
dung lịch sử.
1.1.2. Vài nét về tình hình nghiên cứu tiền cổ ở Việt Nam
Chính sử nước ta khơng có sách nào viết đầy đủ về tiền tệ, chỉ có một
vài đoạn nói sơ lược về phép dùng tiền. Vào thời Gia Long, sử gia Phan Huy
Chú soạn bộ Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, sách viết về cách dùng tiền
tệ, chính tác giả cũng nói: “Sách chép thiếu sót nên khơng thể nào khảo được
tường tận, nay hãy tạm biên ra một vài điều còn thấy chép trong sử để ghi
lại”. Và ngày nay, ở nước ta thì tiền cổ chỉ là một đối tượng trong lĩnh vực
khảo cổ nói chung nên kết quả nghiên cứu chưa cao. Trong khi đó, các học
giả nước ngồi lại rất quan tâm đến tiền cổ Việt Nam và vùng Đông Á, có thể
kể một số cơng trình tiêu biểu sau:
Năm 1882, Edward Toda, một người Anh ở Thượng Hải cho in sách
Annam And Its Minor Currency. Hiện vật được tác giả sưu tập khá nhiều,
hình ảnh trong sách cũng rất đẹp nhưng cũng chỉ là hình vẽ lại, làm hiện vật
khơng cịn tính chân thật của nó. Một vấn đề cần làm sáng tỏ là một số loại
tiền có hiệu lạ được tác giả tự ý giám định niên đại mà khơng có lời giải thích.
Và những điểm này lại là căn cứ gốc để các cơng trình nghiên cứu sau này
đều trích lại nhưng khơng sao giải thích được.
Năm 1895, một người Anh ở Hồng Kông là Stewart Lockhart làm cơng
trình đồ sộ The Currency Of The Far East, From The Earliest Time Up To
1895. Sách nhiều hình ảnh, nghiên cứu cơng phu nhưng vẫn có chỗ nhầm lẫn.



Năm 1900, Désiré Lacroix, một người Pháp ở Sài Gòn, cơng bố cơng
trình Numismatique Annamite. Sách gồm 2 tập, tập 1 là hình chụp các đồng
tiền, cịn tập 2 là lời giải thích các đồng tiền ấy. Về mặt nghiên cứu, đây chỉ là
cơng trình cơng bố lại trên cơ sở sách của Toda nên khơng có gì mới.
Năm 1905, một người Pháp khác là Albert Schroeder công bố ở Paris
một cơng trình rất lớn là Annam Études Numismatiques. Đây là cơng trình
khá lớn, tác giả có nghiên cứu cả lịch sử và địa lý Việt Nam. Ngoài hiện vật
đã được Toda cơng bố, tác giả cịn cơng bố thêm nhiều loại tiền mới lạ tuy
chưa giám định được. Điểm mới của cơng trình là tác giả có chú thích nhiều
đồng tiền giả, ngồi ra cịn nghiên cứu thêm kỹ nghệ đúc tiền và các loại kim
khí khác…
Năm 1940, TingFuBao (Đinh Phúc Bảo) in tại Thượng Hải cơng trình
Cổ Tiền Học Cương Yếu, gồm tiền Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và
Việt Nam. Đây là cơng trình có tính nghiên cứu cao vì hiện vật được chụp
thật sự, giám định khá chính xác, nhưng vẫn cịn đơi chỗ nhầm lẫn và bắt đầu
xuất hiện tiền giả. Sau đó, tác giả tiếp tục hồn chỉnh cơng trình để tiếp tục
xuất bản Lịch Đại Cổ Tiền Đồ Thuyết và Cổ Tiền Đại Từ Điển.
Năm 1963, Bernard J. Perma in tại Sài Gòn cuốn Catalogue Of Annam
Coins 968-1955. Sách này như là một tài liệu tham khảo chính của nhiều nhà
nghiên cứu hiện nay, nhưng lại có khá nhiều tiền giả.
Năm 1965, Fridrik Schjoth ở Wisconsin (Hoa Kỳ) viết về Chinese
Currency, Currency Of The Far East; sau đó, tại Kansas, tác giả Arthur
Braddon Coole có viết Coins In China’s History. Đây thực ra chỉ là việc công
bố những sưu tập đơn giản nên giá trị nghiên cứu chưa cao.
Năm 1966, một người Nhật là Miuria Gosen (Tam Phố Ngô Tuyền)
cho xuất bản tại Tokyo bộ An Nam Tuyền Phổ gồm 3 tập: Lịch Đại Tiền


