Tải bản đầy đủ (.pdf) (154 trang)

Văn hoá gia đình truyền thống của người tày ở huyện bạch thông, tỉnh bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.82 MB, 154 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
*******&******

HÀ THỊ THANH

VĂN HỐ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI
TÀY Ở HUYỆN BẠCH THƠNG TỈNH BẮC CẠN
Chun ngành: Văn hóa học
Mã số
: 60 31 06 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình khoa học của riêng tôi. Các dẫn
luận tài liệu được sử dụng trong luận văn chân thực, đảm bảo tính khách
quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ.
Tơi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn

Hà Thị Thanh


MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ................................................................... 5
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 6
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HỐ GIA ĐÌNH VÀ NGƯỜI TÀY Ở
HUYỆN BẠCH THƠNG, TỈNH BẮC KẠN ................................................... 13
1.1. Lý luận chung về văn hóa và văn hóa gia đình .................................... 13
1.1.1. Quan niệm về văn hố ....................................................................... 13
1.1.2. Khái niệm gia đình ............................................................................ 14
1.1.3. Khái niệm văn hố gia đình............................................................... 19
1.1.4. Khái niệm truyền thống và gia đình truyền thống ............................. 28
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về gia đình và văn hố gia đình . 30
1.3. Tổng quan về người Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn ........... 32
1.3.1. Khái quát về huyện Bạch Thông ....................................................... 32
1.3.2. Người Tày ở huyện Bạch Thông ....................................................... 36
Chương 2: GIÁ TRỊ VĂN HỐ GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI
TÀY Ở HUYỆN BẠCH THÔNG, TỈNH BẮC KẠN ..................................... 38
2.1. Những nhân tố tác động đến sự hình thành văn hố gia đình truyền
thống của người Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn ......................... 38
2.1.1. Kinh tế nông lâm nghiệp miền núi .................................................... 38
2.1.2. Tổ chức xã hội ................................................................................... 41
2.1.3. Văn hóa thơn, bản cổ truyền.............................................................. 44
2.2. Diện mạo văn hóa gia đình truyền thống của người Tày ở huyện Bạch
Thông, tỉnh Bắc Kạn ..................................................................................... 45
2.2.1. Văn hóa ứng xử trong gia đình .......................................................... 45
2.2.2. Văn hóa giáo dục trong gia đình ....................................................... 52
2.2.3. Các nghi lễ và tập tục trong gia đình ................................................. 57
2.3. Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần trong gia đình truyền thống
người Tày ở huyện Bạch Thơng ................................................................... 67
2.3.1. Văn hóa vật chất ................................................................................ 67
2.3.2. Văn hóa tinh thần .............................................................................. 69



Chương 3: BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HỐ GIA ĐÌNH
TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI TÀY Ở HUYỆN BẠCH THÔNG, TỈNH
BẮC KẠN HIỆN NAY ...................................................................................... 76
3.1. Những nhân tố tác động làm biến đổi văn hóa gia đình truyền thống
của người Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn ................................... 76
3.1.1. Tác động của q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ..................... 76
3.1.2. Tác động của nền kinh tế thị trường .................................................. 78
3.1.3. Tác động của văn hóa ngoại lai chi phối đến văn hóa gia đình người
Tày .......................................................................................................................... 79
3.2. Những biến đổi của gia đình và trị văn hóa gia đình truyền thống của
người Tày........................................................................................................ 82
3.2.1. Biến đổi của gia đình ......................................................................... 82
3.2.2. Những biến đổi văn hóa gia đình truyền thống của người Tày ở huyện
Bạch Thông ................................................................................................. 86
3.3. Giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hố gia đình truyền
thống của người Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn ....................... 102
3.3.1. Giải pháp về mặt nhận thức ............................................................. 102
3.3.2. Giải pháp về mặt đầu tư .................................................................. 108
3.3.3. Về mặt tổ chức thực hiện ................................................................ 113
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 119
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 121
PHỤ LỤC .................................................................Error! Bookmark not defined.


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ


ĐHQGHN

Đại học Quốc gia Hà Nội

GS

Giáo sư

Nxb

Nhà xuất bản

PGS.TS

Phó Giáo sư, Tiến sĩ

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TP

Thành phố

tr


Trang

TS

Tiến sĩ

TW

Trung ương

UNESCO

United Nations Educational Scientific and
Cultural Organization (Tổ chức Giáo dục, Khoa
học và Văn hóa của Liên hiệp quốc)

XHH

Xã hội học


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Muốn có chủ nghĩa xã hội thì
phải có con người mới xã hội chủ nghĩa” [44, tr.159]. Con người mới đó, trước
hết phải được hình thành, giáo dục ngay từ trong chính gia đình của mình. Bởi lẽ,
gia đình là nơi mỗi con người được sinh ra, lớn lên và trưởng thành; đây không chỉ
là trường học đầu đời mà cịn là mơi trường giáo dục thường xuyên và suốt đời của
mỗi con người; bất kỳ một vị anh hùng nào, một danh nhân nào hay các nhà cách

mạng lỗi lạc… đều được sinh ra từ gia đình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:
“Nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây
dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý đến hạt nhân cho tốt” [42, tr.523].
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng và
Nhà nước ta luôn coi trong vấn đề nâng cao vai trò, vị thế của gia đình và xây dựng
văn hóa gia đình. Nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VIII) về xây dựng nền văn hoá
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã đề cập đến vấn đề giữ gìn và phát
huy những đạo lý tốt đẹp của gia đình Việt Nam, đề cao vai trò của các bận cha
mẹ trong việc làm gương cho con cái noi theo đồng thời giáo dục con kết hợp giữa
gia đình, nhà trường và xã hội.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng nhấn mạnh:
Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam,
thích ứng với những địi hỏi của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự
là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là mơi trường
quan trọng hình thành, ni dưỡng và giáo dục nhân cách con người,
bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực
phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [24].
Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra vấn đề xây dựng gia đình Việt Nam phải trên
cơ sở kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam và


tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của thời đại về gia đình, đề cao trách nhiệm
của mỗi gia đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng nhân cách cho mỗi thành viên
trong gia đình.
Đặc biệt, ngày 04 tháng 5 năm 2001 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 72/QĐ-TTg lấy ngày 28 tháng 6 hàng năm là ngày Gia đình Việt
Nam. Điều đó nói lên vị trí và tầm quan trọng của gia đình và xây dựng văn hố
gia đình trong tiến trình phát triển bền vững của đất nước.

