Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

Luận văn thạc sĩ quản lý văn hóa quản lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện đan phượng, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.69 MB, 181 trang )

1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
******&*****

NGUYỄN THÀNH QUANG

QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HĨA
Ở HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Quản lý Văn hóa
Mã số
: 60310642

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI VĂN TIẾN

HÀ NỘI – 2014


2
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đề tài luận văn thạc sĩ “Quản lý di tích lịch sử văn
hóa ở huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội” là cơng trình tổng hợp tư liệu
và nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực. Những ý kiến, nhận định, tư liệu khoa học của các tác giả được ghi chú
xuất xứ đầy đủ.


Hà Nội, ngày … tháng … năm 2014
Xác nhận của người hướng dẫn khoa học

PGS.TS. Bùi Văn Tiến

Tác giả luận văn

Nguyễn Thành Quang


3
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC

1

DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

3

DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ

4

MỞ ĐẦU

5

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN


13

HĨA, TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN
HĨA Ở HUYỆN ĐAN PHƯỢNG

1.1. Cơ sở lý luận về quản lý di tích lịch sử văn hóa

13

1.1.1. Nghiên cứu một số khái niệm

13

1.1.2. Cơ sở pháp lý cho cơng tác quản lý di tích lịch sử văn hóa

22

1.1.3. Nội dung quản lý nhà nước về di tích lịch sử văn hóa

27

1.2. Tổng quan về hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở huyện Đan

29

Phượng
2.1.1. Tổng quan về huyện Đan Phượng

29


1.2.2. Hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở huyện Đan Phượng

39

Tiểu kết

48

Chương 2: THỰC TRẠNG CƠNG TÁC QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ

49

VĂN HÓA Ở HUYỆN ĐAN PHƯỢNG

2.1. Cơ cấu, chức năng của hệ thống tổ chức quản lý di tích lịch

49

sử văn hóa huyện Đan Phượng
2.1.1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố Hà Nội

49

2.1.2. Phịng Văn hóa và Thông tin huyện Đan Phượng

50

2.1.3. Ban Quản lý di tích xã


52

2.2. Cơng tác quản lý di tích lịch sử văn hóa ở huyện Đan Phượng

55

2.2.1. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch bảo tồn và phát huy giá trị

55

di tích lịch sử văn hóa ở huyện
2.2.2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến trong nhân dân về pháp

58


4
luật bảo vệ di tích lịch sử văn hóa
2.2.3. Tổ chức thực hiện các hoạt động nghiệp vụ nhằm giữ gìn

62

và phát huy giá trị di tích lịch sử văn hóa
2.3. Nhận xét, đánh giá về cơng tác quản lý di tích lịch sử văn hóa

80

trên địa bàn huyện Đan Phượng
2.3.1. Ưu điểm


80

2.3.2. Hạn chế

82

2.3.3. Nguyên nhân

84

Tiểu kết

85

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

87

QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA HUYỆN ĐAN
PHƯỢNG

3.1. Phương hướng, nhiệm vụ quản lý di tích lịch sử văn hóa trên

87

địa bàn thành phố Hà Nội
3.1.1. Phương hướng chung giai đoạn 2015­2020

87


3.1.2. Nhiệm vụ giai đoạn 2015­2020

90

3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý di tích lịch sử

89

văn hóa huyện Đan Phượng
3.2.1. Giải pháp về tổ chức bộ máy và việc chỉ đạo ban hành các

89

văn bản pháp quy
3.2.2. Giải pháp cho công tác quản lý nhằm bảo tồn và phát huy

96

giá trị DT LSVH
Tiểu kết

111

KẾT LUẬN

113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

116


PHỤ LỤC

120


5
DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
BQL:

Ban quản lý

BQL DT:

Ban Quản lý di tích

QLNN:

Quản lý Nhà nước

CTQG:

Chính trị Quốc gia

CNH ­ HĐH:

Cơng nghiệp hóa ­ Hiện đại hóa


DSVH:

Di sản văn hóa

ĐTH:

Đơ thị hóa

DT LSVH & DLTC: Di tích lịch sử văn hóa và Danh lam
thắng cảnh
DT LSVH:

Di tích lịch sử văn hóa

LSVH:

Lịch sử văn hóa

KT­XH:

Kinh tế ­ Xã hội

Nxb:

Nhà xuất bản

Tr.:

Trang


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

XHH:

Xã hội hóa

UBND:

Uỷ ban nhân dân

VHDT:

Văn hóa Dân tộc

VHNT:

Văn hóa Nghệ thuật

VHTT:

Văn hố và Thơng tin

VH&TT:

Văn hóa và Thơng tin

VH­TD­TT:


Văn hóa – Thể dục – Thể thao

VH, TT& DL:

Văn hoá, Thể thao và Du lịch

VH­XH:

Văn hóa ­ Xã hội


6
DANH MỤC BẢNG THỐNG KÊ

Stt

Tên bảng thống kê

Trang

1

Bảng 1: Danh mục DT LSVH ở huyện Đan Phượng được tu

67

bổ, tôn tạo giai đoạn 2009 ­ 2014
2

Bảng 2: Kinh phí tu bổ, tôn tạo DT LSVH của huyện Đan

Phượng giai đoạn 2009 – 2014

75


7
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Di tích LSVH là những di sản văn hóa quý báu của mỗi địa phương,
mỗi dân tộc và của cả nhân loại. Đó là những dấu vết, dấu tích cịn lại của quá
khứ, phản ánh những biến cố, những sự kiện lịch sử, văn hóa hay nhân vật qua
các thời kỳ lịch sử. Khơng những thế di tích lịch sử ­ văn hóa cịn là chứng tích,
là tư liệu sống để các thế hệ mai sau tìm hiểu, nghiên cứu về các thời kỳ lịch sử
đó đi qua, từ đó giáo dục thế hệ trẻ truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc.
1.2. Trên quan điểm kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa của cha
ơng và sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới, Đảng và Nhà nước đã ban hành
nhiều chính sách, văn bản pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho việc bản tồn,
tôn tạo hệ thống di tích lịch sử văn hóa và đã đạt được nhiều thành tựu trong
công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Hàng loạt di tích lịch sử­
văn hóa đã được xếp hạng, tu bổ, tơn tạo; rất nhiều cổ vật, di vật trong đó
được bảo vệ; lễ hội truyền thống, diễn xướng, trò chơi dân gian, thuần phong,
mỹ tục được lưu giữ và phát triển.
Để tiếp tục gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa một
cách bền vững, chúng ta cần tăng cường vai trị cơng tác quản lý di tích tại các
địa phương thơng qua các nghiên cứu, khảo sát, đánh giá, nắm bắt được thực
trạng công tác quản lý cũng như giá trị hệ thống di tích lịch sử văn hóa một
cách tồn diện. Trên cơ sở đó, chủ động điều chỉnh, hồn thiện bộ máy quản
lý, định hướng và xây dựng các kế hoạch, giải pháp cho cơng tác quản lý, bảo
tồn các di tích lịch sử văn hóa giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa kinh tế
và văn hóa nói chung, giữa bảo tồn và phát triển nói riêng.

1.3. Huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội là một vùng đất cổ. Tổng
diện tích là 76,59km2, hiện có 15 xã và 1 thị trấn. Bên cạnh đó, Đan Phượng
cịn là một địa phương có truyền thống văn hoá, lịch sử, cách mạng, ở đây còn


8
lưu giữ được nhiều di tích từ thời kỳ tiền ­ sơ sử đến các di tích của các thời
đại lịch sử sau này. Theo số liệu tổng hợp của phịng Văn hóa Thơng tin
huyện, hiện nay tồn huyện có 138 di tích. Trong đó có 37 di tích đã được xếp
hạng cấp quốc gia, 27 di tích được xếp hạng cấp tỉnh/thành phố; 74 di tích
chưa xếp hạng. Về loại hình di tích bao gồm: 03/04 loại hình di tích: Di tích
khảo cổ học, di tích lịch sử cách mạng kháng chiến, di tích kiến trúc nghệ
thuật. Trong đó có các di tích tiêu biểu như: Di chỉ Phùng Nguyên ở Bá
Dương, thành Ô Diên thời Hậu Lý Nam Đế; đình Phùng thơn Đại Phùng, xã
Đan Phượng; đền thờ Hai Bà Trưng ở thôn Vân Môn, xã Trung Châu; khu di
tích cách mạng xã Liên Hồng; Miếu Voi phục và lăng văn sơn, nơi tổ chức
hát hội chèo tàu; đình Vạn Xuân và hội đua thuyền bắt vịt nấu cơm thi, quán –
miếu La Thạch…
Trong thời gian qua, công tác quản lý di tích tại huyện Đan Phượng đã
được các cấp và các ngành quan tâm và đạt được những kết quả đáng kể. Tuy
nhiên, công tác này vẫn cịn gặp khơng ít khó khăn, vướng mắc: Nhiều di tích
xuống cấp, nguồn kinh phí nhà nước cịn hạn hẹp, chế độ cho người trơng coi
trực tiếp tại di tích chưa có quy định của thành phố; tình trạng tự ý tu bổ, làm
biến dạng di tích đã và đang xảy ra tại một số địa phương trong huyện. Bên
cạnh đó, việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của nhà nước; việc hưởng ứng tham gia bảo vệ, phát huy giá trị
di tích trên địa bàn huyện của người dân cịn hạn chế.
Vì vậy, hơn bao giờ hết, công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di
tích lịch sử ­ văn hóa của huyện Đan Phượng trong giai đoạn hiện nay cần
được tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động để đáp ứng nhu cầu hưởng

thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân; nhu cầu nghiên cứu, tham quan du
lịch của khách trong, ngồi nước, tạo nền móng vững bền góp phần xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo đúng
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước.