Bộ công bố các đồng tiền được giám định theo niên hiệu, Thủ Loại Tiền Bộ

thì phân loại theo đặc điểm những đồng tiền chưa xác định được, còn Đại
Tiền - Ngân Tiền Bộ là những đồng tiền bằng bạc và tiền đường kính lớn.
Sách có nhiều hiện vật q hiếm, có giá trị nghiên cứu cao mặc dù cịn có
chỗ bị nhầm lẫn.
Năm 1973, Ogawa Hiroshi (Lục Nguyên Bảo), một người Nhật khác đã
giới thiệu Đông Dương Cổ Tiền - Giá Cách Đồ Phổ. Sách chủ yếu dành cho
các nhà sưu tập vì chỉ giới thiệu sơ lược và ghi giá các đồng tiền. Tuy nhiên,
sự giám định niên đại khá chính xác nhưng hiện vật chưa phong phú.
Năm 1985, Hội Tiền tệ học Thượng Hải xuất bản Giám Định và Bảo
Dưỡng Tiền Cổ, chủ yếu là tiền Trung Quốc và có biểu thống kê tiền Việt
Nam. Vì khơng có hình ảnh tiền Việt nên cũng khó nhận xét, nhưng chắc
chắn sách này đã dựa trên cơ sở của Toda.
Năm 1986, Frangois Thierry công bố cuốn “Những bộ sưu tập tiền
Viễn Đông” gồm hai tập, tập 2 gồm tiền Nhật Bản và Việt Nam, sách in ảnh
màu đẹp, nhưng có nhiều chỗ bị nhầm lẫn giữa tiền Việt Nam và Trung Quốc,
đồng thời có lẫn cả tiền giả. Đến năm 1987, tác giả công bố tiếp Catalogue
Danh mục tiền cổ Việt Nam nhưng hiện vật chưa được phong phú.
Năm 1989, một nhóm người Mỹ là Chester L. Krause, Clifford Mishler
và Colin R. Bruce đã làm Standard Catalog Of World Coins, chủ yếu là tiền
thế giới từ năm 1800 đến nay. Phần tiền Việt Nam chủ yếu là tiền triều
Nguyễn, nhưng vẫn có tiền giả.
Cũng vào năm 1989, một người Mỹ là John A. Novak đã làm A
Working Aid For Collectors Of Annamese Coins. Sách giới thiệu hầu hết hình
các loại tiền cổ đã lưu hành tại Việt Nam, nhưng đó chỉ là hình vẽ lại. Sách
cũng khơng giới thiệu chất liệu và kích thước các loại tiền.


Năm 1991, SunZhongHui (Tôn Trọng Hối), một người Thượng Hải đã
viết sách Cổ Tiền, chủ yếu bàn về tiền Trung Quốc, cịn chỉ nói rất sơ lược về
tiền Việt Nam.

Năm 1993, Hội tiền tệ học Quảng Tây và Hội nghiên cứu tiền tệ Vân
Nam đồng viết Việt Nam Lịch Sử Hóa Tệ. Sách nhiều hiện vật đẹp nhưng vẫn
cịn nhiều chỗ sai sót…
Bộ sưu tập của Nguyễn Đình Sử được Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, với
sự cộng tác giám định và xếp loại của chuyên gia Bảo tàng tiền cổ Quảng Tây
(Trung Quốc) hệ thống và xuất bản thành sách “Kho báu tiền cổ Đại Việt”.
Nhiều đồng tiền giới thiệu trong cuốn sách này được các nhà khoa học đánh giá
thuộc loại quý hiếm và rất hiếm. Quyển sách vinh dự được chọn làm quà tặng
các nguyên thủ quốc gia tới dự Hội nghị APEC tại Hà Nội năm 2006.
Ngồi ra, cũng cịn nhiều sách chun khảo khác như Trung Quốc Cổ
Tiền Mục Lục xuất bản năm 1999… cũng rất cần tham khảo để so sánh…
Ở nước ta, trước đây cũng có vài tác giả như Vương Hồng Sển, Nguyễn
Bảo Tụng, Hồng Văn Khốn… viết về tiền cổ, nhưng cũng chỉ là vài bài báo
đưa tin, giới thiệu, chứ khơng có tính chun khảo.
Năm 1992, Giáo sư Đỗ Văn Ninh xuất bản sách Tiền Cổ Việt Nam.
Từ năm 1996, việc đi tìm lời giải cho việc xây dựng các hệ thống tiền
Việt Nam trong lịch sử bắt đầu được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xúc tiến
bằng việc khởi đầu một Hội thảo chuyên đề văn hóa tiền tệ - đi tìm điểm khởi
đầu của đồng tiền Việt Nam, với nội dung “Tiền Việt Nam qua các triều đại”.
Hội thảo đã thu hút được sự chú ý của nhiều nhà khoa học trong và ngoài
Ngành, cùng giới sưu tầm tiền trên khắp cả nước.
Năm 2003, Hội thảo “Đồng tiền Việt Nam - các giá trị lịch sử và
kinh tế - xã hội”, với nhiều nhân tố mới trong học thuật và thời gian để


