Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Buoc dau nghien cuu su nghiep van chuong cua NamXuong Nguyen Cat Ngac

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 114 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM --------------------------------. NGUYỄN THUÝ QUỲNH. BƢỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU SỰ NGHIỆP VĂN CHƢƠNG CỦA NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC (Ở HAI THỂ LOẠI: KỊCH BẢN VĂN HỌC VÀ TRUYỆN NGẮN). Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34. LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS – TS Trần Thị Việt Trung. THÁI NGUYÊN – 2008 1 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(2)</span> MỤC LỤC Phần mở đầu:…………………………………………………………………..2 Chƣơng I: Vài nét về đời sống xã hội - văn hóa Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX và tác giả Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc…………………9 1.1. Đời sống xã hội – văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ảnh hưởng đến việc hình thành ngòi bút Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………...9 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của tác giả Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………………………… 17 Chƣơng II. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch bản của Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc……………………………………...26 2.1.Tóm tắt các kịch bản của Nam Xương…………………………………....26 2.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung tư tưởng của kịch Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………..31 2.3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật của kịch Nam Xương- Nguyễn Cát Ngạc……………………………………49 Chƣơng III. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc………………………...67 3.1. Vài nét về tình hình sáng tác truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc………………………………………..67 3.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc…………………………………………69 3.3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc……………………………………………..93 Kết luận ………………………………………………………….. ……….107 Tài liệu tham khảo………………………………………………………. ..110. 2 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(3)</span> PHẦN MỞ ĐẦU. 1. Lý do chọn đề tài Với hai kịch bản nổi tiếng một thời (giai đoạn đầu thế kỷ XX) là Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc, trong mấy chục năm qua, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã được các nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam khẳng định là một trong những tác giả đầu tiên tham gia xây dựng nền móng của nền kịch nói Việt Nam hiện đại. Tuy nhiên, ngoài sự khẳng định trên, cho đến nay, sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và đầy đủ, cho dù sau khi hy sinh ở miền Nam vào năm 1958, ông đã để lại một di sản văn chương khá phong phú. Trên thực tế, ngoài việc giới thiệu khái quát tên tuổi của Nam Xương trong một số công trình nghiên cứu về văn học và sân khấu Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX, tên tuổi ông ít được nhắc tới, và các nhà nghiên cứu cũng thường xem xét ông trong tư cách tác giả kịch bản. Nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc không chỉ có vậy. Với lòng yêu nước sâu sắc, ngay từ đầu, ông đã dấn thân vào phong trào yêu nước, rồi gia nhập đội ngũ của những người cộng sản, ông đã hai lần nhận án tử hình của Nhật và Pháp, và cuối cùng ông đã hy sinh ở miền Nam năm 1958 với cương vị là chiến sĩ tình báo của cách mạng. Trên bước đường hoạt động ấy, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc vẫn tiếp tục sáng tác trên nhiều thể loại, từ kịch bản tới tiểu thuyết, truyện ngắn, một vài thể loại khác và bộ phận chủ yếu của di sản này vẫn chưa được công bố. Vì thế, giới nghiên cứu vẫn chưa có điều kiện tiếp xúc và khảo sát toàn bộ những sáng tác của ông, và đó là lý do giải thích vì sao sự nghiệp văn chương của ông lại chỉ được nghiên cứu một cách hạn hẹp. 3 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc bắt đầu sáng tác từ đầu những năm ba mươi của thế kỷ trước. Trong giai đoạn này, công cuộc hiện đại hoá văn học Việt Nam, như một yêu cầu khách quan của lịch sử, được hình thành từ giai đoạn giao thời, đã phát triển một cách toàn diện. Sự ra đời của Thơ mới, của tiểu thuyết và truyện ngắn, của nghệ thuật tạo hình, sân khấu kịch nói…đã tạo nên một diện mạo mới của nền văn học - nghệ thuật nước nhà, tạo đà cho các bước phát triển sau này. Chính vì thế, việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, đầy đủ hơn về bối cảnh lịch sử - xã hội - văn hóa, về các tác giả đã đi tiên phong trong giai đoạn đầu của công cuộc hiện đại văn học Việt Nam là hết sức quan trọng và cần thiết. Nam Xương – Nguyễn Cát Ngạc là một trong những tác giả như vậy. Nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chúng tôi mong muốn được khám phá và khẳng định vị trí của ông đối với việc góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX. Do sẵn lòng kính trọng và yêu mến những sáng tác của Nam Xương Nguyễn Cát Ngạc, đặc biệt là có may mắn được tiếp xúc với di cảo ông mà gia đình ông còn lưu giữ, chúng tôi chọn đề tài Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (ở hai thể loại: kịch bản và truyện ngắn) để bước đầu khảo sát về ông, với ý muốn phục dựng một gương mặt văn học còn ít người biết tới. Sự phục dựng ấy có mục đích giới thiệu và đưa ra một số nhận định bước đầu về đặc điểm sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, qua đó khẳng định những đóng góp của ông ở hai thể loại: kịch bản và truyện ngắn. Ngoài hai thể loại này, ông còn sáng tác ở các thể loại văn xuôi khác, nhưng trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn cao học và do khả năng còn có giới hạn, nên chúng tôi chỉ đi sâu vào 2 thể loại trên để nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề 4 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Là người tham gia hoạt động văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại từ khá sớm và để lại dấu ấn qua hai kịch bản Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc (trong đó, "ông Tây An Nam" đã trở thành một kiểu thành ngữ của người Việt Nam khi đề cập tới những người Việt vọng ngoại, bắt chước phương Tây một cách lố lăng), nhưng do nhiều biến cố của cuộc đời ông mà sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chưa được giới nghiên cứu chú ý. Hơn nữa, do sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chủ yếu công bố trong vùng tạm chiếm khi ông hoạt động công khai trong nội thành Hà Nội và sau đó vào miền Nam hoạt động với danh nghĩa trí thức, nên việc sưu tầm tác phẩm của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc là rất khó khăn. Theo khảo sát bước đầu của chúng tôi, cho tới nay đã có những công trình nghiên cứu sau đề cập đến tác giả Nam Xương : 1. Bước đầu tìm hiểu Lịch sử kịch nói Việt Nam trước cách mạng tháng Tám (Phan Kế Hoành - Huỳnh Lý, NXB Văn hoá, H.1978) 2. Từ điển Văn học, mục từ Nam Xương (bản in năm 1984) 3. Từ điển Văn học (bộ mới), mục từ Nam Xương (bản in năm 2005) 4. Văn học Việt Nam thế kỷ XX, GS Phan Cự Đệ chủ biên, NXB Giáo dục, H.2004 (phần về kịch bản do PGS TS Phan Trọng Thưởng thực hiện). 5. Tổng tập văn học Việt Nam, tập 23, GS Đinh Gia Khánh chủ biên, NXB Khoa học xã hội, H.1997. 6. Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, GS Hà Minh Đức chủ biên, NXB Sân khấu, H.1997. 7. Bài báo Về tác giả vở kịch nói Ông Tây An Nam (Nguyễn Hòa, Tạp chí Nghiên cứu văn học - Viện Văn học, số 7 năm 2001) Trong các nguồn tư liệu này, thì ở 2 bộ từ điển chỉ giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương một cách khá sơ lược. Trong Từ điển Văn học, mục từ Nam Xương, Trần Hữu Tá giới thiệu: "Nam Xương tham gia cách mạng từ tháng Tám năm 1945, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(6)</span> 1948, làm công tác bí mật ở các thành phố Nam Định và Hà Nội. 1954, ông được phái vào Sài Gòn công tác và hy sinh 1958. Thời gian hoạt động trong vùng Hà Nội tạm bị chiếm (1948 - 1954), ông viết một tập truyện ngắn có giá trị phê phán tích cực (Bụi phồn hoa), hai cuốn tiểu thuyết lịch sử đậm đà tinh thần dân tộc (Bách Việt, Hùng Vương) và một vở kịch (Tây Thi). Dưới danh nghĩa một nhà xuất bản tưởng tượng "Quê hương", ông đã in được hai cuốn Bụi phồn hoa và Bách Việt nhằm động viên bạn đọc thành phố hướng về chính nghĩa" [5, tr.11]. Chúng tôi xin giới thiệu một số đánh giá của các nhà nghiên cứu trong các công trình trên: Trong bài mở đầu cuốn Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX , có nhan đề “Kịch nói Việt Nam, thời kỳ đầu hình thành và phát triển”, GS Hà Minh Đức viết: “Nam Xương không trực tiếp đả kích vào bọn thực dân xâm lược, mà phê phán đả kích vào cái hình bóng của nó qua những quái thai như Cử Lân, một trí thức du học ở Pháp về và hoàn toàn mất gốc” “Chất hài trong kịch Ông Tây An Nam của Nam Xương bộc lộ trong chiều sâu của xung đột và tác giả biết dẫn dắt để nhân vật tự phơi bày những nghịch lý, những trò lố lăng. Có thể xem đây là vở hài kịch thành công trong không khí chung của thời kỳ này” [22, tr.12] Trong công trình “ Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam” của Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý, có viết: “Ở cuối thời kỳ này (thời kỳ 1927 1930, theo cách phân kỳ của 2 tác giả trên - NTQ), Nam Xương cũng để lại hai vở kịch đáng chú ý là vở Chàng Ngốc và vở Ông Tây An Nam. Qua vở Ông Tây An Nam, Nam Xương đả kích một bọn trí thức vong bản. Cũng qua hai vở ấy, người ta thấy Nam Xương là người am hiểu về nghệ thuật kịch cổ điển và có sở trường về lối hài kịch”.[13, tr42] Cũng trong cuốn sách trên, Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý nhấn mạnh vị trí của kịch Nam Xương trong sân khấu kịch nói đương thời: “... trong sự phát triển có thể nói là xô bồ của 6 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(7)</span> mấy năm 1929, 1930, 1931, người ta ít tìm thấy những vở có tiếng vang trong kịch trường, trừ mấy vở của Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc, Tương Huyền và nhất là của Nam Xương” [13, tr. 44]. Bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà viết: “Bằng hai vở kịch nói Ông Tây An Nam (1930) và Chàng Ngốc (1931), Nam Xương Nguyễn Cát Ngạc đã cùng với Vi Huyền Đắc, Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim…trở thành những nghệ sĩ đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời của nghệ thuật kịch nói Việt Nam. Dù chỉ là đôi dòng, nhưng tên tuổi của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc thường được nhắc tới trong các công trình nghiên cứu lịch sử văn học, nghiên cứu lịch sử sân khấu Việt Nam trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XX.”, “Có thể nói không quá lời rằng Nguyễn Cát Ngạc, là một trong số ít các tác giả đầu tiên có những sáng tác văn học về một gia đoạn lịch sử cách chúng ta rất xa là thời đại Hùng Vương - một thời đại mà sử liệu hiện chỉ còn chủ yếu trong truyền thuyết…Cho đến nay, truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc chưa được khảo sát kỹ lưỡng. Có thể nhận xét, đây là những truyện ngắn được viết khá công phu, được tổ chức theo lối kịch bản, có thắt nút cởi nút, đặc biệt tác giả thường khai thác một cách tinh tế những tình huống có khả năng khắc họa hình ảnh lố bịch của những kẻ bán nước hại dân. ”[14] Có thể thấy rằng: hầu hết các công trình nghiên cứu trên đây chỉ mới dừng ở những đánh giá ngắn gọn và khái quát về Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chủ yếu ở vai trò một tác giả kịch bản giai đoạn đầu thế kỷ XX trong một tổng thể chung của cả nền văn học hoặc riêng lĩnh vực kịch nói; và mới chỉ có một bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà viết về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương. Toàn bộ sự nghiệp văn học của Nam Xương nói chung và phần văn xuôi nói riêng chưa được khảo sát, nghiên cứu. Bài báo của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà - tuy đã đề cập tới phần văn xuôi của ông, nhưng cũng mới chỉ dừng ở việc đưa ra 7 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(8)</span> những nhận định ban đầu. Chưa có công trình nào nghiên cứu sự nghiệp văn chương của Nam Xương một cách hệ thống và hoàn chỉnh. Do đó, việc nghiên cứu về Nam Xương là rất cần thiết. 3. Mục đích nghiên cứu - Tìm hiểu một số đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật trong các sáng tác của Nam Xương ở hai thể loại: kịch bản và truyện ngắn. - Khẳng định các đóng góp của Nam Xương đối với sự hình thành và phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại trong giai đoạn đầu thế kỷ XX ở hai thể loại trên. 4. Đối tƣợng nghiên cứu - Toàn bộ các tác phẩm của Nam Xương, tập trung nghiên cứu các tác phẩm kịch bản và truyện ngắn. - Các tài liệu liên quan: các tác phẩm kịch bản, truyện ngắn cùng thời với ông; các công trình nghiên cứu có đề cập đến sáng tác của Nam Xương. - Các tài liệu lý thuyết, lý luận có liên quan đến đề tài nghiên cứu. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Chỉ ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Nam Xương trong thể loại kịch bản văn học. - Chỉ ra được những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của Nam Xương trong thể loại truyện ngắn. - Khẳng định vị trí, vai trò cùng những đóng góp quan trọng của Nam Xương trong giai đoạn đầu của quá trình hiện đại hoá nền văn học nước nhà ở hai thể loại trên. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu: Để thực hiện luận văn, chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp phân tích và tổng hợp - Phương pháp nghiên cứu liên ngành 8 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(9)</span> - Phương pháp so sánh, đối chiếu. - Phương pháp nghiên cứu hệ thống 7. Bố cục của luận văn: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương. Chương I: Vài nét về đời sống xã hội - văn hóa Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX và tác giả Nam Xƣơng. Chương II. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật kịch bản của Nam Xƣơng. Chƣơng III. Một số đặc điểm về nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của Nam Xƣơng. 9 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Chƣơng I ĐỜI SỐNG XÃ HỘI – VĂN HOÁ VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX VÀ TÁC GIẢ NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC 1.1. Đời sống xã hội – văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX ảnh hƣởng đến việc hình thành ngòi bút Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc 1.1.1. Sự xâm nhập của văn hoá phương Tây và những biến động trong đời sống xã hội - văn hoá Việt Nam Cuối thế kỷ XIX, về cơ bản người Pháp đã hoàn tất quá trình xâm lược Việt Nam. Chính sách chia để trị và sự hình thành về mặt hình thức của ba xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ đã cho phép người Pháp xúc tiến công cuộc khai thác thuộc địa ở “xứ Đông Dương thuộc Pháp” một cách triệt để, nhằm tận thu của cải vật chất từ thuộc địa, và nhằm một mặt bù vào những thiệt hại nặng nề từ các cuộc chiến tranh mà nước Pháp tham gia, một mặt tăng cường thêm nguồn lực tạo ra sức mạnh của nước Pháp trong quan hệ quốc tế. Kết quả của chính sách kinh tế đó là nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp hàng nghìn năm đã bị phá vỡ, kinh tế tư bản hình thành và phát triển; nước ta trở thành một thuộc địa bị khai thác đến tận cùng các của cải vật chất, đồng thời trở thành thị trường tiêu thụ và cung cấp nguyên liệu cho tư bản công nghiệp và thương nghiệp Pháp. Đi cùng với tình trạng này là việc giai cấp nông dân Việt Nam bị bần cùng hoá, tầng lớp tiểu tư sản, thợ thủ công không có điều kiện để phát triển, trở thành nguồn nhân công đông đảo và rẻ mạt cho các hãng buôn, chủ đồn điền, chủ thầu của Pháp. Về mặt chính trị, chế độ thực dân nửa phong kiến chưa từng có trong lịch sử Việt Nam từng bước hình thành trên khắp lãnh thổ. Nó tiếp tục kìm 10 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(11)</span> hãm sự phát triển của đất nước dưới một hình thức khác, tuy nhiên chính sự có mặt của nó lại phá vỡ và gây nên những biến động lớn trong xã hội Việt Nam vốn hàng nghìn năm “bế quan toả cảng” dưới chế độ phong kiến kiểu phương Đông. Để bóc lột sức lao động và vơ vét tài nguyên ở nước thuộc địa, người Pháp mở mang giao thông, thị trường buôn bán, phát triển nền kinh tế hàng hoá thống nhất trong cả nước. Kèm theo sự phát triển ấy là việc mở rộng các đô thị cũ, hình thành các khu công nghiệp mới “kiểu phương Tây”, rồi các tỉnh lỵ, phủ, huyện lỵ được xây dựng như những trung tâm kinh tế - văn hóa địa phương để phục vụ hoạt động, sinh hoạt của tầng lớp “Tây thuộc địa”, là trung tâm hành chính để cai trị, đồng thời là nơi sơ chế, buôn bán và tiêu thụ, sản phẩm có được trong quá trình bóc lột tài nguyên và tận dụng nguồn nhân công rẻ mạt. Quá trình đô thị hoá dẫn đến sự phá vỡ kết cấu xã hội. Hệ thống các giai tầng đã có tuổi đời hàng nghìn năm, được tổ chức theo mô hình “tứ dân” (sĩ nông - công - thương ) dần dần bị phá vỡ do trong xã hội xuất hiện những dấu hiệu sơ khai của quan hệ sản xuất kiểu mới mà nền kinh tế tư bản từ nước Pháp mang lại. Những ngành nghề chưa từng có trong lịch sử dân tộc như thông ngôn, ký lục, ký giả,... cho đến thợ cơ khí, thợ in ấn, phu mỏ,… lần lượt xuất hiện, và tình trạng này cũng góp phần làm thay đổi cơ cấu nghề nghiệp trong xã hội. Đông đảo nông dân bị bần cùng hoá do mất ruộng đất phải tha hương ra các đô thị kiếm sống, hình thành một tầng lớp tiểu tư sản nghèo ngày càng tăng mãi lên trong các đô thị; một số khác không nhiều trở thành lực lượng phu mỏ, phu đồn điền, từng bước hình thành nên những bộ phận đầu tiên của giai cấp công nhân Việt Nam. Và do đó, cuộc xâm lăng của người Pháp đã đẩy tới sự thoát thai ra khỏi cách thức tổ chức xã hội kiểu cũ, từng bước làm nên một xã hội Việt Nam kiểu mới với sự xuất hiện của một số tầng lớp xã hội mới. 11 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Về sinh hoạt xã hội, đã diễn ra một tình trạng phân cực rõ rệt đến mức đối lập giữa nông thôn và đô thị, giữa kẻ giàu và người nghèo. Một nền kinh tế phụ thuộc với một số hàng hoá đến từ phương Tây, cùng với đó là một lối sống kiểu khác với những giá trị văn hóa - văn minh khác lạ đã dẫn đến sự thay đổi tâm trạng và lối sống trong xã hội Việt Nam đương thời. Từ việc tẩy chay những gì thuộc về ngoại bang, dần dà người ta buộc phải thích ứng với nó. Ở cả hai khía cạnh tích cực và tiêu cực, sự xâm nhập của cái mới đến từ phương Tây đã làm thay đổi căn bản bộ mặt xã hội Việt Nam, phá vỡ sự bình yên ngàn đời dưới luỹ tre xanh, đặt con người đứng trước sự tự ý thức trong một xã hội phức tạp và rộng lớn, phải vật lộn trong những tính toán mưu sinh trong các quan hệ ít nhiều mang dấu ấn của kinh tế thị trường tư bản, lạnh lùng và “tiền trao cháo múc”. Về mặt xã hội - văn hoá, công cuộc khai thác thuộc địa tự nó đòi hỏi phải có một hệ thống hạ tầng cơ sở, một không gian văn hóa chính quốc thu nhỏ, không chỉ nhằm phục vụ sinh hoạt mà còn có ý nghĩa quảng bá với cường độ cao, tiến tới đồng hóa văn hóa bản địa thông qua việc tuyên truyền cho những giá trị văn hóa - văn minh phương Tây mà văn hóa - văn minh Pháp là đại diện. Hệ quả của quá trình “khai hoá văn minh” mà người Pháp thực hiện tại xứ An Nam là sự phân hóa trong hoạt động tinh thần của xã hội. Biểu hiện cụ thể nhất là qua tình trạng cùng tồn tại của lớp nhà Nho, trí thức khoa bảng do nhà nước phong kiến Việt Nam đào tạo và những trí thức “Tây học” được đào tạo ở các nhà trường thuộc địa hoặc được đào tạo tại nước Pháp. Tình hình này đã đưa tới một hệ quả là sự du nhập những tri thức mới vào sinh hoạt tinh thần của người Việt trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đây cũng là thời kỳ mà lần đầu tiên các người con yêu nước của dân tộc được tiếp xúc với những tư tưởng tiến bộ của nhân loại lúc bấy giờ. Họ học hỏi, họ suy nghĩ và ý chí chấn hưng dân tộc, tư tưởng dân chủ và cách mạng được cái chí sĩ yêu nước bàn thảo và truyền bá công khai, trở thành mục tiêu của một số 12 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(13)</span> phong trào yêu nước tiến bộ như Đông du, Đông kinh nghĩa thục,... cho thấy sự “lột xác” trong nhận thức của thế hệ người Việt Nam đầu tiên tiếp xúc với khoa học - văn minh phương Tây và cũng cho thấy tính chất quyết định trong tiến trình lịch sử dân tộc ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cũng trong thời kỳ này, chủ nghĩa Mác - Lê nin, tinh hoa rực rỡ nhất của nhân loại đã được tiếp thu, kết hợp với phong trào yêu nước và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân còn non trẻ đã trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Cộng sản Việt Nam - lực lượng tiên phong lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chúng tôi trình bày vài nét về bối cảnh xã hội – văn hoá Việt Nam đầu thế kỷ XX để làm cơ sở cho việc nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, bởi đó là những điều kiện khách quan đã tác động mạnh mẽ, và là đối tượng phản ánh trong tác phẩm của ông, cũng như góp phần hình thành tư tưởng và thế giới nghệ thuật của ông. 1.1.2. Quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và những ảnh hưởng trực tiếp đến nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc. Sự ra đời và diễn biến của nền kinh tế - xã hội – văn hoá kiểu mới trên đây đã tác động sâu sắc đã tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực vật chất - tinh thần của xã hội, và tất nhiên đối với văn học, nó cũng đặt ra các yêu cầu khách quan cho tiến trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam. Đồng thời, tự thân đời sống văn học cũng đứng trước yêu cầu phải đổi mới theo xu hướng hiện đại, bởi sự tham góp của các thành tố quan trọng về kinh tế - xã hội - văn hóa đã có vai trò như “bà đỡ” cho tiến trình hiện đại hoá văn học. Và trên thực tế, nhiều biến động văn hóa - xã hội đã diễn ra và cũng là điều kiện để văn học phát triển. Trước hết là sự thay thế dần chữ Hán, chữ Nôm bằng chữ quốc ngữ. Thời kỳ này, chữ quốc ngữ thật sự đã trở thành một chiếc cầu nối giữa văn 13 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(14)</span> hóa Việt với văn hóa phương Tây. Có thể xem chữ việc sử dụng chữ quốc ngữ là thành tựu quan trọng của việc dân chủ hoá nền văn học. Sự phát triển của chữ quốc ngữ gắn liền với sự thay đổi tư duy của xã hội mới, kéo theo những kiểu công cụ chuyển tải mới như báo chí, và cả cách thức truyền bá mới như in ấn với số lượng lớn và hàng loạt, cập nhật và phổ cập trong mọi thành phần xã hội của hệ thống thông tin đại chúng - những phương tiện ngay đến thời cận đại ở Việt Nam vẫn còn kém cỏi. Ngoài việc thông báo tin tức, luận bàn các vấn đề xã hội, giới thiệu những thành tựu văn hoá - văn minh phương Tây..., một hệ quả của sự phát triển hệ thống thông tin đại chúng là đưa tới việc xuất hiện và đăng tải các tác phẩm văn chương “viết theo lối mới”, khác hẳn với hình thức - nội dung những tác phẩm văn chương vẫn được sáng tác và phổ biến theo “lối truyền thống”. Sự lên ngôi của chữ quốc ngữ thay thế cho chữ Hán, chữ Nôm cùng với sự phát triển của các phương tiện truyền thông, và quan trọng nhất là sự thay đổi về tư tưởng của các tầng lớp trong xã hội, nhất là nhân sĩ trí thức, đã dẫn đến sự phát triển có tính bước ngoặt của nền văn học nước nhà. Một nền văn học hiện đại vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của sự thay đổi lực lượng tác giả và công chúng của nó. Nếu như trong cả ngàn năm trước, văn học trung đại là sự biểu hiện thành văn của chính trị - đạo đức, là sản phẩm của các bậc nho sĩ, vua quan, mà mục đích chủ yếu họ khi cầm bút là để bày tỏ chí hướng, bộc lộ khí phách người quân tử, văn chương là “thi dĩ ngôn chí”, là “văn dĩ tải đạo”, thì vào đầu thế kỷ XX văn chương hiện đại đã làm thay đổi vị trí và tâm thế người cầm bút. Và quan trọng hơn cả là các quan niệm về đặc trưng và chức năng của văn học cũng thay đổi. Khi mà những quan niệm về mỹ học phương Đông về sự ước lệ, tượng trưng, quy phạm… đã hầu như không còn phù hợp nữa. Đặc biệt là một quan niệm mới về đời sống tinh thần cho thấy văn chương không chỉ là chính trị, là luân lý, mà nó còn mang tải những đặc trưng nghệ thuật riêng khác để phản ánh xã 14 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(15)</span> hội, để bộc lộ cảm xúc, thái độ cá nhân của người cầm bút. Đó là cơ sở để hình thành một thế hệ nhà văn mới, có tư tưởng mới mà lõi cốt là tư tưởng dân chủ và ý thức cá nhân; có phương pháp sáng tác mới mà cơ bản là các phương pháp sáng tác từ phương Tây du nhập vào. Họ có thể là bất cứ ai, thuộc bất cứ tầng lớp nào trong xã hội: nhà nho, trí thức Tây học, viên chức nhà nước, nhà báo, thầy giáo trường huyện, học sinh, sinh viên…và nhiều người trong số họ dần dần trở thành nhà văn chuyên nghiệp, khai sinh một loại hình nghề nghiệp mới cho xã hội. Gắn với người viết văn, công chúng người đọc cũng thay đổi. Với sự phổ biến của chữ quốc ngữ, và sự phát triển của các phương tiện truyền thông, người đọc trong xã hội hiện đại không còn ở trong tình trạng có sự phân biệt (dù tương đối) như trong xã hội trung đại - chỉ có người đọc dân gian và người đọc bác học, tức tầng lớp trí thức phong kiến. Người đọc trở nên đông đảo và phong phú, với đủ các tầng lớp xã hội. Họ có thể là tầng lớp tiểu tư sản và tư sản mới, là những trí thức Tây học, viên chức nhà nước, sinh viên, cũng có thể là những học trò trường huyện, hay các bà, các cô nội trợ...Sự tiếp nhận tác phẩm văn chương hiện đại của họ đã diễn ra dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn nhờ những vốn liếng tri thức họ tiếp nhận từ cuộc tiếp biến văn hoá Đông - Tây, giúp cho họ trở thành những thế hệ độc giả đầu tiên của văn học hiện đại Việt Nam. Và một tiến trình hiện đại hoá văn học đã diễn ra, với những giá trị nội dung và nghệ thuật mới, chưa từng xuất hiện trong lịch sử văn học nước nhà. Văn học Việt Nam vượt qua lối xướng hoạ ngâm vịnh truyền thống, bước đầu thoát ra khỏi những chế định văn học thời Trung đại để đặt chân vào một lãnh địa hoàn toàn mới, đặt văn chương vào cõi đời thế tục, đi tìm sinh khí cho văn chương từ cuộc sống, qua tác phẩm chuyển tải ý chí và suy tư về thời cuộc. Các tác giả Nguyễn Trọng Quản, Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn, Lê Hoằng Mưu, Đặng Trần Phất, Tản Đà …được xem là dấu nối giữa văn học cận đại và 15 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(16)</span> văn học hiện đại ở Việt Nam, trong đó Tản Đà đã tiến một bước khá dài trên hành trình đi tìm một diện mạo mới của văn học. Cùng với ông, Hoàng Ngọc Phách với Tố Tâm - cuốn tiểu thuyết được coi như là sự khởi đầu của nền tiểu thuyết, vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long mở đầu cho nền kịch nói Việt Nam…, là những người đã đặt những viên gạch móng thành công cho sự ra đời của nền văn học Việt Nam hiện đại. Thời kỳ này đã diễn ra các “cuộc cách mạng” về thể loại. Trong khi các thể loại truyền thống của văn học dân tộc như các thể thơ dân gian (ca, vè, hát dặm), các thể thơ cảm hoài, ngôn chí, thể văn tế cổ điển… vẫn tiếp tục được sử dụng, thì lại có sự xuất hiện ồ ạt rồi dần dần hoàn chỉnh và đạt đến đỉnh cao của các thể loại văn học du nhập từ phương Tây. Về văn xuôi, xuất hiện tiểu thuyết, phóng sự, ký sự, tuỳ bút, truyện ngắn,… Về thơ, có thơ trữ tình, thơ trào phúng. Về kịch, lần đầu tiên thể loại kịch nói từ phương Tây đã du nhập vào Việt Nam, và trên cơ sở sự tiếp nhận những yếu tố tương hợp của kịch hát truyền thống (đặc biệt là phong cách hài hước của chèo cổ), nó nhanh chóng được công chúng tiếp nhận; sau đó là kịch thơ. Những thể loại mới không chỉ đóng vai trò cấu tạo nên diện mạo văn học hiện đại mà còn là nền tảng quan trọng cho sự phát triển thể loại của văn học Việt Nam các thời kỳ sau. Sau giai đoạn văn học giao thời, văn học Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mạnh mẽ trên tất cả các phương diện của tiến trình hiện đại hoá. Theo các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, đây là thời kỳ hoàn thiện diện mạo hiện đại trên tất cả mọi phương diện của đời sống văn chương - học thuật Việt Nam. Trên phương diện tư tưởng - nghệ thuật, là sự phát triển rực rỡ của ba dòng văn học hiện thực, lãng mạn và cách mạng. Trên phương diện thể loại, phải nói rằng đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, kết tinh những đỉnh cao về tác gia, tác phẩm trên tất cả các thể loại văn học: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, nghiên cứu lý luận phê bình, dịch thuật…Về phương diện đội ngũ, một đội ngũ đông đảo chưa từng có, với tên tuổi của Nhất Linh, Thạch 16 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Lam, Khái Hưng, Thế Lữ, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nam Cao, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Bính,Chế Lan Viên…cùng những Hai đứa trẻ,Chí Phèo, Bỉ vỏ,Dế mèn phiêu lưu ký, Bước đường cùng, Số đỏ, Lửa thiêng, Thơ thơ, Điêu tàn,Vang bóng một thời, Chân quê,… đã in đậm dấu ấn, trở thành những “cột mốc” trong văn học Việt Nam suốt một thời đại. Thành công của cách mạng tháng Tám 1945, và sau đó là cuộc chiến đấu gian khổ trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp đã tác động rất lớn tới tâm thế xã hội - công dân của trí thức, nghệ sĩ Việt Nam nói chung và nhà văn Việt Nam nói riêng. Xu thế của lịch sử, ý thức về lòng tự hào, tự trọng dân tộc, cùng sự giác ngộ về lý tưởng đã thôi thúc đa số nhà văn nhà thơ thành danh từ trước cách mạng đứng vào đội ngũ của nhân dân, dùng ngòi bút như một công cụ phụng sự nhân dân. Một nền văn học cách mạng và kháng chiến đã ra đời theo bước chân của những văn nghệ sĩ - chiến sĩ trên các nẻo đường trường kỳ kháng chiến. Thực tế cho thấy, sự lựa chọn của các nhà thơ đã làm nên Thơ mới (như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên…), hoặc các nhà văn từng là “chủ soái” của văn chương hiện thực phê phán (như Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao…) đã trực tiếp góp phần quan trọng để tạo dựng nền văn học Việt Nam kiểu mới còn non trẻ. Đứng vào hàng ngũ cách mạng, họ trực tiếp tham gia để làm nên một cao trào sáng tác văn học hướng về chủ nghĩa yêu nước, về tinh thần dân tộc, về sự hy sinh của mọi người cho sự nghiệp lớn… Khi nhà văn xác định phải gắn bó sự nghiệp sáng tác với sự nghiệp dân tộc thì không có cách nào khác, họ phải tham gia vào với sự nghiệp đó thông qua hoạt động nghề nghiệp. Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc cũng là một nhà văn - chiến sĩ, một người cầm bút xuất phát từ lập trường yêu nước để đến với lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản. Gia nhập làng văn nghệ từ những năm hai mươi, khi còn là một sinh viên trường Cao đẳng Công chính, ông là người đã có mặt 17 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(18)</span> ngay từ giai đoạn nền văn học dân tộc chuyển mình hoà nhập cùng thời đại, và gắn bó với nó theo cách riêng của mình cho đến hơi thở cuối cùng. Ông còn là một trong những người xây dựng nền kịch nói Việt Nam, góp phần vào tiến trình hiện đại hoá văn học nước nhà. Có thể nói, ngòi bút văn chương Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc vừa là kết quả của tiến trình hiện đại hoá văn học, vừa là một trong những nhân tố tích cực góp phần kiến tạo nên tiến trình này. Qua việc tìm hiểu đời sống kinh tế - xã hội - văn hoá Việt Nam và tiến trình hiện đại hoá văn học nửa đầu thế kỷ XX, chúng tôi muốn khai thác những tác động, ảnh hưởng của chúng đến quá trình vận động về tư tưởng và sáng tác văn học của nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc. Một điều đáng chú ý là: ông xuất hiện khá sớm, có tác phẩm nổi tiếng ngay từ giai đoạn văn học giao thời. Tuy nhiên, trong thời kỳ rực rỡ nhất của quá trình hiện đại hoá văn học, cũng như sau khi Cách mạng tháng Tám thành công thì ông lại đồng hành cùng những bước đi của dân tộc trong tâm thế của một chiến sĩ cách mạng hơn là một nhà văn. Những thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của ông sẽ góp phần lý giải điều này. 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của tác giả Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc 1.2.1.Vài nét về tiểu sử tác giả Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc Cho đến nay, thông tin về Nam Xương trên các tài liệu chúng tôi khảo cứu được rất hạn chế. Ngoài các tư liệu đã dẫn ở phần mở đầu, chúng tôi tìm trên trang web tìm kiếm Google, chỉ có 4 trang web giới thiệu về Nam Xương, đó là các trang web: dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn của Bách khoa toàn thư Việt Nam; nghethuatsankhau.com.vn của Trung tâm bảo tồn và phát triển nghệ thuật sân khấu Việt Nam (sử dụng lại thông tin của Bách khoa toàn thư Việt Nam, không có bổ sung gì thêm); một trang web của người Việt ở nước ngoài, là vietnamlit.org, và trên một diễn đàn của trang web Olympia Việt Nam ở địa chỉ .olympiavn.org/forum. Những nội dung được giới thiệu 18 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(19)</span> cũng rất sơ sài, về thân thế, sự nghiệp và 2 tác phẩm nổi tiếng của ông là Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc, bài giới thiệu dài nhất không quá 300 chữ. Chúng tôi dẫn ra như vậy để minh chứng rằng, thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn được rất ít người biết tới và có đôi chỗ không thống nhất. Theo khảo cứu của chúng tôi, tiểu sử Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc có thể tóm tắt như sau: Nam Xương tên thật là Nguyễn Cát Ngạc, sinh năm 1905 tại quê hương ông ở xã Phù Khê, huyện Từ Sơn - Bắc Ninh. Trong gia tộc, ông là anh em ruột với ông thân sinh nhà sử học Nguyễn Lương Bích, và là chú họ đồng chí Nguyễn Văn Cừ - một trong những Tổng bí thư đầu tiên của Đảng ta. Học hết tiểu học ở quê nhà, Nguyễn Cát Ngạc ra Hà Nội học tiếp trung học tại Trường Bưởi. Ở Hà Nội trong thời kỳ các tư tưởng và phong trào yêu nước nở rộ, chàng thanh niên Nguyễn Cát Ngạc nhanh chóng tiếp thu và hăng hái tham gia các hoạt động để bộc lộ lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc của mình. Năm 1926, tại lễ tang Phan Chu Trinh, Nguyễn Cát Ngạc tham gia rất tích cực, vì vậy ông bị thực dân Pháp bắt giam một thời gian. Ra tù, ông tiếp tục đi học và học xong Cao đẳng với bằng Tham tá công chính.Vừa làm nghề công chính, vừa sáng tác, vừa tham gia các phong trào yêu nước, ông là một trong những thành viên đầu tiên của nhóm Nam Đồng Thư xã - tổ chức tiền thân của Việt Nam Quốc dân đảng, cùng với Trần Huy Liệu, Nguyễn Thái Học… Sau khi Quốc dân đảng thất bại trong khởi nghĩa Yên Bái tháng 2 năm 1930, nhận thấy con đường của Quốc dân đảng là không có tương lai, Nguyễn Cát Ngạc tìm đến với Việt Minh và tham gia hoạt động cách mạng. Vì vậy khi phát xít Nhật vào Đông Dương, chúng đã bắt giam và tuyên án tử hình ông. Nhưng ngay khi đó, Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cứu thoát và về hoạt động tại Nam Định. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (1946) ông lên chiến khu. Năm 1948 ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng năm này, thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao, dưới danh nghĩa ''trí 19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(20)</span> thức dinh tê'', Nguyễn Cát Ngạc trở về Hà Nội, vừa hoạt động công khai bằng nghề công chính, vừa hoạt động tình báo. Đầu năm 1954, Nguyễn Cát Ngạc bị lộ, thực dân Pháp bắt và giam ông tại nhà giam Thanh Liệt và sau đó là nhà giam Hỏa Lò. Khi Hiệp định đình chiến được ký kết năm 1954, ông được quân đội đón về Hà Nam, vài tháng sau, dưới danh nghĩa ''trí thức di cư'', ông vào miền Nam tiếp tục hoạt động và mất ngày 15 tháng 1 năm 1958. Về cái chết của Nguyễn Cát Ngạc, theo nguồn tin chính thức thì ông bị ốm rồi qua đời, nhưng dư luận Sài Gòn những năm đó lại cho rằng ông bị kẻ thù đầu độc. Bức thư vĩnh biệt ông viết cho người con trai là Nguyễn Mạnh Đàm chính vào ngày ông mất, cho thấy dư luận có cơ sở, vì dường như ông đã biết trước được sự ra đi của mình: "Đàm con! Tiếc là lúc vĩnh biệt Ba không gặp con. Ba hy vọng lá thư này con đọc được. Ba không thể tiếp tục cùng con chung việc lớn. Vậy con ở lại cố làm nốt những việc Ba thường nhắn nhủ. Kín đáo và thận trọng, càng lên cao càng tốt. Trí lớn nuôi 20 năm nhưng chỉ cần làm trong một buổi. Đừng hoang toàng mà hỏng việc, đừng bất nhân mà hỏng nghĩa, đừng thất ý thượng cấp mà hỏng cơ đồ. Chúc con khoẻ, nghe lời Ba nuôi dạy các cháu nên người hữu dụng của đất nước. 23 giờ đêm ngày 15.1.1958, Ba - Nguyễn Cát Ngạc". Năm 1976, khi nước nhà thống nhất, tổ chức mới có thể gửi Giấy báo tử của ông tới gia đình, Giấy báo tử ghi rõ mức lương của ông tương đương với cấp bậc đại uý của quân đội. Trong bản xác nhận của đơn vị do đồng chí Nguyễn Mạnh Khoát - Trung tá thuộc Cục nghiên cứu thuộc Bộ Tổng Tham mưu (nay là Đại tá Nguyễn Mạnh Khoát, đã nghỉ hưu tại Thành phố Hồ Chí Minh) viết, Nguyễn Cát Ngạc là: “Cơ sở nội thành từ 1954 đến 1958, hòa bình lập lại do yêu cầu công tác chúng tôi phái ông vào Nam tiếp tục công tác đến 1958 thì ốm và mất” và ông: “ là người tích cực công tác và hoàn thành nhiệm vụ tốt”. 20 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Ông được Nhà nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Bằng Tổ quốc ghi công của ông mang số 546 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 7.12.1976. Lễ truy điệu Nguyễn Cát Ngạc được Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, bên cạnh có mặt của đại diện đơn vị và gia quyến, còn có các văn nghệ sĩ cùng thời với ông như Văn Cao, Nguyễn Xuân Sanh… Phần mộ ông hiện ở Nghĩa trang Liệt sĩ TP Hồ Chí Minh. 1.2.2. Quá trình sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc Theo những nghiên cứu (có thể còn chưa đầy đủ) của chúng tôi, quá trình sáng tác của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc có thể chia ra thành 2 giai đoạn: trước và sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. 1.2.2.1 Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 Tắm mình trong không khí duy tân và xu hướng đổi mới, hiện đại hoá nền văn học nước nhà thời kỳ văn học giao thời, Nguyễn Cát Ngạc khi ấy là sinh viên trường Cao đẳng Công chính, đã có điều kiện tiếp xúc với những tinh hoa của văn học thế giới được truyền bá bởi hội đoàn, nhà xuất bản, tạp chí canh tân lúc bấy giờ, như hội Khai trí tiến đức, An Nam tạp chí, Nam Phong tạp chí,... Ra trường, vừa làm nghề công chính trong bộ máy hành chính của Nhà nước Pháp thuôc, vừa tham gia cách mạng, ông vừa viết báo và say mê nghiên cứu văn chương, đặc biệt là nghiên cứu về kịch phương Tây. Ở vào giai đoạn sân khấu kịch nói Việt Nam đã nỗ lực hiện đại hoá sân khấu truyền thống, đang tìm cách thoát khỏi sự phụ thuộc sâu sắc vào kịch bản dịch và hoạt động của sân khấu phương Tây, Nam Xương là một trong những tác giả đầu tiên viết kịch bản văn học Việt Nam, tiếp theo Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc, Tương Huyền... Ông đã viết các vở kịch Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc, là những vở kịch thành công đầu tiên của kịch nói hiện đại Việt Nam. Hai vở kịch Ông Tây An Nam (hài kịch 3 hồi - viết xong tháng 8 năm 1930, Nam ký xuất bản năm 1931) và Chàng Ngốc 21 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(22)</span> (hài kịch 5 hồi - 1930) của Nam Xương được báo chí bình luận và khen ngợi. Năm 1934, 1935, ban kịch Bắc kỳ (La cène Tonkinoise - ban kịch nổi tiếng ở Hà Nội, hoạt động trong 2 năm 1934-1934; không phải là tên một vở kịch của Nam Xương như vietnamlit.org nêu) của Tạ Quang Cát dựng, gây được tiếng vang lớn trên sân khấu kịch lúc bấy giờ, nhất là trong số đông khán giả có tinh thần dân tộc sâu sắc. Có thể nói, sáng tác kịch là say mê của ông. Theo ông Nguyễn Hải Thoại, con trai của Nam Xương kể lại thì: “Có hai điều cuốn hút cha tôi từ khi còn học ở trường Bưởi, đó là say mê kịch nói và nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Có một câu nói của Henri Bergson mà ba tôi rất thích, ông ghi lên ô kính của cái tủ sách đầy ắp những Racine, Corneille, Molière…, câu ấy là: “Một dân tộc càng trí tuệ, càng biết yêu sân khấu” (Plus un peuple est spirituel, plus il aime le théâtre). Ba nói với tôi, lúc tôi độ 14 - 15 tuổi: - Ba rất mong về hưu, sống trong thanh thản và viết kịch. - Ba ơi, lúc ấy con sẽ chép lại kịch cho ba (tôi nói với ba như vậy)”. Tiếp theo 2 vở kịch nổi tiếng này, Nam Xương còn viết một số vở hài kịch khác nhưng chưa dựng, như Thuốc tê Ô Cấp, Tội ăn cắp, Nói khoác, Đại gia văn sĩ... Sau đó, có lẽ việc tham gia hoạt động ở Việt Nam Quốc dân đảng, và sau này tham gia Việt Minh, cùng nhiều lần bị bắt bớ, tù đày, nên hoạt động văn chương của ông bị gián đoạn. 1.2.2.2. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 Sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ (1946), ông đưa gia đình lên chiến khu. Nhưng rồi thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc cùng gia đình trở về Hà Nội. Ông đưa vợ con về Nam Định sinh sống, còn mình thì ở Hà Nội, dưới danh nghĩa “trí thức dinh tê”, vừa hoạt động công khai bằng nghề công chính, vừa hoạt động tình báo. Trong thời kỳ này, ông có điều kiện hợp pháp để tiếp nối công việc viết văn, vì thế đã cho xuất bản nhiều truyện ngắn và truyện dã sử. Với Nhà xuất bản Quê Hương 22 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(23)</span> do ông trực tiếp làm giám đốc, ông đã cho xuất bản 2 tiểu thuyết lịch sử Bách Việt, Hùng Vương (bản còn lại không ghi rõ thời gian xuất bản) và tập truyện ngắn Bụi phồn hoa xuất bản tháng 7 năm 1950, gồm 7 truyện ngắn. Đầu năm 1954, Nguyễn Cát Ngạc bị lộ, thực dân Pháp bắt và giam ông. Khi Hiệp định đình chiến được ký kết năm 1954, ông được quân đội đón về Hà Nam, vài tháng sau, dưới danh nghĩa “trí thức di cư”, ông vào miền Nam tiếp tục hoạt động. Trong khoảng 4 năm cho đến khi ông mất (1958), ông vừa hoạt động công khai vừa viết văn, làm báo, viết sử (bộ sách Sử ký Việt Nam, bút danh Nguyễn Trúc Thanh, gồm ba quyển, trình bày lịch sử dân tộc từ thời cổ đại đến năm 1765, in tại NXB Liên hiệp ở Sài Gòn vào năm 1956). Theo di cảo, thời gian này ông sống ở nhiều nơi, cộng tác với khá nhiều báo chí, hưởng ứng các phong trào ái hữu, như Hội truyền bá quốc ngữ. Nhưng phần tác phẩm còn lưu trữ được lại không nhiều. Đáng chú ý là hầu hết di cảo đều ghi thời gian sáng tác là năm 1955, kèm theo các địa danh Bạc Liêu, Phú Quốc, Cần Thơ. Theo những gì còn lại, cho thấy khoảng thời gian này ông viết rất khoẻ, rất nhiều, không chỉ truyện ngắn mà còn sáng tác kịch, viết sách giáo khoa lịch sử. Với sức viết ấy và tâm huyết của ông với văn chương, chúng tôi nghi ngờ rằng, những gì còn lại chưa hẳn đã là tất cả sáng tác của ông, mà có lẽ vì hoàn cảnh phức tạp và việc hoạt động bí mật trong lòng địch, nên các sáng tác của ông trong khoảng hai mươi năm kể từ khi Ông Tây An Nam ra đời năm 1931, đã không được lưu giữ đầy đủ. Một minh chứng cho sự nghi ngờ của chúng tôi là: Ở cuốn Bụi phồn hoa do NXB Quê hương xuất bản tại Hà Nội năm 1950 có trang giới thiệu sách “cùng một tác giả” (Nguyễn Cát Ngạc), ghi: “ Đã xuất bản: Bách Việt chuyện dài lịch sử, 14$00; Bụi phồn hoa - Tập chuyện ngắn, 6$00. Sắp xuất bản: Hùng Vương - Chuyện dài lịch sử; Tây Thi – Bi kịch năm hồi; Hai người đàn bà - Tập chuyện ngắn. Phát hành tại Nhà xuất bản Quê hương, 38C phố Trưng Vương (Rollandes) – Hà Nội”. Chúng tôi đã sưu tầm được bản in hoặc 23 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(24)</span> bản thảo của các tác phẩm Bách Việt, Bụi phồn hoa, Hùng Vương,Tây Thi, nhưng bản thảo tập Hai người đàn bà thì chưa tìm được. Trong số di cảo của ông mà chúng tôi đang nghiên cứu cũng không có truyện ngắn nào tên là Hai người đàn bà. Vì vậy, chúng tôi cho rằng tập bản thảo hoặc truyện ngắn này đã bị thất lạc. 1.2.3. Các tác phẩm đã xuất bản và di cảo Tác phẩm của Nguyễn Cát Ngạc để lại khá phong phú về thể loại như kịch bản sân khấu, truyện ngắn, truyện dã sử, tiểu luận văn hóa, đoạn văn ngắn. Điểm lại chưa đầy đủ, Nguyễn Cát Ngạc có những tác phẩm sau: 1.2.3.1. Về kịch bản văn học: Hai tác phẩm được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội, là: Chàng Ngốc (hài kịch năm hồi, NXB Nam Định - Trường Phát in năm 1930) mã số P. 12381 (17) Nam Xương; Ông Tây An Nam (hài kịch ba hồi, NXB Hà Nội Nam Kỳ in năm 1931) mã số M.6368 (19) Nam Xương. Trong di cảo ông còn các kịch bản: - Tây Thi (bi kịch năm hồi tám cảnh), - Văn Chủng (bi kịch năm hồi), - Tội ăn cắp (kịch vui), - Thuốc tê Ô Cấp (kịch vui). Theo gia đình cho biết, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn có hai kịch bản Nói khoác (hài kịch một hồi) và Đại gia văn sĩ (hài kịch năm hồi) hiện chưa tìm thấy. 1.2.3.2. Về truyện ngắn: Về truyện ngắn đã xuất bản, Nguyễn Cát Ngạc có tập Bụi phồn hoa do NXB Quê hương xuất bản tại Hà Nội năm 1950, gồm 7 truyện ngắn: Bụi phồn hoa, Một nhà cách mạng, Chữ Quý, Một nạn nhân, Vàng, Ngôi đất công khanh, Tái hợp. 24 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(25)</span> Trong di cảo còn có 19 truyện ngắn ở dạng bản thảo, chưa xác định được là đã công bố hay chưa (nói như vậy bởi trong một số bản thảo, ông còn để lại bút tích trên đầu trang: “để đăng Sài Gòn Mới”, “Truyện dự thi tại Hội Truyền bá quốc ngũ Cần Thơ”), được ký với các bút danh Nguyễn Tác Cang, Nguyễn Trúc Thanh, Nguyễn Cát Ngạc, bao gồm: Hội đồng vĩ nhân, Khách quan, Vô sỉ, Tình chia đôi ngả, Vẽ mặt văn khôi, Vô liêm sỉ, Có chí thì nên, Giao Lương Sơn, Một tấm lòng vàng, Nước Trivitri, Truyện giải trí, Đánh ghen trong mồ, Tình trong biên giới, Kiếp bình bồng, Hai lần ly biệt, Tình quê, Yêu nghệ thuật, Hai nhân vật tỉnh Bắc Giang, Lưu Bình - Dương Lễ. Cũng về thể loại truyện ngắn, nhưng viết về đề tài lịch sử, ông ghi là “truyện dã sử", trong di cảo của ông còn có các tác phẩm: Hoàng Trừu, Huyền Trân công chúa, Nguyễn Thị Lộ, Trên chòi Khâm Thiên, Tráng sĩ Phù Đổng. Ngoài 19 truyện trên được ông ghi là “truyện ngắn”, Nguyễn Cát Ngạc còn viết một số tiểu phẩm ngắn cho một chuyên mục riêng được ông đặt tên là Kiến văn chí dị, gồm các bài: Giống Waltrabar, Nước tự do, Ma Hàng Giầy, Cái chết của ông lang Doanh, Ma Hàng Cỏ, Cây đèn Khổng Minh. Những tiểu phẩm này cũng được ông viết theo kết cấu của truyện ngắn. 1.2.3.3. Về tiểu thuyết: Nguyễn Cát Ngạc đã cho in hai cuốn tiểu thuyết viết theo lối chương hồi là Bách Việt và Hùng Vương tại NXB Quê hương (Hà Nội năm 1950). Hiện nay chưa tìm thấy bản in của cuốn Hùng Vương, chỉ còn lại bản thảo. 1.2.3.4. Về sử ký: Ông có bộ sách Sử ký Việt Nam (bút danh Nguyễn Trúc Thanh) gồm ba quyển, trình bày lịch sử dân tộc từ thời cổ đại đến năm 1765, bộ sách này được “soạn theo chương trình Ban Trung học của Bộ Quốc gia Giáo dục” (chính quyền miền Nam cũ) đã được in tại NXB Liên hiệp ở Sài Gòn vào năm 1956. 25 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đặt trong bối cảnh xã hội – văn hoá và tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, chúng ta thấy được mối liên hệ biện chứng giữa hoàn cảnh xã hội và cá nhân nhà văn. Về phương diện xã hội, một hoàn cảnh xã hội đặc biệt, với sự ra đời và diễn biến của nền kinh tế - xã hội – văn hoá kiểu mới đã tác động sâu sắc đã tác động sâu sắc tới mọi lĩnh vực vật chất - tinh thần của xã hội, cùng sự ra đời của các tổ chức cách mạng, các phong trào yêu nước mà đỉnh cao là Đảng Cộng sản Đông Dương, là những yếu tố khách quan hình thành nên tư tưởng và nhân cách của nhà văn - chiến sĩ Nguyễn Cát Ngạc. Ở ông, tư cách nhà văn và tư cách người chiến sĩ cách mạng hoà làm một. Đó là lý do để ngòi bút văn chương của ông luôn thấm đẫm tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc. Về phương diện văn học, có thể nói, với những tác phẩm văn học của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (đặc biệt là về kịch nói) vừa là kết quả của tiến trình hiện đại hoá văn học, vừa là một trong những nhân tố tích cực góp phần kiến tạo nên tiến trình này. Tìm hiểu, nghiên cứu sự nghiệp văn học của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chúng tôi mong muốn được làm sáng rõ hơn những giá trị của các tác phẩm mà ông đã viết trên đường cách mạng bằng tất cả đam mê và tâm huyết của mình, để thấy được những cống hiến của ông đối với sự nghiệp cách mạng và nền văn học Việt Nam mà lâu nay vẫn khuất lấp sau lớp lớp thời gian.. 26 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(27)</span> Chƣơng II MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ KỊCH BẢN VĂN HỌC CỦA NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC 2.1. Tóm tắt các kịch bản của Nam Xƣơng Như đã trình bày ở chương I, đến nay qua khảo sát của chúng tôi, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc còn để lại hai tác phẩm được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội là: Chàng Ngốc (hài kịch năm hồi), Ông Tây An Nam (hài kịch ba hồi). Trong di cảo ông còn các kịch bản: Tây Thi (bi kịch năm hồi tám cảnh), Văn Chủng (bi kịch năm hồi), Tội ăn cắp (kịch vui), Thuốc tê Ô Cấp (kịch vui). Chúng tôi xin lần lượt tóm tắt lại các vở kịch trên để tiện cho việc nghiên cứu. Chàng Ngốc (viết năm 1930) là câu chuyện xảy ra trong một gia đình làm nghề buôn bán nhỏ. Chuyện xoay quanh sự kiện Sỉn ông - người bố một người keo kiệt, bủn xỉn, và tham của, thấy Ngốc sinh là một thanh niên có của nên ưng thuận gả con gái như ông nói với Sỉn bà “gả cho cậu ấm Ngốc lấy mấy nghìn chơi”. Nhưng cô Cỏn, một cô gái tân thời, có nhan sắc và học thức, không chấp nhận sự gả bán này. Cô đã có người yêu là Tình sinh, một sinh viên cao đẳng. Vì thế, cô quyết liệt bảo vệ tình yêu của mình. Để làm mối cho cô Cỏn với Ngốc sinh, Sỉn ông nhờ cậy Tư Sùng, một bà mối khôn khéo và rất thực dụng. Tư Sùng xui Ngốc sinh nói dối để gia đình Sỉn ông tin cậu là người học hành tử tế, lại là con nhà tri huyện rất giàu có. Nhưng sự dối trá về việc học hành và gia thế của Ngốc sinh đã bị cô Cỏn bóc mẽ. Mặc dù vậy, Sỉn vẫn nhất định gả con gái cho Ngốc. Tình sinh và cô Cỏn lập mưu để hoãn cưới bằng cách cô Cỏn giả câm còn Tình sinh nhờ Tư Sùng thuyết phục Sỉn ông gả con gái cho mình. Tư Sùng thấy việc mai mối cho Ngốc sinh đã khó khăn hơn, nên quay sang nhận lời Tình sinh, nhưng đòi 27 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Tình sinh đưa tiền trước. Tình sinh bí quá, vay bạn bè không được, tình cờ gặp Ngốc sinh, thấy Ngốc sinh tỏ ra thân thiết, liền kể hết mưu của mình rồi vay tiền đưa cho Tư Sùng. Phát hiện được mưu của Tình sinh, Ngốc sinh vội vàng mang tiền đến trước, giục Sỉn ông cho đón dâu ngay. Tình sinh định đưa cô Cỏn đi trốn, nhưng bị gia đình Sùng ông phát hiện. Hai ông bà chửi mắng cô Cỏn thậm tệ. Nhưng cuối cùng, chính Ngốc sinh ngộ ra, nhường lại cô Cỏn cho Tình sinh. Ông Tây An Nam (viết năm 1931) là câu chuyện xảy ra trong gia đình Cưu ông. Cưu ông là người ưa danh giá, cho con là Lân sang Pháp học, đỗ cử nhân. Nhưng cử Lân nhập làng Tây, quay lại khinh bỉ dân tộc mình. Cử Lân về nước, mẹ là Cưu bà ra đón, y không thèm nhận bà mẹ bản xứ quê mùa, liền vu cho bà là kẻ cắp, gọi cẩm cho vào bóp. Y thuê khách sạn ở vì ghê sợ sinh hoạt của người An Nam. Về thăm nhà, y chỉ nói tiếng Pháp, bắt gã hầu phiên dịch ra tiếng Việt. Y sỉ mắng, nhục mạ mọi người, kể cả cha mẹ mình. Y nói với cụ Huấn, một người họ hàng xa với Cưu bà rằng “Ma patrie est la France, je suis Francais” (Tổ quốc tôi là Đại Pháp, tôi là người Đại Pháp). Cha mẹ mời ăn cơm y không ăn, mời uống nước y cũng không uống, vì sợ mùi An Nam. Nhưng đến khi gặp Kim Ninh, con gái cụ Huấn, một cô gái tân thời rất đẹp, thì y đem lòng mê mẩn. Y tìm cách trò chuyện với Kim Ninh, nhưng Kim Ninh nhất định không chịu nói tiếng Pháp nên y buộc phải nói tiếng Việt. Y giãi bày với Kim Ninh là: “Em ạ, anh xưa nay rất là hiểu rõ cái văn minh Âu tây…vậy muốn cho người ta quý mình, trọng đãi mình, trước hết ta không làm người Việt Nam nữa ”. Y dọn về nhà ở, lấy lòng cha mẹ và cụ Huấn để qua đó vận động họ tác thành cho mình và Kim Ninh. Nhưng Kim Ninh đã có người yêu là Tham Tứ, lại khinh thường thói vong bản của cử Lân nên nhất mực từ chối. Trước mặt mọi người, Kim Ninh làm cho cử Lân phải bộc lộ sự vong bản của y. Bị bẽ mặt, cử Lân trở lại nguyên hình là kẻ “Tây 28 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(29)</span> hoá”, khinh thường dân tộc mình. Y hùng hổ quát đầy tớ: “Theo tao sang Pháp mà làm người Âu châu!”