Tải bản đầy đủ (.pdf) (153 trang)

Khai thác các làng nghề truyền thống hà nam phục vụ phát triển du lịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.63 MB, 153 trang )

Bộ Giáo dục và đào tạo Bộ Văn hoá, thể thao và du lịch
Trường Đại học văn hoá Hà Nội

PHNG THỊ HẢI DUYÊN

KHAI THÁC CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG HÀ NAM
PHC V PHT TRIN DU LCH

Chuyên ngành: Văn hóa học
MÃ sè: 60310640

LUẬN VĂN THẠC SỸ VĂN HĨA HỌC

Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: TS. DƯƠNG VĂN SÁU

HÀ NỘI – 2013


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài luận văn cao học, tôi luôn nhận được
sự động viên và hướng dẫn nhiệt tình của TS. Dương Văn Sáu - Người
hướng dẫn khoa học. Vì vậy, trước hết tơi xin bày tỏ lòng biết ơn chân
thành, sâu sắc nhất tới thầy TS. Dương Văn Sáu và chúc thầy luôn dồi dào
sức khỏe và vững bước trên con đường sự nghiệp trồng người cao cả!
Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Sở Văn hóa, Thể
thao & Du lịch Hà Nam, Ban Quản lý các di tích & danh thắng Hà Nam; Các
đồng chí lãnh đạo thơn, xã, gia đình các nghệ nhân và nhân dân các làng nghề
truyền thống: Đọi Tam, Quyết Thành, Thanh Hà, Nha Xá, Đô Hai, Ngọc
Động tỉnh Hà Nam; Các thầy cô giáo phòng Đào Tạo Sau Đại Học, trường
Đại học Văn hóa Hà Nội; Các bạn bè đồng nghiệp và gia đình… đã quan tâm,
tạo điều kiện và giúp đỡ tơi hoàn thành luận văn này./.


Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 03 tháng 03 năm 2013
Tác giả luận văn
Phùng Thị Hải Duyên


MỤC LỤC
Trang
4

MỞ ĐẦU
Chương 1
LÀNG NGHỀ VÀ DU LỊCH LÀNG NGHỀ Ở HÀ NAM

10

1.1. Những vấn đề chung về làng nghề truyền thống ở Việt Nam

10

1.1.1. Một số quan niệm về làng nghề và ngành nghề truyền thống

10

1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành, tồn tại và phát
triển của làng nghề

15


1.1.3. Đặc điểm của làng nghề truyền thống Việt Nam

20

1.2. Du lịch làng nghề ở Việt Nam

24

1.2.1. Khái niệm du lịch làng nghề

24

1.2.2. Cơ sở để phát triển du lịch làng nghề

25

1.2.3. Những thuận lợi và khó khăn khi phát triển du lịch làng
nghề ở Việt Nam

27

1.3. Khái quát chung về Hà Nam và du lịch tỉnh Hà Nam

32

1.3.1. Khái quát chung về Hà Nam

32

1.3.2. Đánh giá tiềm năng du lịch tỉnh Hà Nam


41

Chương 2
CÁC LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG HÀ NAM
2.1. Một số làng nghề truyền thống tiêu biểu của tỉnh Hà Nam

46
46

2.1.1. Làng nghề trống Đọi Tam

46

2.1.2. Làng nghề dệt lụa Nha Xá

50

2.1.3. Làng nghề gốm Quyết Thành

57

2.1.4. Làng nghề mỹ nghệ sừng Đô Hai

60

2.1.5. Làng nghề thêu ren An Hòa

65


2.1.6. Làng nghề mây tre đan Ngọc Động

69

2.2. Đánh giá, nhận xét chung về các làng nghề truyền thống
tiêu biểu của tỉnh Hà Nam

72

2.2.1. Về lịch sử hình thành, tồn tại và phát triển

72

2.2.2. Về vị trí địa lý phân bố

73

2.2.3. Về sản phẩm đặc trưng

74

2.2.4. Vai trò của các làng nghề trong đời sống kinh tế - xã hội
của tỉnh Hà Nam

75

2.3. Thực trạng phát triển du lịch và du lịch làng nghề ở Hà Nam

76



2.3.1. Thực trạng du lịch tỉnh Hà Nam

76

2.3.2. Đánh giá tác động của du lịch tới sự phát triển của các
làng nghề ở Hà Nam

83

Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

88

LÀNG NGHỀ VÀ DU LỊCH LÀNG NGHỀ Ở HÀ NAM
3.1. Định hướng phát triển du lịch làng nghề

88

3.1.1. Quan điểm phát triển du lịch Hà Nam

88

3.1.2. Căn cứ để đưa ra thị trường

88

3.1.3. Các quan điểm cơ bản


89

3.2. Những giải pháp để khai thác giá trị các làng nghề truyền
thống Hà Nam phục vụ phát triển du lịch

89

3.2.1. Giải pháp phát triển làng nghề

89

3.2.2. Giải pháp phát triển du lịch làng nghề Hà Nam

97

3.3. Một số kiến nghị

112

KẾT LUẬN

114

TÀI LIỆU THAM KHẢO

117

PHỤ LỤC

123



DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CNH – H ĐH

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

CTQG

Chính trị Quốc gia

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

HĐND

Hội đồng nhân dân

KHXH

Khoa học xã hội

LHQ

Liên hợp quốc

Nxb

Nhà xuất bản


TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Ủy ban nhân dân

USD

Đơn vị tiền tệ của Mỹ

VHDT

Văn hóa dân tộc

VHTT

Văn hóa thơng tin

VND

Đơn vị tiền tệ của Việt Nam


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, bên cạnh việc phát triển kinh tế, đời sống văn hoá - xã hội

hội ngày càng được cải thiện và nâng cao, nhu cầu du lịch tăng lên, đặc biệt là
ở các nước có nền kinh tế phát triển và các nước đang phát triển. Du lịch đã
trở thành một một ngành kinh tế mũi nhọn của các nước trên thế giới, mang
lại nhiều lợi ích kinh tế to lớn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của các quốc
gia và toàn nhân loại. Cùng với sự phát triển du lịch thế giới, trong thời gian
qua đã có nhiều chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là chính
sách mở cửa, nên ngành du lịch Việt Nam đó có những bước phát triển đáng
kể. Chúng ngày càng đóng vai trò quan trọng, trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn của quốc gia.
Khi kinh tế phát triển, du lịch là một hoạt động không thể thiếu trong
cuộc sống của mỗi người. Trong các chuyến du lịch, du khách không chỉ dừng
lại ở việc nghỉ ngơi giải trí mà cịn mong muốn được thoả mãn nhu cầu to lớn
về mặt vật chất và tinh thần. Đó là những nhu cầu về mở rộng hiểu biết về thế
giới bên ngoài, về nền văn hố truyền thống của các dân tộc khác.
Chính vì vậy, du lịch không là hiện tượng đơn lẻ, đặc quyền của cá
nhân hay nhóm người nào đó. Nó mang tính phổ biến và tính nhận thức với
mục tiêu khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người
và củng cố nền hồ bình giữa các dân tộc. Du lịch phát triển giúp cho đời
sống nhân dân sở tại các nước đó được cải thiện và khơng ngừng được nâng
cao. Đó là mối quan hệ biện chứng khơng ai có thể phủ nhận được. Trong q
trình phát triển du lịch, các quốc gia, địa phương đều cố gắng khai thác các
tiềm năng nguồn lực sẵn có của địa phương mình, coi đó là lợi thế để phát
triển du lịch. Trong các tiềm năng ấy, làng nghề là một trong những tiềm năng
to lớn, quan trọng của loại hình du lịch văn hóa ở Việt Nam.
Hà Nam là một trong những tỉnh thuộc vùng châu thổ sông Hồng, nơi có
một số làng nghề thủ cơng nổi tiếng, trong đó có một số làng nghề có bề dày