Trong giai đoạn hiện nay, gia đình cùng với những giá trị văn hố trong
gia đình thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Văn hố gia đình
là một hiện tượng văn hố, có nội hàm rộng lớn; là nơi tạo ra niềm vui, hạnh
phúc, thoả mãn những nhu cầu về tình cảm, tâm lý, tâm linh cho mọi thành viên;
là nơi vun đắp, ni dưỡng những ước mơ, hồi bão của con người. Ngồi ra, gia
đình là nơi diễn ra việc trao truyền các giá trị văn hoá cộng đồng cho các thành
viên bởi các thế hệ đi trước với các giá trị tốt đẹp của gia đình thường có mối
quan hệ gắn kết với các giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Điều này đã
góp phần tích cực vào công cuộc dựng nước và giữ nước cũng như việc gìn giữ
và phát triển những giá trị bản sắc văn hố của dân tộc khơng bị xâm thực bởi
nền văn hố ngoại lai. Do đó, xây dựng văn hố gia đình vừa phải có sự kế thừa,
phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc bên cạnh đó cần phải kết
hợp với những giá trị tiên tiến của gia đình hiện đại để làm phong phú thêm văn
hố gia đình trong giai đoạn mới.
Xã hội càng phát triển thì vấn đề xây dựng văn hố gia đình càng trở nên
quan trọng, bởi lẽ có một thực tế đang diễn ra đó là khi nền kinh tế đất nước có
những bước phát triển đáng kể, mức sống của người dân được nâng lên rõ rệt thì
một thiết chế đã tồn tại lâu đời và bền vững như gia đình lại bị chao đảo bởi những
sóng gió của cuộc sống cơng nghiệp hố, hiện đại hố, đặc biệt là những biểu hiện
về tình trạng suy thối đạo đức gia đình như: Tình trạng ly hơn, bạo lực gia đình,
mâu thuẫn gia đình dẫn đến cha mẹ từ mặt con, anh em xung đột… Có thể nói, xây
dựng văn hố gia đình trong thời kỳ đổi mới là vấn đề mấu chốt trong việc phát
triển gia đình bền vững, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng đất nước.


Bạch Thơng là huyện miền núi nằm ở phía Bắc của tỉnh Bắc Kạn - một địa
danh anh hùng đã đi vào lịch sử dân tộc trong kháng chiến chống Pháp; trong thời
bình các dân tộc của huyện tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết, sáng tạo giúp đỡ
nhau trong mọi lĩnh vực. Tuy nhiên do điều kiện tự nhiên cịn gặp nhiều khó khăn,
trình độ dân trí khơng đồng đều, giao thông không thuận lợi, kinh tế - xã hội phát

triển chưa tương xứng.... Điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất
và tinh thần của người dân nơi đây.
Với dân số trên 30 nghìn người, chủ yếu là các dân tộc: Tày, Dao, Nùng,
Kinh, Hoa… Trong đó dân tộc Tày chiếm số đơng so với các dân tộc khác (80%),
người Tày ở huyện Bạch Thơng có nền văn hố phong phú đa dạng, những sản
phẩm vật chất và tinh thần ấy đều sinh ra từ một thiết chế đặc biệt đó là gia đình,
những giá trị tốt đẹp ấy tạo ra cảm xúc, để lại những dấu ấn tốt đẹp có tác dụng
giáo dục con người, giúp con người phát triển tài năng và hoàn thiện nhân cách.
Cũng như các tộc người khác trên đất nước ta, văn hố gia đình của người Tày
huyện Bạch Thơng mang những đặc trưng riêng của mình; tuy nhiên, để giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hố gia đình của dân tộc Tày khơng phải việc dễ dàng;
đặc biệt trong xu hướng mở cửa và hội nhập của nền kinh tế thị trường, việc gìn
giữ những giá trị truyền thống trong gia đình nói chung và cơng tác xây dựng văn
hóa gia đình tại huyện Bạch Thơng nói riêng cũng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp,
chịu ảnh hưởng của các tệ nạn xã hội, làm ăn bất chính… Những biểu hiện về sự
sa sút đạo đức, lối sống, tình trạng bạo lực gia đình, tảo hơn.., đó là những vấn đề
cần được quan tâm và có sự vào cuộc của tất cả các cấp, các ngành và toàn xã hội.
Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, chúng tơi chọn đề tài: "Văn
hố gia đình truyền thống của người Tày ở huyện Bạch Thơng, tỉnh Bắc Kạn"
làm luận văn tốt nghiệp chương trình đào tạo thạc sĩ, chun ngành văn hóa học.
2. Tình hình nghiên cứu
Gia đình và văn hố gia đình là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm nghiên
cứu của quốc tế cũng như trong nước.


Năm 1861, trong cơng trình “Mẫu quyền 3”, Bachofen đã đưa ra các luận
điểm về tình trạng sống hình thức “tạp hôn” và việc xác định cha đẻ của những
đứa trẻ sinh ra là khơng thể. Chính vì thế những người phụ nữ với tư cách là mẹ,
là người duy nhất sinh ra những thế hệ trẻ rất được tôn kính. Bachofen gọi đó là
sự thống trị của nữ giới; sau này khi xã hội chuyển sang chế độ hôn nhân cá thể,

khi đó người đàn bà chỉ thuộc về một người đàn ông.
Trong tác phẩm: "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước",
Ph. Ăngghen đã đề cập đến một số vấn đề liên quan đến gia đình như: các hình thức
gia đình, tình yêu, hơn nhân..., đồng thời sự thay đổi của hình thức hơn nhân và gia
đình gắn với sự phát triển kinh tế của xã hội.
Ở Việt Nam phải kể đến cuốn "Văn hóa gia đình Việt Nam" của GS. Vũ
Ngọc Khánh (2007); cuốn "Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa" (1998) và
cuốn "Nhận diện gia đình Việt Nam hiện nay" (1991) của tác giả Lê Ngọc Văn; năm
1991 đã có cơng trình “Những nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam” tập thể
tác giả Viện xã hội học đã tiến hành khảo sát thực tiễn ở nhiều tỉnh, thành trong cả
nước về đặc điểm gia đình Việt Nam trước những năm 1990; cuốn "Người phụ nữ
trong văn hóa gia đình đơ thị" (2003)của nhóm tác giả; cuốn "Văn hóa gia đình với
việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ em" của PGS.TS Lê Như Hoa; cuốn "Gia
đình Việt Nam trong bối cảnh đất nước đổi mới" của GS. Lê Thi. Trong các tác
phẩm này, các tác giả đã đề cập tới những vấn đề lý luận và thực tiễn về gia đình và
văn hóa gia đình, tổng quan gia đình Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, cũng
như ảnh hưởng của văn hóa gia đình đối với sự phát triển của cá nhân nói riêng và
xã hội nói chung.
Đặc biệt, trong Hội thảo khoa học Quốc tế tại trường Đại học Văn hoá Hà
Nội (2012) với chủ đề “Thực trạng và tương lai của gia đình trong thế giới hội nhập”.
Các nhà khoa học đã nêu lên một số đặc điểm của gia đình, vai trị của gia đình, tầm
quan trọng của nghiên cứu văn hố gia đình trong việc gìn giữ những giá trị truyền
thống, bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, các tác giả
cũng bàn đến những tác động của nền kinh tế hiện đại làm thay đổi nhận thức, lối