. Tây Thi (không rõ năm sáng tác) viết theo dã sử Trung Quốc. Chuyện lấy không gian ở cả nước Việt và nước Ngô. Để trả thù Ngô Phù Sai đã từng hành hạ mình, Việt vương Câu Tiễn nghe theo kế mỹ nhân của tướng quốc Văn Chủng, cho tìm con gái đẹp ở nước Việt cống nộp cho vua Ngô nhằm làm mê hoặc vua Ngô, để nước Việt thừa cơ mang quân sang báo thù. Phạm Lãi là tướng quốc giỏi của Việt vương Câu Tiễn được cử đi khắp nước tuyển người đẹp. Đến làng dệt lụa Trữ La, Phạm Lãi gặp Tây Thi. Anh hùng gặp mỹ nhân nên hai người đem lòng yêu nhau. Nhưng vì nghiệp lớn, Phạm Lãi đành mang Tây Thi cũng một người đẹp nữa là Trịnh Đán về cung. Sau một năm tập luyện hát múa, Tây Thi và Trịnh Đán được ra mắt Việt vương Câu Tiễn. Thấy Tây Thi quá đẹp, Câu Tiễn định giữ lại làm thiếp, nhưng Văn Chủng và Phạm Lãi can ngăn, nên đành từ bỏ ý định đó, sai Phạm Lãi đưa hai nàng đi cống Ngô. Nhờ sự ủng hộ của Trịnh Đán, Phạm Lãi và Tây Thi được gần gũi nhau suốt chặng đường dài sang Ngô. Khi được đưa vào làm phi tần của Phù Sai, Tây Thi làm cho Phù Sai mê mẩn, quên cả việc triều chính. Tướng quốc nước Ngô là Ngũ Viên thấy trước nguy cơ mất nước nên hết lòng can gián Phù Sai. Tây Thi thấy thế, sợ mưu không thành, vờ đòi đi tự tử. Phù Sai liền hạ lệnh cho Ngũ Viên phải chết. Thừa thế, Câu Tiễn đem quân sang đánh Ngô. Quân Việt đã vào trong thành mà Phù Sai vẫn ở đài Cô Tô, xem Tây Thi và cung nữ múa hát. Tây Thi bỏ trốn xuống thuyền, lúc đó Phù Sai mới nhận ra Tây Thi lừa dối mình, bèn đuổi theo chém Tây Thi. Phạm Lãi giao đấu và giết được Phù Sai, nhưng cũng bị Phù Sai chém trọng thương. Vở kịch kết thúc ở cảnh Tây Thi nói lời vĩnh biệt và Phạm Lãi cũng ngã gục xuống. Văn Chủng ( hay Tục Tây Thi, chưa rõ năm sáng tác ) như là phần tiếp theo của Tây Thi - Phạm Lãi. Bối cảnh của vở kịch là sau khi Việt vương Câu Tiễn đã lấy được nước Ngô, tưởng Phạm Lãi đã chết khi giao tranh với Phù 29 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Sai trên đài Cô Tô, nên Câu Tiễn cho gọi Văn Chủng từ nước Việt sang, giao cho Văn Chủng dùng kế sách bình định nước Ngô, và lập đàn tế Phạm Lãi cùng Tây Thi, Trịnh Đán. Văn Chủng đang cho người lập đàn tế thì Phạm Lãi xuất hiện. Phạm Lãi khuyên Văn Chủng nên sớm rút khỏi trướng Câu Tiễn, kẻo Câu Tiễn sẽ giết hại, vì theo Phạm Lãi, Câu Tiễn là người “chỉ có thể gần khi gian nan, không thể ở gần khi giầu thịnh”. Văn Chủng không tin lời Phạm Lãi, lại còn dùng kế giữ chân Phạm Lãi ở lại để phò giúp Câu Tiễn. Nhân lúc Việt hậu là vợ Việt vương Câu Tiễn nổi lòng ghen, tìm giết Tây Thi vì sợ Tây Thi sẽ làm cho Việt vương mê đắm, Phạm Lãi bèn dùng mưu giải thoát cho Tây Thi, rồi đem Tây Thi trốn đi xa. Đến Đào thôn, Phạm Lãi cùng Tây Thi dừng lại, Phạm Lãi cải tên là Đào Chu công, lập Đào gia trang để ẩn tránh. Văn Chủng cho võ tướng là Mạnh Phong đem ba nghìn quân tìm đến tận nơi, bao vây Đào gia trang. Được biết Văn Chủng đã được Câu Tiễn điều về trấn giữ ở kinh đô Việt, Phạm Lãi liền nói cho Mạnh Phong biết là Văn Chủng đang gặp nguy hiểm, khuyên Mạnh Phong bỏ quân lại, về ngay kinh đô Việt để bảo vệ Văn Chủng. Mạnh Phong về đến nơi thì Văn Chủng đã bị Câu Tiễn hạ lệnh tự xử, con là Văn Kính đã bị Câu Tiễn đem đi. Mạnh Phong đau đớn cho người đi báo tin và giải vây cho Phạm Lãi, còn mình tìm đường đi cứu con Văn Chủng. Thuốc tê Ô Cấp là vở kịch vui ngắn, bối cảnh là Phòng kiểm duyệt của Hội Khai trí ở Hà Nội.Văn sĩ Hồng Hà đến lấy bản thảo một vở kịch xin kiểm duyệt, nhưng văn sĩ kiêm nhân viên kiểm duyệt Tua Rua chưa duyệt. Tua Rua lên tiếng chê bai vở kịch của Hồng Hà và khoe khoang vở kịch do mình viết. Hồng Hà bực lắm, phàn nàn với một văn sĩ là Sài Thành, cũng đến lấy lại bản thảo. Sài Thành lên tiếng phản ứng, liền bị Tua Rua giở thói độc đoán ra, từ chối không kiểm duyệt. Hai văn sĩ đang than thở với nhau thì Mai Hương, chủ một nhà xuất bản đến. Mai Hương nịnh Tua Rua văn hay, viết được tác phẩm 30 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(31)</span> xuất sắc, liền được Tua Rua cấp dấu kiểm duyệt ngay. Mai Hương chìa bản thảo cho hai văn sỹ kia xem và kết luận về Tua Rua: “Tự ái, Tiền, Tiên, ba giáo điều cùng một chữ T đứng đầu cả, tức là Têô-cuyp. Đối với hạng này chỉ có Tê-ô-cuyp là một linh đan tuyệt nghiệm để muốn bắt họ phê sách thì phê!” Nhưng người tuỳ phái của Tua Rua nghe lỏm được cuộc đối thoại này, lại nghe không ra mấy chữ Tê-ô-cuyp nên kêu ầm lên là mấy văn sĩ định đánh “Thuốc Tê Ô Cấp” để hại chủ mình, nên tự cho mình là “thuốc Giải tê Bà Rịa” để cứu chủ, rồi giằng bản thảo của Mai Hương chạy mất. Tội ăn cắp (kịch vui, viết năm 1955) viết về một chuyện xảy ra trong gia đình thầy Cầu.Thầy đang ngồi viết thì cô Tú Anh (vợ thầy) đuổi đánh vú Ba, hai người chạy vào phòng viết của thầy. Cô vừa đuổi vừa chửi làm vú Ba không kịp thanh minh. Và cô còn một mực đòi chồng đuổi vú Ba ra khỏi nhà. Ông chồng hạ lệnh đuổi ngay dù chưa rõ lý do, làm cho người vú em phải lủi thủi vào thu xếp quần áo để chuẩn bị ra đi. Lúc đó, cô chủ Tú Anh mới nói rõ với thầy Cầu là vú Ba mắc tội ăn cắp mật ong chuyên dùng để đắp mặt của cô. Người vú thanh minh lại là vì em bé đòi ăn mật ong nên vú lấy cho em ăn. Vừa lúc đó, có người mang đến cho cô chủ chai thuốc đắp mặt mới. Thầy Cầu không đuổi người vú em nữa. Trên đây là 6 kịch bản mà chúng tôi sưu tầm được. Theo gia đình Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc cho biết, ông còn có hai kịch bản: Nói khoác (hài kịch một hồi) và Đại gia văn sĩ (hài kịch năm hồi), nhưng hiện chưa tìm thấy). Với 6 kịch bản trên, ở phương diện loại hình xung đột, có thể chia làm 2 loại : hài kịch có 4 vở (Chàng Ngốc, Ông Tây An Nam, Thuốc tê Ô Cấp, Tội ăn cắp), bi kịch có 2 vở (Tây Thi và Văn Chủng).. 31 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(32)</span> 2.2. Một số đặc điểm về nội dung tƣ tƣởng của kịch Nam Xƣơng Nguyễn Cát Ngạc. 2.2.1. Sự trân trọng giữ gìn các giá trị truyền thống của dân, thái độ phê phán quyết liệt đối với một bộ phận trí thức Tây học dị hợm, vong bản. Trong các khuynh hướng phát triển của văn học đầu thế kỷ XX, nổi lên khuynh hướng phê phán hiện thực xã hội. Ở lĩnh vực văn xuôi, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, truyện ngắn của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn là những tác phẩm đầu tiên khơi dòng khuynh hướng này. Khi kịch nói phát triển, khuynh hướng phê phán xã hội cũng từng bước hình thành và phát triển song hành với các khuynh hướng khác. Các nhà viết kịch đã đưa lên sân khấu những tình cảnh lam lũ, lụt lội, đói kém, lưu vong nơi đất khách quê người của người nông dân, cùng những cảnh xa hoa, phè phỡn của đám quan lại, thượng lưu, sự lố bịch của tấng lớp tư sản, thị dân mới, sự ngu dốt, khôi hài của những dân biểu bù nhìn ...trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Những vở kịch mở đầu cho khuynh hướng này là: Một nhà bị lụt, (không rõ tác giả), Nghị Ngốc của Trương Ái Chủng, Toà án âm phủ, Một người thừa, Bạn và vợ… của Nguyễn Hữu Kim, Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, Tình hối của Nguyễn Từ Sơn, Toa toa, moa moa, Kẻ ăn mắm, người khát nước của Trung Tín, Chàng Ngốc và Ông Tây An Nam của Nam Xương… Với Chàng Ngốc, Ông Tây An Nam, và sau này là vở kịch vui Tội ăn cắp, Nam Xương đều chọn bối cảnh là các gia đình thành thị. Một điều đáng chú ý là các nhà viết kịch ở thời kỳ đầu của kịch nói Việt Nam (giai đoạn 1920 - 1930), phần lớn đều dựng kịch từ đề tài gia đình, bởi họ thấy được những biến động lớn của xã hội, những xung đột giữa các giá trị truyền thống và hiện đại đều tác động và phá vỡ các quan hệ giữa người với người ngay từ đơn vị nhỏ nhất của nó là gia đình. Thêm nữa, với người Việt, gia đình là một trọng ba thành tố của kết cấu Nhà – Làng - Nước làm nên một cộng đồng dân tộc bền vững trải qua hàng nghìn năm tồn tại; sự tác động lên nó, phá vỡ nó 32 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(33)</span> tức là phá vỡ các quan hệ xã hội bền vững nhất, là nguyên nhân khiến cho xã hội bị khuynh đảo. Sự phá vỡ ấy diễn ra trước hết và tập trung ở khu vực đô thị, nơi chịu tác động mạnh mẽ nhất của quá trình biến đổi xã hội về mọi mặt. Với các vở kịch này, soi chiếu ở góc nhìn hiện thực, ta bắt gặp những tình cảnh, những nhân vật rất tiêu biểu làm nên một phần diện mạo của xã hội đương thời. Đó là một xã hội đa dạng về các hình thức sinh hoạt: sinh hoạt gia đình với những nề nếp gia phong chịu ảnh hưởng sâu sắc của lễ giáo phong kiến, xen lẫn với những kiểu sinh hoạt xã hội đang được hiện đại hoá theo xu hướng dân chủ (hội họp, tổ chức ca nhạc, bán vé làm từ thiện…); đa dạng về các loại hình nghề nghiệp, kéo theo sự đa dạng về thành phần nhân vật: tầng lớp thị dân (Sỉn ông, Sỉn bà, Cưu ông, Cưu bà), thanh niên, sinh viên (cô Cỏn, Tình sinh, Kim Ninh), trí thức cũ (cụ Huấn), trí thức mới (cử Lân, tham Tứ, Đại phong tiên sinh), cậu ấm ở nông thôn (Ngốc sinh), bà mối “kinh doanh hôn nhân” (bà Tư Sùng), người làm thuê (Khiếu, Bộc)…Sự đa dạng về các hình thức sinh hoạt và loại hình nghề nghiệp làm nên sự phức tạp của các mối quan hệ xã hội bộc lộ trong không gian gia đình. Trong Chàng Ngốc, đó là gia đình Sỉn ông, với một ông chủ keo kiệt bủn xỉn, tham tiền, muốn bằng mọi cách để thu lợi, bất chấp cả hạnh phúc và tương lai con cái; một bà chủ quê mùa chất phác, thương con nhưng bất lực như bất cứ người mẹ nào trong các gia đình theo lễ giáo phong kiến; một cô con gái tân thời biết đấu tranh cho tình yêu chân chính. Trong Ông Tây An Nam, đó là gia đình Cưu ông, với một người con Tây hoá, nhất quyết chối bỏ nguồn gốc của mình, một người cha ham danh giá. Trong Tội ăn cắp, đó là một gia đình trí thức bình dân, nhưng người vợ theo đòi việc chăm lo sắc đẹp đến mức khinh rẻ và xúc phạm người đầy tớ chỉ vì chuyện cỏn con, người chồng có học nhưng nhu nhược…Cùng những nhân vật khác, mỗi nhân vật có một mục đích khác nhau - cao cả hoặc thấp hèn - và các hành động thực hiện mục đích của mình. 33 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Từ những không gian gia đình với những mối quan hệ xã hội phức tạp ấy, Nam Xương đã nhìn ra sự mâu thuẫn đến mức xung đột giữa các hệ giá trị, nhìn ra những kiểu người khác nhau, và xã hội Việt Nam đương thời hiện lên khá rõ nét với sự phức tạp của nó. Một xã hội mà các giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống lâu đời đang bị thách thức và mai một bởi những giá trị từ phương Tây ồ ạt đổ vào, làm cho suy thoái. Theo cách nói của người đương thời, đó là thời mà “phong hoá suy đồi, luân thường đảo ngược”. Hình ảnh của xã hội đương thời biểu hiện trong thế giới nhân vật của Nam Xương được chia thành 2 tuyến mang tính cách văn hoá xung đột với nhau. Một bên là những người hoặc vẫn nguyên vẹn cốt cách người Việt hoặc thức thời nhưng vẫn giữ nề nếp văn hoá Việt, đó là: cô Cỏn, Sỉn bà (Chàng Ngốc) Kim Ninh, tham Tứ, cụ Huấn, Cưu bà (Ông Tây An Nam). Một bên là những người thực dụng, tham tiền bạc của như Sỉn ông, (Chàng Ngốc), hoặc ham danh giá, học đòi chạy theo văn minh ngoại lai như Cưu ông, cử Lân, Khiếu (Ông Tây An Nam), cô Tú Anh (Tội ăn cắp); hoặc lưu manh, đạo đức giả như Đại Phong, Tư Sùng (Chàng Ngốc). Ở tuyến thứ nhất có các nhân vật ở những giai tầng khác nhau, cụ thể là: cô Cỏn, Tình sinh, Kim Ninh, tham Tứ là những thanh niên đã học qua trường lớp của Pháp, thông thạo ngôn ngữ và văn hoá Pháp; cụ Huấn thuộc tầng lớp nho học, nhưng thích nghi với thời cuộc. Sỉn bà, Cưu bà thuộc tầng lớp bình dân, chất phác, thuần Việt. Nhưng tất cả đều có chung một tư tưởng: coi trọng văn hoá, đạo lý truyền thống. Tư tưởng ấy bộc lộ trong lời nói, hành động kịch của họ. Kim Ninh là con gái Cưu ông – Cưu bà, được ăn học theo trường Tây, thuộc lớp phụ nữ mới lúc bấy giờ, ăn mặc tân thời, chơi quần vợt. Nhìn bề ngoài thì cô cũng như các thanh niên cùng thời khác, dễ bị xem là chạy theo xu hướng vọng ngoại. Nhưng Kim Ninh là hình ảnh đẹp của một lớp phụ nữ đương thời, càng có tri thức càng biết trân trọng truyền thống dân tộc. Biết nói 34 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(35)</span> tiếng Pháp, khiến cho cử Lân kinh ngạc, nhưng trong cả vở kịch, cô chỉ nói một câu tiếng Pháp đầy kiêu hãnh: “Oui, Monsieur, je suis Annamite” (Vâng, thưa ông, tôi là người An nam!). Cô là người duy nhất buộc cử Lân phải nói tiếng Việt, cho dù y nhất mực từ chối xuất xứ Việt của mình trước cả cha mẹ mình, buộc cử Lân phải nói ra lý do vì sao y “Tây hoá”. Và mặc dù được cử Lân yêu say đắm, gia đình vun vào, nhưng bằng lý lẽ của mình, cô làm cho cử Lân phải nói ra quan niệm luyến ái đi ngược lại truyền thống đạo lý dân tộc, khiến cho hai bên gia đình không thể ép buộc được hôn nhân của cô, đồng thời bảo vệ được tình yêu của mình với tham Tứ. Cũng như Kim Ninh, cô Cỏn là cô gái tân thời, được học hành, biết ăn mặc hợp thời trang, và cũng rất ý thức về quyền tự do cá nhân, quyền bình đẳng nam nữ. Cô nói với mẹ mình “Đã đành là phận chữ tòng, nhưng theo chồng cũng phải mà thôi chứ cái gì cũng theo ư? Vả chăng đời bây giờ nam nữ bình quyền, đàn ông không thể giữ quyền độc đoán được. ”(cảnh 2 hồi 2 – Chàng Ngốc). Ý thức về quyền tự do cá nhân, cô quyết liệt đấu tranh để được yêu và lấy người mình yêu. Một trí thức kiểu mới là tham Tứ, học trường Tây, làm công chức nhà nước, nhưng vẫn một lòng trân trọng truyền thống đạo lý văn hoá dân tộc. Biết cử Lân về nước, tham Tứ cùng cụ Huấn đến khuyên Cưu ông làm sao cho cử Lân trở thành người có ích cho dân cho nước. Tham Tứ nói với Cưu ông: “Con thì chỉ mong cho anh con ra làm quan ngay, nhưng làm quan mà không coi nghề quan như một nghề buôn bán. Dù khi ra có xuất vốn hàng nghìn mà lúc làm cha mẹ dân không nỡ thu của dân từng đồng xu đồng kẽm”, “cố công mà nắm đuôi mối lợi, nhưng nắm bao nhiêu nên hưởng lấy một mình, hay cho bớt đồng bào khó đói, chớ vô tình mà vét vàng hầu bao dân Việt đem đổ vào túi đẫy thằng Ngô”. (cảnh 1, hồi 1 – Ông Tây An Nam). Vậy là ngay từ đầu vở, Nam Xương đã xây dựng nhân vật tham Tứ với tư tưởng vì dân vì nước, đối lập với cử Lân. 35 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Cụ Huấn là hình ảnh trí thức nho học ở buổi giao thời, đã thích nghi với xã hội mới trên cơ sở sự gạn lọc những giá trị của nó, đồng thời kiên định tinh thần dân tộc. Cụ Huấn khuyên Cưu ông làm sao cho cử Lân “là người biết hấp thụ không khí văn minh bên Pháp, luyện đúc tài năng để về ứng dụng cho xã hội nước nhà, không phải là người hám theo đuôi mối lợi mà tiêu ma mất học thức mình đi”(cảnh 1, hồi 1 – Ông Tây An Nam). Khi gặp cử Lân, thấy y huênh hoang, vong bản, cụ bất bình, chỉ cho cử Lân sự ngu dốt của y khiến y bẽ mặt. Sỉn bà, Cưu bà là những nhân vật điển hình của những người phụ nữ thuần khiết. Sống bên cạnh những ông chồng ham danh lợi, trong một xã hội đang đảo lộn các giá trị, nhưng các bà vẫn giữ được những nét chân thực, chất phác của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, coi trọng lễ nghĩa gia phong. Ở tuyến thứ hai, đối lập với tuyến thứ nhất, là tập hợp những nhân vật mà Nam Xương muốn đả kích, phê phán. Họ là hình ảnh tiêu biểu cho sự tha hoá, xa rời thuần phong mỹ tục cùng các giá trị truyền thống của dân tộc trong xã hội đương thời. Trước hết là nhân vật Cưu ông . Từ cách ăn mặc, đến lời nói, hành vi đều thể hiện sự phô trương, tôn sùng danh lợi. Cưu ông mặc đồ ta nhưng rất sang, ở trong một ngôi nhà có đồ đạc cổ nhưng bầy biện theo lối nhà quan, có đủ cả hoành phi, câu đối, đôn, lo, tủ chè, sập gụ, ảnh phóng đại đeo bài ngà, hòm bằng sắc…Ngay ở câu thoại thứ hai đã khẳng định là “chỉ nay mai là tôi lo cho cháu ra Tri phủ”. Mặc cho cụ Huấn và Tham Tứ khuyên răn, Cưu ông vẫn chăm chăm ý định ấy, lại còn tỏ ra khinh miệt những người đã khuyên mình. Y nói: “Thôi tôi van các tiên sinh hãy mang cái cao thượng mà cút đi, nó nói hoắc cái tai này lắm. Cụ Huấn có muốn không gả con gái cho tôi nữa thì đừng, nó ra làm quan thiếu giống. Ông Tham tiên sinh có không chịu làm bạn với con tôi nữa tôi cũng càng may! Nhà tôi từ nay chả thiếu gì khách, mà khách tri phủ, tri huyện chứ khổ như tiên sinh ấy chăng?”(cảnh 2, hồi 1 – Ông Tây An Nam). Mặc dù nhận ra thằng con đã trở nên bất hiếu, vong bản, nhưng vì ham muốn danh lợi nên Cưu ông vẫn cố níu 36 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(37)</span> kéo y, dự định mua cho y chức tri phủ để tiến thân trên con đường công danh, gia đình dòng họ cũng nhờ thế mà vẻ vang. Khiếu là đầy tớ của cử Lân, nhờ theo cử Lân sang Pháp, học được tiếng Pháp “bồi”, vì cử Lân không chịu nói tiếng An nam nên y trở thành “thông dịch bất dắc dĩ”, được Cưu ông Cưu bà gọi là “thầy thông”. Nếu như cử Lân nói tiếng Pháp chuẩn vì lý do mình đã “Tây hoá” hoàn toàn, thì Khiếu từ đầu chí cuối chỉ nói rặt một loại tiếng Tây bồi rất tức cười. Nhưng y thường xuyên lên giọng giảng giải cho người nhà cử Lân về văn minh, về đạo lý của Tây, lại lươn lẹo, hay cãi cho cử Lân. Khiếu là cái đuôi của cử Lân, nhất cử nhất động theo thầy, tung hô, tán dương lời nói, hành vi của Lân, có lúc bị Lân chửi mắng xúc phạm đã vùng vằng phản ứng, nhưng rồi vẫn cúc cung phục vụ, bởi vì Lân hứa cho thêm tiền. Khiếu là nhân vật phụ nhưng khá ấn tượng, làm rõ thêm hình ảnh của “Ông Tây An Nam” cử Lân. Bên cạnh Cưu ông nửa tây nửa ta, ham danh giá, Nam Xương còn xây dựng một Sỉn ông (trong Chàng Ngốc) cổ hủ, tham tiền một cách vô lối, một Sỉn ông cứ mở miệng là nói đến tiền. Dường như tiền là lẽ sống, là mục đích tồn tại của ông ta. Sỉn ông vì muốn có nhiều tiền mà bất chấp cả tương lai, hạnh phúc của cô con gái độc nhất của mình. Sỉn ông cũng là một người độc đoán gia trưởng. Bản chất của Sỉn ông bộc lộ trong câu nói gắt khi Sỉn bà phản đối chuyện mối lái cho cô gái mình lấy Ngốc sinh: “Việc ở tôi hết, không phải tại người ta. Bà cứ dả dông đến người ta thì tôi gọi văng Ngốc sinh đến chồng tiền gắn phắt ngay con gái, thế là chẳng cần mối lái cưới xin gì cả.” (cảnh 3, hồi 1 – Chàng Ngốc) Nam Xương đã thể hiện sự tinh tế của mình khi quan sát và chỉ ra những kiểu người như là sản phẩm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Đặc biệt là ông đã rất tinh tường khi nhìn ra những kiểu “dị dạng” (như Ngốc sinh, Đại Phong, Tư Sùng) đang tồn tại trong thời buổi “hỗn canh hỗn cư”. Ngốc sinh là kẻ ngốc, lại ít học, được Tư Sùng - một bà mối xảo trá, trục lợi, và Đại Phong 37 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(38)</span> - một văn sĩ, trí thức rởm “giật dây” nên có những hành động ngốc nghếch đáng cười. Tư Sùng nhận lời cả gia đình Sỉn ông và Ngốc, tác thành cho Ngốc và cô Cỏn. Bà ta cố gắng mối manh cho bằng được, không phải vì hạnh phúc của hai cô cậu, mà bởi vì ngoài 200 đồng tiền công, bà ta ăn bớt được những 1000 đồng từ khoản tiền 6000 đồng Ngốc sinh nạp lễ cho Sỉn ông. Vì khoản tiền lớn ấy, bà ta bất chấp sự khập khiễng về tình cảm, trí tuệ giữa Ngốc sinh và cô Cỏn, xui Ngốc sinh liên tục nói dối, rồi lại lấp liếm xí xoá khi bị phát hiện. Khi Tình sinh đề nghị làm mối cho đám của mình, Tư Sùng lại từ chối Ngốc sinh, quay sang nhận giúp Tình sinh, bởi vì đám này ăn chắc hơn. Có thể nói, qua hài kịch của Nam Xương, ta thấy hiện lên những hình ảnh sống động về hiện thực xã hội. Những quan hệ xã hội vốn khá bền chặt trong lễ giáo phương Đông đang bị thách thức bởi sức mạnh của đồng tiền, những con người thuần khiết trọng lễ giáo luôn đối mặt với thách thức phải thay đổi để thích ứng, và trong cộng đồng nảy sinh những xung đột giữa truyền thống và hiện đại. Sản phẩm của sự xung đột ấy là sự biến đổi các hệ giá trị, và xuất hiện những kiểu người mới, có tích cực, có tiêu cực. Nếu xã hội mới sinh ra những thanh niên tân thời, có ý thức cá nhân và biết đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân, như Kim Ninh, Tham Tứ, cô Cỏn, Tình sinh, …thì cũng sinh ra những kiểu người quái dị như cử Lân, Đại Phong, Tư Sùng, Sỉn ông, Cưu ông, Khiếu, Tua Rua… Một trong những kiểu người như là sản phẩm của xã hội “hỗn canh hỗn cư” là một bộ phận trí thức Tây học dị hợm, vong bản. Trước Nam Xương, Nguyễn Hữu Kim có vở Một người thừa cùng chủ đề với Ông Tây An Nam, nhằm đả kích, phê phán bọn thanh niên con nhà giàu, có tiền du học, có được chút ít kiến thức văn minh Âu châu, trở nên coi thường dân tộc mình, đồng bào mình. Một người thừa kể lại những điều lố bịch của cậu Tú Tây, sau khi đem một mớ kiến thức giáo điều ở trường Tây về nước, đã khinh miệt người nhà mình. Y chê vợ ăn trầu là man rợ, bắt luộc chín cho hợp vệ sinh, bắt vợ từ bỏ kiểu ăn mặc quê mùa, phải mặc quần trắng, cắt tóc ngắn, đi giày cao gót, học 38 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(39)</span> nhảy đầm…Nhưng phải đến Ông Tây An Nam của Nam Xương, với cái nhìn sâu sắc về xã hội và con người của ông, sự vong bản đến mức tha hoá của tầng lớp trí thức Tây học trong xã hội mới được khái quát thành một hình tượng nghệ thuật độc đáo, có sức sống lâu dài trong lịch sử văn học và đời sống. Hình tượng trung tâm của trí thức Tây học vong bản trong xã hội thực dân nửa phong kiến trong kịch Nam Xương, cũng là hình ảnh tha hoá của một bộ phận trí thức trong xã hội đương thời, là cử Lân - nhân vật chính trong Ông Tây An Nam. Cử Lân gây ấn tượng là một kẻ vong bản, bất hiếu bất nghĩa ngay từ khi xuất hiện. Trước khi về nhà, y đã làm cho mẹ phải vào bóp cẩm, về đến nhà y hỏi đầy tớ về bố mình: “Quel est ce vieux font là?”(Người già nào mà điên thế này?). Trước những cử chỉ yêu thương của Cưu ông, y cầm mũi xoa phe phẩy trước mũi, tỏ ra suýt chết ngạt vì “mùi bản xứ”. Y nhất quyết không nói tiếng Việt, bắt Khiếu phải thông ngôn. Y khinh thường đạo lý mà bố y đang nhắc y phải nhớ, một mực nói rằng mình là công dân của nước mẹ Pháp. Trắng trợn hơn, y đề nghị cha mình, nếu muốn được giữ quyền làm cha thì phải thôi không làm người An nam nữa. Cưu ông, Cưu bà phản ứng, thì y trả lời: “Này, tôi nói lại một lần nữa cho ông bố tôi nghe nữa này. Hai ông bà đẻ ra tôi, mất công nhọc nhằn mà nuôi tôi, cho tôi đi học, có phải tôi đã khiến ông bà đâu. Chẳng qua tình cờ mà ông bà có cái chức trách ấy. Ông bà còn oán gì thì cứ cái tình cờ ấy mà chửi”(cảnh 4 hồi 1 – Ông Tây An Nam). Y từ chối và khinh miệt tất cả những gì thuộc về bản xứ, kể cả đồ ăn thức uống, không ở nhà bố mẹ mình mà thuê khách sạn ở, về nhà bố mẹ ăn cơm thì chê bẩn không ăn. Y rủ Kim Ninh “bỏ quách cái giống nòi An nam đi, húi tóc ngắn, ăn mặc đầm, nói tiếng tây, sang tây mà ở bên ấy với anh mãi mãi ”(cảnh 9, hồi 2 – Ông Tây An Nam). Khi đã lấy lại được tình cảm của bố mẹ vì hứa sẽ không làm cho bố mẹ buồn - thực ra là để lấy được Kim Ninh, y lại lòi “cái đuôi” mất gốc ra, khi nói với Cưu bà rằng sẽ sang Pháp thi tiến sĩ, về những phong tục mà Cưu bà 39 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(40)</span> vừa giảng giải cho y về việc cưới hỏi,“ sẽ tả như chỉ trắng thêu trên nền đen, rất mạnh mẽ, rất hùng hồn, cho ai cũng biết cái xấu của con cháu Hồng Bàng…Chính me sẽ được tả từng li từng tí, từ cái sự đội khăn, cái cách mặc yếm, cái tục ăn trầu của me!”(cảnh 13, hồi 3 – Ông Tây An Nam) . Sự vong bản của cử Lân không chỉ dừng ở vẻ ngoài, ở cách ăn nói, đi đứng, cư xử giống Tây, mà còn ăn sâu vào tư tưởng của y. Trước Kim Ninh, cử Lân nói thẳng: “Không phải giả vờ cốt để lấy oai mà thôi đâu! Anh là người tây thì cái giả vờ ấy, tha thứ đi cho anh cũng được! Nhưng điều anh chủ tâm là làm cho tiệt cái hơi tiếng An nam ở trong mồm anh đi. Nên không những anh không muốn nói tiếng Nam, nghe tiếng Nam, mà đến tư tưởng bằng óc Việt Nam anh cũng không muốn nữa!”(cảnh 9, hồi 2 - Ông Tây An Nam). Quan niệm về tình yêu và hôn nhân của cử Lân cũng hoàn toàn “tây hoá”, xa rời hẳn truyền thống dân tộc. Mặc dù đang tán tỉnh Kim Ninh, nhưng y không ngần ngại nói thẳng quan niệm ấy, trước mặt cả Cưu ông, Cưu bà và cụ Huấn: “Em ạ, em lo xa quá! Yêu nhau ta hãy cứ yêu nhau, biết thế nào sau này mà liệu…Nghĩa là phải lấy tự do làm trọng. Lấy nhau mà như giàng buộc nhau lại, co quắp cả chân tay, thì thật là điên rồ! Anh em ta lấy nhau bây giờ, sau này có xa nhau chăng nữa, cô em càng tiện chứ sao! Lúc bây giờ có lấy thằng le bougre Tứ cũng được kia mà!” (cảnh 14, hồi 3 – Ông Tây An Nam). Đến khi bị từ chối, y trở lại là “tây” như trước, lại nói tiếng Pháp, bắt Khiếu phiên dịch. Y phủ nhận hoàn toàn những biểu hiện An nam của mình trước đó, bảo rằng không khí thuộc địa làm y đãng trí. Kết thúc vở kịch, là tiếng quát của cử Lân với Khiếu:“Theo tao sang Pháp mà làm người Âu châu!”. Xoay quanh nhân vật này còn có một số nhân vật khác cũng đáng chú ý. Đó là nhân vật Đại Phong (Chàng Ngốc). Đại Phong là hình ảnh một trí thức “thừa chữ”, một kiểu nhà văn gàn dở, có ít vốn liếng Tây,Tầu, luôn ra vẻ thông kim bác cổ, mở miệng là nói chữ, đến cả lời chửi cũng phải khoe chữ: “vừa rồi nó đã làm tôi mất thăng bằng, thật là không biết kính trọng cái đại 40 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(41)</span> cà – xa của con nhà văn sĩ như tiên sinh và tôi, và bao giờ nó cũng chỉ là đồ ngu, đồ xuẩn, đồ mạt lưu xã hội, đồ canaille, populace, popolaccio, rabble, mob…”(cảnh 6, hồi 3). Những tưởng những triết lý đạo đức cao siêu có thể che khuất bản chất gã trí thức rởm đời này, nhưng đến khi cô Cỏn đề nghị y khuyên can Ngốc sinh đừng ép cô làm vợ, thì y từ chối, vì “Ngốc sinh tuy không phải là người đa tình cho quý nương yêu nhưng là người tối đa tiền khiến cho ai ai cũng phục”(cảnh 8, hồi 5). Vậy là đến cuối vở kịch, y mới lộ rõ chân tướng “vì tiền” của mình. Việc dựng lên một nhân vật trí thức “rởm” như Đại Phong vừa là phát hiện của ông về kiểu người này trong xã hội, vừa góp thêm hình ảnh phụ để làm nổi lên hình ảnh gã trí thức Tây học vong bản trong Ông Tây An Nam. Một vở kịch khác của ông là Thuốc tê Ô Cấp khai thác tầng lớp trí thức văn nghệ sĩ ở một góc nhìn khác: chế độ kiểm duyệt mà đằng sau nó là quan hệ nghề nghiệp giữa các văn nghệ sĩ. Tua Rua là một văn sĩ kiêm nhân viên kiểm duyệt. Lợi dụng quyền hạn của mình, y tác oai tác quái. Y sẵn sàng gây khó khăn cho các đồng nghiệp phủ nhận, dập vùi các tác phẩm của họ, nếu họ không chịu nịnh bợ luồn cúi mình. Y tung ra tác phẩm kém cỏi của mình nhưng xem như khuôn vàng thước ngọc, bắt người khác phải ca tụng. Qua nhân vật Tua Rua, nhà văn muốn châm biếm những văn nghệ sĩ mà sự dốt nát đi liền với thói háo danh. Nhưng điều nguy hại hơn là, khi sự dốt nát, háo danh lại được hỗ trợ bởi quyền lực thì sẽ trở thành cái xấu, tha hồ tác oai tác quái, làm hại văn nghệ sĩ và cản trở các giá trị văn hoá đích thực. Tóm lại, có thể khẳng định, từ việc phơi bày hiện thực xã hội với hai mặt sáng tối của nó thông qua những bức tranh gia đình trong thời kỳ đầu của quá trình hiện đại hoá, Nam Xương đã thể hiện thái độ trân trọng những giá trị truyền thống của dân tộc, thông qua việc cổ vũ, ủng hộ những con người lương thiện, mang cốt cách và tinh thần dân tộc. Đồng thời, ông chỉ ra những kẻ lai căng, tha hoá, xa rời truyền thống văn hoá - đạo lý dân tộc, như những 41 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(42)</span> sản phẩm của một xã hội mà các chuẩn mực giá trị bị đảo lộn. Ông đã có cái nhìn khá sắc sảo khi phát hiện và phê phán những trí thức dị hợm trong xã hội đương thời, đặc biệt là xây dựng được một hình tượng nhân vật hết sức độc đáo, vừa mang tính cách cá nhân, vừa có ý nghĩa khái quát về một bộ phận trí thức Tây học tha hoá, vong bản, khinh miệt các giá trị văn hoá, đạo đức của dân tộc. Loại nhân vật trí thức – văn nghệ sĩ dị hợm được Nam Xương Nguyễn Cát Ngạc khai thác khá nhiều trong truyện ngắn.Nhưng ở thể loại kịch, ông tỏ ra có ưu thế hơn.Và bước ra từ sân khấu kịch nói, một “Ông Tây An Nam” - sản phẩm sáng tạo độc đáo, nhân vật “để đời” của Nam Xương đã trở thành một “điển cố” mới trong đời sống xã hội hiện đại. 2.2.2. Tiếng nói cổ vũ cho tình yêu và hôn nhân tự do, phản kháng lễ giáo phong kiến Tồn tại song song với khuynh hướng phê phán hiện thực xã hội là khuynh hướng đấu tranh nhằm thoát ly lễ giáo phong kiến. Đó là kết quả của sự phát triển trào lưu tư tưởng tư sản, mà cốt lõi là chủ nghĩa cá nhân. Trào lưu này nhanh chóng nảy nở và phát triển ở khu vực thành thị, với các hoạt động chống lại những ràng buộc của tư tưởng, lễ giáo phong kiến, yêu cầu được giải phóng con người, trước hết là trong tình yêu và hôn nhân. Nếu như trong văn xuôi xuất hiện tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, thì trên sân khấu kịch nói, ngay từ buổi ban đầu đã xuất hiện những vở kịch về đề tài này. Vở kịch đầu tiên là Dây oan của Đoàn Ân, viết năm 1920, kể về mối tình oan trái giữa một cô gái nhà giàu với một anh thư ký nhà nghèo. Mối tình tha thiết, muốn tiến tới hôn nhân của hai người bị gia đình găn cản, vì không “môn đăng hộ đối”. Kết thúc vở kịch là cái chết của cô gái, dấu ấn của sự bất lực trước rào cản của lễ giáo và tiền tài.Tiếp theo Dây oan là vở Dây oan nghiệt của Trần Đại Thụ (1923) kể về mối tình giữa cô Loan và cậu Phúc, nhưng gia đình ngăn cản. Cô Loan bị bà mẹ ham tiền gả cho một gã Tây đen giàu có để kiềm lợi. Lợi dụng bà mẹ mê tín, đồng bóng, hai người lập 42 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(43)</span> mưu để bà mẹ tin là do thánh thần sắp đặt, đồng ý gả cô Loan cho cậu Phúc. vở kịch đánh dấu một bước tiến của hiện thực tự do luyến ái, tự do hôn nhân, sự thất bại của thần tài và chế độ “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Như một sự tiếp nối hoàn chỉnh và nâng thành công của đề tài phản kháng lễ giáo phong kiến, ca ngợi tình yêu và hôn nhân lên