Tải bản đầy đủ (.pdf) (175 trang)

Đời sống văn hóa tinh thần của người cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện trên địa bàn huyện ba vì hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.86 MB, 175 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI
----------------------

Ngun ThÞ vân anh

đời sống văn hóa tinh thần của
người cai nghiện trong các trung tâm
cai nghiện trên địa bàn huyện ba vì - hà nội

Chuyên ngành: văn hóa học

M S: 60 31 70

luận văn thạc sỹ văn hóa học

NGI HNG DN KHOA HỌC: TS. HOÀNG KIM NGỌC

HÀ NỘI – 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, luận văn cao học với đề tài: “Đời sống văn hóa tinh thần
của người cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì- Hà
Nội” là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung
thực. Nhứng kết luận trong luận văn đều chưa được cơng bố hay sử dụng trong bất
kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Vân Anh




LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Hồng Kim Ngọc, Phó chủ
nhiệm Khoa Viết văn- Báo chí, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã tận tình, trực
tiếp hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tơi trong suốt q trình nghiên cứu và thực
hiện luận văn này.
Tơi xin chân thành bày tỏ lịng biết ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học,
các Giáo sư, Tiến sĩ, các Thầy Cô giáo Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã tận tình
giảng dạy, hướng dẫn và quan tâm giúp đỡ tơi trong q trình học tập và nghiên
cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Huyện ủy, Ủy ban nhân dân, Phịng
Văn hóa, Thể thao và Du lịch huyện Ba Vì, cùng các Cơ, các Chú trong ban lãnh
đạo và các anh chị ở trung tâm cai nghiện số 01, số 02, số 04 và trung tâm cai
nghiện số 08 đã cung cấp tư, tài liệu, đóng góp những ý kiến quý báu để tơi hồn
thành bài luận văn này.
Người cuối cùng mà tơi muốn gửi lời cảm ơn nhất, người đã thay tôi hồn
thành thiên chức của người vợ, người mẹ ni hai đứa con cịn nhỏ của tơi trong
q trình tơi học tập và công tác, đồng thời cũng là người luôn động viên, chia sẻ,
tạo mọi điều kiện tốt nhất để tơi hồn thành bài luận văn này đó là người bạn đời
của tôi- anh Nguyễn Trung Kiên.

Tác giả: Nguyễn Thị Vân Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH
THẦN CỦA NGƯỜI CAI NGHIỆN TRONG CÁC TRUNG TÂM CAI
NGHIỆN......................................................................................................... 12

1.1.Nhận thức cơ bản về ma túy, nghiện ma túy và các hình thức và phương
thức cai nghiện ma túy hiện nay .................................................................. 12
1.1.1. Khái niệm về ma túy ................................................................... 12
1.1.2. Khái niệm nghiện ma túy............................................................ 15
1.1.3. Các hình thức và phương thức cai nghiện ma túy hiện nay ....... 18
1.2. Đặc điểm của người cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện ....... 23
1.2.1. Khái niệm người nghiện ............................................................. 23
1.2.2. Khái niệm trung tâm cai nghiện ................................................. 26
1.3. Dặc trưng đời sống văn hóa tinh thần của người cai nghiện trong các
trung tâm cai nghiện ..................................................................................... 30
1.3.1. Khái niệm về đời sống văn hóa tinh thần ................................... 31
1.3.2. Khái niệm về đời sống văn hóa tinh thần của người cai nghiện trong
các trung tâm cai nghiện ....................................................................... 32
1.3.3. Những nét tiêu biểu về đời sống văn hóa tinh thần của người cai
nghiện trong các trung tâm cai nghiện ................................................. 35
1.4. Tầm quan trọng của đời sống văn hóa tinh thần đối với người cai nghiện
trong các trung tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì- Hà Nội ............. 42
1.4.1. Tạo mơi trường sống lành mạnh, trong lành có văn hóa ............ 42
1.4.2. Loại trừ tính lười biếng, kích thích tinh thần lao động .............. 44
1.4.3. Đáp ứng nhu cầu về sinh hoạt văn hóa tinh thần cho người cai nghiện
trong các trung tâm cai nghiện ............................................................. 45
1.4.4. Thay đổi cách nhìn nhận về quá khứ và hướng tới tương lai ..... 47
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA
NGƯỜI CAI NGHIỆN TRONG CÁC TRUNG TÂM CAI NGHIỆN TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN BA VÌ- HÀ NỘI ........................................................... 51


2.1. Tổng quan về huyện Ba Vì và các trung tâm cai nghiện trên địa bàn
huyện .............................................................................................................. 51
2.2. Đặc điểm của người cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện trên địa

bàn huyện Ba Vì - Hà Nội............................................................................. 56
2.2.1. Về tuổi tác, trình độ học vấn, nghề nghiệp, đặc điểm tâm lý ..... 56
2.2.2. Về nhu cầu văn hóa tinh thần ..................................................... 64
2.3. Thực trạng về đời sống văn hóa tinh thần của người cai nghiện trong các
trung tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì- Hà Nội .......................... 65
2.3.1. Về hoạt động giải trí trong thời gian rỗi ..................................... 66
2.3.2. Về hoạt động giao lưu văn hóa ................................................... 69
2.3.3. Về hoạt động văn nghệ quần chúng ........................................... 71
2.3.4. Về hoạt động tự chăm sóc bản thân của người cai nghiện ......... 75
2.4. Đánh giá về thực trạng hoạt động văn hóa tinh thần của người cai nghiện
ở một số trung tâm trên địa bàn huyện Ba Vì - Hà Nội và nguyên nhân của
những vấn đề còn tồn tại .............................................................................. 77
2.4.1. Những thành công cơ bản ........................................................... 77
2.4.2. Những tồn tại .............................................................................. 81
2.4.3. Nguyên nhân của những vấn đề còn tồn tại ............................... 85
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO ĐỜI SỐNG VĂN HÓA TINH THẦN CHO NGƯỜI CAI
NGHIỆN TRONG CÁC TRUNG TÂM CAI NGHIỆN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BA VÌ- HÀ NỘI ............................................................................. 91
3.1. Phương hướng và những quan điểm cơ bản để nâng cao đời sống văn hóa
tinh thần cho người cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện trên địa bàn
huyện Ba Vỡ - Hà Nội ................................................................................... 91
3.1.1. Phương hướng ............................................................................ 94
3.1.2. Những quan điểm cơ bản ............................................................ 96
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho người cai
nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì- Hà Nội ................................................ 100
3.2.1. Nhận thức đúng đắn về ý nghĩa của việc nâng cao đời sống văn hoá
tinh thần cho người cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện ......... 100