sống, sinh hoạt trong các gia đình hiện nay và quan điểm của Đảng, sự vào cuộc của
một số ngành có liên quan.
Dưới những góc độ nghiên cứu khác nhau, các đề tài nghiên cứu nói trên đã
đề cập đến đặc trưng, chức năng của gia đình Việt Nam; vai trị của giáo dục trong

gia đình đối với sự phát triển của trẻ em; vai trò của người phụ nữ, của những
người cao tuổi trong gia đình, ứng xử trong gia đình xưa và nay… Đồng thời, các
đề tài cũng đưa ra các phương hướng, những giải pháp thiết thực nhằm góp phần
xây dựng gia đình Việt Nam phát triển bền vững.
Các cơng trình nghiên cứu về chun ngành văn hóa học cũng đã đi vào tìm
hiểu vấn đề văn hóa gia đình, đặc điểm, vai trị của văn hóa gia đình và ảnh hưởng
của văn hóa gia đình tới việc hình thành và phát triển nhân cách của trẻ em nói
riêng và con người nói chung, tiêu biểu là: "Gia đình văn hóa và sự hình thành
nhân cách trẻ em (trước tuổi đi học) ở nước ta" của Nguyễn Thị Phượng; đề tài:
"Văn hóa gia đình với sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam"
của Võ Thị Hồng Loan...
Tóm lại, các cơng trình khoa học của các tác giả, nhóm tác giả đã nghiên
cứu trên là những tài liệu tham khảo có giá trị. Ở đó đã làm sáng tỏ một số lý luận
và thực tiễn về gia đình, văn hố gia đình, cơng tác xây dựng gia đình văn hố nói
chung và ở một số địa phương nói riêng. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, cho
đến nay tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn chưa một đề tài nào nghiên cứu về
vấn đề văn hố gia đình truyền thống của người Tày. Do đó, tơi mạnh dạn nghiên
cứu với mong muốn có được cái nhìn tồn cảnh hơn về văn hố gia đình truyền
thống của người Tày ở huyện Bạch Thông và những biến đổi của nó trong thời kỳ
hội nhập, mở cửa.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Từ việc khái quát chung những vấn đề lý luận về gia đình và văn hóa gia
đình truyền thống; luận văn tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng văn hóa gia
đình truyền thống của người Tày ở huyện Bạch Thông, những biến đổi căn bản, từ


đó đưa ra một số giải pháp bảo tồn và phát triển văn hố gia đình truyền thống của
người Tày tại địa phương thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, giao
lưu hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục tiêu đã đặt ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
- Tổng hợp những vấn đề lý luận cơ bản về gia đình, văn hóa gia đình.
- Đánh giá thực trạng sự biến đổi văn hố gia đình truyền thống dân tộc Tày
trên địa bàn huyện.
- Đưa ra các giải pháp phù hợp để phát huy hiệu quả vai trò của văn hóa gia
đình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Văn hóa gia đình truyền thống của người Tày và sự biến đổi các giá trị về văn
hố trong gia đình ở huyện Bạch Thơng, tỉnh Bắc Kạn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về văn hố gia đình truyền thống của người Tày
ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn trong bối cảnh đất nước đổi mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu phù hợp với chun ngành
Văn hố học như:
- Phương pháp lơgic và lịch sử
- Phương pháp điều tra xã hội học (điền dã, phỏng vấn sâu, bảng hỏi)


- Phương pháp quan sát, tham dự
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Ngồi ra luận văn cịn vận dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành,
các thao tác phân tích, tổng hợp.
6. Đóng góp của luận văn

- Luận văn tổng hợp và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về văn hố
gia đình truyền thống và thực trạng văn hố gia đình của người Tày ở huyện Bạch
Thông, tỉnh Bắc Kạn trong bối cảnh đất nước đổi mới.
- Luận văn đề xuất xu hướng bảo tồn và phát triển bền vững văn hố gia
đình người Tày ở huyện Bạch Thơng trong tương lai.
- Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao
học chuyên ngành văn hóa học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận về văn hố gia đình và người Tày ở huyện Bạch
Thơng, tỉnh Bắc Kạn
Chương 2. Thực trạng văn hố gia đình truyền thống của người Tày ở huyện
Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn
Chương 3. Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hố gia đình truyền thống
của người Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn hiện nay


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HỐ GIA ĐÌNH VÀ
NGƯỜI TÀY Ở HUYỆN BẠCH THÔNG, TỈNH BẮC KẠN
1.1. Lý luận chung về văn hóa và văn hóa gia đình
1.1.1. Quan niệm về văn hố
Văn hóa thể hiện chiều sâu trình độ phát triển của một dân tộc, một cộng
đồng xã hội. Nói đến văn hóa là nói đến phát triển, và sự sáng tạo trong lao động
như một phẩm chất tốt đẹp của con người. Văn hóa là năng lực và khát vọng sáng
tạo của nhân loại, giúp con người hồn thiện bản thân. Hiện nay có trên 500 định
nghĩa về văn hóa chia thành 12 nhón định nghĩa. Ở mỗi khía cạnh nghiên cứu ta
lại bắt gặp những quan niệm khác nhau về văn hóa.
Nhà nghiên cứu văn hóa Lê Anh Trà, nguyên Viện trưởng Viện văn hóa cắt

nghĩa về văn hóa như sau:
Văn hóa là những cái gì tốt đẹp, do hoạt động của con người sáng tạo
ra (gồm có q trình, hệ thống các giá trị, kể cả tinh thần và sự vật chất
hóa của nó), liên quan đến việc hình thành và phát triển những phẩm
chất, tài năng, thể chất của con người, thể hiện, bồi dưỡng, phát huy
những lực lượng bản chất người như Mác nói nhằm xây dựng con người
ngày càng hồn thiện [11, tr.9-10].
Ơng F.Mayor Tổng Giám đốc UNESCO quan niệm:
Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của các cá nhân
và các cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt
động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền
thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi
dân tộc [64, tr.35].
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn
hóa thế giới định nghĩa về văn hóa:


Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, lồi người mới sáng tạo
và phát minh ra ngơn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng tạo và phát
minh đó, tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà lồi người đã sản sinh ra nhằm thích
ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [42, tr.431].
Từ những quan niệm trên, ta thấy văn hóa có mặt ở trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của mỗi quốc gia,
mỗi dân tộc tạo nên sắc thái riêng cho quốc gia, dân tộc; được tích lũy, lưu truyền
lại trong quá trình hoạt động sáng tạo của con người, đúc kết nên hệ giá trị và
chuẩn mực xã hội; thể hiện thông qua vốn di sản văn hóa khổng lổ của nhân loại
và hệ ứng xử có văn hóa của con người.