một tầm cao mới, Chàng Ngốc của Nam Xương ra đời năm 1930 đã gây được tiếng vang lớn trong đời sống xã hội lúc bấy giờ. Theo đánh giá của Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý trong “Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam”: “Một mặt hài kịch Chàng Ngốc đem tính keo bẩn, ham làm giàu một cách hèn hạ (Sỉn ông), đem cái ma lực của thần tài đội lốt trí thức (Đại phong tiên sinh), cái nghề “nguyệt lão” con buôn ra để đả kích; mặt khác Chàng Ngốc cũng đã chiến đấu say sưa cho sự thắng lợi của ái tình tự do, chính đáng. Với ngòi bút hài kịch khá sắc sảo, tình tiết sinh động, bố cục chặt chẽ, tính cách từng nhân vật nhất quán, gỡ nút kịch có logic, Nam Xương đã tương đối thành công, so với đương thời, trong ý định đả kích thói hư tật xấu của nhiều hạng người. Ông cũng đã góp thêm một tiếng nói đòi giải phóng phụ nữ khỏi phụ quyền tuyệt đối, khỏi ràng buộc của tiền tài, yêu cầu được tự chọn bạn trăm năm. Từ Dây oan đến Chàng Ngốc, ý thức phản kháng đã mạnh mẽ thêm”[13, tr112]. Nhân vật trung tâm của cuộc đấu tranh bảo vệ tình yêu lứa đôi, chống lại lễ giáo phong kiến trong vở Chàng Ngốc là đôi trai gái Tình sinh - cô Cỏn. Họ là những thanh niên có học, tiếp thu tư tưởng - văn hoá phương Tây, nên ý thức đầy đủ về quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc cho mình. Có thể nói, cô Cỏn là nhân vật nữ tiêu biểu trong cuộc đấu tranh đòi bình quyền và tự do luyến ái. Sống trong một gia đình thị dân, bố tham tiền đến mức bất chấp cả tương lai của con, mẹ nhất mực tuân theo lễ giáo phong kiến, nên cô phải tự mình đấu tranh cho tình yêu và hạnh phúc của mình. Khi biết mình bị bố mẹ gả cho Ngốc sinh, cô đã vạch mặt Ngốc sinh dối trá, từ chối thẳng thừng trước 43 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(44)</span> mặt bố mẹ và bà mối. Cô nói thẳng với họ: “thày me xem, nó ngu khốn ngu khổ thế thì ai thương làm sao được? Thôi con đi vào đây, ở đây một lúc nữa nhịn cười cũng đủ chết mất. Còn cái nhà bà Tư Sùng kia, bà chỉ biết đồng tiền là to, định hại tôi một đời, nếu bà không thôi đi thì rồi tôi bảo cho cái mặt bà.” (cảnh 8 hồi 1). Nhưng Sỉn ông tham tiền vẫn quyết gả con cho Ngốc. Cô Cỏn bàn với người yêu tìm cách đưa cô đi trốn, còn mình thì giả câm để hoãn đám hỏi. Cô còn đi gặp Đại Phong để nhờ khuyên can Ngốc sinh mặc dù việc đó không thành. Quyết liệt hơn, cô chuẩn bị thuốc phiện và dấm thanh để tự tử chứ nhất định không để bị ép duyên. Cùng với cô Cỏn, Tình sinh cũng là người tích cực đấu tranh để bảo vệ tình yêu. Chàng sinh viên nghèo tìm mọi cách để giải thoát người yêu ra khỏi vòng vây của lễ giáo, thậm chí lên sẵn kế hoạch cướp cô dâu từ tay Ngốc sinh. Những hành động quyết liệt để bảo vệ tình yêu của hai người cuối cùng đã đem lại thắng lợi. Đó là thắng lợi của tư tưởng tự do luyến ái, tự do hôn nhân trước lễ giáo phong kiến đã lạc hậu nhưng vẫn còn tác quái. Trong Ông Tây An Nam, mối tình giữa Kim Ninh và tham Tứ, tuy không có những hành động kịch quyết liệt như trong Chàng Ngốc, nhưng cũng là tác nhân gây ra xung đột kịch. Mối tình ấy cũng vấp phải sự cản trở của gia đình Cưu ông, vì Cưu ông muốn hỏi Kim Ninh cho cử Lân. Nhưng Kim Ninh, một cô gái tân thời, đã biết tự mình bảo vệ hạnh phúc cho mình. Cô thẳng thắn bảo vệ tình yêu của mình với Tình sinh trước mặt bố mẹ, và làm cho cử Lân phải bẽ mặt vì “lòi đuôi” vong bản y đang dấu diếm để lừa mị mọi người ra. Tất nhiên, ý thức và hành vi của họ không dễ được thừa nhận trong một xã hội đã có hàng nghìn năm, với những lề thói và phong tục hôn nhân khá ổn định. Phát triển xã hội, từ góc nhìn giữa mới và cũ, giữa tiến bộ và lạc hậu, sẽ thấy để khẳng định cái mới và sự tiến bộ, xã hội sẽ phải trải qua những cuộc đấu tranh quyết liệt và lâu dài. Với tình yêu cũng vậy, những rào cản từ phong tục, tập quán cũ trong rất nhiều trường hợp đã “triệt tiêu” khát vọng tự do hôn 44 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(45)</span> nhân trên cơ sở của tình yêu đôi lứa. Vấn đề là cần làm thế nào để đưa tới một sự thừa nhận của xã hội như một tất yếu chứ không phải là sự đoạn tuyệt hoàn toàn với tất cả các giá trị từng tồn tại trong quá khứ, vì vậy phải biết lựa chọn. Có lẽ vì thế, nếu như một mặt Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc phê phán cái quan niệm thiếu lương thiện của “Ông Tây An Nam” cử Lân rằng: “Anh em ta lấy nhau bây giờ, sau này có xa nhau chăng nữa, cô em càng tiện chứ sao!”, thì một mặt Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc lại cổ vũ cho tình yêu và hôn nhân chân chính. Thiết nghĩ, đó là một cái nhìn, một quan niệm tiến bộ so với lịch sử của thời đại ông. Nói cách khác, đứng trước những biến động của lịch sử, đứng trước sự xuất hiện của các giá trị xấu - tốt đan xen vào nhau, lấn lướt lẫn nhau, thì Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã có một lựa chọn đúng đắn. Ông phê phán cái cần phê phán, đồng thời cổ vũ cái cần cổ vũ. Đó chính là một nhận thức sáng suốt và nhân văn cần phải được khẳng định trong bối cảnh xã hội - văn hóa của nước Việt Nam ở đầu thế kỷ XX. Đáng chú ý là, chỉ mấy năm sau, khi quan niệm của xã hội về tình yêu và hôn nhân đã cởi mở hơn, thì trong văn học và trên kịch trường lại xuất hiện xu hướng lãng mạn, lý tưởng hoá tình yêu, dẫn đến triết lý phụng thờ tình yêu, coi tình yêu là tuyệt đỉnh, là mục đích của cuôc đời. Điển hình cho xu hướng này là Đoàn Phú Tứ. Với những vở Cuối mùa, Gái không chồng, Xuân tươi, Mơ hoa…Đoàn Phú Tứ xây dựng một loạt nhân vật đi tìm tình yêu và hưởng thụ nó, đến mức phủ nhận cả hạnh phúc gia đình và những trách nhiệm xã hội. Xu hướng này ảnh hưởng khá mạnh trong đời sống thanh niên lúc bấy giờ. So sánh với xu hướng này, thái độ đúng mực và tiến bộ của Nam Xương thật đáng trân trọng. Ở một hoàn cảnh lịch sử khác, mối tình của cặp anh hùng - mỹ nhân Tây Thi - Phạm Lãi (trong vở Tây Thi) cũng là một mối tình tuyệt đẹp xứng đáng được ca ngợi. Lần đầu gặp nhau, giữa hai người đã nảy nở tình yêu chân chính. Nhưng trách nhiệm lớn lao của một bậc tướng quốc đã không cho phép Phạm Lãi hành xử theo tiếng gọi của trái tim, và không những thế, người anh 45 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(46)</span> hùng là tôi trung của Việt vương Câu Tiễn còn thuyết phục được người mình yêu làm theo kế sách diệt Ngô. Vậy là cả hai người đã hy sinh hạnh phúc cá nhân của mình cho nghĩa lớn. Bi kịch tình yêu của Phạm Lãi - Tây Thi là bi kịch mang tính thời đại sâu sắc, bởi sự xung đột giữa khát vọng tình yêu và lòng trung quân ái quốc của kẻ sĩ Nho giáo là loại xung đột chỉ có thể đưa đến một kết thúc bi kịch. Nhưng cho dù như vậy, thì vở kịch cũng đã cất lên tiếng nói ca ngợi khát vọng tình yêu tự do, cùng với sự trân trọng chia sẻ và cảm thương của tác giả. 2.2.3. Cảm hứng từ lịch sử gợi sự suy ngẫm về cái đương thời Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc là người say mê nghiên cứu lịch sử, đã từng viết sách giáo khoa về lịch sử, nên cũng dễ hiểu vì sao ông thường chọn lịch sử làm cảm hứng và đề tài cho nhiều sáng tác văn học của mình. Với tiểu thuyết, ông có Hùng Vương, Bách Việt; với truyện ngắn, ông có một loạt truyện như: Huyền Trân công chúa, Trên chòi Khâm Thiên, Nguyễn Thị Lộ, Tráng sĩ Phù Đổng… Với kịch bản văn học, chúng tôi mới khảo sát được 2 bản thảo, là Tây Thi và Văn Chủng, đều là thể loại bi kịch. Hai vở kịch này không ghi chính xác năm sáng tác. Nhưng trên bản thảo vở Tây Thi còn có dấu kiểm duyệt của Sở kiểm duyệt - Tổng giám đốc thông tin - Quốc gia Việt Nam, cho thấy Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc viết trước năm 1954. Còn vở Văn Chủng ghi ở trang bìa (bản đánh máy) là Nhà xuất bản Liên Hiệp - Sài Gòn, cho thấy ông viết hoặc đã xuất bản trong thời kỳ 1954 - 1958. Đặt hai vở kịch này vào hoàn cảnh lịch sử và hoàn cảnh cá nhân của Nam Xương, chúng ta có thể hiểu cội nguồn cảm hứng sáng tác của ông. Khi viết hai vở kịch này, ông đã là một chiến sĩ cộng sản, một nhà tình báo hoạt động công khai dưới vỏ bọc trí thức, chứ không đơn thuần là một người trí thức yêu nước như giai đoạn 1930 - 1931, khi viết Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc. Trong cương vị ấy, tâm thế sáng tác của ông là tâm thế của một 46 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(47)</span> nhà văn - chiến sĩ. Có lẽ vì vậy mà cảm quan nghệ thuật của ông như phong phú hơn, những vấn đề xã hội - lịch sử - văn hoá được soi chiếu dưới những góc nhìn sâu rộng hơn. Nếu như Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc lấy bối cảnh là gia đình cùng các quan hệ xã hội ở phạm vi hẹp (giữa bố mẹ và con cái, giữa những người họ hàng, bạn bè, giữa các đôi tình nhân,…) thì Tây Thi và Văn Chủng lại lấy bối cảnh rộng lớn hơn là đất nước, với những quan hệ xã hội có chiều kích rộng lớn hơn, thậm chí là những chuẩn mực từng được coi là “bất biến” trong quan niệm của một thời, như: giữa vua và bề tôi, giữa quốc gia dân tộc này với quốc gia dân tộc khác. Xung đột trong tác phẩm không dừng lại ở các vấn đề xã hội - nhân sinh, mà được đẩy lên tầm vóc cao hơn, đó là tầm thời đại. Tây Thi là bi kịch lịch sử giữa một bên là mối tình của Phạm Lãi với Tây Thi, và một bên là trách nhiệm xã hội của cả hai người trong hoàn cảnh xã hội phong kiến Trung Hoa mà Nho giáo với tinh thần trung quân ái quốc là thượng tôn. Phạm Lãi là tướng quốc của Việt vương Câu Tiễn, đã vì nghĩa lớn mà hy sinh tình riêng, Tây Thi cũng vì tình yêu sâu nặng với Phạm Lãi mà hy sinh cả phẩm tiết và tính mạng của mình cho kẻ thù của nước Việt. Thông qua các diễn biến tâm lý của nhân vật và các hành động kịch dẫn đến xung đột, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã cố gắng làm nổi bật tư tưởng chủ đạo của vở kịch, đó là: sự hy sinh hạnh phúc cá nhân vì đạo trung quân ái quốc. Một loạt tác phẩm văn học khác của Nam Xương lấy lịch sử làm cảm hứng sáng tác cũng đề cao tư tưởng này, như: Nguyễn Thị Lộ, Trên chòi Khâm Thiên, Huyền Trân công chúa… Nhưng nếu chỉ dừng ở đó thì vấn đề không phải là mới. Đó là vấn đề tất yếu của mối quan hệ vua - tôi, một trong ba rường cột của chế độ phong kiến phương Đông theo Nho giáo. Điều đáng nói nếu đọc Tây Thi và Văn Chủng trong một mối liên hệ, sẽ thấy nổi lên vấn đề là sau khi bề tôi đã làm tròn phận sự của mình một cách cao nhất với vua, với đất nước, sau khi họ đã hi 47 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(48)</span> sinh cả những gì họ yêu quý nhất để góp sức làm nên nghiệp lớn, thì họ có quyền được hưởng thụ hạnh phúc cá nhân của mình. Hơn thế nữa, bề tôi cũng phải biết được vai trò, thân phận của mình, biết trông thời thế mà hành xử, nếu không sẽ rơi vào bi kịch của số phận. Bởi vậy, nếu như với Tây Thi, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã giải quyết sự xung đột giữa khát vọng tình yêu và tinh thần trung quân ái quốc bằng bi kịch của Phạm Lãi và Tây Thi, thì trong Văn Chủng (còn gọi là Tục Tây Thi, hay là phần tiếp theo của Tây Thi), ông đề cao nội dung này. Theo đó, Phạm Lãi và Tây Thi không chết, mà từ Cô Tô, họ trốn đi xa, sống hạnh phúc với nhau trong Đào gia trang. Còn Văn Chủng, vì không nghe theo lời khuyên của Phạm Lãi nên cuối cùng phải chết. Bi kịch của Văn Chủng là bi kịch của một cá nhân đã cống hiến hết lòng vì triều đình Việt, vì Việt vương Câu Tiễn, nhưng sự trung thành đến mức mù quáng đã khiến ông không nhận ra sự đổi thay của thời thế đã dẫn đến sự thay đổi của lòng người. Đến khi nhận được thanh gươm vua ban để tự xử thì đã quá muôn. Bi kịch của Văn Chủng cũng là bi kịch mang tính thời đại, đó là bi kịch của lòng trung quân ái quốc và sự chà đạp tàn bạo lên lòng trung quân ái quốc sau khi người ta đã “vắt kiệt quả chanh”. Đó cũng là bi kịch của Nguyễn Trãi trong truyện ngắn Nguyễn Thị Lộ, cho dù Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đánh giá cao sự hi sinh một cách tự nguyện và chủ động của Nguyễn Trãi. Nhìn nhận những câu chuyện lịch sử bằng cái nhìn của người đương thời, lịch sử như là cảm hứng về cái đương thời, từ hai vở kịch lịch sử, Nam Xương đã chạm đến những vấn đề mang tính thời cuộc và cao hơn thế, đó là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa lý tưởng và khả năng thực hiện lý tưởng, giữa khát vọng cá nhân và trách nhiệm xã hội. Nếu nhìn từ lịch sử, phải nói rằng đây là các vấn đề chưa từng được đặt ra trong một xã hội có sự thống trị hàng nghìn năm của Nho giáo. Những yêu cầu về đạo đức của người quân tử, những đòi hỏi về lòng trung quân… đã trói buộc con người trong những phạm vi mà nhu cầu tình cảm cá nhân, khát vọng về tình yêu lứa đôi chân thành hầu như 48 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(49)</span> không có chỗ thể hiện. Nhìn lịch sử từ góc nhìn đương thời, Nam Xương Nguyễn Cát Ngạc đã đem tới cho đề tài lịch sử mà ông quan tâm một cảm hứng mới. Đó là cảm hứng của khát vọng cá nhân và sự đáp ứng những khát vọng ấy sau khi con người đã hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ xã hội của họ. Bi kịch của Phạm Lãi và Tây Thi trong vở Tây Thi đã đẩy họ tới sự không toàn vẹn, nhưng cuối cùng điều họ mong muốn vẫn phải đến, để họ được hưởng một hạnh phúc muộn màng. Bi kịch ấy dù sao cũng đem lại cho họ một sự an ủi, và chính điều đó lại tạo nên sự tương phản với bi kịch của Văn Chủng, bởi Văn Chủng đã mất mạng chính vì lòng trung quân của mình. Những tác phẩm về đề tài lịch sử của ông nói chung, hai vở kịch Phạm Lãi và Văn Chủng nói riêng, luôn làm chúng ta ngẫm ngợi về xã hội, con người và thời cuộc mình đang sống. 2. 3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật của kịch Nam Xƣơng. Về phương diện kịch bản văn học, với hai vở Chàng Ngốc và Ông Tây An Nam của Nam Xương, chúng ta có thể coi đó là “gạch nối” trong việc hoàn thiện nội dung và hình thức kịch bản, theo tinh thần kịch nói hiện đại. Nếu như các tác giả khác như Trần Tuấn Khải, Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc, Tương Huyền… dành khá nhiều thời gian và tâm sức trong việc “khớp nối” giữa các yếu tố nghệ thuật của phương Tây và với các yếu tố của sân khấu cổ truyền Việt Nam (như phong cách tự sự, hài hước của chèo cổ) để chiều lòng công chúng chưa quen với nghệ thuật kịch nói, thì trong tác phẩm của Nam Xương, sự kết hợp giữa hai dòng nghệ thuật Đông Tây lại tỏ ra hết sức nhuần nhuyễn. Trong hài kịch Nam Xương, người đọc vừa nhận ra sự tuân thủ nghiêm nhặt các quy tắc sáng tác theo phương pháp cổ điển Châu Âu, vừa thích thú bởi phong cách hài hước, dí dỏm của nghệ thuật chèo cổ; vừa bị cuốn hút bởi tính liên tục và hấp dẫn của hành động kịch, không sa vào tiết tấu chậm chạp nặng nề với nhiều “sen” (scène - cảnh) hoặc những “lớp thừa”, vừa thoải mái nhẹ nhõm khi tiếp nhận ngôn ngữ bình dân, đời thường, không giáo huấn, triết lý… như ở một số tác phẩm cùng thời 49 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(50)</span> (như Hai tối tân hôn, Cô đầu Yến của Vi Huyền Đắc, Chén thuốc độc của Vũ Đình Long…). Có được những tiến bộ hơn đồng nghiệp cùng thời là do Nam Xương, bằng niềm đam mê lớn của mình với nghệ thuật kịch nói, đã chủ động tiếp nhận và vận dụng khéo léo những nét tích cực của cả hai phong cách nghệ thuật sân khấu Đông - Tây trong sáng tác. Đơn cử như việc ông đã nhận ra một số khiếm khuyết của nghệ thuật sân khấu truyền thống, như ông đã nói: “cái tộc trưởng chữ nghĩa (doctrine patriarcale) đã in sâu vào trong óc người mình, nên khi làm văn, ngọn bút thường vẽ cho độc giả chuyện nó như thế này thì bài luân lý phải như thế này”. Vì thế, Nam Xương chủ trương khắc phục khiếm khuyết đó, mà theo cách của Châu Âu mà ông diễn đạt lại thì: “tả cho y hệt, người nào ra người ấy, xung đột nhau làm sao mà “rút” thành câu chuyện rồi luân lý tự khắc nảy ra”. Sau thời của Nam Xương, các tác giả khác đã chuyển hẳn sang viết kịch nói theo lối mới, và trong xã hội cũng xuất hiện lớp công chúng nghệ thuật mới đã từng bước làm quen với nghệ thuật kịch nói trên sân khấu. Bởi thế, có thể khẳng định rằng, Nam Xương là một trong những tác giả tiêu biểu cho sự phát triển từ kịch hát truyền thống đến kịch nói qua sự tiếp nhận của tầng lớp nghệ sĩ “Tây học”, và việc tổ chức kịch bản theo “lối mới” trong Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc đã đánh dấu sự hoàn thiện của quá trình tiếp nối truyền thống và hiện đại trong kịch nói Việt Nam ở thời kỳ đầu. Đi sâu vào thế giới nghệ thuật kịch Nam Xương, chúng tôi rút ra những nét nổi bật về nghệ thuật kịch của ông như sau: 2.3.1. Sự ảnh hưởng của chủ nghĩa cổ điển và luật “ba duy nhất” Nam Xương thuộc thế hệ những người “khai sơn phá thạch” cho nền kịch nói hiện đại Việt Nam, xây dựng một bộ môn nghệ thuật chưa từng có trong lịch sử sân khấu nước nhà. Vì vậy, việc tiếp thu các phương pháp sáng tác từ Châu Âu là một tất yếu khách quan. Trong buổi đầu của sự du nhập và phát triển sân khấu kịch nói ở Việt Nam, do sự tương đồng về hoàn cảnh lịch 50 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(51)</span> sử giữa xã hội Việt Nam đương thời và xã hội Pháp thế kỷ XVII - giai đoạn chuyển hoá từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản - nên về mặt nội dung và hình thức biểu hiện, chủ nghĩa cổ điển trong văn học nghệ thuật nói chung, trong nghệ thuật kịch nói nói riêng như một sự lựa chọn tự nhiên trong tâm thức sáng tác của các nhà văn, nghệ sĩ, và trong tâm thức tiếp nhận của công chúng. Không ngẫu nhiên ở thời kỳ này, khi quảng cáo diễn kịch, phê bình kịch bản,… trên báo chí, người ta thường nói rõ là “vở kịch được soạn theo cách thức cổ điển”, “đây là vở kịch soạn theo quy cách cổ điển Âu Châu”. Đặc trưng của phương pháp sáng tác theo chủ nghĩa cổ điển là coi việc giáo huấn con người là mục đích sáng tác, là tiêu chuẩn giá trị của kịch bản, là lý do tồn tại và phát triển của sân khấu. Người viết dùng kịch để chỉnh đốn luân lý, bảo vệ đạo đức, chế giễu phê phán cái ác. Nhân vật trong kịch cổ điển được xây dựng với tính cách duy nhất, theo nguyên tắc bất biến, thể hiện trong lát cắt hành động của nhân vật, tại một thời điểm, một hoàn cảnh nào đó. Một điều cần nói nữa là, sự tuân thủ phương pháp sáng tác kịch cổ điển của các tác giả kịch nói Việt Nam thời kỳ này còn chịu ảnh hưởng của luật “Ba duy nhất”, bắt nguồn từ quan điểm thi học của Arixtot, được tổng hợp từ các sáng tác sân khấu cổ điển ở phương Tây, rất phù hợp với nhận thức và sự tiếp nhận của công chúng Pháp thế kỷ XVII. Trong bối cảnh xã hội – văn hoá như vậy, Nam Xương là một trong những người tiên phong trong việc áp dụng các nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa cổ điển và luật “Ba duy nhất” trong kịch nói, mà ông gọi là “quy tắc nghề kịch Âu tây”. Trong lời tựa vở Chàng Ngốc, ông viết rõ về các quy tắc này: “Kịch của Thái - Tây mà ta bắt trước về đời Pháp - văn - cổ - điển đại khái có năm điều bó buộc; 1. Hoạt động duy nhất (Unité d‟action) - Cả thiên kịch chỉ xảy ra có một việc. 2. Bài trí duy nhất (Unité de lieu) - Ở một nơi có một cảnh 3. Thời gian duy nhất (Unité de temps) - Trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ 51 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(52)</span> 4. Kịch thể duy nhất ( Unité de forme) - Bi hài không được lẫn lộn 5. Từ khúc nghiêm trang (La dignité du style) - Giọng bi kịch phải hùng hồn thảm đạm, giọng hài kịch phải nhã nhặn thanh tao” Về sau các văn sĩ cho điều thứ hai, thứ ba, thứ tư là chật hẹp quá, phá hoại đi mà lập nên lối kịch lãng mạn…” Nhưng ông nói rõ rằng, “các tiên sinh lại cho điều hoạt động duy nhất là cần nhất và cốt nhất các vai phải hoạt động sao cho cảm xúc khán - quan một cách thuần tuý. Tức là Năng cảm duy nhất (Unité d‟impression). Đã cốt cảm xúc khán quan thì dù bi hài có lẫn lộn mà điều thứ năm trên này phải theo… Nói tóm lại, ngoài cái bó buộc về văn từ là điều phụ thuộc mà cũng là lẽ tất nhiên, các nhà soạn kịch bây giờ chỉ cần có mỗi một điều là duy nhất sự hoạt động”. Vậy là một cách rất ý thức, Nam Xương đã “giới thuyết” cho phương pháp sáng tác cổ điển ở kịch nói Việt Nam thời kỳ này. Ông không chỉ đưa nó đến cho người viết như một yêu cầu “ta muốn bắt trước nghề, tất phải am hiểu cái quy tắc ấy”, mà còn muốn định hướng cho công chúng thưởng thức theo “các quy tắc nghề kịch Âu tây”: “… phải luyện tập một công chúng biết dần lấy quy tắc ấy để khen chê cho đích đáng, vỗ tay cho có ý vị và biết coi người diễn kịch làm một món tiêu khiển có mỹ thuật khác hẳn với các cuộc chơi thường”. Ảnh hưởng của phương pháp sáng tác cổ điển trong kịch Nam Xương vì thế mà rất rõ rệt. Trong giai đoạn này các tác giả Việt Nam đều sáng tác dựa trên các nguyên tắc của luật “ba duy nhất”, từ Vi Huyền Đắc, Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim,… đến Nam Xương. Nhưng việc tuân theo đúng 3 quy tắc duy nhất về không gian, thời gian, hành động cũng không triệt để. Vũ Đình Long trong Chén thuốc độc, Vi Huyền Đắc trong Cô đầu Yến, Nghệ sĩ hồn… cũng phá vỡ sự duy nhất về thời gian. Theo Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý, “duy chỉ có Nam Xương với hai vở Chàng Ngốc và Ông Tây An Nam là giữ đúng cốt cách của hài kịch cổ điển mà thôi.” [13, tr. 161] 52 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(53)</span> Trước hết là trong vở Chàng Ngốc. Trong một không gian duy nhất là nhà Sỉn ông, với một khoảng thời gian được tính toán rất kỹ từ khi bắt đầu câu chuyện (Tình sinh đến bán vé số từ thiện, thừa nhận với con Nhài về mối tình của mình với cô Cỏn ) đến khi kết thúc câu chuyện (Ngốc sinh từ bỏ lễ dẫn cưới, nhường lại cô Cỏn cho Tình sinh) chỉ có hai mươi bốn giờ. Tuân thủ nghiêm ngặt luật “Ba duy nhất”, nhà văn xây dựng một cốt truyện có hành động quán xuyến nảy sinh mâu thuẫn: gia đình Sỉn ông gả chồng cho con gái, nhưng cô gái không đồng ý lấy người mà cha mẹ sắp đặt cho mình, cô tìm cách chống lại để được lấy người mình yêu. Xoay quanh xung đột ấy, các nhân vật bộc lộ phẩm chất, tính cách của mình: Sỉn ông tham lam, bần tiện, Sỉn bà thương con nhưng sợ chồng, Ngốc sinh ngốc nghếch nhưng chất phác, biết tôn trọng lẽ phải, cô Cỏn tân tiến, quyết liệt đấu tranh cho tình yêu, Tình sinh đắm đuối với tình, Tư Sùng ham tiền, lật lọng, Đại Phong gàn dở nhưng thực dụng… Hành động kịch càng phá triển, mâu thuẫn càng được đẩy lên cao, các nhân vật càng bộc lộ tính cách rõ hơn. Xung đột ở mức cao nhất: Kế hoạch đưa cô Cỏn đi trốn bị bại lộ, Sỉn ông nhận 5000 đồng của Ngốc sinh, hẹn 5 giờ chiều cho đón dâu; cô Cỏn tuyệt vọng chuẩn bị giấm thanh và thuốc phiện để uống, Sỉn bà thì đau đớn vì con gái mình “hư hỏng” dám viết thư cho giai, lại còn hẹn giai trong nhà, làm huỷ hoại phẩm tiết và danh tiếng gia đình (!). Sau khi đẩy xung đột đến mức cao nhất, tác giả khéo kéo gỡ nút: Tình sinh đi tìm Ngốc sinh để thương lượng. Đến giờ đón dâu thì Ngốc sinh và Tình sinh cùng mọi người xuất hiện, Ngốc sinh nhường cô Cỏn cho Tình sinh, Tình sinh vừa được vợ vừa được tiếng là giữ danh giá cho cô Cỏn, lại còn trúng vé số 2 vạn của hội Việt Nam hài kịch nên có tiền trả Ngốc sinh, Sỉn ông và Tư Sùng vẫn có được số tiền như mong muốn. Sỉn bà hoan hỉ vì con gái mình không mất danh giá nữa.. 53 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(54)</span> Trong vở Ông Tây An Nam, với một không gian duy nhất là nhà Cưu ông, với thời gian diễn ra câu chuyện theo đúng quy tắc - từ lúc cụ Huấn và tham Tứ đến mừng Cưu ông chuẩn bị đón con trai từ bến tàu về nhà đến lúc cử Lân quát đầy tớ “theo tao sang Pháp mà làm người Âu châu” cũng chỉ vẻn vẹn hai mươi bốn giờ, cốt truyện cũng chỉ xoay quanh một hành động kịch quán xuyến là: cử Lân đi du học ở Pháp về, hoàn toàn từ bỏ nguồn gốc An nam của mình, nhưng khi về nước, y đứng trước mâu thuẫn của chính mình: làm một “ông Tây An Nam” hay lấy được Kim Ninh. Trong khi đó, Kim Ninh đã có người yêu. Bố mẹ và những người thân thích, vì những mục đích khác nhau, cũng không chấp nhận sự Tây hoá của y, dẫn đến mâu thuẫn giữa cử Lân và cộng đồng. Mâu thuẫn trong bản thân cử Lân và mâu thuẫn giữa cử Lân với cộng đồng đẩy hành động kịch phát triển: Cử Lân từ một kẻ quyết liệt từ bỏ cộng đồng, thuê khách sạn ở, không nói một tiếng Việt nào, nhưng vì muốn được gần gũi Kim Ninh mà giả vờ thay đổi, chấp thuận về nhà, nói tiếng Việt. Nhưng Kim Ninh chỉ yêu tham Tứ nên nhất quyết từ chối. Tham Tứ đánh cử Lân, bị cử Lân gọi cẩm cho vào bóp. Đỉnh cao của xung đột kịch là sự vờ vịt, giả làm… “người An Nam”của cử Lân đã làm Cưu ông, Cưu bà, cụ Huấn tưởng thật nên hai ông bà bàn tính chuyện cưới Kim Ninh cho y. Nhưng trước mặt mọi người, Kim Ninh đã kiên quyết vạch rõ sự không chân thành cùng những quan niệm về hôn nhân xa lạ với truyền thống dân tộc của cử Lân, đồng thời bảo vệ tình yêu của mình với tham Tứ, khiến y bẽ mặt, trở lại nguyên hình là một kẻ vong bản. Có thể thấy rõ rằng, trong tổ chức kịch bản, Nam Xương luôn ưu tiên cho hành động kịch. Do những quy tắc nghiêm nhặt của phương pháp cổ điển về không gian, thời gian nên các tình huống, hành động kịch xảy ra liên tiếp, kết hợp với hoạt động ở bên trong. Việc xây dựng các tuyến nhân vật vừa đủ để triển khai nội dung, tập trung cao độ các đối thoại, độc thoại cho việc làm rõ chủ đề của vở kịch. 54 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(55)</span> Sự tiếp nhận phương pháp sáng tác cổ điển và luật ba duy nhất ở một hoàn cảnh lịch sử mà phương pháp ấy phù hợp với tâm thức cộng đồng, cộng với tài năng nghệ thuật của cá nhân nhà văn, đã làm nên giá trị về mặt nghệ thuật cho kịch Nam Xương, góp phần chuyển tải thành công thông điệp tư tưởng của tác phẩm, làm cho kịch Nam Xương gây được tiếng vang trong đời sống văn học và xã hội đương thời. 2.3.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống hài hước, qua đó thể hiện thái độ châm biếm, giễu nhại, phê phán. Nếu như viết kịch là niềm say mê của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc thì hài kịch có thể xem là sở trường của ông. Việc nắm vững và vận dụng các nguyên tắc trong phương pháp sáng tác cổ điển hỗ trợ ông rất nhiều trong tổ chức kịch bản, nhưng các tình huống hài hước sống động, chân thực đem lại tiếng cười sảng khoái và sau đó là sự ngẫm ngợi cho người đọc thì phải xuất phát từ cảm quan nghệ thuật của tác giả, xa hơn nữa là sự ảnh hưởng của phong cách hài hước trong chèo cổ dân gian. Vô số những tình huống hài hước được xây dựng, “trưng” ra cho người đọc, người xem. Xin dẫn ra một số tình huống : Trong Ông Tây An Nam (cảnh 3 hồi 1), cử Lân đang “dạy” cho Cưu ông biết những thứ vui thú ở Châu Âu, khuyên bố mình bỏ gia đình sang bên đó để thành người tây thì Cưu bà về: - Cử Lân (qua lời dịch của Khiếu): Cụ phải biết ở Ba Lê sướng lạ! Giời lúc nào cũng tốt, cơm không có đâu ngon hơn, con gái thì cha! Trời ơi! Đẹp ơi là đẹp!… Phải tới nơi mới được, ông cụ nhà tôi ơi! - Cưu ông: Tôi hỏi ông, ông sui tôi bỏ mẹ ông, các em ông, mồ mả gia tiên nhà ông, sang đó làm người tây à? ……... 