lịch sử hàng vài trăm năm, sản phẩm ban đầu chỉ là phục vụ cho cuộc sống
hàng ngày của người dân và dần dần trải qua quá trình lịch sử nó đã trở thành

nghề thủ cơng mỹ nghệ được cộng đồng cư dân ưa chuộng. Sản phẩm không
chỉ phục vụ cho người dân trong khu vực mà cũng đưa đến các vùng miền của
đất nước, đáp ứng được một phần nhu cầu xuất khẩu ra các nước trong khu vực
và trên thế giới.
Hà Nam một vùng đất có bề dày lịch sử, nơi còn lưu giữ và bảo tồn
những di sản văn hố, trong đó có di sản văn hóa của các làng nghề. Nằm
trong chiến lược phát triển chung của cả nước, du lịch Hà Nam cũng được chú
trọng và được coi là một điểm du lịch vệ tinh của Hà Nội. Tỉnh Hà Nam cách
thủ đô Hà Nội hơn 50km, là cửa ngõ phía Nam của thủ đơ; phía Bắc giáp với
tỉnh Hà Tây (cũ); phía Đơng giáp với Hưng n và Thái Bình; phía Nam giáp
Nam Định và Ninh Bình; phía Tây giáp Hịa Bình. Vị trí địa lý này tạo rất
nhiều thuận lợi cho phát triển kinh tế và xã hội hội của tỉnh. Hà Nam bao gồm
6 đơn vị hành chính cấp huyện và thành phố: Thành phố tỉnh lỵ Phủ Lý,
huyện Duy Tiên, huyện Kim Bảng, huyện Bình Lục, huyện Lý Nhân, huyện
Thanh Liêm nằm trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc - Nam, trên địa
bàn tỉnh có quốc lộ 1A và đường sắt Bắc - Nam chạy qua với chiều dài gần
50km và các tuyến đường giao thông quan trọng khác như: quốc lộ 21, quốc
lộ 21B, quốc lộ 38. Hơn 4000km đường bộ bao gồm các đường quốc lộ, tỉnh
lộ cùng các tuyến giao thông liên huyện, liên xã, thị xã, thị trấn đã được rải
nhựa hoặc bê tơng hóa. Hơn 200km đường thủy có luồng lạch đi lại thuận tiện
với 42 cầu đường đã được xây dựng kiên cố và hàng nghìn km đường giao
thơng nơng thơn tạo thành một mạng lưới giao thơng khép kín, tạo điều kiện
thuận lợi về đi lại và vận chuyển hàng hóa cho các phương tiện cơ giới. Từ
thành phố Phủ Lý có thể đi tới các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng
một cách nhanh chóng và thuận tiện. Vị trí chiến lược quan trọng cùng hệ
thống giao thông đường thủy, bộ, sắt tạo cho Hà Nam lợi thế rất lớn trong
giao lưu kinh tế, văn hóa - xã hội với các tỉnh trong vùng và cả nước, đặc biệt
với thủ đô Hà Nội. Đây cũng là một thị trường có tiềm năng kinh tế, giàu
truyền thống văn hoá và nhân văn song chưa được khai thác nhiều. Nhìn



chung, với bề dày lịch sử và vị trí thuận lợi, Hà Nam có đầy đủ điều kiện và
khả năng để phát triển kinh tế du lịch. Việc phát triển du lịch văn hoá Hà Nam
đặc biệt là phát triển du lịch làng nghề truyền thống là một hướng đi mới để
phát triển du lịch tỉnh nhà. Đề tài “Khai thác các làng nghề truyền thống Hà
Nam phục vụ phát triển du lịch” được thực hiện với mong muốn đóng góp
vào sự nghiệp phát triển kinh tế du lịch tỉnh Hà Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu trong lĩnh vực tài nguyên du
lịch nhân văn, đặc biệt là du lịch ở các làng nghề truyền thống tiêu biểu trên
địa bàn tỉnh Hà Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển các làng nghề
truyền thống tiêu biểu của tỉnh Hà Nam.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của các làng nghề tỉnh Hà Nam.
- Đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn và tiềm năng phát triển du lịch
làng nghề tỉnh Hà Nam.
- Đánh giá khả năng phát triển du lịch của các làng nghề tỉnh Hà Nam.
- Bước đầu đưa ra một số định hướng, giải pháp để phát triển du lịch
làng nghề tỉnh Hà Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: lịch sử, dân tộc học, văn hóa
dân gian, mỹ thuật học, du lịch học…
- Phương pháp tiếp cận và phân tích hệ thống để tìm kiếm và nêu
lên các mơ hình của đối tượng nghiên cứu; thu thập, phân tích thơng tin ban
đầu, từ đó vạch ra chỉ tiêu, định hướng thích hợp.


- Phương pháp khảo sát thực địa nhằm thẩm định và bổ sung nguồn tư

liệu đã có và kiểm chứng lại những kết quả xử lý tư liệu, nhận định đánh giá
mang tính khoa học.
- Phương pháp bán đồ: luận văn sử dụng một số bản đồ chức năng để
nghiên cứu, bao gồm: bản đồ hành chính, bản đồ hiện trạng làng nghề để đánh
giá mức độ tập trung, mức độ phân hoá các làng nghề giữa các vùng lãnh thổ
và bản đồ các tuyến điểm du lịch làng nghề trên địa bàn tỉnh.
- Phương pháp phân tích tổng hợp số liệu để nghiên cứu thu thập các
tài liệu liên quan như: giáo trình, sách báo, tạp chí, báo cáo... để tổng hợp,
phân tích và đưa ra kết luận.
- Phương pháp toán và thống kê du lịch được vận dụng để thống kê các
di tích lịch sử - văn hố, các làng nghề, thống kê đánh giá lượng khách, tỷ lệ
doanh thu... để từ đó xác định hiệu quả kinh tế.
5. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu các làng nghề truyền thống Việt Nam nói chung và
nghiên cứu các làng nghề truyền thống Hà Nam nói riêng trong mối tương
quan với phát triển du lịch đã được một số tác giả quan tâm nghiên cứu ở các
lĩnh vực khác nhau. Những tập hợp và phân tích bước đầu cho thấy, đến nay
đó có một số cơng trình, sách báo, tạp chí sau đây:
Làng nghề truyền thống Việt Nam [53], tác giả giới thiệu khái quát về
làng nghề dệt lụa Nha Xá và có sự so sánh với lụa Hà Đông, tác giả nhận định
rằng, tiếng tăm của sản phẩm vải, lụa Nha Xá được xếp hàng thứ hai. Từ đầu
thế kỷ XX, Lụa Nha Xá đã trở thành mặt hàng được các lái buôn hàng lụa thị
trường Sài Gịn - Chợ Lớn tín nhiệm, nổi tiếng trong và ngoài nước.
Trong bài viết Nghề làm trống Đọi Tam [41], tác giả Vũ Hoa Ngọc đã
trình bày khá đầy đủ về làng trống Đọi Tam, làng trống nghìn tuổi của huyện
Duy Tiên, Hà Nam, về lịch sử làng nghề, quá trình hình thành và phát triển
của làng nghề trong quá khứ và hiện tại. Song trong bài viết này, tác giả chỉ
dừng lại ở việc việc nghiên cứu lịch sử của làng nghề.