Quan điểm tồn diện và sâu sắc đó đã góp phần quyết định thắng lợi sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc mà Đảng ta xác định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội".
1.1.2. Khái niệm gia đình
Trong cuốn “Gia đình, phụ nữ Việt Nam với dân số, văn hóa và sự phát
triển bền vững” nhà nghiên cứu Lê Thi cho rằng “Gia đình được coi là giá trị tinh
thần vô cùng quý báu của nhân loại cần được giữ gìn và phát huy” [ 57, tr.14].
Gia đình là một nhóm xã hội được hình thành trên cơ sở hơn nhân và quan
hệ huyết thống trong đó những thành viên trong gia đình đều có sự gắn bó và ràng
buộc với nhau về trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ có tính hợp pháp được nhà nước
thừa nhận và bảo vệ. Gia đình phát triển theo tính chất và quy luật riêng như một
thể thống nhất, một tế bào hoàn chỉnh và là hạt nhân của xã hội, là cái nơi thân u
ni dưỡng con người. Gia đình giữ một vị trí đặc biệt quan trọng, đến sự thắng
lợi của công cuộc đổi mới của đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế-văn hóa-xã
hơi. C. Mác và Ph. Ăngghen đưa ra một cách tiếp cận về gia đình: “Hàng ngày tái
tạo ra đời sống của bản thân mình, con người còn tạo ra những người khác, sinh


sơi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”
[6, tr.41]. Theo luận cứ trên ta nhận thấy rằng Mác và Ăngghen đã nói đến nguồn
gốc và sự ra đời của xã hội gắn với sự tồn tại và phát triển của gia đình, trong đó
yếu tố để duy trì sự bền vững của gia đình chính là mối quan hệ của các thành viên
trong gia đình (vợ - chồng, cha mẹ - con cái) và một chức năng cơ bản của gia đình
được nhắc đến đó là chức năng tái sản xuất ra con người, cung cấp nguồn nhân lực
cho gia đình và xã hội. Cũng theo Mác, gia đình lúc đầu là quan hệ xã hội duy
nhất, về sau trở thành quan hệ phụ thuộc khi những nhu cầu của con người tăng
lên; gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành
viên gắn bó với nhau bởi quan hệ hơn nhân, huyết thống, ni dưỡng có trách
nhiệm với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu riêng của mỗi cá nhân.

Đứng ở các góc độ khoa học khác nhau lại có những quan điểm khác nhau
về gia đình. Quan điểm xã hội học coi gia đình là một hiện tượng xã hội dựa trên
các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình với nhau và quan hệ giới tính
bên cạnh đó cịn có các mối quan hệ tác động qua lại giữa các thành viên trong gia
đình với họ hàng, xóm giềng và các mối quan hệ xã hội khác. GS Vũ Hào Quang
cho rằng “gia đình là tiểu hệ thống trong đại hệ thống, hay hệ thống con trong hệ
thống mẹ-xã hội” [54, tr.18-22] Như vậy, gia đình là một xã hội thu nhỏ trong xã
hội rộng lớn, trải qua các hình thái kinh tế xã hội từ nguyên thủy, chế độ chiếm
hữu nô lệ, chế độ phong kiến, xã hội chủ nghĩa mà thiết chế gia đình cùng mang
tính đặc trưng và đa dạng phù hợp với từng giai đoạn lịch sử loài người.
Nhà nghiên cứu Lê Thi quan niệm:
Khái niệm gia đình được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên
cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống, nảy sinh quan hệ hơn
nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng, nội
ngoại). Đồng thời gia đình cũng có thể bao gồm một số người được gia
đình ni dưỡng, tuy khơng có quan hệ huyết thống các thành viên gia
đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình
cảm), giữa họ thường có những điều rằng buộc có tính pháp lý, được Nhà
nước thừa nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong Luật hơn nhân và gia đình


nước ta). Đồng thời trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền
được phép và cấm đoán quan hệ tình dục giữa các thành viên [55, tr.42].
Ở đây nhà nghiên cứu đã đề cập rất rõ nét cơ sở để hình thành “gia đình”,
những con người cụ thể nằm trong gia đình và tình chất pháp lý tạo sự bền vững
cho gia đình.
Khi đề cập tới các điều kiện cũng như nguyên nhân và các yếu tố dẫn đến
hôn nhân như là cơ sở, hạt nhân cho sự tồn tại và phát triển của gia đình, các nhà
xã hội học xem xét gia đình khơng chỉ về số lượng người, thành phần và số lượng
các thế hệ cùng chung sống mà cịn nghiên cứu về vị trí, vai trị xã hội của họ trong

mối quan hệ gia đình cũng như những điều kiện xã hội ảnh hưởng tới các mối quan
hệ này. Trong gia đình tồn tại hàng loạt các mối quan hệ: quan hệ vợ - chồng, quan
hệ bố mẹ với con, quan hệ bố mẹ với ông bà, quan hệ ông bà với các cháu, quan
hệ giữa anh chị em với nhau,... Bên cạnh đó nếu xét từ khía cạnh các lĩnh vực hoạt
động sống của gia đình có thể nói tới mối quan hệ giữa lĩnh vực kinh tế với các
lĩnh vực đời sống văn hóa tinh thần, giáo dục, chăm sóc sức khỏe, sinh sản, điều
kiện nhà ở, trang thiết bị, v.v... Trong lĩnh vực này, xã hội học gia đình cịn nghiên
cứu vấn đề ly hôn cũng như các điều kiện, nguyên nhân dẫn đến ly hơn, q trình
ly hơn và hậu quả của nó đối với con cái, các bậc cha mẹ và xã hội.
Các nhà Kinh tế học xem gia đình với tư cách là đơn vị kinh tế, đơn vị tiêu
dùng. Kinh tế gia đình là một hình thức sản xuất có sớm, xuất hiện từ khi gia đình
được hình thành, lịch sử phát triển xã hội loài người là lịch sử của sự phát triển lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội gắn liền với các thời kỳ phát triển là
các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Gia đình Việt Nam vốn coi trọng cơ nghiệp,
cho nên đã đưa ra quan niệm “tấc đất, tấc vàng”, “con trâu là đầu cơ nghiệp” hay “nhất
nghệ tinh, nhất thân vinh”, hoặc “nhất sĩ nhì nơng, hết gạo chạy rong, nhất nơng nhì
sĩ”... được sử dụng để giáo dục các thành viên trong gia đình cách lao động, phát triển
kinh tế gia đình qua các thời kỳ. Trong cách tiêu dùng của gia đình cũng cố gắng sao
cho phù hợp như “liệu cơm - gắp mắm” hay “khéo làm thì no - khéo co thì ấm”, đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi gia đình, góp phần vào sự phát triển tồn xã
hội. Lao động của mỗi thành viên gia đình hoặc hoạt động kinh tế của gia đình