55 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(56)</span> - Cử Lân (qua lời dịch của Khiếu): …Xin miễn cho cái thương khóc hão huyền. Làm gì những cái bẩn thỉu ấy, nhất là cái quá ư không đáng kể mà tên gọi là đàn bà An nam thì không sao thương được. (Cưu bà vào) - Cưu bà: Đàn bà An nam không thương được thì mày xui bố mày bỏ tao đi! - Cử Lân: Encore elle? (Lại bà này nữa?) - Cưu bà: Bẩm ông, con tôi nó vừa gọi đội xếp cho tôi vào bóp từ ban nãy đến giờ đấy ạ! - Cưu ông: Chết! Thật thế ư con? - Cử Lân: Oh! (Rồi giả vờ cầm lấy cái lọ mà xem) - Cưu bà: Ông cứ hỏi anh này thì biết! (Với Khiếu) Anh kể lại cho ông tôi nghe tí! - Khiếu: Ô! (Rồi cũng cầm mà xem cái ống nhổ) (cảnh 4 hồi 1 – Ông Tây An Nam) Một tình huống cũng làm người đọc bật cười, vì sự lầm tưởng của cụ Huấn về cử Lân làm cho cụ hài lòng, nhưng chỉ ngay sau đó cụ đã thất vọng: - Cử Lân (đang nói chuyện với Khiếu): Sao dễ thế! Mày tưởng tao có thể… (Nói đến đây thì cụ Huấn vào, nhưng cử Lân không trông thấy)… vì một cái sắc đẹp mà quên được nước tao sao? - Cụ Huấn: Giỏi! Ông này tâm địa khá! Xã hội Việt Nam có thể trông mong được đấy! (Nói với cử Lân) Chả bù với cụ ông chỉ biết tranh nhau thủ lợn trong làng thôi! - Cử Lân (không giả nhời cụ Huấn, giả nói ngọng mà hỏi Khiếu): Vậy cai nay s‟appelle cai ban? - Khiếu: Vâng. - Cử Lân: Et cai nay? C‟est mot cai lo? - Khiếu: Vâng - Cử Lân: Et cái này? Qu‟est - ce ? Cai hom? 56 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(57)</span> - Khiếu: Bẩm không, cái tủ chè. - Cụ Huấn: Ô hay! Ông Cử học tiếng ta hay sao thế? - Cử Lân: C‟est ca. Je học tiếng ta. Je xin lỗi cụ que je không đủ langage pour noi truyen voi cu. - Cụ Huấn: Thế mà tôi cứ tưởng ông ái quần ái quốc lắm, ai ngờ đâu đến tiếng nói của tổ quốc ông cũng quên! (cảnh 2 hồi 2 – Ông Tây An Nam) Trong vở Chàng Ngốc, cũng có rất nhiều tình huống hài hước. Như tình huống Tình sinh cùng Hão Nhân, Liên Sắc đến bán vé số cho Sỉn ông. Ba người dấu loại vé 5 hào, nài nỉ mãi Sỉn ông mới mua một vé loại 1 đồng. Khi phát hiện ra còn có loại vé 5 hào, Sỉn ông đòi đổi, nhưng Tình sinh không cho, nói là lỡ xé vé rồi. Ba người đi khỏi, Sỉn ông sai Dụt đi ra phố “bán lại vé lấy 5 hào, còn bao nhiêu cho mày”. Dụt bán lại cho cô Cỏn 8 hào. Sỉn ông biết là bán được 8 hào nhưng không biết là bán cho người nhà, lập tức đòi lại 6 hào chứ không phải 5 hào như đã hứa với Dụt. Một tình huống hài hước khác cũng gây sự hấp dẫn cho người đọc, đó là khi Tình sinh thuyết phục được bà Tư Sùng bỏ đám của Ngốc sinh, quay sang làm mối cho mình và cô Cỏn, với khoản tiền là 1200 đồng, định nhờ hai người bạn đi cùng, thì họ kiếm cớ chuồn hết. Tình sinh đang rối trí thì gặp Ngốc sinh vừa đổi tên chữ theo lời khuyên của Đại Phong là Phan Ái Xiêm nên cả hai đều không biết đấy là tình địch của mình. Do Ngốc sinh tỏ ra hào hiệp, nên Tình sinh liền vay luôn tiền Ngốc sinh. Vay xong rồi mới kể chuyện tình của mình cho Ngốc sinh nghe, rồi cảm ơn Ngốc sinh và đi. Ngốc sinh sững sờ, mới biết đấy là Tình sinh. Qua những tình huống hài hước trên đây, ta thấy Nam Xương thể hiện thái độ châm biếm, giễu nhại khá sắc sảo. Ông chế giễu sự cả tin, ngốc nghếch của cả hai chàng tình địch, châm biếm tính keo kiệt bủn xỉn của Sỉn ông, làm nổi bật để rồi phê phán thói ngược ngạo của cử Lân. Còn rất nhiều 57 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(58)</span> tình huống hài hước trong hai vở kịch này, và toát lên ở chúng là những thái độ khác nhau của tác giả. Có khi là sự dí dỏm, có khi là sự mỉa mai, có khi là sự giễu nhại, cao hơn cả là sự phê phán. Điều quan trọng nhất là mỗi tình huống hài hước mà Nam Xương tạo ra lại làm nổi bật lên tính cách nhân vật và thúc đẩy hành động kịch. Những chuỗi tình huống hài hước nối tiếp nhau, tạo cơ hội cho nhân vật bộc lộ tính cách, đồng thời phát triển hành động kịch, làm nên dòng chảy logic của cốt truyện, thúc đẩy xung đột đến đỉnh cao. Tạo ra những tình huống hài hước là đặc trưng thi pháp của hài kịch. Nhưng qua những tình huống ấy để làm nổi bật tính cách của nhân vật thì Nam Xương đã tỏ ra khá chắc tay so với nhiều nhà viết kịch cùng thời, như Nguyễn Hữu Kim, Trần Đại Thụ, Tương Huyền… Tương Huyền viết khá nhiều hài kịch, như Nặng nghĩa tớ thầy (hài kịch 4 hồi), Sau mười lăm phút (hài kịch 1 hồi), Giá mợ bớt đi (hài kịch 1 hồi), Chạm trán (hài kịch 1 hồi), nhưng các tình huống hài hước làm nổi rõ tính cách các nhân vật của Tương Huyền cũng chưa thành công như Nam Xương. 2.3.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã rất thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình mang tính cách văn hoá điển hình, thông qua hình tượng nhân vật “Ông Tây An Nam”. Sự thành công này, ngoài khả năng sáng tạo của bản thân, một phần còn do sự tuân thủ nghiêm nhặt “quy tắc kịch Âu tây” như ông theo đuổi, trong đó có quy tắc về việc xây dựng nhân vật có tính cách đơn nhất, độc diện. Để có một nhân vật điển hình cho một loại trí thức Tây học vong bản như vậy, nhà văn đã “dụng công” xây dựng cho suy nghĩ và hành động của y nhất quán từ ngoại hình đến thái độ, lời nói, hành vi…Về ngoại hình, cử Lân ăn mặc quần áo Tây sang trọng và lố lăng. Về thái độ, y nhất nhất thực hiện một thái độ khinh miệt đối với đồng bào mình, kể cả với những người sinh ra mình, khinh miệt tất cả những gì thuộc về quê hương bản quán, đến mức 58 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(59)</span> không dùng cả một chiếc cốc uống bia vì “có mùi bản xứ”. Về lời nói, ban đầu y không dùng tiếng Việt, chỉ nói tiếng Pháp và cho Khiếu dịch lại, sau vì mê Kim Ninh nên nói tiếng Việt, nhưng vẫn chen lẫn tiếng Pháp, . Y dùng tiếng Pháp để dèm pha, mỉa mai, chế giễu ngay cả cha mẹ mình. Với Cưu ông: “Quel est ce vieux fon là?” (Người già nào mà điên thế này?) (cảnh 3, hồi 1); với Cưu bà: “…Oh, Quelle diablesse!...Et puis, chère Madame ma mère et commère,…”, khiến Cưu bà không thể chịu nổi: “Thôi, mày chả phải tiếng tây tiếng tầu mày chửi tao đi, mày chửi tao chán ra rồi. Mày cứ chửi cha chửi mẹ mày…” (cảnh 4, hồi 1). Nhưng rồi, sau khi bị Kim Ninh từ chối y lại quay về tiếng Pháp.Câu nói của y khép lại vở kịch, thể hiện sự vong bản đến cùng, cũng là một câu tiếng Pháp: “Suis – moi en France pour devenir un homme d‟Europe!”(Theo tao sang Pháp mà làm người Âu châu!) Về hành động, y không ăn cơm do bố mẹ mời, vì không thèm dùng đồ ăn bản xứ, không thèm ở nhà của cha mẹ mà thuê khách sạn ở. Y coi đầy tớ như súc vật, tha hồ đánh đập nhục mạ, như với nhân vật Bộc. Y tỏ ra nghe lời cha mẹ để tìm cách lấy lòng họ, nhưng lại không dấu được cái đuôi mất gốc, khi nói với mẹ y rằng sẽ sang Pháp giật lấy cái bằng tiến sĩ về “hết thảy cái gì gọi là phong tục của xứ này…chính me sẽ được tả từng li từng từng tí…Chao ôi, cứ nghĩ cũng đủ tởm!” Có thể khẳng định, Nam Xương đã rất thành công trong việc xây dựng được một nhân vật điển hình như cử Lân. Có lẽ khi xây dựng nhân vật này, như dự định của ông trong lời tựa kịch bản Ông Tây An Nam, “là nhân vật riêng của xã hội nước nhà”, Nam Xương cũng không nghĩ rằng, “Ông Tây An Nam” lại có sức sống mạnh mẽ và lâu bền đến thế trong văn học và đời sống. Bởi cụm từ “Ông Tây An Nam” đã trở thành một điển cố mới trong văn học hiện đại, có đời sống riêng trong tâm thức người Việt, đã trở thành một thành ngữ mới của trong tiếng Việt, mà nhắc tới nó, cho dù ai đó chưa độc kịch bản, chưa xem vở diễn, cũng đều hiểu là thành ngữ ấy chỉ một kẻ Tây hoá đến mất cả gốc Việt. 59 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(60)</span> Thành công của Nam Xương, theo chúng tôi, là do ông đã phản ánh rất sâu sắc một hiện tượng hết sức điển hình trong xã hội Việt Nam ở thời kỳ mà cuộc tiếp biến văn hoá Đông - Tây đầu tiên trong lịch sử đã gây ra những ảnh hưởng ở cả hai mặt: tích cực và tiêu cực; và một trong những ảnh hưởng tiêu cực của nó là sinh ra những kiểu người vong bản một cách dị hợm, quái đản. Cử Lân là sản phẩm quái thai của một xã hội đang mất dần những giá trị cổ truyền, thay vào đó là thái độ và lối sống vọng ngoại, với những chuẩn mực xa lạ với bản sắc văn hoá dân tộc. Bên cạnh cử Lân, nhiều các nhân vật khác cũng được xây dựng khá kỹ lưỡng, mang tính cách văn hoá điển hình. Đó là Sỉn ông với tính cách keo kiệt bủn xỉn và hám lợi thể hiện từ đầu đến cuối tác phẩm. Khi xây dựng vở Chàng Ngốc, Nam Xương chịu ảnh hưởng sâu sắc của Molière, bản thân ông cũng khẳng định như vậy, nên Sỉn ông mang bóng dáng của lão hà tiện Harpagon. Cho dù như vậy thì ở Sỉn ông vẫn có những nét hấp dẫn riêng, vì sự láu cá, bần tiện được thể hiện trong một người đàn ông Việt, với những lời ăn tiếng nói, cử chỉ hành động quen thuộc với tâm thức công chúng Việt. Ở bất kỳ cảnh nào Sỉn ông xuất hiện, cứ mở miệng là nói đến tiền, toan tính mọi việc đều nhằm xem mình được bao nhiêu. Hãy xem cảnh Sỉn ông và Sỉn bà tra hỏi con gái sau đây để thấy rõ tính cách của Sỉn ông: - Sỉn bà: Mày rắt tay nhau với thằng Tình sinh đi rong phố mấy lần? - Sỉn ông: Mấy lần tao khám ví mày có năm bẩy đồng bạc, mày tiêu những gì? - Cô Cỏn (khóc): Trời ôi! - Sỉn bà: Hôm nghỉ lễ tháng trước, mày lên Hà Nội làm gì? - Sỉn ông: Mày phí phạm bao nhiêu là tiền, tiền ấy mày vay mượn những ai? - Cô Cỏn (khóc): Thầy mẹ giết con đấy ư? - Sỉn bà: Tao chẳng giết gì mày, mày làm nhơ nhuốc cho cha mẹ, làm hư danh bại giá mày thì mày lại giết mày chứ ai giết mày nữa?. 60 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(61)</span> - Sỉn ông: Mày giả câm chán bây giờ lại giả vờ muốn chết có phải không? Nhưng mà này tao bảo: tao không sợ cái chết của mày đâu, người ta cũng đã rẫn tiền rồi. (cảnh 11, hồi 5 – Chàng Ngốc) Ngay cả khi Ngốc sinh nói không lấy cô Cỏn nữa, Sỉn ông nói ngay: “Nhưng mà tiền đưa rồi không đòi lại được nữa đâu, tôi bảo trước!” (cảnh 12, hồi 5 – Chàng Ngốc) Như đã trình bày ở trên, khi xây dựng nhân vật Sỉn ông, Nam Xương chịu ảnh hưởng sâu sắc của Molière với “mẫu gốc” là lão hà tiện Harpagon, nên giữa hai nhân vật có nét tương đồng và khác biệt. Nét tương đồng ở chỗ: Nếu như nhân vật Harpagon là điển hình tiêu biểu cho lòng ham vàng của người tư sản tích luỹ đương hình thành trong thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu thì Sỉn ông là một gương mặt méo mó của tầng lớp tiểu tư sản trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản. Nét khác biệt là ở chỗ: mang bóng dáng của Harpagon, nhưng Sỉn ông còn chịu ảnh hưởng của nền văn hoá - đạo lý của dân tộc Việt Nam. Sự keo kiệt, hám lợi đến mức bất chấp cả đạo lý, tình cảm cha con, vợ chồng vốn là những tình cảm thiêng liêng đối với người Việt Nam, đi ngược lại truyền thống“trọng con hơn trọng của”, “đói cho sạch, rách cho thơm” của dân tộc Việt, cho thấy sự tha hoá của một con người vì tiền tài vật chất. Sự tha hoá ấy có nguyên do từ sự xuống cấp về luân lý đạo đức trong một xã hội thực dân nửa phong kiến đang biến động, thay đổi vì sự xâm nhập của văn hoá - văn minh phương Tây. Với nhân vật Tây Thi trong vở Tây Thi, nhà văn cũng xây dựng được một hình tượng nhân vật nữ thông minh, sắc sảo, mang sắc đẹp khuynh quốc khuynh thành, nhưng vẫn có một tâm hồn trong trẻo của một cô thiếu nữ thôn quê. Tây Thi mang tình yêu cháy bỏng với một vị tướng quốc, nhưng cũng sẵn sàng hy sinh làm đồ cống nạp cho vua nước Ngô, vì trách nhiệm của một 61 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(62)</span> kẻ làm tôi nước Việt. Vẻ đẹp của Tây Thi được xây dựng một cách hoàn chỉnh từ ngoại hình đến nội tâm, vẻ đẹp đầy khí phách của một liệt nữ. Bên cạnh Tây Thi, Phạm Lãi cũng là một nhân vật mang tính cách điển hình. Trí dũng song toàn, trung quân, ái quốc, yêu say đắm Tây Thi nhưng sẵn sàng hy sinh tình riêng vì nghĩa lớn, đó là hình ảnh tiêu biểu của những nhân vật anh hùng của các triều đại phong kiến. Nhưng cũng là nhân vật Phạm Lãi, trong Văn Chủng, Nam Xương lại xây dựng một tính cách khác. Vẫn là tướng quốc Phạm Lãi cơ trí, mưu lược, nhưng sự mưu lược, cơ trí lần này không phải để phò vua Câu Tiễn trị quốc bình thiên hạ, mà dùng để tự cứu mình, cứu Tây Thi ra khỏi tai hoạ do chính vua và hoàng hậu gây ra, khi đất nước thanh bình, vua không còn dùng đến tướng quốc nữa. Đó là cách ứng xử khôn ngoan của người ưu thời mẫn thế. Bi kịch của Văn Chủng tướng quân là câu trả lời cho sự lựa chọn đúng đắn của Phạm Lãi. Vậy là chỉ với một nguyên mẫu là nhân vật Phạm Lãi trong lịch sử, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã khai thác được hai nhân vật mang hai kiểu tính cách khác nhau, giải quyết được hai xung đột kịch khác nhau, nếu không muốn nói là đối nghịch nhau. Mặc dù Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc viết không nhiều, nhưng chỉ với một nhân vật điển hình, với một tính cách văn hoá điển hình là cử Lân, ông đã để lại dấu ấn trong làng kịch nói hiện đại - điều đó đã được khẳng định từ lâu. Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật của ông thông qua những nhân vật trên đây, chúng ta càng thấy rõ hơn tài năng và nhân cách của ông trong lĩnh vực nghệ thuật mới mẻ đối với văn học và sân khấu Việt Nam đầu thế kỷ XX. 2.3.4. Nghệ thuật miêu tả tâm lý của nhân vật Mặc dù đặc trưng của sự chiếm lĩnh nghệ thuật đối với hiện thực của kịch là hướng về việc tổ chức các hành động dẫn đến xung đột, thêm nữa Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc thuộc thế hệ tiên phong đặt nền móng cho nghệ thuật kịch nói Việt Nam nên “tay nghề” ông chưa xuất sắc như các tác 62 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(63)</span> giả hiện đại sau này, nhưng ở nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, ông đã đạt được những thành công bước đầu. Nhân vật của ông, cho dù ở kịch ngắn một hồi hay các vở kịch dài hơi hơn, không phải lúc nào cũng thực hiện hành động theo sự sắp đặt khéo léo của tác giả, mà đứng trước những mâu thuẫn, xung đột, cũng phải trải qua các quá trình đấu tranh nội tâm, với những dằn vặt, đắn đo, suy nghĩ. Trong vở Chàng Ngốc, bản thân Ngốc sinh vốn được xây dựng với tính cách điển hình là ngốc nghếch và dốt nát, nhưng cũng trải qua một cuộc đấu tranh nội tâm khi đứng trước mâu thuẫn giữa ước muốn của mình (là kết hôn với cô Cỏn), và sự sợ hãi cho tính mạng của ba người (vì Tình sinh nói nếu Ngốc sinh lấy cô Cỏn thì sẽ có ba người chết!). Cuộc đấu tranh nội tâm ấy có lúc bị Sỉn ông tác động, nên ước muốn kết hôn với cô Cỏn chiến thắng, Ngốc sinh đem tiền sính lễ đến nạp ngay cho Sỉn ông. Nhưng sau đó, Tình sinh lại gặp gỡ, thuyết phục (việc này không diễn ra công khai trên sân khấu, mà theo như dụng ý của Nam Xương, là loại “hoạt động bên trong”), nên kết cục, Ngốc sinh nhường cô Cỏn cho Tình sinh. Trong một vở hài kịch ngắn theo phương pháp cổ điển như vậy, xây dựng được tình huống kịch làm cho một nhân vật ngốc phải đấu tranh nội tâm và có được quyết định hợp tình hợp lý để “gỡ nút” cũng là một thành công của Nam Xương Ở “Ông Tây An Nam” cử Lân, mâu thuẫn giữa thái độ quyết liệt chối bỏ dân tộc và ham muốn chinh phục Kim Ninh làm y phải tính toán trong suy nghĩ, dẫn đến hành động “nhượng bộ” làm “người An Nam”, và nói tiếng Việt. Nhưng khi không chinh phục được Kim Ninh thì ngay sau lời Kim Ninh khẳng định tình yêu với tham Tứ, y quay ngoắt lại thái độ vong bản ban đầu, chuyển sang nói toàn tiếng Pháp. Và y giải thích cho tình trạng bẽ bàng của mình bằng một cách lý giải rất quái quỉ: “Dis - leus que c‟est la temperature indigène qui m‟a déréglé l‟esprit!” (Bảo chúng rằng vì không khí thuộc địa làm cho tao đãng trí!). Diễn biến hiện thực - tâm lý khá phức tạp trong trường 63 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(64)</span> đoạn vừa rồi cho thấy sự kỹ lưỡng và sắc sảo của tác giả trong nghệ thuật xây dựng hành động kịch. Trong bi kịch Tây Thi, quá trình khai thác diễn biến tâm lý hai nhân vật Phạm Lãi và Tây Thi diễn ra phức tạp hơn. Phạm Lãi, trong suốt vở kịch, luôn ở trong tâm trạng giằng xé giữa khát vọng tình yêu lứa đôi và sứ mệnh của kẻ sĩ trung quân ái quốc, và tâm trạng ấy luôn được đặt vào những tình huống phải lựa chọn một quyết định. Khi gặp Tây Thi giặt lụa ở làng Trữ La, Phạm Lãi đã đem lòng yêu thương, nhưng trách nhiệm đi tìm mỹ nhân dâng vua nước Ngô mà Câu Tiễn giao cho khiến Phạm Lãi phải đấu tranh tư tưởng: mang Tây Thi về cung hay dấu đi cho riêng mình? Nhất là khi Tây Thi oán trách Phạm Lãi: “Thế là những lời tình ái của quan tướng quốc nói với thiếp ban nãy, bây giờ đã thành lời bỏ đi! Thương ơi! Người còn mà lời đã ra thiên cổ! Ư, mà thiếp lầm rồi! Ngay người nữa, làm gì mà còn? Cái người nói với Tây Thi những lời êm đềm đó là một cậu học trò, một người du lịch, có đâu là một quan tướng quốc. Người ấy đã nhường chỗ cho một vị đại thần phong thể”. Phạm Lãi và Tây Thi bàn cách đưa Trịnh Đán thế chỗ Tây Thi. Nhưng rồi khi cả hai người cùng về cung, thì Tây Thi vẫn bị đem đi cống Ngô cùng Trịnh Đán. Diễn biến “phía trong sân khấu” cho thấy Phạm Lãi đã đấu tranh tư tưởng và quyết định dâng Tây Thi cho triều đình. Đến khi Câu Tiễn cử Phạm Lãi đưa Tây Thi và Trịnh Đán đi cống Ngô, hơn một năm được gần gũi nhau, mối quan hệ tình cảm giữa Tây Thi và Phạm Lãi đã quá sâu nặng, đến mức hai người gọi nhau là “lang quân - ái nương”, vậy mà vì nghĩa lớn, họ vẫn dứt tình. Khai thác nhân vật ở chiều sâu tâm lý và các cung bậc tình cảm, để rồi đẩy xung đột kịch lên đỉnh điểm, đó là cái tài của tác giả.Tuy số tác phẩm kịch không nhiều, lại chủ yếu viết ở thời kỳ đầu của quá trình hình thành và phát triển kịch nói, nhưng bước đầu Nam Xương đã làm được điều ấy một cách khá thành công. 64 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(65)</span> Tóm lại, qua nghiên cứu kịch bản văn học của Nam Xương, bước đầu chúng tôi nhận thấy những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, làm nên giá trị của kịch Nam Xương. Cụ thể là: Về mặt nội dung: Bao trùm toàn bộ sự nghiệp kịch của Nam Xương là sự trân trọng giữ gìn các giá trị truyền thống dân tộc của một nhà văn giàu lòng yêu nước. Từ việc phơi bày hiện thực xã hội với hai mặt sáng tối của nó trong thời kỳ đầu của quá trình hiện đại hoá, Nam Xương đã cổ vũ, ủng hộ những con người lương thiện, mang cốt cách và tinh thần dân tộc, đồng thời chỉ ra những kẻ tha hoá, vong bản, xa rời truyền thống văn hoá - đạo lý dân tộc, như những sản phẩm của một xã hội mà các chuẩn mực giá trị bị đảo lộn. Bên cạnh đó, trong bối cảnh xã hội đang vận động theo xu hướng dân chủ hoá, tôn trọng các quyền cá nhân của con người, kịch Nam Xương cũng góp thêm tiếng nói cổ vũ cho tình yêu và hôn nhân tự do, phản kháng lễ giáo phong kiến. Ở một góc độ khác, từ việc khai thác các đề tài lịch sử, kịch Nam Xương mang tải những vấn đề mang tính thời cuộc, những suy ngẫm về cuộc đời và số phận con người đương thời, xung quanh việc nhìn nhận và giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa lý tưởng và khả năng thực hiện lý tưởng, giữa khát vọng cá nhân và trách nhiệm xã hội. Về mặt nghệ thuật, những ảnh hưởng của phương pháp sáng tác cổ điển và luật “ba duy nhất” đã đem lại thành công cho kịch Nam Xương trong thời kỳ “khai sơn phá thạch” của kịch nói Việt Nam. Cùng với đó, là những thành công bước đầu về các thủ pháp nghệ thuật xây dựng tình huống hài hước, qua đó thể hiện thái độ châm biếm, giễu nhại, phê phán, nghệ thuật khai thác và biểu hiện diễn biến tâm lý của nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình mà nhân vật “Ông Tây An Nam” là thành công rực rỡ nhất. Bằng tài năng, tâm huyết cùng với những nỗ lực một cách có ý thức để đạt được thành công trên đây, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã có sự đóng góp to lớn vào quá trình xây dựng nền kịch nói Việt Nam ngay từ buổi ban đầu. 65 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(66)</span> Chƣơng III MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT TRUYỆN NGẮN CỦA NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC 3.1. Vài nét về tình hình sáng tác truyện ngắn của Nam Xƣơng Nguyễn Cát Ngạc Như chúng tôi đã trình bày ở phần mở đầu, Nam Xương – Nguyễn Cát Ngạc không chỉ là một nhà viết kịch có tiếng, mà còn là một cây bút truyện ngắn. Tiếc rằng những truyện ngắn của ông chưa được công bố nhiều nên còn ít người biết đến. Bước đầu chúng tôi đã thống kê (có thể chưa thật đầy đủ), về truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc. Tổng số các tác phẩm chúng tôi có được là 37. Trong số đó, có 7 truyện đã được in thành tập truyện Bụi phồn hoa, chúng tôi sưu tầm được tại Thư viện Quốc gia. Toàn bộ bản thảo truyện ngắn (chưa xác định được là công bố hay chưa) của ông mà chúng tôi có được là do ông Nguyễn Hải Thoại, con trai của nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, hiện sống tại Hà Nội, thay mặt gia đình cung cấp cùng với các bản thảo tiểu thuyết, kịch bản văn học mà chúng tôi đã trình bày ở chương I. Những đề tài được quan tâm trong truyện ngắn của Nam Xương Nguyễn Cát Ngạc bao gồm: số phận các nhân vật anh hùng trong lịch sử, sự tha hoá của tầng lớp trí thức, quan lại đương thời, số phận bất hạnh và đầy éo le của những con người cùng khổ dưới chế độ thực dân phong kiến. Chủ đề truyện ngắn Nam Xương Nguyễn Cát Ngạc khá phong phú, trong đó nổi bật nhất là thông qua những câu chuyện lịch sử, thế sự, ông thể hiện tư tưởng yêu nước và tinh thần dân tộc, sự trân trọng các giá trị văn hoá- đạo lý tốt đẹp và tấm lòng nhân ái giữa người với người; thái độ phê phán sâu sắc đối với thói đạo đức giả và những trò lố bịch của lớp trí thức, quan chức bù nhìn trong xã hội đương thời. 66 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(67)</span> Về nghệ thuật, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc chủ yếu sử dụng bút pháp hiện thực, ngoài ra ông tiếp tục phát huy sở trường hài kịch của mình qua bút pháp châm biếm, giễu nhại, và bước đầu thể nghiệm bút pháp kỳ ảo trong một số truyện ngắn. Những thủ pháp nghệ thuật biểu hiện vẫn theo lối truyền thống. Ngoại trừ một số tác phẩm như Ngôi đất công khanh, Một nhà cách mạng,…có sự thay đổi kết cấu, còn phần lớn các tác phẩm của ông chủ yếu vẫn được tổ chức theo lối kết cấu tuyến tính (theo trục thời gian), kết cấu hình tượng nhân vật theo lối song tuyến chính - tà, thiện - ác, chính diện - phản diện. Trong các bản thảo còn lại bút tích của ông như “viết cho Sài Gòn Mới”, “Kể cả truyện này, tôi đã hiến cho độc giả 35 truyện ngắn trên mặt báo Sài Gòn Mới”, cho thấy truyện ngắn của ông được sử dụng nhiều cho báo chí miền Nam sau 1954, thời kỳ ông vào Nam hoạt động dưới danh nghĩa trí thức di cư. Có lẽ do phục vụ nhu cầu in báo mà truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc thường hạn chế về dung lượng, về nghệ thuật thể hiện, và dường như ông vẫn chịu ảnh hưởng của truyện ngắn phục vụ công chúng bình dân trên báo chí trước năm 1945. Nghiên cứu thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chúng tôi bước đầu nhận thấy một số đặc điểm sau: 3.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung truyện ngắn của Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc Là tác giả bắt đầu nghiệp sáng tác của mình ngay từ cuối giai đoạn văn học giao thời (tác phẩm đầu tiên ông công bố là vở kịch Chàng Ngốc, xuất bản năm 1930), với một sự nghiệp văn học luôn luôn đồng hành cùng với sự nghiệp cách mạng, nên trong truyện ngắn nói riêng và trong văn xuôi của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc nói chung, các giá trị, các vấn đề thuộc về nội dung được bộc lộ rất rõ ràng với một quan niệm văn học mang tính truyền thống “văn dĩ tải đạo”. Dường như ông dùng văn chương để bày tỏ, gửi gắm lòng yêu nước, sự trân trọng các giá trị truyền thống của dân tộc, tinh thần đấu 67 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(68)</span> tranh không khoan nhượng với cái xấu, cái ác trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Trong bài báo Về tác giả vở kịch nói Ông Tây An Nam (Tạp chí Nghiên cứu văn học - Viện Văn học, số 7 năm 2001), viết về cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, nhà phê bình văn học Nguyễn Hòa đã đưa ra những nhận xét khái quát về xu hướng sáng tác của ông: “Đọc tác phẩm của ông, có thể nhận ra xu hướng văn hóa - văn học của người viết là ý thức dân tộc, là sự hướng thiện, đồng cảm với con người”. [14] Nghiên cứu kỹ lưỡng các truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, có thể thấy, tư tưởng sáng tác của ông được biểu hiện trong những chủ đề cụ thể và khá phong phú. 3.2.1. Tư tưởng yêu nước và ý thức tự hào về dân tộc gửi gắm qua các truyện ngắn về đề tài lịch sử. Trong số 37 tác phẩm chúng tôi thống kê được, có 5 truyện được Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đề là “truyện dã sử” : Tráng sĩ Phù Đổng, Hoàng Trừu, Huyền Trân công chúa, Nguyễn Thị Lộ, Trên chòi Khâm Thiên. Dã sử là ký ức lịch sử được lưu truyền trong dân gian. Khác với chính sử do nhà nước tổ chức hoặc các học giả biên soạn và ấn hành. Từ điển Tiếng Việt 1992 của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa “dã sử” là: “Lịch sử ghi chép những chuyện lưu truyền trong dân gian, do tư nhân viết, phân biệt với chính sử”. Nội dung có liên quan đến các nhân vật và sự kiện lịch sử . Theo cách hiểu trên đây thì Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã khai thác các câu chuyện được lưu truyền trong dân gian về các sự kiện, nhân vật lịch sử, rồi bằng năng lực văn chương của mình, ông viết lại, hư cấu thêm tình tiết, đưa chúng trở thành tác phẩm văn học hiện đại, như tiểu thuyết, kịch và truyện ngắn. Ngoài 5 truyện ngắn kể trên, còn 2 truyện Giao Long Sơn và Lưu Bình – Dương Lễ, tuy ông đề là “truyện ngắn” nhưng cũng lấy nhân vật, sự kiện lịch sử được lưu truyền trong dân gian làm nội dung sáng tác. Như vậy, truyện về 68 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(69)</span> đề tài lịch sử chiếm 19% tổng số truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc. Là người chiến sĩ cách mạng, đấu tranh trên cả hai lĩnh vực - chính trị và nghệ thuật - nên các tác phẩm của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc nói chung, truyện ngắn về đề tài lịch sử nói riêng, luôn thấm đẫm tư tưởng yêu nước và ý thức tự hào về dân tộc. Trong hoàn cảnh của một người chiến sĩ tình báo, đóng vai trò là một trí thức làm việc trong bộ máy hành chính của kẻ địch, việc bày tỏ thái độ và tinh thần cách mạng qua văn chương thật không hề dễ dàng. Có lẽ đó là lý do mà Nguyễn Cát Ngạc lại có lựa chọn riêng của mình, đó là khéo léo chọn cách dùng “tích cũ” để gửi gắm ý chí, tình cảm với đất nước, với dân tộc. Hai tiểu thuyết Hùng Vương và Bách Việt, như ông nói, “Kẻ viết này dựa vào dã sử mà soạn ra, mong giúp đồng bào và các người yêu nước Việt Nam biết thêm tí chút về thời đại thượng cổ của nước nhà” (Lời nói đầu tiểu thuyết Bách Việt). Những truyện ngắn về đề tài lịch sử được ông dựng lại, về cơ bản thống nhất với những câu chuyện đã lưu truyền trong dân gian. Đó là chuyện nàng công chúa Trần Huyền Chân đi làm dâu Chiêm thành, chuyện Nguyễn Trãi theo Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa, chuyện người tráng sĩ làng Phù Đổng giúp nước giết giặc Ân rồi hoá Thánh bay về trời, …Nhưng qua nghệ thuật xây dựng truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc, những câu chuyện dã sử ấy được hư cấu thêm về tình tiết, nhân vật được xây dựng với diện mạo, tâm lý, hành động cụ thể, sinh động, từ đó mang tải tư tưởng sáng tác của ông. Thông qua việc dựng lại những câu chuyện vốn được lưu truyền một cách trân trọng trong lịch sử nước nhà, các truyện ngắn về đề tài lịch sử của ông là nơi chuyển tải một cách kín đáo và sâu sắc tư tưởng yêu nước, lòng tự hào tự hào về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc. Đó là tư tưởng chủ đạo, quán xuyến các truyện ngắn về đề tài lịch sử của Nguyễn Cát Ngạc. Để chuyển tải được tư tưởng ấy, ông xây dựng một 69 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(70)</span> loạt nhân vật lịch sử theo kiểu nhân vật loại hình. Đó là Huyền Trân công chúa, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Nguyễn Thị Lộ, Phù Đổng,... Các nhân vật này, ở những mức độ khác nhau, đều là những người biết cống hiến và hi sinh cho đất nước, cho dân tộc. Công chúa Huyền Trân trong Huyền Trân công chúa, là con út của Thái thượng hoàng Trần Nhân Tôn, em ruột vua Trần Anh Tôn. Thực hiện lời giao ước của cha mình với Thái tử Chế Mân, nàng lên đường vào làm dâu ở đất Chiêm Thành, rồi cũng vì danh dự, quyền lợi của triều đình vua cha và dân tộc mà nàng gạt nước mắt, từ biệt người mình yêu, quay về chấp nhận theo luật tục người Chiêm: hoặc chết thiêu theo chồng, hoặc tái giá với vua mới (Huyền Trân công chúa). Truyện được khai thác từ nguồn sử liệu, nhưng qua nghệ thuật truyện ngắn, Nguyễn Cát Ngạc đã tái hiện một không gian lịch sử khá đặc biệt, trong đó các nhân vật có những mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau, xoay quanh ba rường cột lớn của lễ nghĩa Nho giáo: vua tôi, cha - con, vợ - chồng. Theo một số sử liệu thì vì hai người có tư tình với nhau trong thời gian thuyền rong ruổi trên biển nên một năm mới về đến kinh thành Thăng Long. Nhưng Nguyễn Cát Ngạc lại đưa ra một kết thúc hoàn toàn khác: Thuyền của Trần Khắc Chung đón được Huyền Trân để tránh cái chết trên giàn thiêu, giong ra biển thì quân Chiêm đuổi theo, yêu cầu Huyền Trân quay về. Nghĩ đến hôn ước cha đã giao kết, nghĩ đến món quà sính lễ sẽ phải trả lại, và nghĩ đến hàng triệu sinh linh hai nước sẽ phải đổ máu nếu sự việc này sẽ khơi nguồn nên một cuộc chiến tranh, Huyền Trân đành dứt áo quay về Chiêm, khước từ tình yêu của Trần Khắc Chung. Trong lúc leo thang lên thuyền Chiêm, nàng xót xa thân phận mình, cảm thương Trần Khắc Chung nên luống cuống, xảy chân ngã xuống biển. Nhà văn sử dụng lối kết thúc mở cho truyện: “Hơn một trăm thuỷ thủ từ các thuyền nhảy xuống vớt nàng. Trong sử hay dã sử không thấy nói có vớt được không, và xác nàng có phải chất lên đàn hoả thiêu không? Chỉ biết châu Ô, châu Ri từ bấy, nói theo lối nói bây giờ, là một vấn đề đã được giải quyết. 