Bài viết Làng gốm Quyết Thành chưa bao giờ tắt lửa [48] trên Báo Thể
thao Văn hoá số ra ngày 26/11/2009, tác giả Đình Phong chủ yếu giới thiệu lịch sử
của làng gốm Quyết Thành, sức sống mãnh liệt của làng nghề từ xưa cho đến nay.
Trên trang web: www.maytredan.com [70] và web: www.baomoi.com
[69] đã có rất nhiều bài viết giới thiệu về làng gốm Quyết Thành và làng nghề
thêu ren Thanh Hà.
Như vậy, cho đến nay dù có rất nhiều tài liệu nghiên cứu về các làng
nghề truyền thống ở Hà Nam nhưng chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách hệ thống và đầy đủ về làng nghề và vấn đề phát triển du lịch làng nghề
trên địa bàn tỉnh Hà Nam.
6. Đóng góp của luận văn
Kế thừa thành quả của những nhà nghiên cứu đi trước, luận văn nghiên
cứu một cách toàn diện, hệ thống về làng nghề và tiềm năng du lịch làng nghề
của tỉnh Hà Nam. Từ đó, nêu lên thực trạng của các làng nghề, đồng thời đề
xuất một số giải pháp nhằm khai thác các làng nghề góp phần phát triển du
lịch của tỉnh Hà Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu (06 trang), Kết luận (03 trang), Danh mục tài liệu
tham khảo (06 trang), Phụ lục (44 trang), luận văn được bố cục làm 03
chương như sau:
Chương 1: Làng nghề và du lịch làng nghề ở Hà Nam (36 trang)
Chương 2: Các làng nghề truyền thống Hà Nam (42 trang)
Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển làng nghề và du lịch
làng nghề ở Hà Nam (27 trang)


Chương 1
LÀNG NGHỀ VÀ DU LỊCH LÀNG NGHỀ Ở HÀ NAM

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở VỆT NAM


1.1.1. Một số quan niệm về làng nghề và ngành nghề truyền thống
Có thể nhận thấy, trong xã hội hội nông thôn Việt Nam từ xưa đến nay,
làng đã là một tế bào xã hội, chiếm vị trí hết sức quan trọng trong lịch sử dân
tộc. Qua thời gian lịch sử, những nét thuần phong mỹ tục cổ truyền ở nơng
thơn làng xã vẫn được duy trì và phát triển cho đến ngày nay.
Từ buổi ban đầu, phần lớn người dân trong làng đều sinh sống bằng
nông nghiệp. Về sau, để đáp ứng những nhu cầu về sản xuất và sinh hoạt, có
những bộ phận dân cư chuyển sang làm và kiếm sống bằng các nghề thủ công
khác. Họ liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành các phường hội như: phường
gốm, phường đúc đồng, phường dệt vải, phường làm mộc... Từ đó, các nghề
được lan truyền và hình thành lên các làng nghề ở những vùng đất mới. Trải
qua thời gian đã có rất nhiều làng nghề phát triển mạnh, số hộ gia đình cùng
nhân cơng lao động làm và sống bằng nghề trên ngày càng tăng nhanh.
Cho đến nay đã tồn tại một số quan niệm về làng nghề như sau:
Làng nghề là làng, tuy vẫn có trồng trọt, chăn ni và một số nghề
phụ khác (đan lát, làm tương, làm đậu phụ....), trong đó nổi trội
một nghề truyền thống, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ cơng
chun nghiệp hay bán chun nghiệp, có phường hội, có quy
trình cơng nghệ nhất định, sống chủ yếu bằng nghề đó, sản xuất ra
những mặt hàng thủ cơng, mỹ nghệ có tính hàng hố... [36].
Quan niệm này mang nội hàm nói về các làng nghề truyền thống, đó là
những làng nghề nổi tiếng và đã tồn tại từ hàng ngàn năm nay.
Làng nghề thủ công là trung tâm sản xuất hàng thủ công, nơi quy
tụ các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền
thống lâu đời. Tại đây có sự liên kết, hỗ trợ trong sản xuất, bán


sản phẩm theo kiểu phường hội, kiểu hệ thống doanh nghiệp vừa
và nhỏ, có cùng tổ nghề và các thành viên luôn ý thức tuân thủ

những quy ước của xã hội và gia tộc [37].
Như vậy, làng nghề là một thiết chế gồm 02 yếu tố cấu thành là “làng”
và “nghề”. Các làng nghề gắn bó với các ngành nghề phi nông nghiệp, các
ngành nghề thủ công trong các làng quê ở nước ta.
Một số quan niệm khác lại cho rằng:
Làng nghề là làng ở nơng thơn có một (hoặc một số) nghề thủ
công tách hẳn ra khỏi nông nghiệp và kinh doanh độc lập. Về
mặt định lượng, có thể hiểu làng nghề là một làng ở nơng thơn có
từ 35% - 40% số hộ trở lên, chuyên làm một (hoặc một số) nghề
thủ cơng nghiệp và có thể sinh sống bằng chính thu nhập của
nghề đó (thu nhập của nghề chiếm trên 50% tổng thu nhập của
các hộ và giá trị sản lượng của nghề chiếm trên 50% giá trị sản
lượng của địa phương) [49].
Đây là một quan niệm tương đối đầy đủ về làng nghề hiện nay. Tuy
nhiên, định hướng trên chỉ mang tính chất tương đối, bởi đối với từng loại
làng nghề khác nhau thì tỷ lệ nói trên cũng khác nhau. Hơn nữa, quy mơ về số
hộ gia đình và số lao động của các làng và các vùng cũng có sự chênh lệch
đáng kể. Mặt khác, cùng với sự thăng trầm trong quá trình phát triển của từng
nghề và làng nghề mà số lượng hộ gia đình và lao động làm nghề có sự biến
đổi theo từng giai đoạn khác nhau.
Trước đây, khái niệm làng nghề chỉ bao hàm các nghề thủ công nghiệp.
Ngày nay trên thế giới, khu vực kinh tế thứ 3 đang đóng vai trị quan trọng và
trở thành lĩnh vực chiếm ưu thế về mặt tỷ trọng, các nghề buôn bán dịch vụ ở
nông thôn cũng được xếp vào các làng nghề. Như vậy, trong làng nghề sẽ có
làng một nghề và có làng nhiều nghề, đồng thời cũng có làng nghề truyền
thống và làng nghề mới.