định hình một diện mạo chung về tiền cổ việt Nam. Với chất lượng của
nhiều báo cáo khoa học đã cho thấy, một Danh mục tiền Việt Nam đã có cơ
sở để hình thành.
Kể từ đó, việc nghiên cứu văn hóa tiền tệ trong ngành Ngân hàng đã có
một bước tiến đáng kể. Cuốn sách “Tiền Việt Nam” của các tác giả thuộc

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xuất bản vào đúng dịp chuẩn bị kỷ niệm 60
năm thành lập Ngành (1951-2011) chính là kết quả của việc xây dựng và hoàn
chỉnh Danh mục tiền Việt Nam dựa trên việc chỉnh lý Dự án nghiên cứu khoa
học cấp Ngành “Các hệ thống tiền Việt Nam trong lịch sử”, đã được Hội đồng
khoa học ngành Ngân hàng nghiệm thu vào năm 2007.
Đây có thể xem là lần đầu tiên, một Danh mục tiền Việt Nam được
nghiên cứu và giới thiệu, đáp ứng việc hình dung tổng quan tiền tệ Việt Nam
từ khi ra đời cho đến nay. Danh mục Tiền Việt Nam có các phần chú dẫn chi
tiết về danh tính loại tiền, lịch đại, cùng nhiều đặc điểm nhận dạng chi tiết.
Cuốn sách không những giúp cơ quan quản lý tiền tệ như ngân hàng có cơ sở
cơng bố một Danh mục Tiền Việt Nam hồn chỉnh, mà cịn giúp ích cho đơng
đảo người u thích văn hóa tiền tệ có thể tìm hiểu lịch sử tiền tệ Việt Nam và
tự thực hiện việc xây dựng sưu tập riêng cho mình.
Sổ tay do Cục di sản văn hố (Bộ Văn hoá thể thao và du lịch) phát
hành. Đây là 1 dạng “sách hình”, dùng cho các Nhà khảo cổ học (từ nghiệp
dư đến chuyên nghiệp) đối chiếu sơ bộ niên đại khi khai quật di tích.
Tháng 5 năm 2005, cuốn Tiền Kim Loại Việt Nam - chuyên khảo đồ sộ
nhất về tiền kim loại Việt Nam do Bảo tàng Lịch sử Việt Nam biên soạn được
xuất bản. Cuốn sách in 1.050 ảnh mẫu tiền theo kích thước tiền thật, giới thiệu
về lịch sử tiền kim loại Việt Nam từ khi phát hành đồng tiền đầu tiên năm 970
(thời nhà Đinh), cho đến những đồng tiền kim loại mới được Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam phát hành vào năm 2003.