3.2.2. Đầu tư nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người cai nghiện ở
các trung tâm cai nghiện ..................................................................... 103
3.2.3. Xây dựng mơi trường văn hố lành mạnh trong các trung tâm cai
nghiện.................................................................................................. 107
3.2.4. Tổ chức thực hiện ..................................................................... 118
3.2.5. Khuyến khích người cai nghiện tham gia vào các hoạt động văn hoá
nhằm nâng cao đời sống tinh thần trong trung tâm cai nghiện .......... 121
3.3. Những ý kiến đề xuất ........................................................................... 122
3.3.1. Đối với Đảng và Nhà nước ....................................................... 123
3.3.2. Đối với ban lãnh đạo các trung tâm cai nghiện ........................ 124
3.3.3. Đối với người cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện ........ 126
KẾT LUẬN .................................................................................................. 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 132
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 139


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cơng cuộc đổi mới toàn diện ở Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng và lãnh đạo, bắt đầu từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã đạt
được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội…làm chuyển biến xã hội một cách tồn diện.
Nhưng chính cơng cuộc cơng đổi mới đó một mặt mang lại những điều tích
cực, một “luồng gió mới” trong đời sống của người dân Việt Nam, cải thiện đáng
kể đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần con người, mặt khác nó lại làm
nảy sinh nhiều tiêu cực, con người sống ích kỷ, vị kỷ, ít quan tâm đến nhau, có lối
sống đồi trụy, mất lý tưởng cách mạng…từ đó dẫn đến một bộ phận người dân mắc
phải những tệ nạn xã hội (trong đó có ma túy).
Từng bước xâm nhập lối sống hưởng thụ, lười lao động, sống “tranh thủ”,
những trò ăn chơi trác táng đã và đang len lỏi một cách mạnh mẽ vào hầu hết các

gia đình, làm hư hỏng, héo mịn một bộ phận khơng nhỏ trong tất cả các tầng lớp
nhân dân. Đặc biệt là tệ nạn ma túy đã, đang là một vấn nạn của không chỉ ở Việt
Nam mà ở cả Thế giới, nó gieo rắc những nỗi đau tột cùng ở cả hai phương diện;
tinh thần và vật chất.
Nghiện ma tuý và tội phạm ma tỳy đó và đang hồnh hành ở mọi nơi trên
khắp thế giới, bất kể thành phố hay nông thôn, ở vùng núi hay đồng bằng, ở các
nước tư bản giàu có hay các nước chậm phát triển. Trong vũng 15 năm qua, mặc
dù đất nước đó đạt được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế - xó hội gúp phần
tạo nờn những thay đối đáng kể trong đời sống vật chất và tinh thần cũng như tạo
cho con người nhiều nếp sống hiện đại, nhưng một bộ phận cũn lại, đặc biệt là giới
trẻ, cũn thiếu việc làm, lười lao động, đó rơi vào tỡnh cảnh bế tắc và tỡm đến với


ma túy. Bên cạnh đó, khơng ít gia đỡnh giàu cú sẵn sàng cung cấp tiền bạc cho cỏc cụ
chiờu, cậu ấm mà khơng biết tiền đó tiêu vào việc gỡ và chớnh những đối tượng này
đó trở thành con mồi bộo bở cho bọn buụn bỏn ma tỳy.
Tệ nạn ma túy đó trở thành quốc nạn với nhiều nước, gây cản trở lớn đối
với sự phát triển kinh tế, xã hội; gây ra những tác hại to lớn đối với mọi mặt của
cuộc sống, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục của dân tộc.. và cần được loại
bỏ. Trong đó, nghiện ma túy là mối đe dọa đến hạnh phúc của mọi người, mọi gia
đình, đem lại những tác hại vô cùng to lớn.
Hơn bao giờ hết, những người đã và đang mắc nghiện trên cả nước phải có
một lối sống lành mạnh, sống có mục đích, có lí tưởng đây là u cầu cấp bách của
tồn xã hội Việt Nam.
Hiện nay, số người mắc nghiện chiếm một tỷ lệ nhỏ trong xã hội nhưng đang
có xu hướng gia tăng đòi hỏi những biện pháp ngăn chặn từ cá nhân, gia đình và tồn
thể xã hội vì vậy cần có những trung tâm cai nghiện hay cịn gọi là trung tâm giáo dục
và lao động xã hội nhiều hơn nữa. Người mắc nghiện suy cho cùng cũng là con người,
vẫn được hưởng sự bao bọc của xã hội, chúng ta không được bỏ rơi họ.
Làm tốt đời sống văn hóa tinh thần cho người cai nghiện trong các trung tâm

cai nghiện là một vấn đề nghiên cứu có tính lý luận và thực tiễn cao. Thành phố Hà
Nội là nơi tập trung khá nhiều các trung tâm cai nghiện đặc biệt là khu vực huyện Ba
Vì, việc nghiên cứu đời sống văn hóa và tinh thần của họ là vơ cùng quan trọng. Xuất
phát từ tình hình đó, tơi chọn vấn đề: “Đời sống văn hóa tinh thần của người cai
nghiện trong các trung tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì- Hà Nội” làm đề tài
luận văn Thạc sỹ Văn hóa học của mình, nhằm khảo sát và phân tích một cách có hệ
thống thực trạng đời sống văn hóa tinh thần của người cai nghiện ở trung tâm cai
nghiện, từ đó đề ra những giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng công tác quản lí,


nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho những người cai nghiện trong giai đoạn cấp
bách hiện nay.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Đời sống văn hóa tinh thần, đặc biệt là đời sống văn hóa tinh thần của những
người cai nghiện là một vấn đề được đề cập khá nhiều trên các phương tiện thông
tin đại chúng và đây cũng là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên
cứu. Tuy nhiên cho đến nay, việc nghiên cứu về đời sống văn hóa tinh thần cho
người cai nghiện trong các trung tâm trên địa bàn huyện Ba Vì- Hà Nội thì chưa có
ai đề cập một cách đầy đủ và sâu sắc. Thực tế nhiều năm nay cũng có một số các
bài báo, các tạp chí, cơng trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề trên như văn hóa
sống trong trung tâm cai nghiện, hồn thiện nhân cách và lối sống của người cai
nghiện, đây sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho quá trình tác giả thực hiện đề tài luận
văn.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
- Làm rõ vai trị của đời sống văn hóa tinh thần đối người cai nghiện trong
các trung tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì- Hà Nội.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng đời sống văn hóa tinh thần của người cai nghiện
trong các trung tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì. Qua đó đề xuất một số giải
pháp để nâng cao hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần cho họ.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu chính là đời sống văn hóa tinh thần của người cai
nghiện trong các trung tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì, thành phố Hà
Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu ở 4 trung tâm cai nghiện trên địa bàn xã Yên Bài,
huyện Ba Vì, Hà Nội:


- Trung tâm cai nghiện số 01
- Trung tâm cai nghiện số 02
- Trung tâm cai nghiện số 04
- Trung tâm cai nghiện số 08.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm
cơ sở cho phương pháp luận nghiên cứu.
- Điều tra xã hội học bằng các phương pháp trắc nghiệm, phỏng vấn sâu
thông qua các bảng hỏi.
- Sử dụng các phương pháp tọa đàm, phân tích tổng hợp, sử dụng các tài liệu
có liên quan tới đề tài.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Luận văn tập hợp và hệ thống những tư liệu về hoạt động văn hóa, nghệ
thuật ở các trung tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì trong thời kỳ đất nước
đổi mới.
- Luận văn đưa ra những luận điểm, những định hướng chủ yếu cho việc cải
tiến các hoạt động văn hóa, nghệ thuật để thơng qua đó góp phần giáo dục cải tạo
các đối tượng cai nghiện có hiệu quả.
- Đánh giá đúng thực trạng các hoạt động văn hóa, văn nghệ của người cai
nghiện trong các trung tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được áp dụng thực thi ở các trung

tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì và trên cơ sở đó tiếp tục bổ sung, hồn
chỉnh để đề tài này có thể được nghiên cứu áp dụng rộng rãi hơn.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Luận văn ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phần phụ lục thì phần nội dung gồm có 3 chương chính như sau:


Chương 1: Những vấn đề chung về đời sống văn hóa tinh thần của người cai
nghiện trong các trung tâm cai nghiện
Chương 2: Thực trạng đời sống văn hóa tinh thần của người cai nghiện trong
các trung tâm cai nghiện trên địa bàn huyện Ba Vì- Hà Nội
Chương 3: Phương hướng, quan điểm và các giải pháp nhằm nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần cho người cai nghiện ở các trung tâm cai nghiện trên địa
bàn huyện Ba Vì- Hà Nội


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
TINH THẦN CỦA NGƯỜI CAI NGHIỆN TRONG CÁC
TRUNG TÂM CAI NGHIỆN
1.1. Nhận thức cơ bản về ma túy, nghiện ma túy và các hình thức và
phương thức cai nghiện ma túy hiện nay
1.1.1. Khái niệm về ma túy
Khái niệm về ma túy rất phong phú do tồn tại nhiều cách nhìn khác nhau đối
với vấn đề này. Theo gốc Hán- Việt thì ma túy là “ làm mê mẩn”. Chất ma túy ban
đầu dùng để chỉ các chất tự nhiên và tổng hợp có khả năng gây nên bệnh nghiện.
Như vậy, từ quan điểm từ tính chất gây nghiện của ma túy, tác giả Nguyễn Phong
Hòa và Đặng Ngọc Hùng cho rằng: “Các chất ma túy là những chất độc, có tính
chất gây nghiện, có khả năng bị lạm dụng” [30]. Cũng với quan điểm tương tự, tác
giả Nguyễn Hồng Minh và Lại Thế Sử định nghĩa: “Ma túy là tên chung để chỉ các

hoạt chất tự nhiên và các loại thuốc độc hại gây nghiện có tác dụng đối với thần
kinh con người” [42].
Từ quan điểm về tác hại của ma túy đối với cơ thể cũng có một số quan
niệm về ma túy như sau. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Bừng thì: “Các chất ma túy là
các chất hóa học có nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể
người có tác dụng làm thay đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ, làm cho con người lệ
thuộc vào chúng và cuối cùng gây nên tổn thương cho cá nhân và cho cộng đồng”
[35] . Cịn tổ chức y tế thế giới OMS thì định nghĩa: “Ma túy là bất kỳ chất gì mà
khi đưa vào cơ thể sống, có thể làm thay đổi một hay nhiều chức năng của cơ thể”
[46].
Tổng hợp các quan niệm ở trên về ma túy thì có thể thấy ba điểm khi bàn
đến khái niệm này. Đó là nguồn gốc của ma túy, tính chất gây nghiện của nó và tác


hại của nó đối với cơ thể người. Dựa vào đây có thể hiểu ma túy là các chất hóa
học có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, có khả năng ức chế thần kinh, có tính
chất gây nghiện và khi đưa vào cơ thể quá liều có thể làm thay đổi các chức năng
sinh lý, tâm lý bình thường của con người. Với định nghĩa này thì ma túy bao gồm
rất nhiều chủng loại. Có các loại ma túy bất hợp pháp như hêrơin, cơcain, thuốc
phiện, hồng phiến..., có những loại được sử dụng rất hạn chế trong y tế như
moorphin, seduxen, amphetamin…,và cả những loại ma túy hợp pháp như rượu,
thuốc lá, cà phê…
Đây là những dạng ma túy đang nhanh chóng lan rộng trong giới trẻ, có tác
hại to lớn tới cơ thể, ảnh hưởng đến bản thân, đến gia đình và xã hội. Cụ thể là:
Tác hại đối với cơ thể:
Đối với hệ hô hấp: các chất ma túy kích thích hơ hấp gây tăng dần số thở
trong thời gian ngắn, sau đó sẽ gây ức chế hô hấp, nhất là khi dùng quá liều. Nhiều
trường hợp ngưng thở nếu không cấp cứu kịp thời sẽ dẫn đến tử vong, đôi khi
ngưng thở rất đột ngột. Chẳng hạn, một thanh niên đang cai nghiện đột ngột ngưng
thở tử vong không rõ nguyên nhân, khi giải phẫu tử thi thì phát hiện nạn nhân có

bao hêrơin bởi một màng mỏng rồi cấy dưới da để thuốc phóng thích từ từ, nhưng
tự nhiên bao thuốc vỡ và phóng thích q nhiều gây ngộ độc.
Ngồi ra, khi dùng ma túy (nhất là cocaine) có thể gây phù phổi cấp, tràn khí
màng phổi, tràn khí trung thất, xuất huyết phế nang, viêm tiểu phế quản tắc nghẽn,
viêm phổi, lên cơn hen phế quản…
Đối với hệ tim mạch: các chất ma túy sẽ kích thích làm tăng nhịp tim, ảnh
hưởng trực tiếp lên tim, gây co thắt mạch vành tạo nên cơn đau ngực, nặng hơn có
thể gây nhồi máu cơ tim. Chúng cũng là nguyên nhân của các rối loạn nhịp đe dọa
tính mạng người dùng ma túy. Ngồi ra, cịn gây nên tình trạng co mạch làm tăng
huyết áp.