nhằm tạo ra nguồn lợi đáp ứng các nhu cầu đời sống vật chất (ăn, ở, đi lại) lẫn nhu
cầu tinh thần (vui chơi giải trí, học hành). Gia đình còn là đơn vị tiêu dùng, việc
tiêu dùng sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong xã hội đã tác động vào sản xuất, tiền
tệ, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển.
Dưới góc độ nghiên cứu tâm lý học, người ta quan niệm gia đình là một
nhóm xã hội có ít nhất là hai người. Quan hệ trong gia đình cũng như giao tiếp
trong gia đình chủ yếu là tình cảm điều này khác với các mối quan hệ ở ngoài xã

hội chủ yếu là xã giao. Tổ ấm gia đình tạo ra một thứ tình cảm kết nối những người
sinh sống cùng một nhà lại với nhau, ăn ở cùng nhau, chăm sóc, dạy bảo cho nhau,
đảm bảo cho từng thành viên một cuộc sống an toàn, đáp ứng những nhu cầu tâm
sinh lý.
Việc tạo nên tổ ấm, không phải chỉ chú trọng và chủ yếu vào việc đầu tư về
tài chính mà cịn là sự đầu tư về mặt thời gian, tình cảm. Đối với con cái thì nhu
cầu hàng đầu là được trưởng thành tiến tới tự lập. Nhưng bắt đầu lại là một tình
cảm hồn tồn phụ thuộc vào sự chăm sóc của người lớn, một mặt nhận được tất
cả những gì cần thiết, nhưng mặt khác lại tuyệt đối phải chịu sự áp đặt ý muốn của
người lớn.
Gia đình là một tổ hợp gồm tất cả những người ở chung một nhà, các thành
viên gắn kết với nhau về mặt tâm sinh lý, cha mẹ sẽ truyền lại cho con những
những đặc điểm thể chất qua “gien” di truyền sinh học và thông qua nếp sống sinh
hoạt, phong tục, tập quán, truyền thống mang dấu ấn tâm lý. Trong nội bộ gia đình,
giao tiếp chủ yếu mang tính phi ngơn ngữ, biểu lộ tình cảm nhiều hơn là bàn luận.
Một gia đình thường có những lễ nghi nhất định theo phong tục hay tôn giáo, hoặc
một số kiểu ứng xử lập đi lập lại nhiều lần. Đằng sau mỗi lễ nghi như vậy là những
tín điều của một đạo lý.
Từ những đặc trưng đã nêu trên, ta có thể thấy: “Gia đình là một nhóm xã
hội, các thành viên trong nhóm có quan hệ gắn bó về hơn nhân hoặc huyết thống,
tâm - sinh lý, cùng có chung các giá trị vật chất tinh thần ổn định trong các thời
điểm lịch sử” [5 tr.12].


“Luật hơn nhân và gia đình” của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2000 ghi rõ: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân,
quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và
các quyền lợi giữa họ với nhau theo luật định” [66, tr.12]. Khái niệm về gia đình
ở đây tuy chưa nêu bật được vị trí và chức năng của xã gia đình đối với xã hội
nhưng đã thể hiện được mối quan hệ khăng khít giữa các thành viên và trách nhiệm

nghĩa vụ lẫn nhau.
Người Việt Nam ta từ xưa đến nay vẫn quen gọi “gia đình” là “nhà”, khi so
sánh giữa các gia đình với nhau người ta thường nói “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà
mỗi cảnh”; mỗi loài cây thường cho hoa khác nhau, hương sắc khác nhau tạo cho
thiên nhiên muôn màu muôn vẻ, tô điểm đẹp thêm cho cuộc sống, cịn chữ “nhà”
ngồi nghĩa là nơi trú ngụ, diễn ra mọi sinh hoạt hàng ngày của con người thì ở
đây theo nghĩa rộng muốn nói đến là gia tộc gồm nhiều thế hệ sinh sống trải qua
bao đời, theo nghĩa hẹp chỉ gia đình gồm bốn thế hệ (cụ, ông bà, cha mẹ, con cháu),
ba thế hệ (ông bà cha mẹ, con cháu) hay hai thế hệ (cha mẹ, con cái). Mỗi nhà có
truyền thống lịch sử, phong tục , điều kiện kinh tế, hoàn cảnh sống, nếp sống, nếp
nghĩ.. khác nhau, thế nên mới có câu “mỗi nhà mỗi cảnh”. Tuy nhiên mỗi gia tộc
lại có thể tự hào về tổ tiên, cội nguồn mình có những cá nhân xuất sắc, những tấm
gương để con cháu noi theo làm rạng danh dịng tộc, đất nước đó chính là nét đẹp
trong văn hóa của ta và chính sự phong phú của nhà đã tạo nên bức tranh văn hóa
đa dạng, mn màu sắc cho đất nước Việt Nam.
Xuất phát từ lịch sử xã hội, phong tục tập quán, kinh tế, văn hóa khác nhau
nên quan niệm về gia đình giữa phương Đơng và phương Tây có sự khác nhau.
Cựu thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu đã đưa ra nhận định này như sau:
Xã hội Đông Á không giống các xã hội phương Tây. Khi tơi nói Đơng
Á, tơi muốn nói đến các nước Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Quốc, Việt
Nam… Khác biệt cơ bản: Xã hội phương Đông tin rằng cá nhân phải
tồn tại trong phạm vi gia đình, khơng biệt lập, đứng riêng. Gia đình là
một phần của đại gia đình rộng lớn hơn bạn bè và xã hội. Người lãnh
đạo hay nhà nước khơng tìm cách cung ứng cho mỗi người cái mà gia