70 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(71)</span> Sau này nước ta còn nhiều phen tranh chiến với Chiêm, nhưng không phải vì Chiêm đòi hai châu đó. Hai châu Ô, Ri, người Chiêm coi là vĩnh viễn thuộc nước Việt Nam rồi”. Nhà văn đồng thời là nhà viết kịch nổi tiếng đã chủ động chọn lối kết thúc của bi kịch cho câu chuyện này. Tuy vậy, việc để ngỏ cái chết của Huyền Trân lại không đem lại cảm giác bi luỵ cho người đọc. Bằng cách hướng người đọc đến trách nhiệm cao cả của Huyền Trân đối với nước, với dân mà hi sinh tình riêng, tác giả đã khéo léo xử lý các xung đột giữa tình cảm cá nhân và trách nhiệm xã hội của Huyền Trân, khiến cho câu chuyện bộc lộ rất rõ tư tưởng tác giả, đó là: cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, con người cũng phải đặt trách nhiệm với đất nước, với nhân dân lên trên hết, bởi đó là thứ tình cảm thiêng liêng nhất, cao cả nhất đối với con người yêu nước chân chính. Chính vì thế, nếu buộc phải có một lựa chọn thì hãy chọn nước, chọn dân - đó là sự lựa chọn đúng đắn nhất. Trong truyện Tráng sĩ Phù Đổng, bằng lối dựng lại một câu chuyện hư cấu lịch sử từ truyền thuyết và di tích, Nguyễn Cát Ngạc muốn khơi trong người đọc niềm tin và niềm tự hào về một người anh hùng theo ông là có thật trong lịch sử, đã cùng cả cộng đồng dân tộc Việt chiến thắng ngoại xâm ngay từ thời thượng cổ. Nhà văn không chỉ kể lại truyền thuyết mà còn lý giải Phù Đổng Thiên vương ở góc độ hiện thực. Câu chuyện về tráng sĩ Phù đổng được ông viết lại, “theo các thuyết mới nhất về lịch sử thượng cổ nước ta, và dựa vào các di tích hiện tại”, thật sinh động và thú vị. Như cảnh bài binh bố trận của Phù Đổng để dụ giặc Ân làm người đọc thích thú. Về cái chết của tráng sĩ Phù Đổng, ông viết rằng do bị trúng tên độc. Sau khi Phù Đổng chết, vua Hùng cho phao tin là ông cưỡi ngựa bay về trời, vì thế sau này người Việt có truyền thuyết Phù Đổng Thiên vương. Đáng chú ý là trong số 7 truyện về đề tài lịch sử của Nguyễn Cát Ngạc, có 2 truyện viết về người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới 71 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(72)</span> Nguyễn Trãi. Đó là Trên chòi Khâm Thiên và Nguyễn Thị Lộ. Hai truyện này bổ sung cho nhau, làm nổi bật lên hình tượng một người anh hùng, tài cao đức trọng, đã vì đại hiếu mà hi sinh tất cả, như ở ngay ở phần mở đầu truyện Nguyễn Thị Lộ, tác giả Nguyễn Cát Ngạc đã viết: “Truyện này chứng tỏ tấm lòng hi sinh vô bờ của bậc công thần khai quốc triều Lê, hi sinh hết thảy ái tình, thân thích, danh dự, gia đình, hi sinh để tránh cho nước một cuộc nội loạn, do đó, một cuộc ngoại xâm, mà ông lượng rằng dân ta, vì vừa khó nhọc trong mười năm bình định dưới ngọn cờ Lê Lợi, khó lòng mà xua đuổi nổi”. Trên chòi Khâm Thiên là câu chuyện cảm động về cuộc gặp gỡ giữa hai nhân vật lỗi lạc làm nên cuộc kháng chiến chống quân Minh: Nguyễn Trãi và Lê Lợi. Đây là một trong những truyện hay của ông, vượt qua lối kể chuyện thông thường (như trong Tráng sỹ Phù Đổng). Bắt đầu từ cuộc hành trình của Nguyễn Trãi theo cha là Nguyễn Phi Khanh, người bị quân Minh bắt đi đày ở Trung Quốc. Đến gần ải Nam Quan, nghe theo lời khuyên của cha “quay về đuổi giặc cứu nước, giải thoát dân ra khỏi vòng nô lệ, thế mới là có hiếu, chứ lẽo đẽo theo tao sang đất địch, để chết bên đó thì được ích gì?”, Nguyễn Trãi về dùi mài kinh sử, thi đỗ Thái học sinh (chúng tôi cho rằng Nam Xương Nguyễn Cát Ngạc có sự lầm lẫn ở chi tiết này, vì theo sử sách, Nguyễn Trãi đã đỗ Thái học sinh dưới triều nhà Hồ từ năm 1400, sau đó ra làm quan cùng cha mình; đến năm 1407 giặc Minh sang xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang biên giới, Nguyễn Trãi đi theo để phụng dưỡng cha) rồi rủ Trần Nguyên Hãn đi chu du khắp nước để tìm hiền chúa. Hai người tìm đến Lê Lợi ở núi Lam Sơn - Thanh Hoá. Lúc đầu, hai người rất thất vọng và vỡ mộng, vì bắt gặp cảnh Lê Lợi ngồi thái giò, vừa thái vừa bốc ăn, trông rất phàm tục. Nhưng tình cờ bắt gặp khoảnh khắc Lê Lợi xem thiên văn trên chòi, Nguyễn Trãi nhận ra người mà mình có thể phò tá để đánh giặc. Cuộc gặp gỡ kỳ ngộ trên chòi Khâm Thiên ấy mở ra cuộc kháng chiến chống quân 72 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(73)</span> Minh của dân tộc, mà mối quan hệ “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” là rường cột làm nên thành công. Nếu như Trên chòi Khâm Thiên là một sáng tạo của nhà văn khi mở ra một huyền thoại về cuộc hội ngộ của hai vị anh hùng dân tộc cùng chí hướng “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo”, thì truyện ngắn Nguyễn Thị Lộ lấy cốt truyện từ dã sử về chuyện tình của Nguyễn Trãi và “nàng bán chiếu gon” Nguyễn Thị Lộ cũng là một sáng tạo mới về chủ đề tư tưởng. Trong cả chính sử và dã sử, câu chuyện chỉ đơn thuần dừng ở việc kể lại tấn bi kịch của Nguyễn Trãi như hậu quả của một trò hãm hại xấu xa (do cái chết đột tử nhà vua Lê Thái Tôn ở Lệ Chi viên, mà bọn quần thần gian ác nhân thể vu cho Nguyễn Trãi cùng Nguyễn Thị Lộ là thủ phạm giết vua nên phải chịu tội tru di tam tộc), thì với truyện ngắn Nguyễn Thị Lộ, Nguyễn Cát Ngạc đã đề cao trách nhiệm cao cả của vị Khai quốc công thần Nguyễn Trãi với vận mệnh đất nước trước nguy nan mới do triều chính rối ren. Một lòng vì nghĩa lớn, vượt qua khuôn khổ lễ giáo phong kiến, nén lại nỗi đau phải dâng người thiếp yêu cho tên vua háo sắc, Nguyễn Trãi tìm cách đưa Nguyễn Thị Lộ vào cung để gần gũi và được Trần Thái Tôn sủng ái, từ đó giải cứu Thứ phi Ngô Thị Ngọc Dao, người sẽ sinh ra Lê Thánh Tôn, vị minh quân sau này. Sự hi sinh vì đất nước của Nguyễn Trãi đạt đến mức tuyệt đỉnh là khi cái chết đã kề bên, ông vẫn sáng suốt đưa ra lời nhận định: “Bây giờ tình hình lại xoay ra thế khác. Con trai lớn của ta hiện đang đi sứ bên Tàu. Nó tài giỏi không kém gì ta. Nếu nó nghe ta bị chết oan, nó sẽ oán triều đình mà gây ra nội loạn. Nó mà phản triều đình thì thật là đất trời nghiêng ngửa! Đợi được đến minh quân kia lên ngôi Cửu Ngũ thì nước cũng đã hoang tàn rồi. Mà minh quân kia chưa chắc đã trị nổi con ta!”. Vì vậy, Nguyễn Trãi chủ động nói với toà thẩm sát về tội tru di tam tộc, và báo trước: “Nếu các người không giết được con ta thì nó giết các người đó” (Nguyễn Thị Lộ). 73 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(74)</span> Để Nguyễn Trãi không chỉ hy sinh tính mạng mình cùng người thiếp yêu của mình, mà còn chủ động hy sinh cả tương lai của dòng giống, gia tộc mình vì tương lai của cả một dân tộc, Nguyễn Cát Ngạc đã xây dựng được một cách trọn vẹn, toàn bích hình tượng nhân vật anh hùng Nguyễn Trãi với tất cả sự hùng tráng và bi tráng của số phận. Đó cũng là một nét cống hiến của nhà văn Nguyễn Cát Ngạc đối với hình tượng Nguyễn Trãi trong văn học hiện đại. Một cống hiến cần ghi nhận của Nguyễn Cát Ngạc đối với văn học sử là ông đã chiêu tuyết cho Nguyễn Thị Lộ, người thiếp yêu của Nguyễn Trãi, người vốn được lưu truyền trong lịch sử với tai tiếng là kẻ báo oán, thậm chí theo Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi ( tập IV, truyện thứ 158), bà còn bị gán cho giai thoại kỳ bí về con rắn trắng báo thù. Vì ông nội Nguyễn Trãi là cụ đồ Nhị Khê đã giết ổ rắn con, nên rắn mẹ nhỏ ba giọt máu trên sách cụ đồ, rồi về sau biến thành Nguyễn Thị Lộ để trả thù, gây ra mối oan nghiệt cho tam tộc Nguyễn Trãi. Xin nói thêm: Nhân kỷ niệm 560 năm Ngày mất Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, năm 2002, tại thôn Khuyến Lương, Thanh Trì, Hà Nội, nơi có đền, miếu của Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam phối hợp với một số tổ chức khác mở hội thảo khoa học đầu tiên về Nguyễn Thị Lộ. Tại Hội thảo này, giáo sư Vũ Khiêu đã khẳng định: "Ít nhất, bà cũng là người tài hoa trong văn học, sắc sảo trong chính trị, chu đáo trong ứng xử và thủy chung trong tình nghĩa", "Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ đã dâng trọn cuộc đời phục vụ cho sự bền vững của Vương triều Lê và sự phồn vinh của non sông Ðại Việt". Giáo sư Đinh Xuân Lâm đề nghị: “Cần có sự công khai chiêu tuyết cho bà. Chế độ phong kiến cũ đã không làm được việc đó thì ngày nay chúng ta phải làm được việc đó thông qua việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc một cách trung thực và khoa học.”. Nhưng cách đây hơn năm mươi năm, bằng ngòi bút văn chương của mình, Nguyễn Cát Ngạc đã chiêu tuyết cho bà. Ngay trong lời dẫn chuyện, ông khẳng định: “Trong lịch sử nước ta, không thể tìm được 74 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(75)</span> một hình ảnh thoa quần thuỳ mị hơn và khả ái hơn nàng Thị Lộ. …Nàng đã có công không nhỏ là cứu được một đấng minh quân vào bậc nhất của dân tộc Việt, đức Lê Thánh Tôn”. Khép lại truyện, ông viết: “Tiếc rằng, khi phục hồi địa vị lịch sử cho ông Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tôn đã không phục hồi luôn địa vị cho nàng Thị Lộ, là người đã cứu ngài ra khỏi chốn hiểm nghèo, và như thế, đã có công to với dân tộc, khiến cho tới bây giờ, nàng Thị Lộ khả ái kia vẫn mang tiếng là một con yêu rắn đáng tởm đã hiện thành người để làm hại cả một bực công thần nhà Lê, chứ triều đình nhà Lê chả có tội gì cả.” Lòng tự hào đối với tinh thần đấu tranh chống lại giặc ngoại xâm còn được thể hiện trong truyện Giao Lương Sơn. Từ điểm nhìn hiện tại, người kể chuyện thứ nhất kể lại một câu chuyện của ba nhân vật từ thời nhà Đường đô hộ nước ta. Ba nhân vật, gồm Tiết Tháo, Lương Sử, Bạch Văn Thảo đều là nạn nhân của sự áp bức bóc lột của ngoại bang, không phân biệt dân tộc, cùng chiêu tập binh mã vùng Lao Kay chống lại kẻ thù. Về sau, họ bị Cao Biền dùng phép thuật triệt long mạch nên thất bại. Kể lại một câu chuyện bi tráng trong lịch sử bằng một giọng trần thuật mang sắc thái khách quan, nhưng đến câu kết truyện, tác giả biểu hiện thái độ trân trọng của mình đối với tinh thần đoàn kết đấu tranh chống lại giặc ngoại xâm của tiền nhân: “Người Thổ kể đến thì trời đã về chiều. Tôi cùng bọn công nhân Thổ đứng dậy ra về, hình như theo sau bởi các bóng hiên ngang của ba anh em Bạch, Lương, Tiết” (Giao Lương Sơn) Không chỉ tập trung cho chủ đề yêu nước, trong các truyện ngắn về đề tài lịch sử của mình, Nguyễn Cát Ngạc còn thể hiện sự trân trọng đối với tình cha con sâu nặng, tình vợ chồng chung thuỷ, tình bạn bè cao cả theo tinh thần Nho giáo và truyền thống đạo đức dân tộc. Với hai truyện Hoàng Trừu và Lưu Bình - Dương Lễ, thuộc về đề tài thế sự, nhà văn đã “văn xuôi hoá” hai tích truyện thơ Nôm cùng tên để thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình. Tuy nhiên, sự thể hiện ấy chưa thực sự sáng tạo so với nguyên bản. 75 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(76)</span> Có thể nói, thông qua việc khai thác một cách hợp lý và sáng tạo các sự kiện, các nhân vật anh hùng trong lịch sử dân tộc, các truyện ngắn về đề tài lịch sử của Nguyễn Cát Ngạc đã đạt được giá trị cao về mặt nội dung tư tưởng, đó là lòng yêu nước, niềm tự hào với truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Đó là nét nổi bật nhất trong truyện ngắn về đề tài lịch sử của Nguyễn Cát Ngạc nói riêng, văn xuôi của ông nói chung. Đó cũng là tư tưởng nền tảng, quán triệt và chi phối cái nhìn nghệ thuật của ông, gắn liền với sự nghiệp cách mạng mà ông theo đuổi đến hơi thở cuối cùng. Qua đó, chúng ta hiểu hơn về nhân cách của nhà văn - chiến sĩ, hiểu hơn về động lực sâu xa đã khiến ông cống hiến cả cuộc đời mình cho cách mạng và dân tộc. 3.2.2 Tình cảm tha thiết đối với các giá trị cổ truyền của dân tộc, sự thương cảm sâu sắc với các số phận éo le trong xã hội. 3.2.2.1. Lòng yêu tha thiết đối với quê hương xứ sở, sự trân trọng những tình cảm đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Như một biểu hiện đẹp đẽ khác của lòng yêu nước và tinh thần cách mạng, truyện ngắn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc bộc lộ cái nhìn trìu mến về quê hương xứ sở một cách kín đáo nhưng sâu sắc. Mặc dù Nguyễn Cát Ngạc khá kiệm lời, truyện của ông thiên về khai thác sự kiện, hành động, nhưng khi đọc truyện ngắn của ông, đôi lúc người đọc lại bắt gặp những dòng, những đoạn văn giàu rất cảm xúc, nhất là khi nhân vật bộc lộ những tình cảm thân thương về quê hương, xứ sở. Như nhân vật Cang trong Tình quê ở đoạn trích dưới đây: “Bỏ đê, Cang rẽ xuống một bãi cát lớn. Qua bãi cát mới đến bến đò. Trời đã đạm về chiều. Màu vàng nhạt của chiều đang biến ra màu tím. Càng đi gần tới bến đò, làng càng gần nhỡn tuyến, Cang càng hồi hộp. Nhìn sang bên kia sông, Cang nhận được từng nhà, từng người. Kìa nhà bà Chắt Phấn mà mấy đứa cháu đang loăng quăng chạy dưới vệ sông. Kìa nhà ông 76 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(77)</span> Sổ Biều chênh vênh trên mỏm đất sắp lở. Kìa nhà ông Nhiêu Nhật mà tiếng hát véo von của mấy cô con gái xinh tươi đương được gió đưa đến tai chàng. Lại kìa nữa là nhà chàng, một chiếc nhà gianh lụp sụp ba gian một trái, trong cái trái đó, mẹ chàng sáu mươi tuổi. đã lập một cửa hàng xén nhỏ, bán nước mắm, dầu tây, kẹo, lạc, kim chỉ, giấy bút, đủ thứ lặt vặt cần thiết hàng ngày. ” Hay như nhân vật “tôi” trong Giao Lương Sơn, dừng chân giữa một cuộc hành trình, khoan khoái ngắm nhìn phong cảnh núi rừng Lao Cai hùng vĩ: “Ngồi trên một chiếc mộ xây, tôi rất khoái trá nhìn phong cảnh. Núi nhu bát úp, chắp nối thành một con rồng vĩ đại mà tôi ngự trên trán. Tôi tưởng tượng con rồng đang vùng vẫy, đưa tôi đi trên lưng chừng mây, để tôi ngắm cho đã mắt cái mảnh đất mông mênh và kỳ thú này ”. Tình yêu quê hương xứ sở bao giờ cũng gắn với lòng yêu thương con người. Đó là cái gốc vững bền, là mạch nguồn trong trẻo nuôi dưỡng ý chí và tâm hồn nhà văn - chiến sĩ. Không thể có lòng yêu nước chung chung, tự hào chung chung, nếu không có sự tin yêu con người, trân trọng những giá trị tốt đẹp của con người, nhất là những người đồng bào của mình, sự trân trọng những tình cảm đạo lý tốt đẹp của dân tộc như tình cảm gia đình, tình hàng xóm láng giềng, tình thầy trò... Với Nguyễn Cát Ngạc, sự tin yêu và trân trọng ấy được gửi vào những nhân vật rất bình dị của ông. Đó là bà mẹ trong Tình trong biên giới, về gia đình anh Kiêm trong Một tấm lòng vàng, là cậu bé Lộc lam lũ nhọc nhằn nhưng ham học và những cô giáo, thầy giáo tốt bụng, nâng đỡ tài năng học trò trong Có chí thì nên… Bà mẹ trong Tình trong biên giới, một người phụ nữ Việt Nam bị bán sang Tàu từ khi mới 12 tuổi, phải làm vợ “một tên khách già năm chục tuổi”, phải sống trong sự tủi nhục vì bị ngược đãi, khinh rẻ. Bơ vơ không còn tên tuổi, lai lịch, chỉ được người ta biết đến với cái tên miệt thị “Ố Nàm chảy” (con An Nam), nhưng người phụ nữ Việt ấy đã ý thức được tương lai của con mình nơi đất khách: “Nếu Ích lớn lên trong cái xã hội đó, thì suốt đời nó sẽ bị 77 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(78)</span> khinh rẻ, dè bỉu là “Ố Nàm chảy” như khi mẹ mới sang Tàu. Nó lại thành người Tàu, không còn ích lợi gì cho đất nước của mẹ, không thể làm thoả mãn được tấm tình ái quốc mà không hiẻu sao mẹ thấy rất linh hoạt trong lòng mẹ, từ khi sang tới đất người ” .Đó là lý do để người đàn bà rất bình dân, thậm chí đã thành vô danh ấy ôm con tìm đường về nước. Đó cũng là tình yêu quê hương, xứ sở, yêu đồng loại mà nhà văn gửi vào nhân vật của ông. Sự trân trọng những giá trị tốt đẹp của đồng bào mình biểu hiện sâu sắc ở truyện ngắn Một tấm lòng vàng. Truyện về hai gia đình hàng xóm, một nhà giàu có, quyền thế bởi ông chồng làm Tham tá đầu toà, nhà kia nghèo hèn bởi là dân thường. Nhưng cô con gái nhà giàu lại đem lòng yêu thương cậu học trò nhà nghèo con trai anh Kiêm hàng xóm. Điều đó là một sự sỉ nhục với vợ chồng ông tham. Ông nọc cô con gái yêu ra đánh. Bà nội xót cháu ra can, nhưng lại bị con trai xúc phạm “tôi không hiểu làm sao một bà cụ cố, mẹ quan Tham đầu toà, lại đi kết bạn với một con mẹ thợ cày”, nên bà đã xách túi đi khỏi nhà. Bà cụ bị cảm nặng, nhưng lại được gia đình anh Kiêm hết lòng cứu chữa. Kết thúc truyện, gia đình ông Tham đã nhận ra tấm lòng vàng của gia đình anh Kiêm, và hai nhà kết thông gia với nhau. Đây là một trong không nhiều những truyện ngắn có kết thúc như cổ tích vậy, bởi nó hàm chứa một thông điệp - đó là lòng tốt của người dân bình thường, “làm ơn mà không biết mình làm ơn, làm ơn một cách tự nhiên, như ta hít thở không khí, cũng không lèo lá để tâng cái ơn đó lên” và chính việc làm đó đã cảm hoá được lòng ích kỷ, sự thành kiến và thái độ khinh bạc của tầng lớp trên. Nguyễn Cát Ngạc luôn dành sự yêu quý của mình cho những người nghèo khổ nhưng có ý chí vượt lên, ví dụ như nhân vật cậu bé Lộc (Có chí thì nên). Một cậu bé 12 tuổi, phải đi ở cho chủ nợ, “suốt từ năm giờ sáng đến mười hai giờ đêm, lúc nào nó cũng đầu tắt mặt tối”, “ngoài công việc ra lại còn bị mắng, bị đánh hàng ngày”. Nhưng cậu rất ham học, và có giọng hát rất hay, được thầy giáo động viên nên vừa làm thuê vừa tranh thủ học lỏm các cô 78 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(79)</span> chủ cậu chủ về âm nhạc. Sau này nhờ sự giới thiệu của thầy, cậu được ông bàu gánh ca kịch chuộc khỏi chủ nợ để đưa về Sài Gòn hát trên đài phát thanh, và trở thành ca sĩ trẻ nổi tiếng. Qua câu chuyện giản dị, mang tính báo chí nhiều hơn văn chương, nhà văn bày tỏ thiện cảm của mình với một nhân vật bé nhỏ, đồng thời thể hiện sự trân trọng đối với những người trí thức mới, giàu lòng vị tha như cô giáo, thầy giáo dạy lớp quốc ngữ, những người đã thay đổi số phận cho một em bé nghèo. 3.2.2.2 Sự thương cảm sâu sắc đối với các số phận éo le, đặc biệt là số phận những người phụ nữ trong xã hội đương thời. Trong một xã hội có nhiều biến động, những hủ tục phong kiến tồn tại song song với “lối sống Tây” mới du nhập, các giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp như đang bị lấn át bởi những quan niệm theo chuẩn mực phương Tây sinh ra những biến thái về đạo đức và lối sống, thì những con người bình thường dễ dàng trở thành nạn nhân của những thói đời xấu xa, bỉ tiện. Nguyễn Cát Ngạc dành nhiều tâm sức hướng ngòi bút của mình tới những số phận éo le, bị xô đẩy trong xã hội rối ren, và thông qua họ, ông bày tỏ thái độ của mình với xã hội đương thời. Đó là sự cảm thông, đau xót với bà mẹ già khốn khổ bị chính con trai mình chôn sống trong Ngôi đất công khanh. Nhà văn đã phải thốt lên: “Thử tưởng tượng bà cụ khốn nạn phải đau đớn rẫy rụa thế nào khi gần bị tắc thở trong áo quan, ai chả động lòng thương xót và giận thằng bát hiếu đã tàn nhẫn đến cùng cực”. Đó là sự xót xa cho số phận cô Síu trong Tình quê, đã yêu và được yêu say đắm chàng học trò Cang, những tưởng được sống một cuộc sống hạnh phúc, nhưng rồi cô không thể vượt qua được luật tục phong kiến, với những ràng buộc nặng nề “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” trong chuyện hôn nhân. Dẫu nhìn trước được cuộc đời vất vả vì phải làm dâu nhà trọc phú “suốt ngày dưới nắng chang chang, em phải chân lấm tay bùn cày cấy cho ông Lý, suốt 79 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(80)</span> đêm dưới ánh giăng mờ em phải giã khoai đâm bèo nuôi lợn cho ông Lý, quẩy hàng đi chợ hay hỏi công hỏi nợ cho bà Lý. Trong cuộc đời nô lệ đó, em lại không được một câu an ủi của anh chồng vô học câu lơ”, nhưng cô không thể thoát ra được. Và trong cuộc đương đầu với “số phận”, cô đã thua cuộc, để rồi kiệt sức vì lao động quần quật như con ở trong nhà, đến mức ngã gục và chết thảm trong cối gạo. Ở truyện ngắn Kiếp bình bồng, Kim Liên là một cô đào hát “vừa có thanh, vừa có sắc, lại vừa có học”, được anh sinh viên trường thuốc tên Lãng đem lòng yêu thương. Hai người sống với nhau hạnh phúc như vợ chồng. Nhưng gia đình Lãng ngăn cấm, lập mưu bắt anh về Nam Bộ, không cho lấy người trong giới “xướng ca vô loài”. Kết cục, Kim Liên chết trong nỗi đau đớn, còn Lãng suốt đời cô độc. Điều đáng trân trọng ở đây là tác giả Nguyễn Cát Ngạc không chỉ bày tỏ sự cảm thông với cuộc đời chìm nổi của cô kỹ nữ Kim Liên chung tình, hy sinh đến cả tính mạng vì người mình yêu, mà còn chia sẻ với những người phụ nữ theo nghề ca hát. Vì thế, ngay ở phần mở đầu truyện, ông đã viết: “Có đi sâu vào từng lớp xã hội, ta mới hay có lắm hạng người đáng thương. Ví dụ: hạng đào hát bội. Đó là các cô đào của những gánh tuồng, chéo hay cải lương, nhiều khi theo gánh hát đi lang thang nay đây mai đó. Cũng như các chị em chốn hồng lâu, họ đeo tên là cô đào hay ả đào. Nhưng không giống các đồng nghiệp này, họ không có thì giờ tô lục chuốt hồng, họ không có quyền quyến anh rủ én, vì thế họ không có tiền ném qua của sổ… Đã không có tiền ăn tiêu phung phí, họ còn túng thiếu lo âu, lúc nào cũng bị ma đói và thần ho lao đe doạ, uể oải sống một cuộc đời vô định, không một chút dảm bảo về tương lai. Thảng hoặc, may mắn họ gặp được hạnh phúc trong một trường hợp đặc biệt hãn hữu, thì cả xã hội tai ác hình như hùa nhau công phá, kỳ cho hạnh. 80 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(81)</span> phúc đó tan, để hoặc họ phải quay về đời phiêu bạt, hoặc họ phải hai tay buông xuôi mà từ giã cõi đời, cái đời quá gian truân mà họ không chịu nổi”. Nhân vật Thanh Mai (Bụi phồn hoa) cũng là một người phụ nữ đáng thương. Cô sống trong nhung lụa, chỉ lo chăm sóc sắc đẹp và đi dự tiệc với chồng ở những nơi sang trọng, quyền quý. Nhưng khi phát hiện a chồng mình làm giàu bằng cách bán rẻ số phận của đồng loại, cô đã vô cùng đau khổ. Cuối cùng, cô quyết định dứt bỏ chốn phồn hoa, bởi không thể chấp nhận sự nhơ bẩn của nó. Một nạn nhân khốn khổ khác trong cái xã hội mà luân thường đạo lý đã bị đảo lộn, là cô sinh viên Hân trong Vô liêm sỉ. Cô gái trẻ du học ở Pa ri luôn bị người tình dằn vặt vì có người mẹ còn xuân sắc và rất tân thời của mình bắt nhân tình với Tây, thuê nhà chung sống với nhau, khiến cô rất khổ sở. Nhưng một ngày, cô đã phải tìm đến cái chết khi chứng kiến mẹ mình chung chạ với chính người tình của mình. Sự vô liêm sỉ của một người đã đẩy tới sự tuyệt vọng của một người khác, nhìn rộng ra, đó còn là lời giải về những nghịch lý xã hội mà nếu không được cảnh báo, sẽ trở nên phổ biến và hết sức nguy hiểm trong bất cứ xã hội nào, khi đạo lý bị suy đồi. Thái độ quyết liệt của nhà văn trong việc “ủng hộ” nhân vật thức tỉnh về những gì trái với luân thường đạo lý, thể hiện ở sự chấp nhận cái chết của nhân vật Tâm (Một nạn nhân), bởi cho dù tội phản bội chồng của cô được coi “chỉ là tội lỗi của thời đại”, thì cô vẫn nói với 2 người - người chồng cũ mà cô đã phản bội, và người chồng mới – là muốn “dứt bỏ cuộc đời vô luân thường này đi, để hai anh lập một cuộc đời khác vẻ vang hơn và đáng làm gương mẫu cho lũ trẻ”. Một điều đáng chú ý là những nạn nhân của xã hội rối ren, tranh tối tranh sáng trong thế giới truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc hầu như đều là phụ nữ. Trong số 37 truyện ngắn của ông, có đến 12 nhân vật phụ nữ là nạn nhân của những thói đời đen bạc, của sự bất công trong xã hội. Nguyễn Cát Ngạc đã 81 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(82)</span> chạm tới vấn đề mang tính nhân bản sâu sắc, đó là vấn đề phụ nữ. Ông sớm nhận ra rằng: những bi kịch của đời sống đều đổ lên đầu những người phụ nữ trong xã hội, vì mọi biến thiên của cuộc sống bao giờ cũng trước hết đặt lên vai người phụ nữ. Bởi họ là mẹ, là vợ, là người yêu quý nhất của mọi người, cuộc sống trút lên vai họ mọi điều đẹp - xấu của nó, và họ phải gánh chịu. Đặc biệt, trong buổi giao thời của hai chế độ, trong đó chế độ phong kiến luôn khinh rẻ, chà đạp lên mọi quyền sống của người phụ nữ, và chế độ thực dân chỉ tôn thờ đồng tiền, vì đồng tiền mà bóc lột con người đến tận cùng xương tuỷ, thì người phụ nữ là nạn nhân đau khổ nhất. Họ là những con người nhỏ bé, yếu ớt, đã bị vùi dập hàng ngàn năm trong chế độ phong kiến hà khắc, nay lại bị bóc lột tàn tệ bởi chế độ thực dân chỉ biết có lợi nhuận, mà vì nó, con người cũng đánh mất nhân tính. Bởi vậy, trong truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc, các số phận bi thảm nhất đều là phụ nữ, từ bà mẹ già, đến cô gái trẻ, từ người kỹ nữ đến nàng thiếu phụ khuê các. Và hầu hết cuộc đời của họ đều có kết cục bi thảm, đó là cái chết. Các nhân vật nữ của Nguyễn Cát Ngạc, ngoại trừ Thanh Mai (Bụi phồn hoa), còn lại đều không thể thoát ra khỏi cái chết. Nguyên nhân trực tiếp hay sâu xa của những cái chết ấy đều có thủ phạm là cái Ác trong xã hội đương thời, hậu quả của hủ tục phong kiến nặng nề, tồn tại chung với sự băng hoại về đạo đức, lối sống theo kiểu phương Tây… Tất cả đã đẩy những người lương thiện, đặc biệt là phụ nữ vào vòng xoáy cuộc đời và trở thành nạn nhân của chúng. Có lẽ đó là điều mà nhà văn muốn gửi gắm đến thời cuộc, qua các nhân vật nữ đáng thương của mình cùng với sự chia sẻ, cảm thông sâu sắc dành cho họ. Nguyễn Cát Ngạc đã nhìn ra được sự bất công khi xã hội tha hóa đã sinh ra những số phận tha hóa nhưng lại không biết chia sẻ với các số phận đó, mà hắt hủi, khinh rẻ. Với tác giả, ánh mắt cảm thương khi hướng tới sự cùng cực của kiếp người, phải là ánh mắt của lòng nhân ái. Không những thế, ông còn phát hiện ra ở những số phận ấy những phẩm chất đạo đức, những giá trị của 82 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(83)</span> tình người mà chưa chắc những kẻ đã đẩy họ vào kiếp sống ấy lại có thể tương ứng về phẩm giá. Đó là nghịch lý, là điều không thể không phê phán, một khi nhà văn hướng về con người, muốn con người được thật sự là người với những phẩm chất cao quý mà xã hội cần trân trọng. Có thể nói rằng, tình yêu quê hương xứ sở, sự cổ vũ cho những giá trị truyền thống và tấm lòng nhân ái giữa người với người là những nội dung quan trọng trong truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc. Những nội dung ấy đã góp phần làm nên giá trị tư tưởng trong mỗi tác phẩm của ông, như những biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong văn chương Nguyễn Cát Ngạc nói chung, truyện ngắn của ông nói riêng. 