Đối với hệ thần kinh: ngồi tác dụng kích thích thần kinh giai đoạn đầu gây
hưng phấn, sảng khoái, lệ thuộc thuốc…, cũng có thể gây các tai biến như co giật,
đột quỵ…
Đối với hệ sinh dục: không như người ta thường lầm tưởng, dùng ma túy sẽ
làm tăng khả năng tình dục. Ở người nghiện ma túy, khả năng tình dục suy giảm
một cách rõ rệt, và hậu quả này sẽ còn tồn tại sau khi ngưng dùng thuốc một thời
gian khá lâu. Ở những nam giới dùng ma túy trong thời gian dài sẽ bị chứng vú to
và bất lực. Còn ở phụ nữ sẽ bị rối loạn chu kỳ kinh nguyệt, rong kinh, tăng tiết sữa
bất thường và vơ sinh.
Ngồi ra, người sử dụng ma túy cịn phải chịu những tác hại khác như: hoại
tử tế bào gan, ảo thính, ảo thị…
Tác hại của ma túy ảnh hưởng đến bản thân:
Ma túy làm hủy hoại sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho
thần kinh người nghiện bị tổn hại. Dùng ma túy quá liều có thể dẫn đến cái chết.
Gây nghiện mạnh, sức khỏe giảm sút. Tiêm chích ma túy dùng chung bơm
kim tiêm không tiệt trùng dẫn đến lây nhiễm viêm gan vi rút B, C, đặc biệt là HIV
(dẫn đến cái chết). Tiêm chích ma túy là một trong những con đường lây nhiễm
HIV phổ biến nhất tại Việt Nam. Người nghiện ma túy có thể mang vi rút HIV và

lây truyền cho vợ, bạn tình của con cái họ.
Ma túy làm thối hóa nhân cách, rối loạn hành vi, lối sống bng thả, dễ vi
phạm pháp luật. Bên cạnh đó, ma túy còn làm mâu thuẫn và bất hòa với bạn bè,
thầy cơ giáo và gia đình, làm mất lịng tin với mọi người, dễ bị người khác lợi
dụng, học tập giảm sút hoặc bỏ học, ảnh hưởng đến tương lai tiền đồ, nếu đã có
việc làm thì dễ bị mất việc làm.
Ảnh hưởng đến gia đình:
Đầu tiên là họ làm tiêu hao tiền bạc của bản thân và của gia đình. Nhu cầu
cần tiền để mua ma túy của người nghiện là rất lớn, mỗi ngày họ tiêu từ hàng chục
nghìn cho đến tiền triệu, người mắc nghiện có thể tiêu tốn hết tiền của, tài sản, đồ


đạc của gia đình vào việc mua ma túy để thỏa mãn cơn nghiện của mình, hoặc để
có tiền sử dụng ma túy, nhiều người đã trộm cắp, hành nghề mại dâm, hoặc thậm
chí giết người, cướp của. Chính những người nghiện sẽ làm những người thân
trong gia đình thất vọng, buồn khổ, nhiều gia đình phải ly hơn, con cái khơng có ai
chăm sóc.
Ảnh hưởng đến xã hội:
Gây mất trật tự an toàn xã hội, làm gia tăng các tệ nạn xã hội; lừa đảo, trộm
cắp, giết người, mại dâm, băng nhóm…
Ảnh hưởng đến đạo đức, thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc. Làm giảm
sút sức lao động sản xuất trong xã hội. Tăng chi phí ngân sách xã hội cho các hoạt
động ngăn ngừa, khắc phục, giải quyết các hậu quả do ma túy đem lại. Ma túy còn
là nguồn gốc, là điều kiện nảy sinh, lan truyền đại dịch HIV/AIDS (một hiểm họa
toàn cầu chưa có thuốc chữa). Hiện nay nước ta có gần 200.000 người nhiễm
HIV/AIDS thì có 75% là do tiêm chích ma túy.
Sức tàn phá của ma túy còn ảnh hưởng đến giống nòi, hủy diệt giống nòi, do
các chất ma tuy ảnh hưởng đến hệ thống hoocmon sinh sản, làm giảm khả năng
sinh hoạt tình dục, ảnh hưởng đến quá trình phân bào hình thành các giao tử, tạo cơ
hội cho các gien độc có điều kiện hoạt hóa, dẫn đến suy yếu nòi giống.

Như vậy, ma túy là một hiểm họa vơ cùng to lớn của nhân loại, nó có sức tàn
phá mạnh mẽ đối với cơ thể, làm ảnh hưởng đến bản thân, ảnh hưởng đến gia đình,
ảnh hưởng đến xã hội, nghiêm trọng hơn là nó gây nên những tác hại to lớn về kinh
tế, xã hội, chính trị, văn hóa. đạo đức, sức khỏe, lối sống và thuần phong mỹ tục
của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia.
1.1.2. Khái niệm nghiện ma túy
Trong Từ điển tiếng Việt, thuật ngữ nghiện được hiểu là ham thích đến mức
thành thói quen, khó bỏ. Với định nghĩa này, nghiện có thể được gán với việc ham
thích dùng một loại vật nào đó như rượu, thuốc lá, cà phê, ma túy, thậm chí một
loại thức ăn nào đó như sơcơla, bánh…Nghiện cũng có thể được gán cho việc ham