+ Làng một nghề là làng duy nhất có một nghề xuất hiện và tồn tại,
hoặc có một nghề chiếm ưu thế tuyệt đối, các nghề khác chỉ có lác đác ở một

vài hộ không đáng kể.
+ Làng nhiều nghề là làng xuất hiện và tồn tại nhiều nghề, có tỷ trọng
các nghề chiếm ưu thế gần tương đương nhau. Trong nơng thơn Việt Nam
ngày nay, loại làng có nhiều nghề xuất hiện và có xu hướng phát triển mạnh.
+ Làng nghề truyền thống là những làng nghề xuất hiện từ lâu trong
lịch sử (từ hàng trăm, thậm chí hàng ngàn năm) và tồn tại đến ngày nay.
+ Làng nghề mới là những làng nghề xuất hiện do sự phát triển lan toả
của các làng nghề truyền thống trong những năm gần đây, đặc biệt trong thời
kỳ đổi mới, thời kỳ chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Ngày nay, trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, cơng
nghệ sản xuất trong các làng nghề cũng khơng hồn tồn là thủ cơng mà có rất
nhiều nghề, nhiều cơng đoạn sản xuất đó sử dụng kỹ thuật hiện đại (cơ khí
hiện đại và bán cơ khí). Tại các làng nghề cũng đã xuất hiện nhiều hộ, nhiều
cơ sở chuyên làm dịch vụ đầu ra, đầu vào cho các hộ làm nghề khác.
Như vậy, làng nghề được hiểu một các đầy đủ là những làng ở nông
thôn tồn tại các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao
động và số thu nhập so với nghề làm nông nghiệp.
Đối với những ngành nghề được xếp vào ngành nghề tiểu thủ cơng
truyền thống nhất thiết phải có các yếu tố sau:
- Đã hình thành, tồn tại và phát triển lâu đời ở nước ta.
- Sản xuất tập trung, tạo thành các làng nghề, phố nghề.
- Có nhiều thế hệ nghệ nhân tài hoa và đội ngũ thợ lành nghề đông đảo.
- Kỹ thuật và công nghệ mang tính truyền thống của dân tộc Việt Nam.
- Sử dụng nguyên liệu tại chỗ, chủ yếu là trong nước.
- Sản phẩm mang tính truyền thống và độc đáo của Việt Nam, có giá trị và
chất lượng cao, vừa là hàng hoá, vừa là sản phẩm văn hoá, nghệ thuật, mỹ thuật,


thậm chí trở thành các di sản văn hố mang bản sắc của dân tộc Việt Nam.
- Là nghề nghiệp ni sống bộ phận dân cư trong cộng đồng, đóng góp

đáng kể vào ngân sách của Nhà nước [37].
Từ việc nghiên cứu những khái niệm về làng nghề thủ công, có thể đưa
ra quan niệm về nghề thủ cơng truyền thống như sau: “Nghề thủ công truyền
thống là những ngành nghề phi nông nghiệp, đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử
cịn tồn tại tới ngày nay. Nó bao gồm có các ngành nghề mà phương thức sản
xuất đã được cải tiến hoặc sử dụng những máy móc hiện đại để hỗ trợ cho
sản xuất nhưng vẫn tuân thủ cách làm truyền thống, thể hiện được nét văn
hoá đặc sắc của từng địa phương cụ thể trên lãnh thổ nước ta”.
Hiện nay, ngành nghề truyền thống ở nước ta rất phong phú và đa dạng.
Nhiều ngành nghề đó tồn tại từ hàng ngàn năm, một số mặt hàng truyền thống đã
nổi tiếng khắp thế giới từ lâu đời. Ngày nay, do sự phát triển của khoa học công
nghệ nên nhiều sản phẩm mới ra đời, có ưu thế và có sức cạnh tranh hơn những
sản phẩm truyền thống. Vì vậy mà xuất hiện xu thế một số ngành nghề truyền
thống dần dần bị mất đi và một số ngành nghề mới xuất hiện để phù hợp với đòi
hỏi khách quan của thị trường về cơ cấu, chất lượng và chủng loại sản phẩm.
* Phân loại làng nghề
Nếu dựa trên sản phẩm và phương thức sản xuất chính để phân loại,
hiện nay ở nước ta có 6 loại làng nghề chủ yếu như sau:
- Làng nghề thủ công: Đây là làng nghề làm ra các mặt hàng sử dụng
hàng ngày như: dao, kéo, chiếu, mây tre đan gia dụng... Đặc điểm của các
làng nghề này là sản xuất thủ công bằng tay và các cơng cụ đơn giản. Do chi
phí thấp nên loại hình này khá phổ biến.
- Làng nghề thủ công mỹ nghệ: Đây là làng nghề sản xuất ra các mặt hàng
có giá trị thẩm mỹ cao như đồ mỹ nghệ chạm khảm, chạm khắc tượng gỗ, đá,
các đồ mỹ nghệ bằng bạc, đồ thêu ren, dệt thảm, chế biến mây tre đan...


- Làng nghề công nghiệp: Đây là làng nghề sản xuất các hàng hoá
thành phẩm và bán thành phẩm như sản xuất giấy, dệt, may mặc, gốm sứ, tái
chế nhựa, kim loại…

- Làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm: Đây là làng nghề chế biến
các loại nông sản như xay xát, sản xuất miến dong, bánh, sản xuất bia, nấu
rượu, giết mổ vật nuôi, chế biến hoa quả...
- Làng nghề sản xuất và cung ứng nguyên liệu: Đây là làng nghề sản
xuất vật liệu xây dựng như gạch, ngói, vôi, cát...
- Làng nghề buôn bán và dịch vụ: Đây là làng nghề thực hiện bán
buôn, bán lẻ và cung cấp dịch vụ.
Nhìn chung, làng xã Việt Nam là nơi sản sinh ra nghề thủ công truyền
thống với các sản phẩm mang đậm dấu ấn tinh hoa của nền văn hố, văn minh
dân tộc. Q trình phát triển của làng nghề là q trình phát triển của tiểu thủ
cơng nghiệp ở nơng thơn. Khởi đầu sự phát triển chỉ có một vài gia đình hành
nghề rồi đến họ hàng và sau đó mở rộng ra cả làng. Thơng qua lệ làng mà
làng nghề định ra một số quy ước như: không truyền nghề cho người làng
khác, không truyền nghề cho con gái hoặc uống rượu ăn thề không để lộ bí
quyết nghề... Trải qua q trình lịch sử, có những nghề được lưu giữ đến tận
ngày nay, có những nghề bị mai một hoặc mất hẳn và cũng có những nghề
mới ra đời. Trong đó có những nghề đạt tới trình độ tinh xảo với kỹ thuật điêu
luyện và sự phân cơng lao động mang tính chun mơn hóa.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự hình thành, tồn tại và phát triển
của các làng nghề
Nghiên cứu sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của các làng nghề trong
suốt chiều dài lịch sử cho thấy, các làng nghề này chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố tự nhiên, kinh tế, xã hội... Một số nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới sự
phát triển của các làng nghề gồm có:
* Vị trí địa lý


Đây là yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới sự hình thành và
đảm bảo sự tồn tại, phát triển lâu dài đối với bất cứ làng nghề thủ công nào ở
nước ta.