đình anh ta có thể cung ứng tốt nhất. Ở phương Tây, đặc biệt là từ sau
chiến tranh thế giới thừ hai, các chính phủ đã làm thay những bổn phận
của gia đình. Điều đó khuyến khích nhiều gia đình khơng hồn chỉnh,
ví dụ như các gia đình chỉ có mẹ, tin tưởng là nhà nước có thể ni họ

thay người cha vắng mặt… Tơi khơng dám nói chắc, nó sẽ đem đến kết
quả ra sao, nhưng tơi khơng thích những kết quả đang nhìn thấy ở
phương Tây… Thật đáng băn khoăn nếu chúng ta đoạn tuyệt với những
chuẩn mực đã trai qua thử thách, đó là đơn vị gia đình, viên gạch nền
xây dựng xã hội…[11].
1.1.3. Khái niệm văn hố gia đình
Văn hố gia đình khơng phải là vấn đề q xa xơi, trừu tượng, nó thể hiện
ngay trong hành động, suy nghĩ, cách hành xử của mỗi người trong cuộc sống
thường ngày, đó là các quan hệ đạo lý, những chuẩn mực, khuôn phép trong sinh
hoạt ứng xử, chăm sóc con cái, phong tục tập quán, các nghi lễ thờ cúng gia tiên…
PGS,TS Lê Như Hoa quan niệm: “Văn hóa gia đình là một trong những
dạng văn hóa cộng đồng đặc thù, một mơi trường văn hóa đặc thù, trong đó các
hệ giá trị chuẩn mực trở thành định hướng mà mỗi thành viên trong gia đình chấp
nhận tuân theo và có nghĩa vụ thực hiện” [32, tr.32]
Qua các hình thái kinh tế-xã hội mà Việt Nam đã trải qua, trong cộng đồng
có cơ sở là “làng” và cấu trúc cao nhất là “nước”, ngay từ khi ra đời đã sớm có bản
sắc văn hóa riêng vốn có của mình và những nét độc đáo đó được hình thành và
lưu truyền ngay từ trong gia đình người Việt ta từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tuy
nhiên, văn hóa gia đình có những qui luật hình thành và phát triển riêng. Văn hóa
là sự gắn bó, cố kết cộng đồng người và là sản phẩm của chính cộng đồng người
ấy tạo ra. Song giữa các cộng đồng người ln ln diễn ra q trình trao đổi văn
hóa với nhau thơng qua các hoạt động giao lưu. Chính vì vậy văn hóa được hình
thành và phát triển dựa trên yếu tố bản địa cộng với quá trình tiếp xúc với nhiều
nền văn hóa khác nhau. Từ xa xưa dân ta chủ yếu làm nghề nông do vậy văn hóa
gia đình Việt Nam truyền thống được hình thành trên cơ sở kết hợp giữa nền văn
hóa bản địa nảy sinh từ xã hội sản xuất nông nghiệp lúa nước cộng hệ thống tư


tưởng Nho giáo Trung Quốc với triết lý đạo Phật về gia đình, đó là q trình diễn
ra lâu dài và có sự tự nguyện để biến ngoại sinh thành bản địa. Khi xã hội càng

phát triển, con người ngày càng có nhiều cơ hội để giao lưu với nhiều nền văn hóa
khác nhau trên thế giới vì vậy sự tiếp xúc, giao thoa văn hóa cũng tăng lên; gia
đình Việt Nam khơng chỉ tiếp xúc với mơ hình gia đình Nho giáo Trung Quốc mà
sau này cịn tiếp xúc với văn hóa Pháp, văn hóa Mỹ và các nước phương Tây… để
làm phong phú thêm vốn văn hóa gia đình nước ta.
Nếu như coi văn hóa là gồm tất cả những cái gì làm cho dân tộc này khác
với dân tộc khác, thì văn hóa gia đình - một bộ phận nhỏ trong nền văn hóa chung
của dân tộc cũng sẽ bao gồm tất cả những cái gì làm cho gia đình của một cộng
đồng này, xã hội này, dân tộc này, khu vực này khác với gia đình của các cộng
đồng, xã hội, dân tộc, khu vực khác. Sự khác biệt đó theo quy luật khách quan với
yếu tố về đời sống vật chất, tinh thần, chế độ xã hội, môi trường tự nhiên của mỗi
cộng đồng người, tồn tại lâu dài trong lịch sử, để lại dấu ấn đặc biệt trong đời sống
xã hội và gia đình, tạo thành cái được gọi là bản sắc văn hóa; ví như sự khác nhau
giữa văn hóa gia đình phương Đơng và gia đình phương Tây, gia đình Việt Nam
và gia đình các nước Á Đơng khác cùng ảnh hưởng Nho giáo, hay sự khác biệt
giữa văn hóa gia đình người Kinh và gia đình các dân tộc Tày, Thái, Mường, gia
đình theo chế độ phụ quyền và gia đình theo chế độ mẫu quyền các dân tộc Ê đê,
Mnông…
Trong giáo trình Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng cộng sản
Việt Nam, nhóm tác giả biên soạn đã trình bày quan niệm về văn hóa gia đình như
sau:
Văn hóa gia đình là dạng đặc thù của văn hóa cộng đồng, văn hóa của thiết
chế gia đình bao gồm tổng thể sống động các hoạt động sống của gia đình mang
đặc trưng văn hóa bị chi phối bởi các giá trị, chuẩn mực, truyền thống, thị hiếu của
một cộng đồng mà các thành viên gia đình đã chọn lọc để ứng xử với nhau trong
gia đình và ngồi xã hội.
Văn hóa gia đình là một nội dung quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu về
gia đình. Từ những nghiên cứu văn hóa gia đình chúng ta sẽ có cơ sở khoa học để