thích một loại hoạt động nào đó như cuộn tóc vào ngón tay và xoay, nhổ tóc, tình
dục…Cách hiểu này về nghiện đã thống nhất nghiện và thói quen, thậm chí trong
một chừng mực nhất định thói quen cịn được hiểu là mức độ cao hơn nghiện.
Trên thực tế, nghiện và thói quen là hai phạm trù rất khác nhau về bản chất.
Thói quen là khn mẫu hành vi được thực hiện một cách thường xuyên và được
hình thành trong hệ thống hành vi của con người đến mức nó được thực hiện mà
khơng cần một sự cố gắng có ý thức nào. Để thay đổi thói quen thì con người cần
cố gắng một cách có ý thức là đủ. Trong khi đó nghiện ngập là sự phụ thuộc hồn
tồn vào chất gây nghiện, cơn nghiện có khả năng lấn át ý thức của con người.
Khái niệm về nghiện ma túy được đề cập ở nhiều góc độ khác nhau. Nghiện
ma túy từ góc độ y học được tổ chức y tế thế giới định nghĩa là trạng thái nhiễm
độc chu kỳ hay mãn tính do sử dụng lặp lại nhiều lần một chất độc tự nhiên hay
tổng hợp nào đó. Sự nhiễm độc này được thể hiện ở sự tăng dần liều dùng và sự lệ
thuộc về tâm sinh lý của người dùng vào tác dụng của chất độc đó. Bởi từ góc độ
quan tâm của ngành y nên khái niệm nghiện chỉ chú trọng đến vấn đề thể chất, sức
khỏe của con người.
Từ quan điểm của xã hội thì nghiện ma túy là “tệ nạn xã hội làm tổn hại đến
sức khỏe, nhân cách, ảnh hưởng xấu đến đời sống sinh hoạt và trật tự an toàn xã

hội” [35]
Từ phương diện tâm lý học thì khái niệm về nghiện ma túy phải bao quát
được cả về mặt thể chất cũng như tâm lý của người nghiện, đồng thời cũng nêu lên
được tác hại của nó cả về bình diện cá nhân và xã hội. Trong Từ điển Tâm lý học,
nghiện ma túy được định nghĩa là trạng thái nhiễm độc chu kỳ hay mãn tính của cơ
thể, có hại cho cá nhân và cho xã hội do dùng nhiều lần một lượng chất độc tự
nhiên và tổng hợp. Nghiện ma túy có những đặc điểm như: bức xúc về mặt tâm lý
muốn sử dụng lại ma túy, sự lệ thuộc của cơ thể vào chất gây nghiện. Khi cá nhân
ngừng sử dụng sẽ gây đau đớn, vật vã. Người nghiện ma túy có khuynh hướng tăng


dần liều lượng hoặc đổi dạng ma túy mạnh hơn [36]. Định nghĩa này nhìn chung
vẫn chủ yếu đề cập đến những đặc điểm sinh lý của hiện tượng nghiện ma túy.
Theo quan điểm của Tiến sĩ Phan Thị Mai Hương (Viện tâm lý học Việt
Nam) thì cho rằng: Nghiện ma túy là hiện tượng phụ thuộc cả về thể xác và tinh
thần vào ma túy do sử dụng thường xuyên với liều lượng ngày càng tăng dần dẫn
đến mất khả năng kiểm soát bản thân ở người nghiện ma túy có hại cho cá nhân và
cho xã hội. Thiếu ma túy, ở người nghiện sẽ xuất hiện hội chứng cai, tức là những
đau đớn, vật vã và một số những phản ứng sinh lý khác ở cơ thể người nghiện. Khi
dùng ma túy những người nghiện được kích thích về cảm giác nên có được những
khối cảm, tạo cho họ những cảm giác dễ chịu hơn là những cảm giác họ phải chịu
đựng trước đó. Đây chính là điều kích thích họ sử dụng lại ma túy khi đã thử
nghiệm nó.
Do ma túy ảnh hưởng đến cả thể chất và tâm lý người nghiện nên có thể phân
biệt hai vấn đề của hiện tượng này. Đó là nghiện sinh lý và nghiện tâm lý.
Nghiện sinh lý là sự phụ thuộc của cơ thể vào chất gây nghiện. Khi ngừng dùng
chất gây nghiện trong một khoảng thời gian nào đó sẽ gây ra các hội chứng cai bao
gồm cả những đau đớn về mặt thể chất và tâm lý cho người nghiện.
Nghiện tâm lý là thèm khát cảm giác do tác dụng của chất gây nghiện tạo ra
cho người dùng nó. Cảm giác này có thể là những sảng khối, sự đê mê, an thần,

lâng lâng…sau khi dùng chất gây nghiện.
Chính do tâm lý thích thú cảm hứng này dẫn đến việc người nghiện thường
xuyên lạm dụng thuốc và đưa đến tình trạng: tâm lý nghiện cảm hứng hấp dẫn vào cơ
thể nghiện thuốc. Ngừng sử dụng thuốc thì cơ thể bị hội chứng đau đớn dữ dội và tâm
lý thèm nhớ cảm hứng hấp dẫn diễn ra triền miên. Một số bác sĩ phụ trách cai nghiện
cho rằng dù cắt được cơn đau của cơ thể xong rồi, tức là khơng cịn lạm dụng thuốc


nữa, nhưng vẫn chưa hóa giải được cơn thèm cảm hứng hấp dẫn của tâm lý thì người
nghiện ma túy lại tái nghiện [36].
Và như vậy quá trình nghiện ma túy diễn ra với các mức độ ngày càng tăng,
đầu tiên là những khối cảm hồn tồn mang tính cá nhân, rồi đến những khổ sở,
đau đớn, vật vã của chính cá nhân người nghiện và cuối cùng là những hành vi
nguy hiểm cho gia đình và xã hội. Chính vì vậy, nghiện ma túy đã bị coi là tệ nạn
xã hội và cần phải dẹp bỏ.
1.1.3. Các hình thức và phương thức cai nghiện ma túy hiện nay
Nghiện ma túy hiện là một hiểm họa lớn của nhân loại. Tệ nạn nghiện ma
túy đã gây nên những tác hại hết sức to lớn đối với bản thân người nghiện và với
cộng đồng.
Khi khơng có ma túy thì họ cau có, bực bội, ưu sầu, nói năng thiếu bình
tĩnh[46]. Vì ma túy kích thích mọi giác quan nên mọi hứng thú khác trong cuộc đời
của người nghiện ma túy đều bị lu mờ: khơng thích lao động, khơng thích thể
thao…Người nghiện thích nằm một nơi tận hưởng những khối cảm, những ảo
giác do ma túy tạo ra. Người nghiện ít chú ý đến người thân, thờ ơ với công việc,
không quan tâm tới những vui buồn của cuộc sống, cư xử thiếu chuẩn mực. Một
tình trạng chung cho người nghiện là họ có lối sống bng thả, tự do và lệch lạc.
Các chuẩn mực gia đình khơng là ngun tắc sống của họ. Họ chạy theo lối sống
hưởng thụ, ham khối lạc, vị kỷ cá nhân mà khơng cần biết đến trách nhiệm xã hội
cũng như nghĩa vụ của mình. Trước những thách thức của cuộc sống họ dễ bị
buông xi mà thiếu ý chí để vươn lên. Họ thường chỉ nhận được sự ủng hộ này từ