Hầu hết các làng nghề đều nằm ở vị trí thuận lợi về giao thơng đường
thuỷ hoặc đường bộ và gần nguồn nhiên liệu. Tại những lưu vực sông Hồng,
sông Mã, sông Chu, sông Thương... quy tụ rất nhiều làng nghề và đã tạo
thành các trung tâm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Nằm ở những đầu mối
giao thông này cho phép các làng nghề có thể dễ dàng chuyên chở nguyên vật
liệu cũng như trao đổi và bán sản phẩm trong và ngoài làng, kể cả xuất khẩu.
Xưa kia, do điều kiện giao thơng đường bộ chưa phát triển thì yếu tố “bến
sơng bãi chợ” ln đóng vai trị chính trong việc vận chuyển, bn bán của
làng nghề. Bên cạnh đó, để quyết định mở nghề lập nghiệp, các tổ nghề cũng
đặc biệt quan tâm đến nguồn nguyên vật liệu thích hợp cho yêu cầu sản xuất
lâu dài. Vì vậy, phần lớn các làng nghề đều hình thành trên cơ sở nguồn
nguyên liệu sẵn có tại địa phương như: làng gốm Hương Canh, Thổ Hà... Một
số làng nghề khơng có nguồn ngun liệu tại địa phương (nghề chạm khắc gỗ,
nghề song mây đan...), có những vị trí gần các bến cũng thuận lợi cho việc
chuyên chở nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất và bán sản phẩm. Có thể
nói, đây là hai yếu tố quyết định tới sự tồn tại lâu dài của làng nghề.
* Nhu cầu của người tiêu dùng và sức ép kinh tế
Từ trước tới nay nhu cầu của con người đối với các mặt hàng thủ công
là rất lớn. Đó là các nhu cầu ăn, ở, mặc, nhu cầu tơn giáo, tín ngưỡng, thờ
cúng... Trước kia, khi chưa có nền cơng nghiệp phát triển, mọi loại hàng tiêu
dùng từ vật dụng sinh hoạt hàng ngày đến công cụ sản xuất, đồ thờ cúng, kể
cả nhạc cụ, vũ khí... đều được làm bằng tay và phương tiện sản xuất thô sơ.
Các sản phẩm thủ công lúc bấy giờ được sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt và
sản xuất của người dân.
Ngày nay, khi nền cơng nghiệp cơ khí đã phát triển, một số công đoạn
trong sản xuất của các làng nghề đã sử dụng máy móc, song nhu cầu về các
sản phẩm thủ công truyền thống không giảm đi. Nhu cầu về các sản phẩm thủ


công, nhất là các mặt hàng mỹ nghệ, hàng xuất khẩu lại tăng hơn trước rất

nhiều. Khi có nhu cầu về hàng thủ cơng mỹ nghệ thì tất yếu phải có sản xuất
hàng thủ cơng. Nhu cầu càng lên, càng bền vững thì sản xuất ở các làng nghề
càng ổn định, phát triển lâu dài. Ngược lại, sự tồn tại và phát triển của các
làng nghề cũng phụ thuộc vào khả năng đáp ứng nhu cầu của xã hội hội, có
khả năng tiêu thụ lên (sản xuất vật liệu xây dựng, đồ gỗ gia đình, mộc mỹ
nghệ...). Tuy nhiên, một số ngành nghề, làng nghề bị mai một, thậm chí bị tan
rã do các sản phẩm cũng không phù hợp với thị trường, không thay đổi mẫu
mã, mặt hàng và bị cạnh tranh bởi hàng cơng nghiệp (nghề làm nón, làm quạt,
làm mật...).
Bên cạnh đó, do sức ép kinh tế đối với các làng nghề, các làng nghề
xuất hiện sớm để đáp ứng nhu cầu trong sản xuất và tiêu dùng, nhưng cũng có
những làng nghề hình thành và phát triển do thiếu điều kiện sản xuất nông
nghiệp. Do đất chật, người đông, thu nhập không đảm bảo cho đời sống của
dân cư trong vùng đã tạo nên sức ép buộc người dân phải phát triển ngành
nghề phi nông nghiệp. Nhiều làng nghề tồn tại và phát triển mạnh mẽ đến
ngày nay đều có mật độ dân số cao, diện tích canh tác nơng nghiệp trên đầu
người thấp, tiêu biểu như làng Ninh Hiệp, làng Đồng Kỵ, làng tranh dân gian
Đơng Hồ... Có lẽ chính sức ép kinh tế cũng là một trong những nhân tố tạo
cho vùng đồng bằng sông Hồng trở thành nơi xuất hiện sớm nhất, tập trung
nhiều nhất các làng nghề và ngành nghề thủ cơng.
Trình độ tay nghề của nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, kĩ thuật
truyền thống và kinh nghiệm lâu đời của các làng nghề
Với đôi bàn tay vàng, các nghệ nhân đã tạo nên những sản phẩm quý
giá, tinh xảo và độc đáo. Đây là một trong các nhân tố quan trọng, quyết định
đến sự tồn vong của các làng nghề từ xưa đến nay. Và, cũng chính những
nghệ nhân, thợ cả đã giữ gìn cho làng nghề tồn tại, họ đã đào tạo ra những
nhóm thợ để truyền nghề, mà trước hết là con em trong gia đình, dịng họ,
trong và ngoài làng... Cứ thế, những thế hệ thợ thủ công kế tiếp, đan xen, đời
sau nối tiếp đời trước cùng hành và giữ gìn nghề nghiệp của cha ông. Do đó,