Bên cạnh đó, những sưu tập gia về tiền cổ như Nguyễn Bá Đạm,
Nguyễn Xuân Cường, Nguyễn Anh Huy, Nguyễn Bá Thảo, Trần Văn Bùi…
bằng những va chạm thực tế, kinh nghiệm trong q trình sưu tập tiền cổ đã
có những bài viết hay, trao đổi bổ ích trên các diễn đàn.
Tuy chưa thực sự trở thành một ngành nghiên cứu độc lập nhưng
nghiên cứu tiền cổ là đam mê của nhiều nhà sưu tập; đã đem lại sự đa dạng,

phong phú trong nghiên cứu tiền cổ của nước nhà. Đồng thời góp phần gìn
giữ một di vật có ý nghĩa lịch sử - văn hóa quan trọng của nước nhà.
1.2. Khái quát sưu tập tiền cổ tại Bảo tàng Vĩnh Phúc
1.2.1. Vài nét về Bảo tàng Vĩnh phúc
Bảo tàng Vĩnh Phúc là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc, được thành lập theo Quyết định số 91/QĐUB ngày 23/1/1997 của UBND tỉnh Vĩnh Phúc - trên cơ sở tách ra từ Bảo
tàng tỉnh Vĩnh Phú.
Do đặc thù chuyên môn là quản lý các hiện vật tài liệu về lịch sử, nên
khi tách tỉnh, bảo tàng chưa chuyển ngang được mà còn phải phối hợp với bảo
tàng Phú Thọ để kiểm kê, phân loại hiện vật trong kho của bảo tàng, rà soát
lập danh sách phân chia theo từng tỉnh để báo cáo Ban chỉ đạo Sở ra Quyết
định. Lúc ấy, Bảo tàng Vĩnh Phúc chỉ có 3 cán bộ lại không phải cán bộ kho.
Nhưng với ý thức trách nhiệm cao, sau 3 tháng miệt mài tra cứu, lần giở sổ
sách, nhận diện hiện vật, đóng gói và vận chuyển an tồn về địa điểm tạm thời
là Đình Đơng Đạo, xã Vân Hội, huyện Tam Dương (nay là phường Đồng
Tâm, thành phố Vĩnh Yên).
Một năm sau, tháng 2/1998, được sự quan tâm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh
và Sở chủ quản, Bảo tàng tỉnh được chuyển về trụ sở hiện nay. Một lần nữa,
bảo tàng phải đóng gói hiện vật và vận chuyển từ Đình Đơng Đạo về Đồi Cao


(Vĩnh Yên) an toàn. Đây là bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp của bảo
tàng, từ đây bảo tàng có nhà trưng bày cố định ở một địa điểm đẹp, khang
trang là cơ sở thuận lợi cho tác nghiệp, sự nghiệp phát triển.
Về hoạt động nghiệp vụ: Từ năm 1997 đến 2005, chức năng nhiệm vụ
của bảo tàng khá nặng nề, là cơ quan tham mưu cho Sở và các cấp quản lý,
chỉ đạo và duy trì mọi hoạt động sự nghiệp Bảo tồn và Bảo tàng tồn tỉnh
Vĩnh Phúc.
Cơng tác bảo vệ và phát huy di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng
cảnh gồm các khâu: Kiểm kê di tích, phân loại di tích, xác định những di tích

đặc biệt quan trọng trong tồn hệ thống. Lập hồ sơ xếp hạng và quy hoạch tơn
tạo di tích, đồng thời tổ chức nghiên cứu những vấn đề về lịch sử, danh nhân
văn hóa, những di tích quan trọng của tỉnh như: Hội thảo khoa học về di tích,
danh thắng Tây Thiên; Hội thảo về danh nhân lãnh tụ Nguyễn Thái Học; Hội
thảo và kỷ niệm 40 năm phát hiện, nghiên cứu văn hóa Đồng Đậu và tổ chức
tuần văn hóa Đồng Đậu ở Thủ đơ Hà Nội và Vĩnh Phúc…
Công tác bảo tàng: Đã đẩy mạnh một cách đều đặn 6 khâu công tác:
Nghiên cứu, Sưu tầm, Kiểm kê, Bảo quản, Trưng bày và hướng dẫn tham
quan trong và ngồi Bảo tàng. Hàng nghìn hiện vật được sưu tầm và kiểm kê
một cách khoa học. Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Sở chủ quản, ngay
sau khi có trụ sở mới, Bảo tàng đã nghiên cứu lập đề cương trưng bày nội thất
và ngoại thất. Phối hợp với các cơ quan chức năng quy hoạch và tơn tạo
khn viên, trồng nhiều cây xanh và ln gìn giữ không gian xanh, sạch, đẹp
để nhân dân tham quan. Tháng 9/2000, đã khánh thành trưng bày giai đoạn I
với nội dung: “Thiên nhiên Vĩnh Phúc, lịch sử Vĩnh Phúc từ thời tiền sơ sử
đến trước năm 1930”.
Từ đây, Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc thực sự trở thành địa chỉ cho khách
tham quan, nghiên cứu trong nước và quốc tế. Năm 2005, UBND tỉnh ra