phía bạn nghiện chứ khơng phải từ phía gia đình hay bất cứ một tổ chức chính thức
nào khác. Chính vì những tác hại to lớn trên của ma túy mà người nghiện phải vào
các trung tâm cai nghiện theo hình thức tự nguyện hay bắt buộc.


Việc cai nghiện ma túy ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới được tổ
chức bằng các hình thức như: cai nghiện tại gia đình, tại cộng đồng dân cư và tại
các trung tâm cai nghiện của Nhà nước (cấp huyện, cấp tỉnh).
Cai nghiện tại gia đình: hình thức này phải có sự giám sát, theo dõi của chính
quyền, các đồn thể địa phương và sự giúp đỡ của các bác sĩ cũng như các trung tâm
cai nghiện. Với hình thức này, người cai nghiện được gia đình chủ động quan tâm,
chăm sóc, ni dưỡng tại gia đình theo điều kiện bình thường.
Cai nghiện tại cộng đồng: hình thức cai nghiện này do chính quyền, cơng an
và các đồn thể phối hợp với gia đình tập trung một số đối tượng nghiện ma túy để
tiến hành cai cắt cơn nghiện và quản lý tại địa bàn dân cư. Hình thức này có thuận
lợi là người nghiện ln được gần gũi với gia đình và được gia đình cùng với chính
quyền địa phương động viên, khuyến khích trong quá trình cai nghiện. Đồng thời,
phát huy được nguồn lực tại chỗ của gia đình và địa phương, giúp cho việc cai
nghiện có hiệu quả.
Cai nghiện tại các trung tâm: thời gian qua, đây là hình thức cai nghiện bắt
buộc tại các trung tâm được quản lý chặt chẽ. Hình thức cai nghiện này tạo điều
kiện cho người nghiện thoát khỏi môi trường ma túy cũng như sự lôi kéo của
những người đang sử dụng ma túy. Người nghiện có điều kiện cai theo đúng phác
đồ điều trị của thầy thuốc. Các trung tâm được trang bị cơ sở vật chất tạo điều kiện
cho việc cai nghiện có hiệu quả. Mặt khác, cai nghiện tại trung tâm, người nghiện
cịn có điều kiện để lao động sản xuất và học nghề giúp sau này tái hòa nhập cộng
đồng, ổn định cuộc sống thuận lợi.
Các giai đoạn cai nghiện ma túy ở nước ta thường được chia làm ba giai
đoạn chính là: cai cắt cơn, phục hồi chức năng cơ thể và đề phòng tái nghiện trở
lại.



Điều trị cai nghiện ma túy đóng vai trị quan trọng trong chiến lược giảm
cầu các loại ma túy. Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam có các loại thuốc
và phương pháp điều trị ma túy phổ biến như sau:
Phương pháp cai khơ: Cai khơ cịn gọi là cai chay được áp dụng tại Mỹ năm
1938, bằng cách cô lập bệnh nhân, không cho tiếp xúc với mơi trường bên ngồi,
ngừng hồn tồn việc sử dụng các chất ma túy mặc cho người nghiện lên cơn vật
vã, kêu la. Cơn nghiện sẽ giảm dần trong vòng 7- 10 ngày nhưng người nghiện mệt
mỏi, mất ngủ, đau nhức cơ xương kéo dài hàng tháng. Phương pháp này hiện nay
được một số nước Châu Á như Indonesia, Malaysia, Brunei sử dụng thành cơng.
Phương pháp giảm dần: Cịn gọi là phương pháp cai dần hay giảm liều,
bàng cách giảm liều lượng ma túy mỗi ngày một ít trong thời gian từ 13- 30 ngày,
đồng thời tăng cường thuốc bổ và thuốc an thần. Phương pháp này có ưu điểm là
người nghiện thích nghi dần, cơn nghiện giảm từ từ, khơng vật vã như phương
pháp cai khơ, nhược điểm là địi hỏi phải dùng chất ma túy, thời gian cắt cơn kéo
dài.
Phương pháp phẫu thuật thùy trán: Phẫu thuật nhằm phá hủy một số điểm ở
thùy trán của não quan hệ đến sự thèm muốn ma túy làm cho người nghiện khơng
cịn cảm thấy cần chất ma túy. Phương pháp này có ưu điểm khơng những cắt cơn
mà cịn cai được nhưng có nhược điểm là sau khi phẫu thuật, bệnh nhân không
phân biệt được sự phải trái của hành động.
Dùng các thuốc hướng tâm thần: phương pháp này đã được Bộ Y tế Việt
Nam ban hành và áp dụng từ năm 1995, bằng cách dùng các thuốc lo âu
(diazepam), thuốc an thần kinh (tisercin, nozinan) và các thuốc chống trầm cảm
(meliplamin, amitriptylin) cắt cơn trong vòng 7- 10 ngày. Phương pháp này có ưu
điểm là đơn giản, rẻ tiền, dễ áp dụng. Tuy nhiên nhiều tác dụng phụ, người bệnh
vật vã nhiều, các triệu chứng dị cảm, dòi bò và rối loạn tiêu hóa hay gặp.