trong mỗi làng nghề thường có một vài thế hệ thợ cùng tham gia sản xuất, duy
trì và phát triển ngành nghề để cho nghề nghiệp ngày càng thịnh vượng.
Về kỹ thuật, hầu hết các làng nghề đều sử dụng kỹ thuật truyền thống
lâu đời của Việt Nam trong sản xuất. Mỗi nghề đều có kỹ thuật sản xuất riêng
bao gồm nhiều công đoạn từ khâu khai thác, chế biến đến hoàn thiện sản
phẩm để đưa ra thị trường tiêu thụ, trong đó, cũng gồm cả thủ pháp nghệ
thuật. Có nhiều làng làm chung một nghề, thường có kỹ thuật chung nhưng
khơng vì thế mà các cơng đoạn kỹ thuật lại giống nhau. Khi ứng dụng kỹ
thuật chung, các làng nghề sẽ tự tạo ra cách làm theo ý của riêng mình. Thủ
pháp nghệ thuật cũng đa dạng hơn nhiều, bởi mỗi nghệ nhân đều có nghệ
thuật ứng biến riêng dựa trên trình độ sáng tạo và kinh nghiệm của bản thân
mỗi người. Chính vì thế, thợ gốm Thổ Hà (Bắc Ninh) rất giàu kinh nghiệm
sản xuất loại gốm đá; thợ gốm Phù Lãng (Bắc Ninh) lại chuyên sản xuất gốm
màu da lươn; trong khi đó gốm Bát Tràng lại có sản phẩm đặc trưng nhất là
gốm sành (gọi là gốm đàn)... Bên cạnh đó, loại gốm men ngọc, gốm men rạn,
men nâu, gốm hoa lam được thợ gốm tài năng của Bát Tràng làm ra trong
suốt mấy trăm năm nay và đã trở thành sản phẩm tiêu biểu của nghề gốm Việt
Nam. Tính đa dạng và khác biệt trong yếu tố kỹ thuật của các nghệ nhân đã
tạo nên tính đa dạng, phong phú cho các sản phẩm thủ công, đáp ứng nhu cầu
của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội hội. Mặt khác, các nghề cổ truyền
trường tồn được chính cũng do kinh nghiệm lâu đời của họ. Kinh nghiệm
trong sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong thủ pháp nghệ thuật của mỗi gia
đình, dịng họ, làng nghề thường nằm trong tay các nghệ nhân, thợ cả và
truyền từ đời này sang đời khác. Bí quyết đã như một thứ vũ khí bí mật ln
được mỗi người thợ gìn giữ với đầy đủ ý thức và sự cẩn trọng.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, trình độ kỹ
thuật và cơng nghệ sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động,
chất lượng và giá thành sản phẩm. Do đó, để đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và

ngoài nước, các cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề cần phải đổi
mới trang thiết bị, áp dụng kỹ thuật mới, kết hợp công nghệ truyền thống với


công nghệ hiện đại để đưa ra những sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng tốt,
giá trị cao và giá thành hợp lý.
* Quy chế làng nghề và cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước
Có thể nói, đây là nhân tố vừa tác động trực tiếp, vừa tác động gián tiếp
tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề hiện nay. Đối với các
làng nghề thủ cơng lâu đời đều có các qui chế về nghề và được lập thành văn
bản riêng hoặc được ghi trong các hương ước của làng, thậm chí mỗi phường
nghề cũng có những qui chế riêng, trong đó có những lời thề, lời nguyền dành
cho những người thợ. Các qui chế này được truyền qua các thế hệ, bắt buộc
các thành viên phải thực hiện một cách nghiêm túc.
Những qui định này là biện pháp để giữ bí mật, bí quyết nghề nghiệp
của những người thợ trong làng nghề. Nó có tác dụng tích cực duy trì hoạt
động lâu dài của mỗi làng nghề. Song sự độc quyền này cũng làm kìm hãm sự
phát triển của nghề nghiệp trong phạm vi cả nước.
Trong thời đại hiện nay, bên cạnh những quy định do làng nghề,
phường hội đặt ra thì chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước đã tác
động không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của các làng nghề ở nước ta. Việc
ban hành các chính sách mới, Nhà nước đều căn cứ vào tình hình thực tiễn
của đất nước và thị trường buôn bán sản phẩm của làng nghề để đưa ra các
văn bản để tác động và kích thích sự phát triển của làng nghề. Cho đến nay,
các làng nghề đều căn cứ vào các văn bản của Đảng và Nhà nước để cố gắng
tìm ra các hướng đi cho chính mình, đó là việc áp dụng khoa học công nghệ
vào việc làm ra sản phẩm, tìm thị trường tiêu thụ… tiêu biểu là các làng nghề
chạm khắc gỗ như: làng nghề Thiết Óng, Dư Dụ (Hà Nội); Đồng Kỵ (Bắc
Ninh); La Xuyên (Nam Định)…; hay làng nghề chạm bạc Đồng Sâm, Châu
Khê…; hoặc làng nghề gốm sứ Bát Tràng, Thổ Hà, Hương Canh… Những

năm gần đây, do điều kiện xã hội phát triển cộng với sự thơng thống trong
chính sách của Đảng và Nhà nước, các làng nghề đã tiến tới thành lập cho
mình một tổ chức với tên gọi là Hiệp hội các làng nghề thủ công truyền thống
Việt Nam. Thông qua tổ chức Hiệp hội, các làng nghề đã có nhiều dịp giao


lưu, trao đổi kinh nghiệm với nhau thông qua các cuộc hội thảo, hội chợ trưng
bày và giới thiệu để bán sản phẩm. Trường hợp năm 2010, nhân dịp kỷ niệm
đại lễ Hà Nội 1000 năm tuổi, Hiệp hội Thủ công truyền thống Việt Nam đã tổ
chức cho các làng nghề trưng bày và giới thiệu các sản phẩm tại công viên
Bách Thảo, Hà Nội.
Trong điều kiện nền kinh tế phát triển hiện nay, các yếu tố vốn, cơ sở
hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nhu cầu thị trường... cũng có vai trị nhất
định, song nhìn chung 04 yếu tố trên sẽ không thể thiếu được trong lịch sử
phát triển các làng nghề truyền thống ở nước ta hiện nay.
1.1.3. Đặc điểm của làng nghề truyền thống Việt Nam
* Sự tồn tại và q trình gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp
Các sản phẩm thủ công được sản xuất ở các làng quê nước ta, ban
đầu chỉ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt cho gia đình, dịng họ, làng xã, dần
dần trở thành các sản phẩm mang tính hàng hóa có giá trị cao. Qua thời
gian, nghề tiểu thủ công nghiệp dần dần tách ra khỏi nông nghiệp nhưng
không tách khỏi môi trường nông thôn. Hầu hết, người dân ở các làng
chuyên làm nghề thủ công, đồng thời họ lại chính là những người nơng dân
làm ruộng, trong làng nghề vẫn có một số hộ gia đình chỉ làm thuần nơng.
Do đó, hoạt động sản xuất nơng nghiệp và sản xuất kinh doanh thủ công
nghiệp ở các làng nghề đan xen nhau, tạo nên sắc thái riêng của làng nghề thủ
cơng truyền thống. Có thể dẫn ra trường hợp một số làng nghề để làm ví dụ
minh chứng cho nhận định trên như: làng nghề chạm khắc gỗ Thiết Ứng,
Đồng Kỵ, Dư Dụ, La Xuyên… Trước đây, các làng này chỉ làm nơng nghiệp
là chính, tuy nhiên trong thời gian nông nhàn, họ đã làm thêm một nghề phụ