Quyết định thành lập Ban quản lý Di tích. Từ đó Bảo tàng tỉnh mới có điều
kiện hoạt động chuyên sâu 6 khâu cơng tác của mình. đồng thời với việc duy
trì mở cửa trưng bày thường trực, hàng năm Bảo tàng còn thường xuyên tổ
chức các cuộc trưng bày chuyên đề phục vụ các ngày lễ lớn và những sự kiện
chính trị của tỉnh. Tính đến nay đã tổ chức được 37 cuộc trưng bày chuyên đề.
Đó là những thành tựu đáng khích lệ.
Đến nay Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc thành lập đã được 13 năm, là thời gian
không dài trên con đường phát triển. Những công việc đã làm được của Bảo
tàng tỉnh Vĩnh Phúc trong thời gian qua là đáng ghi nhận, nhưng đây chỉ là
bước đầu. Được sự đồng ý của UBND tỉnh và chỉ đạo của Sở Văn hóa Thể thao

và Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc, Bảo tàng đang tích cực phấn đấu xây dựng theo
hướng khoa học - tiên tiến - hiện đại. Đã hoàn thành đề cương trưng bày tiếp
phần lịch sử Cận - Hiện đại (từ năm 1930 đến nay) và dự án mở rộng kiến trúc
ngôi nhà nhằm tạo ra những tổ hợp khơng gian hình tượng, cảnh tượng lịch
sử… theo lối trưng bày hiện đại, tăng sức hấp dẫn thu hút khách tham quan.
Phần sân vườn của bảo tàng, rộng 3,8ha đã sớm được quy hoạch và
được UBND tỉnh phê duyệt, đầu tư xây dựng tôn tạo bước đầu. Đây là điều
kiện thuận lợi để Bảo tàng đa dạng hóa các hoạt động của mình, tiến tới trưng
bày các hiện vật ngồi trời, phục hồi những cơng trình kiến trúc tiêu biểu;
Phục dựng những di sản văn hóa phi vật thể của nhân dân các dân tộc trong
tỉnh như: Lễ hội truyền thống, nghệ thuật dân gian, trò chơi dân gian, trình
diễn làng nghề….Từ đó, sẽ đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày
càng cao của nhân dân. Khách thăm quan đến Bảo tàng sẽ được trực tiếp trải
nghiệm, khám phá tinh hoa văn hóa của dân tộc, nâng cao hiểu biết có chất
lượng cao.
Các sưu tập hiện vật - Di sản văn hóa của nhân dân các dân tộc Vĩnh
Phúc ở Bảo tàng sẽ được khai thác phát huy hiệu quả, góp phần xứng đáng


vào sự nghiệp phục vụ nghiên cứu tham quan, giáo dục truyền thống và
hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
1.2.2. Quá trình sưu tầm và thu thập hiện vật của sưu tập
Sưu tầm tài liệu hiện vật là khâu công tác có vị trí đặc biệt quan trọng
trong tồn bộ hoạt động của bảo tàng, nó gắn liền với các khâu cơng tác khác
tạo thành một thể thống nhất hồn chỉnh đảm bảo cho bảo tàng ra đời, tồn tại
và phát triển. Mọi hoạt động của bảo tàng đều xoay quanh tài liệu, hiện vật.
Công tác sưu tầm của bảo tàng chính là lựa chọn, thu thập những tài liệu, hiện
vật theo phương pháp khoa học, phù hợp với loại hình của bảo tàng, là cơ sở
hoạt động cho tồn bộ công tác bảo tàng. Tài liệu, hiện vật của một bảo tàng
có phong phú, giàu có hay khơng, có đáp ứng được công tác nghiên cứu,