hiểu đúng bản chất và truyền thống của gia đình Việt Nam, thấy được những nét
tương đồng và những bản sắc riêng, độc đáo của văn hóa gia đình Việt Nam mà ở
các nước khác khơng có. Để từ đó có thể đưa ra những dự báo xu thế vận động,
giải pháp thiết thực nhằm phát huy vai trò to lớn của gia đình trong việc giữ gìn
truyền thống quý báu của dân tộc, củng cố sự bền vững của gia đình; góp phần giữ
vững ổn định xã hội, phát triển kinh tế, nuôi dưỡng, giáo dục và cung cấp nguồn
lực con người đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.
Nghiên cứu văn hóa gia đình cịn giúp chúng ta hiểu được bản chất văn hóa,
bởi vì gia đình được coi như “tế bào của xã hội” là cái nôi thân yêu của mỗi con
người, đảm nhận chức năng cơ bản là duy trì nịi giống, tái sản xuất con người và
văn hóa hóa con người, nền tảng văn hóa gia đình chính là căn cốt để thực hiện
văn hóa hóa con người, cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội.
Văn hóa gia đình mang những dấu ấn để lại trong đời sống vật chất, tinh
thần của gia đình được biểu hiện thông qua các mối quan hệ, cấu trúc, chức năng,
sinh hoạt, đời sống tâm linh… của gia đình. Khi bàn về văn hóa gia đình khơng
thể khơng đề cập đến vấn đề tôn giáo. Theo nhiều nhà nghiên cứu không một hệ
tư tưởng tôn giáo hay triết học nào ra đời trên đất nước chúng ta; Đạo giáo, Nho
giáo, Thiên chúa giáo… đều du nhập từ ngoài vào; người Việt đã chịu ảnh hưởng
của tư duy, nếp sống, chữ viết, phong tục tập quán, lễ nghi của Nho giáo tiếp thu
có chọn lọc trở thành bản sắc của ta. Nho giáo vạch rõ ràng các quan hệ theo họ
hàng, theo đẳng cấp, theo chức vị, dùng lễ nghi để thuyết phục pháp chế hóa
trong gia lễ, trong hương ước; Nho giáo khuyên con người hiếu nghĩa với ông
bà, cha mẹ; giáo dục con cháu, sống có trách nhiệm với gia đình, đất nước. Khi
thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, văn hóa lại có sự biến đổi, có sự giao thoa
với nền văn hóa Pháp; về chữ viết lúc này ngoài chữ Nho xuất hiện thêm chữ
quốc ngữ, dân ta học và thông thạo tiếng Pháp; ở nhiều nơi người Việt ta bắt đầu
ăn mặc kiểu phương Tây, học các điệu khiêu vũ của Tây, rồi thiết kế kiểu cách
cho ngôi nhà cũng mang đậm nét phương Tây… văn hóa gia đình cũng bước đầu
có những biến đổi về văn hóa ứng xử, lối sống, quyền con người… Đó là những



dấu ấn được duy trì qua lịch sử, trở thành truyền thống, ăn sâu vào tiềm thức, chi
phối hành vi giữa các thành viên trong gia đình, giữa gia đình với xã hội, tiếp nối
từ thế hệ này sang thế hệ khác.
1.1.3.1. Cấu trúc của văn hóa gia đình
Các nhà nghiên cứu trong sách chuyên khảo “Người phụ nữ trong văn hóa
gia đình đơ thị”, đã phân tích cấu trúc văn hóa gia đình theo các dạng hoạt động
cơ bản của gia đình và theo các hệ giá trị của gia đình.
Theo các dạng hoạt động cơ bản của gia đình, các nhà nghiên cứu đã chia
cấu trúc văn hóa gia đình thành ba dạng:
Thứ nhất, văn hóa sản sinh và nuôi dạy con cái.
Để đáp ứng nhu cầu trên, văn hóa gia đình đã tích lũy một loạt những tri
thức, kinh nghiệm, cách thức, thái độ và các thể chế cho sinh nở và nuôi dạy con
người. Từ những hiểu biết về quan hệ tính giao (rộng hơn quan hệ tình dục) đến
việc chăm sóc giáo dục thai nhi (thai giao) ở trong bụng mẹ đến lúc trưởng thành.
Từ những thể chế đón nhận một sinh thể người ra đời cho đến lúc trưởng thành.
Từ những tri thức của “thủa còn thơ” đến những kinh nghiệm, bản năng sống,
phương thức ứng xử trong gia đình và xã hội.
Thứ hai, văn hóa vật chất và tiêu dùng các sản phẩm vật chất
Để đáp ứng nhu cầu vật chất, gia đình và các thành viên của nó phải tiến
hành sản xuất ra các sản phẩm vật chất cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và
các phương thức sử dụng. Những sản phẩm ấy và các phương thức sử dụng nói lên
trình độ chiếm lĩnh, khai thác các vật thể trong tự nhiên, trình độ phát triển lực
lượng bản chất của con người trong lĩnh vực sản xuất và đời sống vật chất. Từ
những kinh nghiệm hiểu biết, kỹ năng, bí quyết trong sản xuất sản phẩm tiêu dùng
đến cách thức, kỹ thuật công nghệ chế tác công cụ sản xuất, các phương tiện sử
dụng, vũ khí chiến đấu… từ cách tiêu dùng, phân phối, hưởng thụ, trao đổi, dâng
biếu các sản phẩm vật chất đến thể chế phân chia tài sản, thừa kế gia sản đã tạo
nên văn hóa vật chất của gia đình.

Thứ ba, văn hóa tinh thần và hưởng thụ các sản phẩm tinh thần.


Bên cạnh những biểu hiện, kinh nghiệm, cách thức ứng xử trong văn hóa sản
sinh, ni dạy con người, văn hóa sản xuất và tiêu dùng vật chất của gia đình là tồn
bộ những giá trị đạo đức, tín ngưỡng tâm linh, phong tục tập quan, thị hiếu thẩm mỹ
và cả những bí quyết nghề nghiệp truyền thống… là phương diện văn hóa tinh thần
của gia đình. Chúng được đúc kết lại thành hệ giá trị, chuẩn mực, khuôn mẫu văn hóa
của gia đình (trong gia đình cổ truyền gọi là gia phong). Hệ giá trị văn hóa gia đình là
yếu tố cốt lõi làm nên đặc điểm riêng của mỗi loại hình gia đình và có sức mạnh chi
phối đời sống tâm lý, tâm linh, hành vi ứng xử của các thành viên trong gia đình.
Theo các hệ giá trị của gia đình, cấu trúc văn hóa gia đình cũng được chia
làm 3 loại:
Một là, các giá trị cấu trúc: Đó là các giá trị gắn với các quan hệ bên trong
và bên ngồi của gia đình như quan hệ vợ - chồng; quan hệ giữa cha mẹ - con cái;
quan hệ giữa các anh, chị, em; quan hệ giữa ơng bà và các cháu trong gia đình;
quan hệ giữa gia đình với họ tộc và cộng đồng. Chúng thể hiện thái độ, phương
thức ứng xử giữa các thành viên trong gia đình và giữa gia đình với họ tộc và cộng
đồng.
Hai là, các giá trị chức năng: Đây là các giá trị thể hiện vị trí, vai trị của
gia đình đối với sự phát triển xã hội qua các chức năng: sinh sản - tái sản xuất ra con
người, giáo dục, kinh tế, thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm của các thành viên
trong gia đình.
Ba là, các giá trị tâm linh: Đó chính là hạt nhân bất biến của văn hóa gia
đình. Các gia đình tuân theo, tôn thờ những giá trị không vụ lợi, những giá trị bắt
nguồn từ cái thiêng liêng và cái bí ẩn trong đời sống tâm linh của con người.
Tuy nhiên, sự chia tách cấu trúc văn hóa gia đình theo hai dạng kể trên
cũng chỉ là tương đối, bởi nhiều yếu tố thể hiện trong các dạng hoạt động cơ
bản của gia đình và thể hiện ở hệ giá trị của gia đình khơng phải lúc nào cũng
có sự tách biệt rõ ràng mà chúng vừa có mặt ở dạng này, vừa có mặt ở dạng kia