(chạm gỗ), qua thời gian và nhu cầu của thị trường, nghề phụ có điều kiện
phát triển và vơ hình chung nghề phụ này đã trở thành nghề chính và là nguồn
sống của người dân các làng nghề… Hiện nay, qua điều tra thực tiễn cho thấy,
ở làng Thiết Ứng có khoảng trên 60% hộ gia đình làm nghề; làng Đồng Kỵ có
khoảng trên 70% hộ gia đình làm nghề; làng La Xuyên có khoảng trên 50%
người dân làm nghề…


* Thường sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ
Các sản phẩm thủ công đơn giản, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng được sản
xuất từ nguyên liệu có sẵn trong vùng, miền và trong nước. Các sản phẩm này
được sản xuất với số lượng nhiều và đa dạng về chủng loại, phong phú về loại
hình. Trường hợp như: nghề đan cỏ tế, nghề mây tre đan, nghề nặn tò he… ở
thành phố Hà Nội (trước đây thuộc tỉnh Hà Tây cũ) đều lấy nguyên liệu sản
xuất tại địa phương, đó là việc trồng cỏ, trồng tre, làm bột nặn để tạo ra các sản
phẩm gia dụng… Bên cạnh đó, một số làng nghề trước đây có sử dụng nguyên
liệu tại địa phương nhưng do nguồn nguyên liệu bị cạn kiệt, họ phải mua
nguyên liệu từ các vùng, miền khác trong nước để tạo ra sản phẩm và xa hơn
nữa là việc nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài. Trường hợp như: nghề chạm
khắc gỗ ở các làng Đồng Kỵ (tỉnh Bắc Ninh), Thiết Ứng (Đơng Anh, Hà Nội),
Dư Dụ (Thanh Trì, Hà Nội), La Xuyên (Nam Định); nghề chạm khắc đá ở
Chương Mỹ (Hà Nội), Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa… Có thể
nhận thấy, những nghề này đều sử dụng nguyên liệu mang tính tự nhiên với số
lượng lớn và được khai thác tại chỗ hoặc nhập khẩu từ các nơi khác về.
* Kỹ thuật sản xuất thô sơ, đơn giản, chủ yếu là kĩ thuật thủ công
Do điều kiện lịch sử chi phối và sinh ra trong môi trường nông nghiệp nông thôn do người nông dân làm chủ đã quy định khá chặt chẽ các sản phẩm
của làng nghề từ việc chọn nguyên liệu cho đến công đoạn hồn thiện các sản
phẩm. Dưới con mắt và đơi bàn tay tài hoa “đôi bàn tay vàng” của người nghệ
nhân, người thợ cộng với các công cụ hành nghề hết sức đơn giản sẽ tạo ra
các sản phẩm có giá trị cao về mọi mặt. Dụng cụ làm nghề tuy thô sơ, song lại

phụ thuộc vào cách làm từng loại sản phẩm mà mỗi làng nghề làm ra như:
Trường hợp sản phẩm là đồ thêu, người thợ thêu chỉ cần có khung thêu, kim,
chỉ, vải; sản phẩm là đồ gỗ như: tượng thờ, đồ dùng gia dụng thì người nghệ
nhân cần phải có nguyên liệu gỗ phù hợp cộng với các loại đục, chàng, bào,
cưa…; sản phẩm là cây cảnh thì người nghệ nhân, người thợ cần phải có cây
cảnh cùng với các công cụ như kéo, dao, dây và máy tưới nước… Có thể nói,
với đơi bàn tay khéo léo, cùng với đức tính cần cù chịu khó, tính thẩm mĩ,


sáng tạo của người nghệ nhân, người thợ và có sự kết hợp với các dụng cụ thô
sơ sẽ tạo ra các sản phẩm thủ công truyền thống mang đặc trưng của từng địa
phương cụ thể.
* Phương pháp dạy nghề
Do môi trường tồn tại, nguồn nguyên liệu tại chỗ và kỹ thuật thô sơ,
cho nên các sản phẩm làng nghề chủ yếu được thực hiện theo phương thức
truyền miệng, truyền nghề trực tiếp, dựa vào trình độ của nghệ nhân và đội
ngũ thợ lành nghề trong mỗi làng quê. Người dạy và người học được làm việc
thực tiễn ngay tại các cơ sở sản xuất của các hộ gia đình, người dạy sẽ cố
gắng truyền đạt cho người học những kiến thức sơ đẳng nhất như là việc chọn
nguyên liệu cho đến việc thể hiện bố cục trên sản phẩm và việc hồn thiện sản
phẩm… Do tính khép kín của nghề nghiệp, nên việc truyền dạy nghề chủ yếu
theo phương thức cha truyền con nối và diễn ra trong khuôn khổ từng làng.
Với mong muốn tạo ra một lớp người kế cận có trình độ cao để gìn giữ nghề
của cha ông, các nghệ nhân của làng đã cố gắng trao truyền những bí quyết
nghề nghiệp, trong đó có kỹ thuật tạo sản phẩm… Đối với làng nghề, những
nghệ nhân có vai trị quan trọng, họ nắm giữ bí quyết nghề nghiệp để truyền
nghề và chính tài năng của họ đã tạo nên những sản phẩm độc đáo, tinh xảo,
mang giá trị vật chất và nghệ thuật cao. Trường hợp tại làng chạm khắc gỗ
Thiết Ứng hiện nay, các nghệ nhân đang truyền dạy cho 20 con em địa
phương học và kế nghiệp nghề nghiệp của làng.

* Sản phẩm thủ cơng mang tính độc đáo, có giá trị cao
Do các sản phẩm thủ công sản xuất chủ yếu bằng tay nên chúng không
sản xuất một cách ồ ạt và mang tính rập khn. Các sản phẩm đều là sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp thủ cơng và tính sáng tạo nghệ thuật. Ở
mỗi một làng nghề lại có một nét đặc trưng riêng, mang bản sắc văn hóa địa
phương. Có những làng nghề cùng làm một sản phẩm song nó cũng có sự
khác nhau về chất liệu, kỹ thuật chế tác sản phẩm…, trường hợp như sản
phẩm tượng thờ của ba làng nghề chạm khắc gỗ Thiết Ứng, Dư Dụ và Sơn


Đồng thuộc thành phố Hà Nội. Do đặc tính thủ công quy định nên mỗi sản
phẩm ở làng nghề lại mang những giá trị tiêu biểu nhất định. Trường hợp các
tượng Quan âm thiên thủ thiên nhãn, tượng Bà Triệu, tượng Quan Công,
tượng Bồ Đề Đạt Ma… của làng nghề chạm khắc gỗ Thiết Ứng được làm
bằng gỗ “Mun sọc” cộng với kỹ thuật chạm tinh xảo đã tạo ra các sản phẩm
với đường nét tinh tế, mềm mại có giá trị nghệ thuật cao.
1.2. DU LỊCH LÀNG NGHỀ Ở VIỆT NAM