3.2.3.Thái độ phê phán quyết liệt sự tha hoá của con người, đặc biệt là tầng lớp trí thức, quan chức bù nhìn trong xã hội đương thời. Ý thức sâu sắc về đất nước và các giá trị truyền thống của dân tộc đã làm nên tinh thần phê phán không khoan nhượng của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đối với cái xấu, sự vong bản khi viết Ông Tây An Nam. Tiếp nối mạch tư tưởng ấy, truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc đã luôn mang nội dung nổi trội là phản ánh và phê phán những hiện tượng xấu xa, đồi bại , chế giễu bộ mặt bi hài với những trò lố bịch, thói đạo đức giả của lớp trí thức, quan chức trong xã hội đương thời. Điều này cũng dễ lý giải, bởi với nhân cách của một nhà văn - chiến sĩ, càng giàu lòng yêu nước và yêu dân tộc, ông càng căm phẫn đối với sự tha hoá, biến chất, sự lai căng, thói vô đạo của một bộ phận không nhỏ trong xã hội, bởi chúng tồn tại trong đời sống như một sự chà đạp vào những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc mà ông đang hy sinh tất cả để bảo vệ. Ngòi bút hiện thực của Nguyễn Cát Ngạc tỏ ra có thế mạnh khi khai thác, phơi bày sự tha hoá của con người trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Toàn bộ tập truyện ngắn Bụi phồn hoa tập trung cho chủ đề này, như một ngọn roi quất vào chế độ đương thời. Ngoài ra, còn các truyện ngắn khác như 83 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(84)</span> Vô sỉ, Vô liêm sỉ, Một tấm lòng vàng, đưa tổng số truyện về chủ đề này lên tới 10/37 truyện, chiếm 27%. Một xã hội mà các giá trị truyền thống bị đảo lộn, đồng tiền và danh vọng lên ngôi, sẽ sinh ra những sản phẩm của nó, đó là những con người tha hoá. Xã hội ấy hiện lên trong truyện ngắn Nam Xương thông qua hệ thống nhân vật gắn liền với những câu chuyện của họ. Các nhân vật trong truyện ngắn của ông được xây dựng từ nhiều thành phần, giai cấp. Có trí thức (Tái hợp ), có quan lại thực dân, phong kiến (Vô liêm sỉ, Vàng, Ngôi đất công khanh), có địa chủ, cường hào (Chữ Quí)... Họ, vì tiền tài, danh lợi mà gây hại lẫn nhau, bán rẻ lương tâm, làm điều thất đức, bội bạc tình nghĩa, chà đạp lên đạo lý truyền thống của dân tộc. Truyện ngắn Chữ Quí mô tả cuộc đấu đá giữa Chánh Bao và Bá Hiển, hai viên cường hào giàu có và hống hách. Hễ Chánh Bao gieo ngầm hoạ này cho Bá Hiển thì Bá Hiển lại gây vụng một nạn khác cho Chánh Bao, có khi hai anh kiện nhau ra mặt, đến nỗi cùng khánh kiệt gia tài. Kết cục là cả hai đều phải “bán sới” khỏi nơi chôn rau cắt rốn, đi lang bạt kỳ hồ, Chánh Bao còn chết thảm. Trong truyện ngắn Vàng, tác giả xây dựng một nhân vật quan lại khá độc đáo, được đẩy đến tận cùng cái ác, chỉ vì danh lợi. Nhờ lừa tình rồi lợi dụng tiền bạc của một cô ca kỹ để mua chức, y leo được đến chức tri phủ rồi phụ tình cô. Đỉnh cao của sự đê tiện là y kéo quân về để cưỡng đoạt đất đai của cô, khiến cô sau mười lăm năm mòn mỏi trong cảnh cô quả đã uất ức mà chết. Ỏ truyện ngắn Tái hợp, Nguyễn Cát Ngạc lại khai thác sự tha hoá của tầng lớp trí thức thành thị, trước những cám dỗ của vật chất và những thú ăn chơi phù phiếm. Nhân vật Thân vốn là kỹ sư nhà máy điện, đã bỏ vợ con để đi theo một cô nhân tình làm gái nhẩy, với những cuộc chơi đàng điếm. Trong Bụi phồn hoa, người vợ kinh hoàng nhận ra những đồng tiền chồng mình mang về cho mình chăm chút nhan sắc kiềm diễm, mua những chuỗi ngọc quý giá và sống trong nhung lụa, lại được lấy từ những cuộc chỉ điểm 84 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(85)</span> (do một người bạn chồng vô tình cho biết: “Anh ấy đã tìm được mấy tay “phiến loạn” quan trọng nên được thưởng một món tiền to”). Bụi phồn hoa đã làm người chồng tha hoá, làm nhiều việc ác, và người vợ có lương tâm thấy ghê sợ, kinh tởm: “Thanh Mai đang thấy kéo qua trước mắt nàng những thanh niên anh tuấn da thịt tơi bời vì tra tấn, những cô nhi quả phụ nheo nhóc vì mất cha mất chồng, những chuỗi đầu lâu đang lăn lóc và những máu đào đang loang vì vì sự “buôn bán” ám muội của đức lang quân nàng.” Ngòi bút Nguyễn Cát Ngạc còn quyết liệt hơn khi tố cáo tội ác tày đình, sự đại bất hiếu của một kẻ “làm thông phán đầu toà sứ thành Vinh” trong truyện ngắn Ngôi đất công khanh. Để leo một bước lên tới đầu thang danh vọng, hắn thuê thầy địa lý đi tìm đất phát, sau ba tháng một thầy địa lý chỉ cho hắn một ngôi đất phát công khanh, nhưng phải sinh táng mới phát được. Lòng hám danh đã khiến y quyết định chôn sống người mẹ già đang ốm quặt quẹo của mình, trong một đêm mưa to gió lớn. “Sau khi hỏi thăm qua quýt, hắn sai hai lực sỹ bế sốc bà cụ sang buồng bên, trong đó một cỗ quan tài đã bày sẵn, dưới đất giải một chiếc chiếu, trên chiếu, một chiếc vải liệm dày cồm cộp. Hai lực sĩ đặt bà cụ vào giữa vải liệm rồi chẳng nói chẳng rằng, gói chặt bà cụ lại. Bà cụ rãy rụa kêu inh ỏi. Hắn tự tay cầm nắm giẻ đút vào mồm bà cụ. Khi hai lực sĩ đã đặt bà vào trong quan tài và đậy nắp, hắn mới chợt nhớ cần phải đút vào miệng bà cụ một nắm gạo và chín đồng tiền. Hắn vạch đầu bà cụ rút giẻ trong miệng ra rồi thay vào đó tiền và gạo. Nhân dịp đó, bà cụ nghẹo đầu nghẹo cổ chửi bới hắn cho tới khi đậy nắp áo quan. Ngay đêm hôm đó, sợ bà cụ chết ngạt trong áo quan thì phí của, hắn sai đem áo quan đi chôn tại ngôi đất mà thày khách trỏ, mặc dầu sấm sét ầm ầm”. Làm một việc táng tận lương tâm đến mức “trời không dung, đất không tha” vậy mà sau đó, hắn vẫn oán trách bà mẹ già “không chịu khó nằm yên mà chết”, nên hắn bị cách chức; và vẫn hy vọng “hòn đất sẽ giậy để hắn làm tới công khanh”. Có thể khẳng định Ngôi đất công khanh là một trong những 85 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(86)</span> truyện ngắn hay của Nguyễn Cát Ngạc. Tác phẩm đã đi tới sự tận cùng của sự tha hóa con người. Với kẻ vô liêm sỉ và thiếu nhân tính, thì tình mẫu tử, đạo hiếu nghĩa rút cục cũng chỉ là phương tiện phục vụ cho những mưu cầu cá nhân xấu xa, nằm ngoài bản chất nhân văn mà con người cần phải xây dựng cho mình. Nhà văn đã phơi bày sự tha hoá đến mức tột cùng của con người, chỉ vì quyền lực, danh vọng mà phạm đến cả tội đại nghịch, đại bất hiếu. Nhân vật chính được miêu tả trong lời kể và trong sự nguyền rủa của một nhân vật khác, nhưng đã hiện ra với tất cả sự xấu xa, mà đạo lý dân tộc Việt Nam và không một nền đạo đức nào có thể tha thứ được. Tiếp nối cái nhìn phê phán sắc sảo về tầng lớp thống trị trong xã hội đương thời từ khi viết Ông Tây An Nam, Nguyễn Cát Ngạc không bỏ qua bộ mặt bi hài nhem nhuốc, thói đạo đức giả và những trò lố bịch của lớp trí thức, quan chức bù nhìn trong xã hội đương thời. Những thầy thông phán, những nhà văn, nhà báo, nhà cách mạng… hiện ra dưới ngòi bút của ông với những thói xấu xa, trò lố bịch, và sự hiện diện của họ làm nên bức tranh châm biếm về bộ máy thống trị đương thời. Tiêu biểu là chân dung của một nhà cách mạng được ông vẽ lại bằng ngòi bút giễu nhại sắc sảo, lột tả được sự giả dối của một kẻ nhân danh cách mạng để trục lợi và hưởng thụ - hình ảnh của những kẻ ôm chân Pháp, “làm cách mạng đầu lưỡi” vốn xuất hiện khá nhiều ở vùng tạm chiếm trong giai đoạn 1946 - 1954, trong truyện ngắn Một nhà cách mạng. Hình ảnh nhà cách mạng Văn Giang, “tay phải dí miếng phó - mát khổng lồ vào gần mũi cụ Ký, thay trái cầm quả chuối khuấy một vòng lên không trung, Văn Giang nói: - Tôi cho rằng cách mệnh phải ăn cho khoẻ mới có sức mà tranh đấu…a! ” được nhân vật cụ Ký bình luận: “Thì ra tay phải hắn dí phó - mát vào mũi tôi, để nói rằng một tín điều của hạng cách mệnh như hắn là nốc được nhiều phó - mát. Tay trái hắn khuấy 86 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(87)</span> không khí của chiếc phòng rộng là để bảo cho tôi rằng: Trường hoạt động của hạng cách mạng như hắn là một chiếc nhà lầu!”. Những kẻ nhân danh nhân sĩ trí thức cũng trở thành nhân vật của Nguyễn Cát Ngạc. Ông mỉa mai, chế giễu và mượn lời nhân vật tỏ thái độ khinh bỉ kẻ dối trá, “leo thang công danh bằng cách vô liêm sỉ”. Như trong truyện ngắn Vô sỉ, một viên chức làm nghề trắc địa, vì trình độ kém nhưng lại bị cấp trên thử thách nên nửa đêm phải đến cầu cứu một người đồng nghiệp giỏi nghề. Nhưng một thời gian sau, y quay ngoắt lại, dè bỉu người đã giúp mình là “Hắn là bạn học của tôi! Nhưng tuy là bạn, mà hắn dốt hơn tôi nhiều! Xưa tôi dạy hắn mà bây giờ tôi cũng nhiều khi phải bảo hắn làm việc! ”. Những chuyện bi hài trong giới văn chương nghệ thuật cũng là chủ đề mà Nguyễn Cát Ngạc hay khai thác. Có đến 5/37 truyện ngắn về chủ đề này, đó là Nước Tri vi tri, Hội đồng vĩ nhân, Vẽ mặt văn khôi, Yêu nghệ thuật, Nước Tự do. Mỗi truyện là một bức tranh hài hước về một góc bi hài của đời sống văn nghệ sĩ, trí thức trong xã hội đương thời, qua cái nhìn giễu nhại của nhà văn. Với câu chuyện Yêu nghệ thuật, nhà văn châm chọc thói háo danh vốn đồng hành với các văn sỹ bất tài. Đó là câu chuyện về một nữ thạc sĩ du học ở Pháp về , hay chữ và đẹp nổi tiếng, rất say mê văn hoá dân tộc. Với mong muốn tìm hiểu nền văn chương nước nhà, cô tìm được cuốn sách “Các danh sĩ của thế kỷ XX” của Phó Văn Mát có những lời ca tụng hết lời về nhân sĩ Bách Lang, tác giả tập thơ „Bên cầu”. Cô khao khát được tìm gặp, bèn nhờ sở mật thám tìm giúp. Việc mật thám đến nhà làm vợ chồng nhân sĩ Bách Lang tá hoả. Hỏi ra mới biết rằng nguồn cơn là từ cuốn sách của Phó Văn Mát, bà vợ liền nói toạc ra sự thật: thì ra nhân sĩ nhà ta xui Phó Văn Mát ca tụng mình. Ở một mức độ nào đó, thói háo danh của các văn sĩ gây ra những chuyện bi hài, làm khổ người yêu nghệ thuật. Thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm nằm trong lời than thở ngậm ngùi của cô Dorothy Lan: „Tôi chỉ tiếc là không 87 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(88)</span> nghe lời các thầy tôi dạy dỗ nên sai lầm to!...Các thầy tôi dạy: thưởng thức nghệ thuật mà để ý đến lợi riêng thì không sao nhận được vẻ đẹp. xây dựng nghệ thuật mà cốt cho thu hoạch lợi riêng cũng chỉ di tới một kết qủa xấu xa.” Nước Trivitri là câu chuyện hư cấu về những chuyện xung quanh chế độ kiểm duyệt ở một nước có tên là Trivitri. Do Chính phủ thiết lập chế độ kiểm duyệt quá gắt gao nên giới báo chí rủ nhau kiến nghị, rồi biểu tình. Nhưng biểu tình vô hiệu, họ rủ nhau chạy sang nước láng giềng, xuất bản báo bằng tiếng Trivitri đề công kích Thủ tướng và người có quyền hành kiểm duyệt, dẫn đến sự bất hoà giữa hai nước, nên phải tổ chức Đại hội nghị quốc tế về kiểm duyệt. Vì chia làm hai phe, một phe ủng hộ nước Trivitri, phe kia phản đối, nên hay bên tuyệt giao rồi gây chiến với nhau, dẫn đến…đại chiến thế giới. Với truyện ngắn này, nhà văn thể hiện thái độ châm biếm chế độ kiểm duyệt hà khắc và ngu dốt trong xã hội đương thời. Trong truyện Hội đồng vĩ nhân, thông qua trò bi hài ở một cuộc thi văn chương, mà kết cục của nó là: giới báo chí, sau khi tiếp xúc với “thần đồng ”- người giành giải cao nhất, đã nhận ra rằng, “không phải các áng văn chương của danh nhân thua áng văn của thần đồng, mà vì các áng văn trên có ý tứ thâm trầm, khó hiểu, nên bị sổ toẹt, còn áng văn sau thì vừa tầm trí thức của các giám khảo viên hơn”, bèn tặng cho hội đồng giám khảo tấm mi môn thêu bốn chữ vàng “Hội đồng vĩ nhân”, nhưng “có cái nghĩa nhà quê là người có đuôi, nghĩa là người không được giỏi” (Hội đồng vĩ nhân). Đọc truyện ngắn này vào thời buổi mà “chân, giả” lẫn lộn, hư danh lên ngôi, những văn nghệ sĩ “vĩ nhân”, “khinh người bằng nửa con mắt... hay làm thơ, viết báo, tuy chỉ là một vài bài thơ ve gái, hay một vài bài phóng sự ô tô đổ, nhưng ở một thành phố nhỏ, như thế là đủ nổi tiếng rồi” mà nhà văn châm chọc, chúng ta không khỏi liên tưởng và suy ngẫm về một cái gì đó lớn hơn, rộng hơn, mang ý nghĩa xã hội - con người. 88 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(89)</span> Có thể nói, toàn bộ mảng truyện ngắn mang nội dung phê phán quyết liệt sự tha hoá của con người làm nên một phần quan trọng về giá trị tư tưởng của truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc. Thái độ phê phán và cái nhìn châm biếm giễu nhại của ông thể hiện bản lĩnh, tài năng và nhân cách của ông, khi nhìn rõ mặt trái của xã hội Việt Nam giai đoạn giao thời, ở đó những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc đang bị đẩy lui bởi cái Ác, cái xấu xa, vong bản. Những truyện ngắn của ông, nhất là tập Bụi phồn hoa, phát hành trong vùng thực dân Pháp chiếm đóng, là ngọn roi quất vào xã hội đương thời. Cùng thời với Nguyễn Cát Ngạc, các tác giả như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Hồng, Nguyễn Công Hoan…, đặc biệt là Nam Cao đã mô tả rất xuất sắc sự tha hóa của con người qua truyện ngắn và tiểu thuyết. Tất nhiên, trong thực tế, sự tha hóa là muôn hình muôn vẻ. Điều đáng nói là nhà văn đã nhận diện ra đâu là điều cần viết, và nên viết như thế nào. Hiển nhiên, một cây bút đã từng viết Ông Tây An Nam như Nguyễn Cát Ngạc thì không thể quay lưng với sự tha hóa ngày càng sâu - rộng trong đồng bào ông và ông thấy cần mô tả để cảnh báo. Các nhân vật của Nam Xương mà chúng tôi vừa phân tích trên đây đã đánh mất những phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam, đó là yêu nước thương nòi, trọng tình trọng nghĩa, tôn thờ đạo hiếu. Họ trở thành những kẻ méo mó, dị dạng, đáng ghê tởm về nhân cách, thậm chí có kẻ không còn nhân tính. Nguyễn Cát Ngạc đã nhận ra điều đ ó. Ông xây dựng được những hình tượng nhân vật tha hoá, dị dạng đáng kinh tởm như những quái thai của xã hội đương thời, để nhằm phê phán một bộ phận hiện hữu trong cộng đồng người Việt đương thời. Nhưng điều quan trọng hơn, là ông phê phán chính cái xã hộ i xấu xa, vô nhân đạo đã đẻ ra những loại người ấy. Xã hội ấy không thể là tốt đẹp, bác ái, xã hội ấy cần phải bị phủ định, cần phải được thay thế bởi một xã hội khác tốt đẹp hơn, nhân ái hơn. Đó là một trong những thông điệp mà nhà văn gửi gắm qua các truyện ngắn của ông. 89 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(90)</span> 3.3. Một số đặc điểm nổi bật về nghệ thuật truyện ngắn của Nam Xƣơng - Nguyễn Cát Ngạc Về nghệ thuật truyện ngắn của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà nhận xét: “những truyện ngắn được viết khá công phu, được tổ chức theo lối kịch bản, có thắt nút cởi nút, đặc biệt tác giả thường khai thác một cách tinh tế những tình huống có khả năng khắc họa hình ảnh lố bịch của những kẻ bán nước hại dân... Về thời gian, để cho chuyện kể có logich và thủ pháp cài đặt tình huống được tự nhiên, truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc thường chọn lối hồi ức hoặc dựng tình huống theo cách kể một câu chuyện được lưu truyền trong xã hội. Lối viết này giúp người đọc dễ theo dõi câu chuyện, tạo ra sự hấp dẫn và bài học về lòng yêu nước được chuyển tải đến người đọc một cách giản dị, có sức thuyết phục”.[14] Chúng tôi tán đồng với nhận xét của nhà phê bình văn học Nguyễn Hoà. Là người nắm vững các nguyên tắc sáng tạo của nghệ thuật kịch nói, có lẽ khi viết truyện ngắn, Nguyễn Cát Ngạc đã khai thác, vận dụng những ưu thế của kịch nói cho sáng tác truyện ngắn. Vì vậy, truyện ngắn của ông thường được tổ chức theo lối kịch bản, chú trọng đến cốt truyện và hành động của nhân vật nhiều hơn là khai thác thế giới nội tâm của nhân vật. Lời văn nghệ thuật vì thế cũng ít được chau chuốt theo lối hoa mỹ, mà thường được diễn đạt gọn gàng, súc tích. Theo chúng tôi, tính hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc nằm ở cốt truyện và các tình huống mà qua đó nhân vật bộc lộ tư tưởng, tính cách của mình. Các truyện ngắn của ông theo chúng tôi là thành công hơn cả như Một nhà cách mạng, Ngôi đất công khanh, Trên chòi Khâm Thiên là những truyện tiêu biểu cho lối viết này. Bên cạnh những đặc trưng nghệ thuật được Nguyễn Hoà phát hiện ở trên, theo chúng tôi, truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc còn có những nét đặc trưng khác nữa. 90 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(91)</span> 3.3.1.Nghệ thuật kết cấu truyện theo kiểu truyền thống và xây dựng nhân vật theo lối “tỏ chí”. Ở nghệ thuật tổ chức truyện, ông thường sử dụng lối kết cấu truyền thống. Kết cấu bề mặt của các tác phẩm được tổ chức chủ yếu theo lối kết cấu tuyến tính (theo trục thời gian), có 21/ 37 truyện ngắn kết cấu theo lối này. Ở bề sâu, kết cấu hình tượng nhân vật theo lối song tuyến chính - tà, thiện - ác, chính diện - phản diện. Hầu hết truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc đều có được tổ chức theo kiểu thắt nút - mở nút, khi “nút” đã được “gỡ” thì mọi chuyện đều được giải quyết theo hướng “có hậu”, tức là kết thúc theo theo kiểu cổ tích. Những kẻ gian ác thường phải trả giá, người ở hiền sẽ gặp lành. Chưa kể những truyện ngắn khai thác cốt truyện đã mang sẵn lối “kết thúc có hậu” trong dã sử, như Lưu bình – Dương Lễ, Hoàng Trừu, thì trong truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc có 8 truyện tiêu biểu cho lối kết thúc này: Một nạn nhân, Ngôi đất công khanh, Bụi phồn hoa, Vàng, Kiếp bình bồng, Một tấm lòng vàng, Có chí thì nên, Tái hợp, Chữ Quý, Vô liêm sỉ. Lối tổ chức truyện theo kiểu truyền thống cho thấy sự nhất quán về tư duy sáng tác của ông: dùng văn chương để “tỏ chí”, gửi gắm tinh thần cách mạng, lòng yêu nước, trung thành với các giá trị truyền thống của dân tộc. Ít tìm được truyện ngắn nào đi “chệch” lối đi truyền thống này. Tương ứng với tinh thần này, nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Cát Ngạc cũng theo lối “tỏ chí”. Nguyễn Cát Ngạc thường sử dụng nhân vật để nói thay suy nghĩ của mình, nhân vật là người phát ngôn tư tưởng của tác giả, vì vậy ông thường xây dựng các nhân vật loại hình, mà ít xây dựng các nhân vật tính cách. Thủ pháp này ảnh hưởng thi pháp cổ điển, bắt nguồn từ quan niệm truyền thống về văn chương là “văn dĩ tải đạo”, cùng với mục đích rất rõ của tác giả là dùng văn chương để truyền bá tri thức, tư tưởng tiên tiến, tinh thần cách mạng của mình, góp phần giác ngộ công chúng. Vì vậy, trong 91 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(92)</span> các truyện ngắn của ông, Nguyễn Cát Ngạc thường tìm cách đưa thông điệp đến người đọc thông qua suy nghĩ, lời nói của một nhân vật nào đó. Thông qua lời nhân vật Dorothy Lan, nhà văn đưa ra quan niệm và thái độ về thưởng thức và sáng tạo nghệ thuật: “Thưởng thức nghệ thuật mà để ý đến lợi riêng thì không sao nhận được vẻ đẹp. Xây dựng nghệ thuật mà cốt cho thu hoạch lợi riêng cũng chỉ di tới một kết qủa xấu xa” (Yêu nghệ thuật). Thông điệp này là sự công phá mạnh mẽ vào những kẻ lợi dụng nghệ thuật để mưu danh lợi, đồng thời cũng là lời cảnh tỉnh những ai tiếp nhận, thưởng thức nghệ thuật mà lại bắt đầu từ những yếu tố ngoài nghệ thuật. Thông qua lời nhân vật Thanh Mai, tác giả thể hiện thái độ phê phán xã hội đương thời đang nhiễm bẩn bởi lối sống phồn hoa: “Một cơn gió tung cát, làm bẩn cả áo Thanh Mai, chị bạn nói: - Ta hãy vào trong quán kia kẻo bụi bẩn cả. - Có gió mát, hãy cứ đi, chị ạ. Bụi này tuy làm bẩn quần áo, nhưng không đáng sợ bằng bụi phồn hoa, làm bẩn cả tâm hồn” (Bụi phồn hoa). Hoặc tác giả lên án những kẻ hám danh lợi mà làm chuyện thất đức qua lời cụ Ký: “Hẳn bây giờ ông không lấy làm lạ thấy tôi xua hắn như xua tà! Một người vì lợi danh, đang tâm chôn sống mẹ, ai mà không tởm!” (Ngôi đất công khanh). Còn đây là lời trăng trối của Tâm, người thiếu phụ không giữ được lòng trinh bạch trong một xã hội đầy ly loạn, nhưng cũng là thông điệp mà tác giả gửi tới người đọc nhằm cảnh tỉnh về trách nhiệm đối với thế hệ tương lai: “Không biết tự hào về mẹ, chúng sẽ không biết tự hào về cha ông, về nòi giống, về tổ tiên, về lịch sử. Thù ghét xã hội, chúng có thể làm hại dân, hại nước mà không đau lòng. Chúng sẽ sống trong vô danh dự” (Một nạn nhân). Việc dựng chuyện theo lối truyền thống và sử dụng nhân vật làm “người phát ngôn” của tác giả đã giúp ông thực hiện được dụng ý của mình, chuyển tải được tư tưởng tác giả đến người đọc nhằm cảm hoá họ. Tuy nhiên, việc 92 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(93)</span> làm này dễ dẫn đến tình trạng tác giả ít chú ý xây dựng tính cách và chiều sâu nội tâm của nhân vật. Điều này phần nào đã trở thành hạn chế trong nhiều truyện ngắn hiện thực của Nguyễn Cát Ngạc, ngoại trừ một số truyện như Một nhà cách mạng, Ngôi đất công khanh, Trên chòi Khâm Thiên… Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc cũng thường nói rõ lý do ra đời của tác phẩm, bằng những lời “thưa trước” với người đọc, biến tác phẩm thành một kiểu chứng minh cho luận đề. Nhà văn thường bộc lộ rõ ý đồ của mình (nói cách khác là chủ đề - tư tưởng tác phẩm) trong phần nhập đề, dẫn chuyện. Ở nhiều truyện ngắn của ông, phần nhập đề khá dài, thường là nêu ra một nhận xét khái quát nào đó, và nội dung chuyện là minh chứng cho nhận xét ấy. Ví dụ: “Chiến tranh đã gây ra bao nhiêu cảnh eo le. Nhưng mắt dân Hà - thành nào biết là éo le! Quen nhìn những cảnh đó hàng ngày, nhất là khi chúng lại được bao phủ bằng một nước sơn văn minh bóng nhoáng, người ta cho đó chỉ là những cảnh tầm thường. Những cảnh đó nhiều khi có những kết thúc bi thảm. Phải được chứng kiến những điều bi thảm đó, mới hiểu được đạo đức của người Việt Nam vẫn mạnh, có khi chồm dậy một cách bất ngờ, ngay trong số các người mà ta tưởng chỉ biết sống điên cuồng cho vật dục. Một chứng cớ là câu chuyện kể sau đây của một thiếu phụ rất mới đã dung nạp được hết các phong thói tân kỳ mới nhập cảng...” (Một nạn nhân). So với nhiều nhà văn xuất sắc cùng thời như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam về mặt thi pháp truyện ngắn thì Nguyễn Cát Ngạc chậm thay đổi. Có lẽ bởi vì ông không phải người viết văn chuyên nghiệp. Mặt khác, theo cách nhập đề, diễn giải khá nhiều, cách viết dung dị của tác giả, và qua bút tích để lại cho thấy truyện của ông chủ yếu viết để in báo, chúng tôi suy đoán rằng: đối tượng ông hướng tới có lẽ là tầng lớp công chúng bình dân. Vì vậy cách viết theo “lối cũ” ở đa số truyện của ông là điều dễ hiểu, bởi nó gần gũi với xu hướng tiếp nhận văn chương theo lối “tả thực” và giúp 93 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(94)</span> người đọc bình dân thuận tiện hơn trong khi tiếp nhận ý nghĩa tư tưởng - thẩm mỹ của tác phẩm. 3.3.2. Ảnh hưởng của phương pháp sáng tác kịch nói cổ điển và luật “ba duy nhất” trong truyện ngắn Bên cạnh những truyện ngắn có lối kết cấu cổ điển đã phân tích ở tiểu mục trên, còn có những truyện ngắn chịu ảnh hưởng của phương pháp sáng tác kịch nói cổ điển làm phong phú thêm nghệ thuật truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc. Có thể thấy ảnh hưởng của phương pháp sáng tác kịch nói cổ điển và luật “ba duy nhất” trong truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc khá rõ, khiến cho nhiều truyện ngắn của ông mang dáng vẻ một vở kịch ngắn, và có thể dễ dàng chuyển thể sang kịch ngắn. Nhân vật trong truyện ngắn của ông thường được xây dựng với tính cách duy nhất, theo nguyên tắc bất biến, thể hiện trong lát cắt hành động của nhân vật, tại một thời điểm, một hoàn cảnh nào đó. Ông sử dụng thủ pháp nghệ thuật “lát cắt hành động” trong mối quan hệ với không gian, thời gian nghệ thuật. Lát cắt ấy là một hành động trung tâm, có diễn biến gắn liền với sự vận động của nhân vật. Với ông, “lát cắt” ấy không chỉ là một phiến đoạn thông thường, mà có khả năng giúp người đọc hồi suy về quá khứ, đồng thời lại gợi mở các liên tưởng về tương lai. Trong truyện Bụi phồn hoa, tác giả lựa chọn không gian truyện là căn nhà sang trọng của Thanh Mai, thời điểm xảy ra sự việc là lúc cô đang chuẩn bị quần áo, trang sức lộng lẫy để chờ người chồng “giỏi giang” của mình về nhà đón để cùng đi dự tiệc. Ngay lúc ấy, một người bạn chồng xuất hiện, vô tình tiết lộ cho cô sự thật kinh hoàng về thủ đoạn làm giàu của người chồng. Trong khoảnh khắc ấy, Thanh Mai đã nhận ra sự thật ấy, đã thay đổi nhận thức và hành động. Đỉnh điểm của hành động là “nàng ngả dần tấm thân để tránh cái mặt đó, nhưng không sao tránh được, nàng ẩy nó ra, rồi bỗng như chớp nhoáng, hình như nàng không kìm hãm nổi tay, nàng tát cho nó một 94 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(95)</span> chiếc nên thân”. Kết thúc truyện là một hành động tất yếu: Thanh Mai bỏ đi, nhất quyết xa rời chốn phồn hoa bụi bặm; cho thấy cuộc đời nhân vật đã thay đổi. Không gian nghệ thuật của truyện cũng thay đổi chuyển từ căn phòng lộng lẫy với những đồ đạc sang trọng ra ngoài con đường gió bụi, nhưng như lời của nhân vật, “Bụi này tuy làm bẩn quần áo, nhưng không đáng sợ bằng bụi phồn hoa, làm bẩn cả tâm hồn”. Ở Ngôi đất công khanh, câu chuyện lại được bắt đầu từ một cuộc “ngả bàn đèn” của nhân vật phụ là cụ Ký trong “một căn buồng liền với phòng khách”, dùng để hút thuốc phiện. Nhân vật “tôi” - người kể chuyện thứ nhất đang trò chuyện với cụ Ký - người kể chuyện thứ hai - thì xuất hiện nhân vật chính, một ông già “chạc 60 tuổi, gầy đét, mắt ốc nhồi, môi sám sịt, mặc bộ quần áo nâu rách, đội khăn lượt màu nước dưa sồng sộc bước nào, chắp tay vái cụ Ký tới gần đất”. Sau khi mắng nhiếc và ném gói sảm cho nhân vật này, rồi xua đi như xua tà, cụ Ký mới kể lại câu chuyện đáng ghê tởm mà nhân vật chính gây ra và chịu hậu quả. Dòng suy tưởng về quá khứ mở ra một không gian khác, thời gian khác, xen vào không gian thời gian hiện tại, làm cho câu chuyện đa chiều hơn. Kết thúc câu chuyện, là không gian thực tại với lời bình thể hiện thái độ của cụ Ký: “Một người vì lợi danh, đang tâm chôn sống mẹ, ai mà không tởm!” Ở một truyện ngắn khác là Giao lương sơn, tác giả chọn không gian là đỉnh núi Giao lương sơn, vào thời điểm nhân vật “tôi” - người kể chuyện thứ nhất - trên đường lên núi, thì suýt ngã xuống một cái rãnh lớn “sâu tới ba thước, nằm ngang đường đi, vắt từ sườn núi bên này, sang sườn núi bên kia”. Hỏi người thổ dân dẫn đường, thì anh ta trả lời rằng, “đây là vết dao của Cao Biền chém cổ rồng”. Và người thổ dân - trong vai người kể chuyện thứ hai - bắt đầu kể về một cuộc chiến bi hùng xảy ra trên đất này từ thời nhà Đường giữa người bản xứ và quân Tàu; kết cục của nó là việc Cao Biền dùng phép thuật làm đứt cổ rồng, cắt đứt long mạch khiến cho đối phương thua cuộc, vùng đất này cũng hết vượng khí. 95 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(96)</span> Phù hợp với thủ pháp “lát cắt hành động”, Nguyễn Cát Ngạc sử dụng kết cấu thời gian theo lối hiện tại - quá khứ - hiện tại trong xây dựng tác phẩm, mà trung tâm (nói cách khác là điểm xuất phát của tác phẩm) thường là một hành động nào đó trong hiện tại. Nghiên cứu các truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc, chúng