Thuốc Đơng y: thuốc Đơng y có nguồn gốc từ thảo dược, có tính an tồn,
khơng độc, có hiệu lực trong hỗ trợ cắt cơn nghiện ma túy, quá trình cắt cơn êm
dịu, thuốc có khả năng bình ổn các triệu chứng của hội chứng cai, như là triệu
chứng dị cảm và thèm ma túy. Hiện nay có hai thuốc Đơng y đã được Bộ Y tế cấp
số đăng kí cho phép lưu hành cho các trung tâm cai nghiện ( thuốc cedemex và
thuốc bông sen).
Phương pháp dùng thuốc đối kháng: phương pháp dùng thuốc đối kháng
naltrexone điều trị duy trì hỗ trợ chống tái nghiện các chất dạng thuốc phiện, đã
được áp dụng tại một số quốc gia trên thế giới. Phương pháp này có ưu điểm là làm
cho bệnh nhân chán ghét ma túy nhưng có nhược điểm là lên cơn vật vã, bứt rứt,
khó chịu, táo bón, độc với gan và thận, có thể gây sốc thuốc khi bệnh nhân vẫn sử
dụng chất ma túy.
Phương pháp điều trị bằng chất thay thế: trên thế giới, các chất để điều trị
thay thế các chất dạng thuốc phiện như methadone, buprenophine…Trong đó
methadone là loại thuốc chính được sử dụng trong phương pháp điều trị cai nghiện
thay thế các chất dạng thuốc phiện. Nhằm đánh giá tầm quan trọng và hiệu quả của
việc điều trị thay thế bằng methadone, đầu năm 2005, WHO đã bổ sung methadone
vào danh mục các loại thuốc thiết yếu của WHO. Ở Việt Nam, Viện Sức khỏe tâm
thần Trung ương đã tiến hành triển khai nghiên cứu và thử nghiệm điều trị thay thế
bằng methadone từ cuối năm 1996. Hiện tại sau khi được Thủ tướng Chính phủ
cho phép, Bộ Y tế nước ta đang triển khai thí điểm điều trị thay thế các dạng thuốc
phiện tại Hải Phịng và Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương pháp điện châm: Dùng điện châm, ngày châm nhiều lần tùy thuộc
vào trạng thái đói thuốc của bệnh nhân. Phương pháp điện châm điều trị hỗ trợ cai
nghiện ma túy đã được Bộ Y tế ban hành vào năm 2003. Phương pháp điện châm
không chỉ cắt cơn nghiện cho bệnh nhân mà hiệu quả điều trị còn kéo dài, qua đánh


giá sau một năm người nghiện vẫn không tái nghiện ( tỷ lệ tái nghiện vào khoảng
10- 15%). Điện châm có ưu điểm cắt cơn nhanh, ít tốn kém, dễ thực hiện tại tuyến

cơ sở.
Liệu pháp tâm lý: Có thể dùng liệu pháp tâm lý đơn thuần hay liệu pháp tâm
lý kết hợp với thuốc hướng thần. Phương pháp này có ưu điểm là chỉ bằng lời nói,
khơng tốn kém nhưng địi hỏi phải có bác sĩ chun khoa tâm thần hoặc các
chuyên gia tâm lý được đào tạo nắm vững kỹ năng điều trị tâm lý ( thuyết phục, ám
thị…) vì vậy khó thực hiện ở các tuyến cơ sở.
Tóm lại, các thuốc và phương pháp y học cũng chỉ dừng ở mức độ hỗ trợ cắt
cơn nghiện, mà việc hỗ trợ cắt cơn chỉ là giai đoạn đầu của quá trình cai nghiện,
hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam chưa có một loại thuốc hay một
phương pháp tối ưu nào có thể đáp ứng được mong mỏi của xã hội về cai nghiện
và chống tái nghiện ma túy. Các phương pháp hiện có chủ yếu hỗ trợ người cai
nghiện vượt hội chứng cai một cách nhẹ nhàng hơn, nhằm hạn chế biến chứng của
hội chứng cai. Trong điều trị cần phối hợp với các liệu pháp khác như liệu pháp
nhận thức hành vi, liệu pháp gia đình, liệu pháp nhóm và quản lý bằng thể chế.
Có thể nói, một q trình cai nghiện hay một kế hoạch điều trị cai nghiện là
gồm có 2 giai đoạn chính, trong đó có các yếu tố tham gia. Tuy nhiên, tùy từng trường
hợp cụ thể, sẽ lập nên các kế hoạch cai nghiện khác nhau.
Hai giai đoạn chính đó là:
Giai đoạn cắt cơn nghiện, phục hồi sức khỏe ban đầu ( 1 tháng)
Giai đoạn chống tái nghiện ( ước tối thiểu 2 năm, có thể là 5 năm)
Trong giai đoạn thứ nhất, để vượt qua, người nghiện có thể dùng một số các
bài thuốc đông y hoặc tây y hoặc áp dụng cả hai để hỗ trợ vượt qua cơn vật vã ( hội
chứng cai). Sau đó, dùng thuốc điều trị các hệ quả của việc nghiện ma túy gây ra
như mất ngủ, chán ăn, buồn nôn, lo lắng, sợ hãi,…kết hợp với liệu pháp xông hơi,
tắm, tẩm bổ, nghỉ ngơi, thư giãn.


Trong giai đoạn thứ hai, người cai nghiện cần củng cố ý chí, nghị lực và
lịng quyết tâm. Gia đình cần phải có sự động viên, giám sát, tạo dựng điểm tựa
niềm tin cho họ để họ có được nghị lực mạnh mẽ. Ngoài ra, cần phải cách ly bạn

nghiện, bạn xấu, cách ly môi trường họ đã từng sử dụng ma túy trước đây. Cần tạo
cho họ một công việc, thậm chí là lao động mệt nhọc, dọn dẹp, lau nhà hàng ngày.
Nếu ở trung tâm cai nghiện thì phải đi cuốc đất, nhổ cỏ, trồng rau…để họ vừa phục
hồi sức khỏe vừa quên đi ma túy.
Tất cả các trung tâm cai nghiện khi tiếp nhận người nghiện phải thu thập đầy
đủ thơng tin về gia đình, thơng tin về cá nhân người nghiện, mơi trường sống,
chính quyền địa phương…để có biện pháp hỗ trợ cho người cai nghiện trong khi
cai.
Tuy nhiên, nghị lực của người nghiện và sự chia sẻ, tình thương, sự hỗ trợ
của gia đình và cộng đồng vẫn là một yếu tố quyết định để người cai nghiện cai
thành công.
1.2. Đặc điểm của người cai nghiện trong các trung tâm cai nghiện
1.2.1. Khái niệm người nghiện
Hiện nay, cơng chúng Việt Nam chưa hiểu rõ tính chất của bệnh nghiện ma
túy theo cách khẳng định mới nhất của y học, từ các nhà hoạch định chính sách,
các cơ quan chức năng về quản lý và điều trị cho đến gia đình người nghiện và bản
thân người nghiện.
Nhiều thập niên qua, người nghiện được gọi là “ Con nghiện”, được gói
trong phạm trù “Tệ nạn xã hội”, được công chúng sợ hãi, khái niệm về con nghiện
giống như khái niệm về tội phạm. Điều này không sai, nhưng gọi như thế không
đúng tên. Năm 2003 khi Thành phố Hồ Chí Minh mở chế độ tập trung Trường lớn,
người nghiện được gọi là “Học viên”, cách gọi này có mục đích xóa bỏ mặc cảm
cho người nghiện, nhưng vẫn không đúng tên gọi. Phải đợi đến năm 2008, Quốc