(như văn hóa sản sinh nuôi dạy con người với chức năng sinh sản tái sản xuất
ra con người và chức năng giáo dục, văn hóa vật chất với chức năng kinh tế…).
* Cấu trúc gia đình truyền thống người Tày ở huyện Bạch Thông


Gia đình đơng con và nhiều thế hệ cùng chung sống trên một mảnh đất của tổ
tiên là cấu trúc gia đình truyền thống của người Tày ở huyện Bạch Thơng.
Một gia đình truyền thống người Tày với nhiều thế hệ sống chung thường
có tơn ti trật tự, những giá trị văn hóa được bồi đắp như “kính trên nhường dưới”,
có được sự chia sẻ, điều hịa trong nếp sống và ứng xử giữa các thành viên ông
bà - cha mẹ - con cái... từ đó hình thành những chuẩn mực đạo đức và lối sống
trở thành gia phong.
Với người Tày truyền thống, gia đình là đơn vị duy nhất được xã hội thừa
nhận và cho phép tạo ra những công dân mới cho xã hội. Những qui định đối với
hôn nhân trong xã hội cũ là rất ngặt nghèo, trên cơ sở "Lấy vợ xem tông, lấy chồng
xem giống", dù có được tự do tìm hiểu nhau nhưng nếu gia đình khơng đồng ý cho
phép kết hơn cũng khơng được tự ý sống với nhau và vợ chồng thường là những
người cùng làng hoặc làng bên cạnh khơng có họ hàng vì lúc đó con người chưa
đi đâu xa ra khỏi lũy tre làng nên rất ít người lấy vợ, lấy chồng xa; với những gia
đình khá giả họ quan tâm nhiều hơn tới vấn đề môn đăng hộ đối, thậm chí vị trí
trong dịng họ cũng phải tương xứng. Khi đã trở thành vợ chồng, dù dựa trên nền
tảng tình yêu hay do sắp đặt họ đều tin tưởng vào cuộc hơn nhân của mình, chấp
nhận và sẵn sàng bỏ qua những khiếm khuyết của người bạn đời. Xưa kia, nếu
người vợ chẳng may qua đời thì người chồng sẽ đi bước nữa nhưng nếu người vợ
góa chồng thì sẽ ở vậy cả đời thờ chồng ni con.
Rất nhiều gia đình truyền thống của người Tày ở huyện Bạch Thơng có đến
15-20 người cùng sinh sống, tuy nhiên do cái phơng văn hóa truyền thống và “nếp
nhà” nên mâu thuẫn, xung đột trong gia đình rất hiếm khi xẩy ra hoặc nếu có những
bất đồng thì sẽ được xoa dịu và giải quyết ngay sau đó. Mọi thành viên đều có ý
thức phải giúp đỡ nhau về mọi mặt: chăm sóc người già, trẻ em, lao động, sản xuất

ra của cải vật chất. Các cô gái, chàng trai Tày ngay từ khi mới lớn đã được ông bà,
cha mẹ mình dạy cho cách đối nhân xử thế, lao động… vì vậy có những trường
hợp kết hơn khi mới 14, 15 tuổi nhưng họ đều thuần thục trong lao động sản xuất
và sống đúng đạo lý, tuân thủ phép tắc trong gia đình.


Trong xã hội hiện đại, người ta nhận thấy rằng mặt tiêu cực của những gia
phong trong gia đình truyền thống phần nào đã làm hạn chế khả năng độc lập, sáng
tạo của con người. Điều này hẳn không sai, hiện nay với tư tưởng nam nữ bình
đẳng, con cái và cha mẹ có thể đối thoại, thẳng thắn bộ bạch những suy nghĩ, ước
mơ của bản thân, cái tôi cá nhân được đề cao… đã tạo cho mỗi con người được
phát huy hết khả năng của mình, đóng góp chung vào công cuộc phát triển kinh tếxã hội của đất nước song nó cũng làm cho xã hội trở nên phức tạp hơn bởi các vấn
đề xuống cấp về mặt đạo đức, trong gia đình nẩy sinh nhiều xung đột mà đỉnh điểm
là sự tan vỡ của các cặp vợ chồng làm con cái trở nên bơ vơ, dễ dẫn đến hư hỏng.
1.1.3.2. Vai trị của văn hóa gia đình đối với sự phát triển kinh tế, văn
hóa và xã hội
* Vai trị của văn hóa gia đình đối với sự phát triển kinh tế
Gia đình là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ và năng động có đóng góp lớn
trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế hộ gia đình thực sự đóng vai trị quan trọng trong
việc duy trì sự tăng trưởng tổng thu nhập quốc dân hàng năm và đảm bảo cho sự tồn
tại và phát triển của mỗi quốc gia. Thực hiện chức năng kinh tế, các gia đình tiến hành
các hoạt động lao động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tạo ra các sản phẩm về vật chất
và tinh thần trước hết là để đáp ứng nhu cầu của gia đình, sau là để phục vụ cho nhu
cầu xã hội, tăng thêm thu nhập chính đáng, phát triển kinh tế gia đình, giải quyết việc
làm, xóa đói giảm ghèo, làm giàu chính đáng. Thực hiện chức năng kinh tế còn là việc
các gia đình sử dụng nguồn thu nhập để mua sắm rất nhiều loại sản phẩm, phương
tiện, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu về vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia
đình như: lương thực, thực phẩm, nhà ở, quần áo, phương tiện đi lại, các đồ dùng, vật
dụng trong gia đình, ni dạy con cái, chữa bệnh, vui chơi giải trí…thơng qua đó góp
phần thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển, giúp tăng trưởng nền kinh tế quốc dân.

Vai trị của văn hóa gia đình trong việc thực hiện chức năng kinh tế hết sức quan trọng.
Sản xuất kinh doanh vì mục đích gì? Phương thức thực hiện ra sao?... Văn hóa giữ vai
trị định hướng, hướng dẫn các hoạt động của gia đình. Định hướng đúng giúp cho gia
đình tổ chức thực hiện một cách phù hợp, chính đáng, kích thích lao động sản xuất
phát triển, tạo ra các sản phẩm có chất lượng thỏa mãn nhu cầu và lợi ích của người


×