trưng bày, tuyên truyền của bảo tàng hay không phụ thuộc trực tiếp vào công
tác sưu tầm và thu thập hiện vật.
Hiện tại Bảo tàng Vĩnh Phúc đang lưu giữ tại kho cơ sở với tổng số
4688 hiện vật được phát hiện và thu thập tại các di tích: Đồng Đậu 3260 hiện
vật; Lũng Hòa 344 hiện vật; Nghĩa Lập 465 hiện vật; Thành Dền 522 hiện
vật; Gò Gai 31 hiện vật; Mả Hòn 16 hiện vật; Ma Cả 17 hiện vật; Gò Ngành
24 hiện vật; Yên Lập 3 hiện vật; Đinh Xá 4 hiện vật... là tư liệu phản ảnh toàn
diện các lĩnh vực tự nhiên, xã hội của tỉnh mà qua những năm hình thành,
phát triển bảo tàng, các thế hệ cán bộ, nhân viên bảo tàng đã dày công nghiên
cứu, sưu tầm, bảo quản và xây dựng.
Sưu tập tiền cổ hiện đang được lưu giữ trong kho của Bảo tàng Vĩnh
Phúc khá phong phú, gồm có tiền Việt Nam và tiền nước ngoài (chủ yếu là
tiền Trung Quốc). Nguồn hiện vật này chủ yếu khai thác, sưu tầm được ở
trong nhân dân (một số ít do các nhà sưu tầm cổ vật tư nhân hiến tặng). Trong
quá trình đào giếng, đào móng nhà hoặc làm các cơng trình khác, họ phát hiện


ra cổ vật tiền và thông báo cho cơ quan chức năng xử lý, Bảo tàng tỉnh cử cán
bộ xuống thực địa xác minh và đưa về Bảo tàng, tiến hành phân loại, lập hồ
sơ khoa học, nhằm mục đích phục vụ lâu dài việc nghiên cứu và trưng bày tại
Bảo tàng.
1.2.3. Thống kê hiện vật trong sưu tập
Các hoạt động của bảo tàng đều lấy hiện vật gốc có giá trị lịch sử - văn
hoá - khoa học làm đối tượng sưu tầm, trưng bày, nghiên cứu, giáo dục, tuyên
truyền…Nếu các hiện vật gốc được liên kết lại, lập thành các bộ sưu tập trên
cơ sở một hoặc nhiều thuộc tính chung nào đó thì giá trị phản ánh sẽ phong
phú hơn, đầy đủ và chính xác hơn. Chính trên cơ sở các sưu tập hiện vật đó,
phần trưng bày của bảo tàng luôn là sự nghiên cứu để khai thác tới mức tối ưu
lượng thông tin của các sưu tập hiện vật. Mặt khác, tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung, hồn thiện, hình thành các sưu tập mới, giới thiệu các sưu tập với cơng

chúng, giữ gìn, bảo quản lâu dài các sưu tập, đó chính là sự vận động của các
hoạt động bảo tàng.
Bất cứ bảo tàng nào cũng có từ một đến nhiều sưu tập. Các sưu tập là
niềm tự hào, là một cơ sở quan trọng để định giá trị và kết quả lao động của
mỗi bảo tàng. Vì vậy, việc xây dựng các sưu tập hiện vật cần được coi là
nhiệm vụ quan trọng của hoạt động bảo tàng với mục đích khám phá tiềm
năng, thơng tin khoa học và lịch sử văn hố của hiện vật, tạo cơ sở cho bảo
tàng thực hiện chức năng nghiên cứu và giáo dục của mình.
Sưu tập tiền cổ là một sưu tập khá quan trọng trong rất nhiều sưu tập
hiện có tại bảo tàng Vĩnh Phúc. Sưu tập này có giá trị lịch sử, văn hố, giá trị
nhân văn và ý nghĩa chính trị sâu sắc, là nguồn sử liệu xác thực, minh chứng
cho tình hình chính trị - kinh tế - văn hóa của các triều đại trong lịch sử dân
tộc Việt Nam.


Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát tại kho cơ sở và hệ thống trưng bày
thường xuyên của Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc, tổng số hiện vật thuộc sưu tập là
107 loại tiền ở các triều đại khác nhau. Trong đó, tiền Việt Nam là 48 loại ở 9
triều đại khác nhau, từ thời Đinh cho đến thời nhà Nguyễn; và tiền Trung
Quốc là 59 loại ở 5 triều đại khác nhau, từ thời Đường cho đến thời Thanh.
* Hiện vật lưu giữ trong kho cơ sở: Với diện tích khoảng hơn 100m2,
hệ thống kho là một cơng trình khép kín. Tất cả các hiện vật trong sưu tập
hiện đang được lưu giữ, bảo quản trong kho cơ sở của Bảo tàng là 107 loại
tiền với chất liệu là kim loại, số hiện vật đó đều đã qua các khâu xử lý về mặt
nghiệp vụ, đảm bảo cơ sở khoa học và pháp lý: từ khâu làm hồ sơ khoa học
(ghi chép, vào sổ kiểm kê, đánh số, lên hộ chiếu khoa học…) đến khâu bảo
quản đều được thực hiện một cách nghiêm túc. Việc quản lý các hiện vật
được tiến hành theo quy định chung của Nhà nước, của Ngành, và đúng
nguyên tắc bảo tàng.
* Hiện vật trên hệ thống trưng bày: Hiện vật được trưng bày còn rất ít

ỏi. Chủ yếu là hỗ trợ cho những chủ đề, chủ điểm khác như: Thiên nhiên Vĩnh
Phúc, lịch sử Vĩnh Phúc từ thời tiền sơ sử đến trước năm 1930…Hiện vật
được chọn lựa trưng bày đều là những hiện vật gốc, cịn ngun vẹn, có giá trị
cao về lịch sử, văn hoá nên đã đạt được hiệu quả cao trong công tác giáo dục,
tuyên truyền.
1.2.4. Phân loại sưu tập
Tiền cổ ở đây đều được làm bằng kim loại, hình dáng giống nhau đều
là hình trịn có lỗ vng ở giữa, có gờ viền mép ở cả mặt và lưng tiền. Mặt
tiền được đúc nổi bốn chữ Hán ở xung quanh, đọc theo hai cách: Đọc chéo từ
trên xuống dưới, từ trái sang phải hoặc đọc vòng tròn theo chiều kim đồng hồ
với các kiểu chữ chân phương, chữ thảo, chữ triện hoặc kết hợp các kiểu chữ


ấy với nhau, trong đó hai chữ đọc đầu tiên là niên hiệu của đời vua đang trị vì.
Lưng tiền hầu như để trơn, một số ít tiền có ghi chữ hoặc một ký hiệu nào đó.
Đường kính của đồng tiền dao động khoảng từ 17 đến 26 mm.
Dựa vào các tiêu chí này, bảo tàng đã phân loại và bảo quản thành hai
sưu tập là tiền Việt Nam và tiền Trung Quốc.
1.2.4.1. Sưu tập tiền cổ Việt Nam
Sưu tập tiền cổ Việt Nam hiện đang lưu giữ trong kho của bảo tàng, có
khoảng 48 loại ở các triều đại sau:
* Tiền cổ triều Tiền Lê (980-1009)
Năm 980, Lê Hoàn lên ngôi vua, lập nên triều Tiền Lê - tồn tại trong
lịch sử được 29 năm. Sau khi đánh thắng quân Tống ở phương Bắc và thu
phục nước Chiêm Thành ở phía Nam, triều Tiền Lê bước vào xây dựng đất
nước. Nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu phát triển thì việc giao lưu bn bán
trong nước và nước ngoài phần nào cũng được mở mang, đồng tiền đã bắt đầu
xuất hiện. Theo các nhà nghiên cứu về lĩnh vực tiền cổ thì tiền thời Lê được
phân ra làm nhiều loại, nhưng hiện nay Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phúc mới chỉ có
một loại và đây là đồng tiền có niên đại sớm nhất ở trong sưu tập này.

Tiền “Thiên Phúc trấn bảo”(hình 1), đời vua Lê Đại Hành, niên hiệu
Thiên Phúc (980-988), đọc chéo, chữ viết chân phương rõ nét. Lưng tiền có
chữ “Lê” đúc nổi ở bên trên lỗ vuông, chữ viết đẹp, sắc nét. Gờ viền mép và
gờ viền lỗ vuông của tiền đều nổi rõ và đều nhau ở cả mặt và lưng tiền; lỗ
vuông hơi rộng (8x8mm), đường kính khoảng 24mm, dày 1mm, nặng
3.3gram; Tiền được đúc bằng chất đồng tốt.
* Tiền cổ triều Lý (1010-1225)
Triều Lý tồn tại được 215 năm trong lịch sử và được đánh giá là quốc
gia phong kiến Việt Nam phát triển tồn diện về mọi mặt. Cơng cuộc xây


×