hội nhân dịp bàn về Luật Phòng chống tệ nạn (trong đó có tệ nạn lạm dụng ma túy)
mới khẳng định tên gọi người nghiện ma túy là “ bệnh nhân”, cách gọi lần này
đúng hơn.
Tuy nhiên, chúng ta chỉ gọi là “bệnh nhân” trong các trung tâm cai nghiện,
còn bên ngoài mọi người vẫn quen miệng gọi là “người nghiện” hoặc “con

nghiện”.
Các biểu hiện thường gặp ở người nghiện khi vừa mới sử dụng ma túy, đó
là: tinh thần hưng phấn, vẻ mặt sung mãn, đỏ mặt, mắt đỏ và ướt, trông hoạt bát
khác thường. Nếu tuổi trẻ họ thường dễ bị khiêu khích, muốn tìm cảm giác mạnh,
gây gổ đánh nhau, tự rạch tay, dùng thuốc lá đốt chân tay…Các dấu hiệu trên được
biểu hiện cụ thể qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1, sau khi dùng 5-10 phút, biểu hiện phổ biến là mắt đỏ và trông
ướt long lanh, sau đó chuyển qua sụp mi mắt, ngồi tại chỗ mắt lim dim, gãi chân
tay, vò đầu, bứt tóc…thể hiện rõ nhất trong trường hợp dùng thuốc phiện pha lẫn
Seduxen. Những biểu hiện này người nhà khó phát hiện ra.
Giai đoạn 2, sau 10 đến 20 phút, mắt đỏ ướt, đồng tử teo, giọng nói khàn
khàn, uống nhiều nước lạnh, tâm lý ở trạng thái hưng phấn cao, nói nhiều, cử chỉ
và động tác thiếu chính xác. Nếu có tật thì tật thường xuất hiện ở mức cao như vuốt
mũi, nhổ râu, nặn mụn, cắn móng tay, lấy ráy tai.
Giai đoạn 3, sau 90 phút, người sử dụng ma túy thường tìm đến chỗ yên tĩnh
để thưởng thức cơn phê. Lúc này họ nằm như ngủ, nhưng không ngủ lại hút nhiều
thuốc lá, tàn thuốc vung vãi. Quan sát nơi họ nằm thường thấy chăn màn thủng do
tàn thuốc lá rơi vào, bề bộn đồ đạc, hôi, người sử dụng ma túy sợ tắm, ồn ào.
Một số đặc trung chủ yếu của người nghiện là:
Về thực lực: họ sống phụ thuộc vào ma túy, sức khỏe suy yếu, nhiều bệnh tật
phát sinh, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm.


Về tinh thần: họ luôn tỏ ra thất vọng, lập dị, suy sụp về các giá trị tinh thần,
thiếu ý chí quyết tâm, mất niềm tin vào cuộc sống.
Về tâm lý: họ khơng có khả năng suy nghĩ, tư duy, trí nhớ giảm, mất phương
hướng, khơng có hứng thú trong sinh hoạt. Ln tìm những câu trả lời chỉ cốt để
đáp ứng mong muốn của người khác nhằm lẩn trốn bản thân. Lời nói khơng đi đơi
với việc làm, xuất hiện các biểu hiện tiêu cực.
Về xã hội: họ ít quan hệ (nhất là các quan hệ cơng khai chính đáng), sống

vật vờ, cô lập và xa lánh mọi người.
Chúng ta có thể sớm nhận biết một người đã nghiện ma túy qua các biểu
hiện sau: người nghiện thường thay đổi giờ giấc sinh hoạt, thức khuya, đêm ít ngủ,
dậy muộn, ngày ngủ nhiều…Họ hay tụ tập, đi lại đàn đúm với người có đời sống
sinh hoạt bng thả như không lao động, không học hành, vào tù ra tội, hoặc chơi
thân với người sử dụng ma túy. Họ đi lại có quy luật, mỗi ngày, cứ đến một giờ
nhất định nào đó, dù có đang bận việc gì cũng tìm cách kiếm cớ để đi khỏi nhà.
Người nghiện ma túy thích ở một mình, ít hoặc ngại tiếp xúc với mọi người (kể cả
người thân trong gia đình), tâm trạng thường lo lắng, bồn chồn, đơi khi nói nhiều,
hay nói dối loanh quanh, hay có biểu hiện chống đối, cáu gắt hơn so với trước đây.
Hay ngáp vặt, người lừ đừ, mệt mỏi, ngại lao động, bỏ vệ sinh cá nhân. Nếu cịn đi
học thì thường đi học muộn, trốn học, bỏ giờ học (thường vào một giờ nhất định),
ngồi trong lớp hay ngủ gật, học lực thì giảm sút. Bên cạnh đó nhu cầu tiêu tiền
ngày một nhiều, sử dụng tiền khơng có lý do chính đáng, thường xuyên xin tiền
người thân và hay bán đồ đạc cá nhân, gia đình, nợ nần nhiều, ăn cắp vặt, hay lục
túi người khác…Trong túi quần, áo, cặp, phịng thường có các thứ giấy bạc, thuốc
lá, kẹo cao su, bật lửa ga, bơm kim tiêm, ống thuốc, thuốc phiện, gói nhỏ hêrơin…
Đối với người nghiện ma túy nặng, cịn có biểu hiện giảm sút sức khỏe rõ rệt,
thường xuyên ngáp vặt, mắt lờ đờ, da tái, môi thâm, cơ thể hôi hám, ngại tắm, ăn
mặc lôi thôi lếch thếch…


×