tôi thấy ông khá chắc tay trong việc thiết lập quá trình hành động của nhân vật, đẩy quá trình ấy đến đỉnh điểm và ở đó, bước ngoặt của số phận nhân vật sẽ diễn ra như một điều tất yếu. Những truyện ngắn: Bụi phồn hoa, Một nhà cách mạng, Vô liêm sỉ, Một tấm lòng vàng, Nước Trivitri, Đánh ghen trong mồ, Hai lần ly biệt, Tình quê, Yêu nghệ thuật,… và nhiều truyện khác nữa đều sử dụng thủ pháp này. Phải chăng vì thế có thể nói rằng nghệ thuật kịch nói và những ảnh hưởng của luật “ba duy nhất” làm cho truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc hấp dẫn người đọc về sự kiện, về logich của hành động hơn là diễn biến của chiều sâu tâm lý nhân vật? 3.3.3. Nghệ thuật “hư cấu lịch sử” để thẩm mỹ hoá hình tượng nhân vật lịch sử. Phải khẳng định một đóng góp đáng kể của Nguyễn Cát Ngạc với văn chương nước nhà là: ông là một trong số không nhiều nhà văn đương thời đưa đề tài lịch sử vào văn chương, sử dụng nghệ thuật “hư cấu lịch sử” để thẩm mỹ hoá hình tượng nhân vật lịch sử. Trong các truyện ngắn Trên chòi Khâm Thiên, Huyền Trân công chúa, Nguyễn Thị Lộ,Lưu Bình - Dương Lễ... các nhân vật lịch sử như Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Huyền Trân, Trần Khắc Chung, Nguyễn Thị Lộ, Châu Long, Lưu Bình, Dương Lễ... hiện lên với diện mạo, diễn biến tâm lý, tính cách rõ rệt, tạo được cảm xúc thẩm mỹ trong người đọc. Với Lê Lợi (Trên chòi Khâm Thiên), ban đầu, Nguyễn Cát Ngạc “dụ” người đọc vào một chân dung phàm tục qua cái nhìn của Trần Nguyên Hãn: “một người chừng ba mươi tuổi, béo phục phịch, quần nâu lá toạ, để hở rốn sâu hoắm, đang ngồi thái một khúc giò. Khi thái, thỉnh thoảng lại bốc một khoanh, 96 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(97)</span> đút phồng mồm và nhai nhồm nhoàm rất là thô tục”. Hình ảnh này đã làm Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi thất vọng sâu sắc, định bỏ về. Nhưng rồi sau đó Nguyễn Trãi bắt gặp một Lê Lợi hoàn toàn khác: “Giữa chòi, một người ngồi ngoảnh lưng về phía ông, bận áo dài đen, quấn khăn lượt, đang xem thiên văn một cách im lặng chăm chú… Nét mặt thô tục biến đi đâu hết. Dáng dấp lợn ỷ tự nhiên đổi thành đường bệ uy nghi. Lê Lợi đang như nghĩ ngợi thâm trầm, miệng lẩm bẩm, tay bấm đốt có vẻ một triết nhân quân tử, khác hẳn với ông ngồi thái giò lúc hoàng hôn. Rồi Lê Lợi ngồi xuống chiếu trước yên, sau khi thắp ba nén nhang trên bệ. Bấy giờ Nguyễn Trãi mới hiểu: Lê Lợi sắp tính Thái Ất, là một môn mà Nguyễn Trãi rất tinh thông”. Hai hình ảnh về Lê Lợi làm nên hai trạng thái tâm lý của nhân vật, cũng là của người đọc.Và hình ảnh thứ hai xoá đi hình ảnh ban đầu, chỉ còn lại một nhân vật uy nhi, đường bệ, giỏi giang, xứng đáng là minh chủ của một cuộc chiêu binh vì nghĩa lớn. Đó là một thành công đáng ghi nhận của nhà văn. Trong truyện ngắn Nguyễn Thị Lộ, bà Nguyễn Thị Lộ hiện lên thật đẹp, từ nhan sắc đến tâm hồn, khí phách. Dường như với mục đích chiêu tuyết cho một người mà hơn sáu trăm năm nay chưa rửa được mối oan khuất, nhà văn đã dùng hết khả năng miêu tả nhan sắc phụ nữ vốn không phải là sở trường của mình để tả Nguyễn Thị Lộ trong cuộc gặp kỳ ngộ với Nguyễn Trãi ở Tây Hồ: “…dáng điệu mềm mại uyển chuyển, và hai bàn tay xinh xinh trắng buốt đang đặ chiếc đòn gánh trên bó chiếu và đang cầm vành nón để sắp quạt… khuôn mặt thanh tao lạ lùng,da trắng nõn, càng thêm trắng bởi đôi mắt bồ câu đen láy… Đôi môi không son mà thắm như san hô, hé ra một cách ý nhị, làm tươi gương mặt trái xoan kiềm diễm đang đỏ bừng dưới ánh quái của chiều hôm”. Một vẻ đẹp thuần hậu, thánh thiện. Lối đặc tả của nhà văn cho thấy sự trân trọng yêu quí của ông dành cho nhân vật của mình. Người thiếp xinh đẹp và tài hoa đã vâng lời chồng, lên kinh đô làm Lễ nghi học sĩ. Vừa giúp vua trị nước, vừa cứu được Thứ phi Ngô Thị Ngọc 97 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(98)</span> Giao, mà vẫn một lòng son sắt với Nguyễn Trãi ở quê nhà. Cho đến khi đối mặt với cái chết bi thảm, nàng vẫn sẵn sàng hy sinh phẩm tiết của mình cho viên thẩm sát với một điều kiện duy nhất là y tha cho Nguyễn Trãi. Tấm lòng trung trinh của Nguyễn Thị Lộ cùng với nhan sắc và tài năng của bà làm nên một vẻ đẹp hoàn thiện, và đó là chân dung nhân vật phụ nữ đẹp nhất trong truyện ngắn của Nguyễn Cát Ngạc. Hai nhân vật lịch sử khác cũng được ông xây dựng với sự quý trọng, đó là công chúa Huyền Trân và thái tử - sau này là vua Chiêm - Chế Mân. Huyền Trân là hình ảnh đẹp đẽ của một công chúa Đại Việt xinh đẹp, đức hạnh, tài hoa, biết yêu thương nhưng cũng biết hi sinh vì danh dự dân tộc và quyền lợi của đất nước. Còn Chế Mân, tuy không xuất hiện nhiều trong truyện Huyền Trân công chúa, nhưng Chế Mân để lại ấn tượng tốt đẹp cho người đọc về hình ảnh một vị vua dũng cảm, tài giỏi, hào hoa phong nhã, trọng chữ tín… Còn nhiều nhân vật khác nữa, được Nguyễn Cát Ngạc chăm chút, phục dựng lại chân dung, làm nổi bật vai trò trong lịch sử. Với một người thông thạo lịch sử như ông, việc xác định vị trí lịch sử của các nguyên mẫu không khó khăn lắm. Và đối với ông, vấn đề là ở chỗ từ những tư liệu lịch sử, từ những truyền thuyết từng tồn tại lâu dài trong dân gian, từ ấn tượng về nhân vật đã hình thành khá ổn định trong lịch sử… thì nhà văn phải khắc họa như thế nào. “Thẩm mỹ hóa” các nhân vật lịch sử ấy, một mặt là cách thức giúp Nguyễn Cát Ngạc tô điểm để “đẹp hóa” nhân vật, một mặt làm cho nhân vật đáng yêu hơn dưới con mắt của người đọc, và dễ đem lại rung cảm thẩm mỹ lành mạnh. Quá trình từ nguyên mẫu tới nhân vật văn học có tướng mạo, tính cách, tư duy, hành động… là một quá trình khá phức tạp. Và cũng không dễ dàng khi nhân vật đó lại đem tới xúc cảm thẩm mỹ cho độc giả. Với truyện dã sử của mình, Nguyễn Cát Ngạc đã làm được điều đó. Đó cũng là điều thú vị mà truyện ngắn hiện thực của ông ít “tới” được. 98 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(99)</span> 3.3.4. Nghệ thuật hư cấu tình huống, tạo tiền đề hài hước hoá nhân vật từ góc nhìn châm biếm, giễu nhại Đây cũng là một nét độc đáo của truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc. Tiếp nối bút pháp châm biếm giễu nhại từ hai vở kịch nối tiếng Ông Tây An Nam và Chàng Ngốc, các truyện ngắn như Nước Trivitri, Một nhà cách mạng, Vẽ mặt văn khôi, Đánh ghen trong mồ, Hội đồng vĩ nhân... thể hiện sự tinh tế, khả năng hài hước trong tạo dựng tình huống, miêu tả ngoại hình và hành vi nhân vật. Như đoạn miêu tả dưới đây về “một nhà cách mạng”: “Ông Văn Giang chừng năm mươi tuổi, béo phục phịch, da ngăm ngăm, trán thấp, mắt híp, lông mày rậm, một tý ria in bóng xuống bộ môi dày. Trời oi bức. Ông sai mở quạt trần vù vù, cởi áo tây tôbican vắt ghế, vén sơmi đến khuỷu tay để lộ hai cánh tay đen sì và to như bắp chuối, giơ bàn tay chổi cùn vuốt mái tóc rễ tre hoặc vẩy mồ hôi đang rỏ giọt quanh cái cổ bạnh to ngang mặt… Văn Giang vẫy một cái. Một tên bồi, quần áo trắng bốp, bưng một cái khay đặt trên bàn. Trên khay, một cốc càphê sữa, một chiếc bánh tây to, một đĩa bơ, một miếng phomát khổng lồ và mấy quả chuối. Sau khi xin phép bạn già, Văn Giang bắt đầu ăn lót dạ. Chỉ năm phút, Văn Giang nhồm nhoàm ăn hết bánh, uống hết càphê và bắt đầu ăn phomát với chuối" (Một nhà cách mạng). Một nhà “cách mạng” hiện lên như một kẻ phàm phu tục tử, từ ngoại hình đến cử chỉ hành vi, một kẻ lấy hưởng thụ làm đầu, nhưng lại lên giọng dạy dỗ người khác về cách mạng! Cách gọi trân trọng “một nhà cách mạng” và lối miêu tả chi tiết về nhân vật để độc giả thấy rõ bản chất của y là cách mạng giả hiệu tạo ra sự tương phản làm tăng thêm tính châm biếm giễu nhại của hình tượng nhân vật. Ở truyện ngắn Nước Trivitri, nhà văn hư cấu những câu chuyện xung quanh chế độ kiểm duyệt ở một nước có tên là Trivitri. Toà kiểm duyệt ở nước này do Bút Văn Soá làm giám đốc. Ông giám đốc dốt nát nhưng cậy quyền thế, hành hạ các báo, gây ra những tình huống dở khóc dở cười: “Báo nào chả có mục tiểu thuyết. Trước khi cho in, ông cho một đội đặc vụ của ông đi điều tra xem truyện 99 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(100)</span> trong tiểu thuyết đó là thực hay hư. Đã gọi là tiểu thuyết thì thực làm sao được? Bởi thế, mục tiểu thuyết của hết thảy các báo đều bị xoá sổ”. Các báo bị kiểm duyệt nhiều quá, đấu tranh bằng nhiều cách không được, rủ nhau sang nước láng giềng Chung Nhạc Lạc viết báo bằng tiếng Tri vi tri công kích Bút Văn Soá và Thủ tướng. Hai nước mâu thuẫn nhau, dẫn đến hai phe báo chí trên thế giới mâu thuẫn với nhau rồi gây chiến, làm xảy ra… đại chiến thế giới! Rốt cuộc, nguyên nhân “chỉ vì sự khắc nghiệt thái quá của Toà kiểm duyệt nước Trivitri”. Thông qua câu chuyện hư cấu ấy, ông “chiếu” cái nhìn châm biếm sắc sảo vào chế độ kiểm duyệt đương thời. Cũng như vậy, truyện ngắn Nước Tự do tiếp tục “công phá” chế độ kiểm duyệt. Nhà văn dựng lên một nước tên là nước Tự do, “ở dưới gầm trời Đông Nam Á, xuất hiện sau hiệp ước Genève”. Đại sứ của nước này thường khoe với thế giới rằng “nước họ có một chế độ tự do hoàn toàn”, khiến dân tứ xứ tìm đến. Và họ thấy quả là ở nước này được tự do hoàn toàn khi đánh bạc, hành lạc, bắt cóc… Khi biết đọc báo bằng tiếng Tự do, họ phát hiện ra rằng có những chân dung người chỉ có một bên râu mép, có nhiều bài báo chỉ có một nửa. Hỏi ra, mới biết nước này còn có “một quyền tự do thiêng liêng nữa, đó là tự do… kiểm duyệt!”. Trong một truyện ngắn khác tên là Đánh ghen trong mồ, nhà văn cũng dựng lên một cảnh hài hước, nhằm chế giễu những ông chồng đa thê, những bà vợ hay ghen. Gia đình nhà giàu nọ có một ông hai bà, tiến hành xây lăng sẵn cho ba ông bà, phòng khi về bên kia thế giới. Mặc cho bà hai van xin, bà cả nhất định không cho vẽ chân dung bà hai với nhiều đồ trang sức, không cho vẽ tranh Phật ở lăng bà hai, mà chỉ cho vẽ hai cánh cửa đóng kín, để sau này linh hồn bà hai bị… cầm tù trong mồ! Những tình huống hài hước, giễu nhại được tạo dựng một cách hợp lý, với nhiều chi tiết sắc sảo, tinh tế, làm phong phú thêm hệ thống phương tiện thẩm mỹ trong các truyện ngắn, nhất là truyện thế sự của nhà văn, và thể hiện cái nhìn giễu cợt, thái độ bất bình của ông với xã hội, thời cuộc. 100 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(101)</span> 3.3.5. Nghệ thuật sử dụng bút pháp hiện thực kết hợp với bút pháp kỳ ảo. Một nét đáng lưu tâm về nghệ thuật nữa là, trong những truyện Nguyễn Cát Ngạc gọi là “kiến văn chí dị” như: Giống Waltrabar, Ma Hàng Giầy, Cái chết của ông lang Doanh, Ma Hàng Cỏ, Cây đèn Khổng Minh, ông đã sử dụng bút pháp hiện thực kết hợp với bút pháp kỳ ảo. Đó cũng là nét lạ ở văn ông, mà nếu chỉ đọc các tác phẩm khác người ta sẽ dễ coi đó không phải “tạng” của ông. Có lẽ, nó xuất phát từ quan niệm văn chương như ông từng viết: “Truyện giải trí cốt làm cho độc giả vui, chỉ có vui thôi, không cần bổ ích cho trí tuệ, không lo bổ dưỡng cho đạo đức chi hết” (Truyện giải trí). Những truyện ngắn, kể lại những câu chuyện về ma, về cái chết kỳ dị của một ông lang, những hình ảnh hư hư thực thực được kể bằng giọng điệu khá nghiêm túc, tạo nên vẻ hấp dẫn và độ tin cậy nhất định cho người đọc. Truyện Ma Hàng Cỏ viết về một căn buồng có ma ở một hàng cơm ở gần ga Hàng Cỏ. Ai vào đó ngủ đêm cũng bị lật giường lật chiếu. Người chủ nhà treo giải: nếu ai vào đó ngủ một đêm sẽ được 100 đồng. Có hai anh nghiện rủ nhau vào. Nửa đêm có người đàn bà ma hiện về quấy nhiễu, khiến hai anh chết ngất. Truyện Ma Hàng Giầy, người kể chuyện đứng ở ngôi thứ nhất để trần thuật về việc đêm ngủ ở nhà mình trên phố Hàng Giầy, người nhà luôn nghe tiếng bước chân đi lại, đèn điện thì mỗi chốc lại tắt rồi lại bật, sợ quá phải ra hè phố ngủ. Bèn lập đàn tràng cúng cháo cho ma, cúng xong thì lấy roi quất tứ tung trong nhà, vừa quất vừa đuổi. Từ đó không thấy tiếng guốc lọc cọc hay đèn tự tắt tự bật nữa. Truyện Cái chết của ông lang Doanh lại ly kỳ hơn. Ông lang Doanh còn gọi là đồ Doanh - bị ốm nặng, nhân vật “tôi” đến thăm, được người nhà cho biết là ông bị ma làm, chưa chết được. “Tôi” liền ở lại qua đêm bên người bệnh. Đêm đến, thấy ma là một con chó trắng lớn đến bắt mạch cho bệnh nhân. Bèn thuật lại cho gia đình bệnh nhân biết. Ba hôm sau ông lang chết, hỏi ra thì vì gia đình đã giết con chó trắng để ông được siêu thoát. Truyện 101 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(102)</span> khép lại bằng những câu hỏi: “Linh hồn nào đã nhập vào con chó, khiến nó biết đi, biết đội nón, cầm gạy, biết chẩn mạch? Tại sao nó lại cầm bệnh ông Đồ? Vì oán cừu hay vì muốn giữ ông Đồ sống nữa?” Truyện Cây đèn Khổng Minh khai thác chủ đề là tài năng tiên tri của nhà quân sư tài ba Khổng Minh. Cây đèn do Khổng Minh làm ra sau 7 lần bắt rồi tha Mạnh Hoạch, hàng trăm năm vẫn cháy sáng trên một sườn đồi, bỗng một hôm bị tắt. Dân chúng rất lo lắng vì đèn tắt báo trước điềm xấu. Họ đào được một bia đá khắc 4 câu thơ “Tứ hải nội/ Hữu quần anh/Lộc thì đáo/ Đăng tái minh”. Một hôm có người khách du lịch tên là Lokes đi qua, thấy thế xin chữa hộ. Ông ta chữa được cho cây đèn sáng trở lại. Mọi người mới hiểu ra lời tiên tri của Khổng Minh đã ứng. Điều thú vị là nguyên nhân cháy sáng hàng trăm năm của cây đèn thì nhà văn giải thích ngay được bằng khoa học, còn việc đèn tắt, rồi một người tên Lộc đến làm nó sáng trở lại, thì nhà văn để cho đọc giả tự ngẫm và thấy thích thú. So với những truyện kinh dị của Thế Lữ, truyện ma của TCHYA (Đái Đức Tuấn) thì truyện của Nguyễn Cát Ngạc còn đơn giản cả về kết cấu và dung lượng (mỗi truyện chỉ dưới 1500 từ), bản thân ông cũng thừa nhận viết truyện giải trí không phải là sở trường của mình, nhưng trong sự nghiệp văn học của riêng ông, thì mảng “chí dị” cũng góp phần làm nên sự phong phú về nội dung và nghệ thuật thể hiện. Những nghiên cứu về truyện ngắn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc được trình bày trên đây trong điều kiện những tác phẩm của ông ít được giới nghiên cứu và công chúng biết đến, việc khảo cứu tác phẩm của ông đến nay còn nhiều khó khăn, nên chắc chắn là chưa đầy đủ. Có thể thấy rằng, so với hai vở kịch ông đã đóng góp cho nền văn học và sân khấu nước nhà thì sự đóng góp về truyện ngắn của ông vẫn còn khiêm tốn. Nhưng chúng ta cũng thấy được một số nỗ lực cần ghi nhận của Nam Xương – Nguyễn Cát Ngạc ở thể loại truyện ngắn: 102 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(103)</span> Một là, về mặt nội dung tư tưởng, các truyện ngắn Nguyễn Cát Ngạc đã đạt được giá trị cao trong việc thể hiện thành công tư tưởng yêu nước, niềm tự hào với truyền thống đấu tranh bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Cùng với đó, là tình yêu quê hương xứ sở, sự cổ vũ cho những giá trị truyền thống và tấm lòng nhân ái giữa người với người; là thái độ phê phán quyết liệt với cái xấu, cái Ác trong xã hội thực dân nửa phong kiến. Đó là những biểu hiện sâu sắc của tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc trong văn chương Nguyễn Cát Ngạc nói chung, truyện ngắn của ông nói riêng. Hai là, về mặt nghệ thuật, Nam Xương đã đạt được những thành công nhất định trong các thủ pháp nghệ thuật như: nghệ thuật kết cấu truyện theo kiểu truyền thống và xây dựng nhân vật theo lối “tỏ chí”, nghệ thuật “hư cấu lịch sử” để thẩm mỹ hoá hình tượng nhân vật lịch sử‟, nghệ thuật hư cấu tình huống, tạo tiền đề hài hước hoá nhân vật từ góc nhìn châm biếm, giễu nhại khi phơi bày các tình huống lố lăng của xã hội,… Tuy nhiên, về mặt thi pháp truyện ngắn, so với nhiều nhà văn xuất sắc cùng thời như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Thạch Lam,… thì Nguyễn Cát Ngạc chậm thay đổi, còn chịu ảnh hưởng của lối viết cũ. Mặc dù vậy, như chúng tôi lý giải, Nam Xương là một nhà văn không chuyên nghiệp, lại hướng tới công chúng bình dân. Chủ trương dùng văn học để “tải đạo”, nên truyện ngắn của ông nói riêng, văn chương của ông nói chung thường giản dị, ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với việc đăng báo để từ đó đến được với đông đảo công chúng rộng rãi. Việc hướng tới người đọc rộng rãi chịu ảnh hưởng trực tiếp của tư tưởng văn học mác xít “nghệ thuật vị nhân sinh”, nằm trong hệ tư tưởng cách mạng mà ông theo đuổi.. 103 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(104)</span> KẾT LUẬN Bước đầu nghiên cứu sự nghiệp văn học của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chúng tôi rút ra được những vấn đề sau: 1. Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã có nhiều cống hiến cho nền văn chương nước nhà thế kỷ XX. Với tư cách và tài năng của một nhà văn chiến sĩ, ông đã góp vào nền văn học Việt Nam hiện đại những tác phẩm, mang đậm tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, tấm lòng nhân ái giữa người với người cùng thái độ không khoan nhượng với những gì đi ngược lại các giá trị tốt đẹp của dân tộc. Đó cũng là tư tưởng nền tảng, quán triệt và chi phối cái nhìn nghệ thuật của ông, gắn liền với sự nghiệp cách mạng mà ông theo đuổi đến hơi thở cuối cùng. Những nội dung ấy là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước và tinh thần dân tộc trong văn chương Nam Xương -Nguyễn Cát Ngạc. Qua đó, chúng ta hiểu hơn về tài năng và nhân cách của nhà văn - chiến sĩ, về động lực khiến ông tham gia và cống hiến cuộc đời mình cho cách mạng và dân tộc. 2. Văn chương Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã bước đầu đạt được những thành công về nghệ thuật. Nổi trội nhất là về kịch bản văn học, trong đó việc vận dụng sáng tạo phương pháp sáng tác cổ điển và luật “ba duy nhất” của Châu Âu cùng những thủ pháp nghệ thuật xây dựng tình huống hài hước, nghệ thuật khai thác và biểu hiện diễn biến tâm lý của nhân vật, đặc biệt là nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình mà nhân vật “Ông Tây An Nam” là những đặc điểm nổi bật. Về nghệ thuật truyện ngắn, tuy về mặt thi pháp chủ yếu là ảnh hưởng thi pháp cổ điển, nhưng các thủ pháp nghệ thuật cụ thể, như nghệ thuật kết cấu truyện theo kiểu truyền thống và xây dựng nhân vật theo lối “tỏ chí”, nghệ thuật “hư cấu lịch sử” để thẩm mỹ hoá hình tượng nhân vật lịch sử‟…cũng góp phần tạo ra những thành công trong việc biểu đạt một cách sinh động những giá trị tư tưởng của tác phẩm. 104 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(105)</span> 3. Nhìn lại sự phát triển của kịch nói Việt Nam từ giai đoạn bắt đầu được du nhập và sau đó là từng bước phát triển (đầu thế kỷ hai mươi đến năm những năm ba mươi), có thể thấy rất rõ các cống hiến của Nam Xương Nguyễn Cát Ngạc trên phương diện văn hóa. Bởi trên cơ sở của sự tiếp biến văn hóa một cách chủ động, ông đã cùng với thế hệ các tác giả kịch bản đầu tiên tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Tây và gạn lọc những yếu tố phù hợp của sân khấu truyền thống Việt Nam. Từ đó có thể khẳng định rằng, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc là người thuộc thế hệ đầu tiên đưa kịch nói đến với sân khấu Việt Nam trong tư cách là một thể loại mới, chưa từng có trong lịch sử và từ đó, sân khấu Việt Nam hiện đại trở thành một hệ thống hoàn chỉnh như hôm nay chúng ta thường nói, bao gồm: kịch nói, kịch hát với tuồng, chèo, cải lương (có thể kể thêm thể loại kịch thơ?). Tuy không phải là người đầu tiên có kịch bản được dàn dựng trên sân khấu, nhưng nhắc đến thế hệ đầu tiên đóng vai trò mở đường để lập ra nền kịch nói Việt Nam, thì cùng với những cái Vũ Đình Long, Nguyễn Hữu Kim, Vi Huyền Đắc… người ta không thể không nhắc đến Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc một cách trân trọng vì những sáng tạo thành công của ông ngay khi vừa xuất hiện. Đương thời, sau khi vở kịch đầu tiên của ông - Chàng Ngốc - được công bố đã gây tiếng vang trong đời sống xã hội. Và khi Ông Tây An Nam xuất hiện, thì tên tuổi Nam Xương đã được khẳng định và phải nói rằng tên tuổi đó còn ở lại với lịch sử kịch nói Việt Nam, bởi tính “độc sáng” của hình tượng nhân vật và giá trị nhân văn của tác phẩm. Vở kịch trở thành một dấu ấn quan trọng, là lời cảnh báo, đồng thời phản ánh một phương diện của quá trình tiếp nhận - biến đổi các giá trị văn hóa - nghệ thuật trong giao lưu với văn hóa - văn minh thế giới đã vượt ra khỏi giới hạn chật hẹp của quan hệ khu vực. Từ góc độ văn hóa để xem xét, còn phải khẳng định rằng: với kịch bản Ông Tây An Nam, tác giả Nam Xương là người đã sớm đưa ra lời cảnh báo về sự hoành hành của thói “vong bản”, về khả năng mai một của một số giá trị 105 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(106)</span> thuộc về bản sắc và truyền thống văn hóa nếu không được điều chỉnh kịp thời vào thời điểm giao lưu quốc tế đã rộng mở. Điều này càng cho thấy tầm nhìn của ông về thời đại, về những biến chuyển văn hóa - văn minh mới đã và đang diễn ra ở Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua; nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà công cuộc đổi mới đất nước đang diễn ra. Quá trình “mở cửa” giao lưu kinh tế, giao lưu văn hóa với thế giới ngày càng rộng mở và sự xâm nhập của các nền văn hoá khác nhau - trong đó một lần nữa lại là sự xâm nhập mạnh mẽ của văn hoá – văn minh phương Tây – làm đảo lộn một số quan niệm và hành vi xã hội - văn hóa của con người; bên cạnh những tác động tích cực, đã và đang có những tác động tiêu cực làm băng hoại nền văn hoá - đạo lý dân tộc. Ngược chiều thời gian để đánh giá sự nghiệp sáng tác kịch bản của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc, chúng ta càng thấy tác phẩm của ông - đặc biệt là Ông Tây An Nam - đã có ý nghĩa to lớn không chỉ về phương diện nghệ thuật mà còn cả về văn hóa - xã hội - con người. 4. Ở góc độ văn học sử, Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đảm nhận vai trò của một trong những người tiếp nối cho văn học hiện đại trong vùng tạm chiếm. Theo những nghiên cứu của chúng tôi, bộ phận văn học Việt Nam phát triển trong vùng tạm chiếm (1945 – 1954), và văn chương ở miền Nam giai đoạn 1955 – 1960 còn lại đến nay là không nhiều và cũng chưa được nhiều người chú ý nghiên cứu. Trong hoàn cảnh vừa hoạt động bí mật vừa sáng tác văn học, thì những cố gắng của người chiến sĩ - nghệ sĩ Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc là rất đáng trân trọng. Và cũng phải nói thêm rằng, tuy cùng mang danh nghĩa là “trí thức di cư” vào miền Nam để hoạt động bí mật, nhưng nếu các tác phẩm của Vũ Bằng như Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội luôn là nỗi hoài nhớ xứ Bắc “ngàn năm văn vật” thì tác phẩm của Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc lại tiếp tục cái lối đi mà ông đã chọn từ giai đoạn trước, đó là sử dụng chủ nghĩa hiện thực để tố cáo bản chất xấu xa của xã hội đương thời, đồng thời tố cáo và vạch mặt cái xấu, cái ác của xã hội, giúp 106 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(107)</span> người đọc căm ghét nó mà có hành động phản kháng. Đó cũng chính là một biểu hiện của tâm thế tinh thần mà Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc đã có được từ ngày ông tự giác lựa chọn cho mình con đường đi theo lý tưởng cách mạng. Vì vậy, chúng tôi hy vọng việc nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của Nam Xương sẽ góp phần bổ sung vào bộ phận văn học vùng tạm chiếm (1945 – 1954) và văn chương miền Nam 1955 – 1960. Chúng tôi mong muốn sẽ có một sự nghiên cứu đầy đủ hơn về tất cả các tác phẩm thuộc các thể loại mà Nam Xương đã sáng tác để có thể phục dựng một chân dung văn học của một nhà văn - chiến sĩ đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng và nền văn học nước nhà./.. 107 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(108)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 1999. 2. Vũ Bằng, Truyện ngắn chọn lọc, NXB Văn hoá thông tin, H., 2005. 3. Nam Cao, Tuyển tập Nam Cao tập 1, NXB Văn học, H., 1997 4. Nam Cao, Tuyển tập Nam Cao tập 2, NXB Văn học, H., 1997 5. Nguyễn Huệ Chi - Trần Hữu Tá, Từ điển văn học (Bộ mới), NXB Thế giới, H.2005 6. Phan Cự Đệ (chủ biên) Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, H.,2004. 7. Vi Huyền Đắc, Cô đầu Yến, NXB Thái Dương Văn Khố, 1930. 8. Vi Huyền Đắc, Nghệ sĩ hồn, NXB Thái Dương Văn khố, 1930. 9 Vi Huyền Đắc, Giê – su, đấng cứu thế, NXB Đại La, 1945. 10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, H., 2007. 11. Hoàng Ngọc Hiến, Tập bài giảng nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, 1997. 12. Đỗ Đức Hiểu (Chủ biên), Từ điển văn học, tập 2, NXB Khoa học Xã hội, H.,1984. 13. Phan Kế Hoành - Huỳnh Lý, Bước đầu tìm hiểu Lịch sử kịch nói Việt Nam trước cách mạng tháng Tám - NXB Văn hoá, H.,1978 14. Nguyễn Hòa, Về tác giả vở kịch nói Ông Tây An Nam, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7 - 2001. 15. Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng, Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 – 1930, NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, H., 1988. 108 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(109)</span> 16. Đinh Gia Khánh (chủ biên), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 23, NXB Khoa học xã hội, H.,1997. 17. Phương Lựu (chủ biên), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, H., 1997. 18. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn – tư tưởng – phong cách, NXB Văn học, H., 1983. 19. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, H., 2002. 20. Nguyễn Cát Ngạc, Bụi phồn hoa, NXB Quê hương, H.,1950. 21. Nguyễn Cát Ngạc, Bách Việt, NXB Quê hương, H., 1950. 22. Nhiều tác giả, Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, NXB Sân khấu, H., 1997. 23.Nhiều tác giả, Kịch nói Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, NXB Sân khấu, H.,1997 24. Nhiều tác giả, Kịch Việt Nam chọn lọc, NXB Sân khấu, H., 2000. 25. Trần Đình Sử, Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Vụ Giáo viên, H., 1993. 26. Trần Thị Việt Trung, Lịch sử phê bình văn học Việt Nam (giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945), NXB Đại học quốc gia Hà Nội, H., 2004. 27. Nguyễn Trúc Thanh, Sử ký Việt Nam, NXB Liên hiệp, Sài Gòn, 1956. 28. Nam Xương, Chàng Ngốc, NXB Nam Định - Trường Phát,1930. 29. Nam Xương, Ông Tây An Nam, NXB Hà Nội - Nam Kỳ, 1931. 109 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(110)</span> MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ NHÀ VĂN NAM XƢƠNG - NGUYỄN CÁT NGẠC. Nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc (1905 – 1958 ). 110 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(111)</span> Ông bà Nguyễn Cát Ngạc cùng các con. Ông bà Nguyễn Cát Ngạc – Võ Thiện Ngôn. 111 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(112)</span> Gia đình nhà văn Nam Xương trên chiến khu Việt Bắc. 112 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(113)</span> Lễ truy điệu nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc tại Hà Nội, năm 1976. Ông Nguyễn Hải Thoại – con cả nhà văn Nam Xương (đứng giữa), cùng nhạc sĩ Văn Cao (bên trái), nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh (bên phải), tại Lễ truy điệu nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc.. 113 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(114)</span> Gia đình nhà văn Nam Xương - Nguyễn Cát Ngạc tại Lễ truy điệu ông .. Bức thư cuối cùng của Nam Xương gửi con trai Nguyễn Mạnh Đàm.. 114 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên. .

<span class='text_page_counter'>(115)</span>

×