1.2.1. Khái niệm du lịch làng nghề
Sản phẩm du lịch làng nghề được hình thành dựa trên sự liên kết giữa
ba đối tượng: làng nghề truyền thống - chủ thể cung ứng sản phẩm du lịch đối tượng sử dụng sản phẩm du lịch làng nghề. Vì vậy, du lịch làng nghề
mang ý nghĩa tổng hợp của ba chủ thể trên.
Trên phương diện người cung ứng, đây là một quá trình xây dựng sản
phẩm du lịch từ những yếu tố thuộc về làng nghề có khả năng đáp ứng được
nhu cầu du lịch của người tiêu dùng, các yếu tố đó bao gồm: yếu tố văn hóa
vật thể - phi vật thể, yếu tố môi trường, nhân lực kết hợp với năng lực tổ chức
để hình thành sản phẩm du lịch làng nghề, bán và thực hiện chương trình du
lịch nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đối tượng cung ứng sản phẩm du lịch
không trực tiếp tham gia sản phẩm du lịch làng nghề mà chỉ là người “sản
xuất’’ và tiêu thụ thông qua năng lực tổ chức và các nguồn lực làng nghề với

mục đích đạt được tối đa các mục tiêu kinh tế.
Người sử dụng các sản phẩm làng nghề (khách du lịch) trực tiếp tiêu
thụ các sản phẩm du lịch với các giá trị văn hóa, tự nhiên, kinh tế, dịch vụ tại
các làng nghề nhằm phục hồi sức khỏe và nâng cao tại chỗ nhận thức của đối
tượng làng nghề. Đối tượng này đóng vai trò là cầu nối để tham gia hoạt động
du lịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu của cá nhân, góp phần mang lại lợi ích
kinh tế cho điểm tham quan du lịch.
Làng nghề truyền thống đóng vai trị là nguồn tài nguyên du lịch nhân
văn, là nơi tiến hành, thực hiện các sản phẩm du lịch, thỏa mãn nhu cầu của
khách du lịch thông qua việc cung cấp các sản phẩm hữu hình và vơ hình


nhằm mục đích mang lại lợi ích kinh tế cho làng nghề, bảo tồn nền văn hóa
địa phương và đáp ứng các mục tiêu khác của làng nghề.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra định nghĩa về du lịch làng nghề
như sau: “Du lịch làng nghề là loại hình du lịch khai thác các giá trị văn hóa
vật thể và phi vật thể của các làng nghề nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vui
chơi giải trí, nghiên cứu tìm hiểu văn hóa, tham quan, mua sắm… của khách
du lịch. Hoạt động này góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa
truyền thống ở các làng nghề đồng thời mang lại lợi ích kinh tế cho địa
phương và đất nước thông qua việc xuất khẩu tại chỗ các mặt hàng thủ công
truyền thống cũng như các giá trị văn hóa – xã hội khác”.
1.2.2. Cơ sở để phát triển du lịch làng nghề
Để trả lời cho câu hỏi tại sao làng nghề lại là một trong những đối
tượng khai thác quan trọng của ngành du lịch, trước hết cần xác định được giá
trị, tiềm năng của làng nghề truyền thống và vai trò của những giá trị đó đối
với ngành du lịch.
Giá trị văn hóa của làng nghề: Trong quá trình lịch sử, cây lúa nước và
người nông dân cùng cơ cấu tổ chức làng xã là những nhân tố hết sức thân
thuộc tạo ra nguồn gốc văn minh, văn hóa của dân tộc Việt Nam. Qua thời

gian, nông thôn vẫn là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa của người Việt. Mặc
dù ngày nay, nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng vào từng lĩnh vực của đất
nước, quá trình CNH - HĐH diễn ra từng ngày, song các làng quê với tổ chức
xã hội chặt chẽ, với hương ước, các nghi lễ nông nghiệp và quan hệ huyết
thống, láng giềng… đã vẫn là nơi lưu giữ những nét văn hóa truyền thống
đậm nét của dân tộc. Đối với khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa
đến từ các thành phố, nếu muốn tiến hành một chuyến đi khám phá tìm hiểu
về văn hóa Việt Nam, nơng thơn đặc biệt là đến các làng nghề thủ công truyền
thống luôn là nơi lựa chọn làm điểm đến tham quan du lịch. Hệ thống di tích
tín ngưỡng, tơn giáo của nước ta có vị thế quan trọng trong nguồn tài nguyên
du lịch nhân văn, đặc biệt là các cơng trình này lại đa phần nằm tại nơng thơn.
Tại các làng nghề có bề dày lịch sử thường có bảo lưu những nhà thờ tổ nghề,


cây đa, bến nước, sân đình…. Gắn liền với truyền thuyết tổ nghề, với thành
hoàng làng và các di sản Hán Nôm, sắc phong, gia phả… tạo nên sức hút văn
hóa rất riêng đối với khách du lịch muốn tìm hiều về tín ngưỡng, tơn giáo và
các phong tục tập quán ở các làng xã.
Sự hỗ trợ của ngành du lịch đối với hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản
phẩm thủ công truyền thống và bản thân các sản phẩm của làng nghề đó được
đánh giá cao với vai trị là đồ lưu niệm và hàng thủ công mỹ nghệ cho các
điểm du lịch. Việc bày bán các sản phẩm này tại các điểm du lịch khác hoặc
tại chính các làng nghề đều không chỉ mang ý nghĩa là bán “giá trị sử dụng”
mà còn là bán “giá trị tinh thần”. Tại các điểm du lịch, sản phẩm của hàng thủ
cơng mỹ nghệ ln có giá trị kinh tế cao hơn khi bán trên thị trường thương
mại thuần túy. Việc làm này vừa thu được lợi nhuận cao hơn song người sản
xuất khơng phải bỏ ra chi phí vận chuyển, quảng cáo. Phát triển du lịch làng
nghề truyền thống không những mang lại lợi ích cho ngành du lịch mà cũng
thúc đẩy quá trình sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu tại chỗ các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ.

Môi trường nơng thơn trong lành với các hình thức giải trí phù hợp đã
rất thuận lợi để xây dựng các dịch vụ giải trí khác như: câu cá, cắm trại, dã
ngoại, điền dã, tham gia sản xuất nông nghiệp, thủ công với nhân dân địa
phương, thưởng thức những món ăn thơn dã… Có thể nói, khách du lịch đến
các làng quê là một sự lựa chọn hợp lý để thay đổi mơi trường sống quen
thuộc ở thành thị.
Kỹ thuật, quy trình sản xuất các mặt hàng thủ cơng mỹ nghệ: Đó là sự
kết tinh các giá trị tổng hợp các yếu tố thẩm mỹ, nghệ thuật tạo hình, kiểu
dáng và kĩ thuật chế tác sản phẩm được lưu truyền, sáng tạo từ đời này sang
đời khác. Mỗi dân tộc, mỗi địa phương lại có những nét văn hóa riêng biệt
dẫn đến sự khác nhau về quy trình, kĩ thuật sản xuất sản phẩm... Vì vậy, đối
với khách du lịch khi được tận mắt chứng kiến, tìm hiểu quy trình sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề là một hoạt động rất hấp dẫn, bổ ích
đối với du khách.


×