9
Là một cán bộ cơng tác trong ngành Văn hố, Thể thao và Du lịch,
xác định và hiểu rõ vai trị, tầm quan trọng của cơng tác quản lý di sản văn
hoá dân tộc trong giai đoạn mới hiện nay. Được sự đồng ý của trường Đại học
Văn hóa Hà Nội học viên thực hiện đề tài: “Quản lý di tích lịch sử - văn hố
trên địa bàn huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội” làm Luận văn tốt
nghiệp Cao học, chun ngành Quản lý văn hố, khóa 2012­2014.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, các đề tài nghiên cứu về huyện Đan Phượng
và các di tích lịch sử ­ văn hố huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội đã được
một số tác giả, nhà nghiên cứu quan tâm, giới thiệu như:
­ Địa chí Hà Tây [37] Sở Văn hố ­ Thơng tin Hà Tây (2007). Sách đã
giới thiệu chung về địa lý, điều kiện tự nhiên, địa giới hành chính, dân cư, của
Hà Tây cũ nói chung và Đan Phượng nói riêng tại trang 20 cho biết, các xã
Đan Phượng, Đồng Tháp, Hà Mỗ (Xưa có thành Ơ Diện thời Hậu Lý Nam
Đế, xã Hồng Hà có di chỉ Phùng Nguyên ở Bá Dương). Phần viết về các di
tích đã xếp hạng từ trang 416 đến trang 418. Ngồi việc giới thiệu về các di
tích Hà Tây nói chung cịn thống kê số lượng di tích được xếp hạng, trong đó
huyện Đan Phượng là 55 di tích (việc thống kê cũng chưa bao quát hết các di
tích lịch sử văn hóa tại Huyện Đan Phượng hiện nay).
­ Di tích Hà Tây [35] , Sở Văn hố ­ Thơng tin Hà Tây (1999), trong đó
giới thiệu các di tích lịch sử văn hóa các huyện, thị xã Hà Đơng, Thị xã Sơn Tây
nói chung. Di tích lịch sử văn hóa của huyện Đan Phượng giới thiệu trong cuốn
sách này từ trang 180 đến trang 212, trong đó có 20 di tích, tập trung chủ yếu là

đình, chùa, miếu…
­ Đan Phượng di tích lịch sử văn hóa và cách mạng [20] do Huyện ủy –
HĐND – UBND huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội xuất bản. Cuốn sách
bao gồm: 03 phần. Phần I: giới thiệu tổng quan về huyện Đan Phượng với 03 nội


10
dung: truyền thống lịch sử văn hóa; Đan Phượng với lịch sử văn hóa ngàn năm
Thăng Long ­ Hà Nội; Bác Hồ với quê hương Đan Phượng. Phần II: tập trung
giới thiệu về các di tích lịch sử văn hóa và cách mạng của huyện với 117 di tích
được giới thiệu theo đơn vị cấp xã. Trong đó có bài giới thiệu chung về từng xã
và sau đó đi sâu giới thiệu về các di tích tiêu biểu của các xã đó. Phần III: Đánh
giá cơng tác tu bổ tơn tạo di tích trên địa bàn huyện Đan Phượng. Để thực hiện
cuốn sách này do tác giả Nguyễn Doãn Tuân chủ biên cùng với nhiều tác giả
tham gia viết bài về các di tích cụ thể.
­ Lịch sử cách mạng huyện Đan Phượng [3] do Ban chấp hành Đảng Bộ
huyện Đan Phượng – Tỉnh Hà Tây xuất bản năm 2004. Cuốn sách gồm 8
chương. Trong chương 1 từ trang 11 – 29 giới thiệu về đất và người Đan
Phượng, đặc điểm về địa lý, về những truyền thống tốt đẹp của vùng đất này như
hát chèo Tân Hội Gối, hát chèo bè trên sông dân chài Vạn Vỹ, hội thả diều Bá
Giang, hát ca trù Thượng Mỗ đã nổi tiếng từ thế kỷ XV. Về truyền thống hiếu
học, nhiều người đỗ đạt cao, tên tuổi của các vị tiến sỹ ở Đan Phượng đã được
ghi trên bia văn miếu ở Hà Nội và ở Huế. Nhân dân Đan Phượng có truyền
thống yêu nước và truyền thống cánh mạng. Cuối thế kỷ VI đầu thế kỷ VII Đan
Phượng có thành Ơ Diên (vùng Hạ Mỗ được gọi là Quốc đô thời đó). Đan
Phượng cịn nổi tiếng bởi các danh nhân như: Thái úy Tô Hiến Thành, đền Văn
Hiến xã Hạ Mỗ và khu di tích về Tơ Hiến Thành tại làng Hạ Mỗ, xã Hạ Mỗ.
­ Kỷ yếu hội thảo khoa học Thành cổ Ơ Diên [38] do Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch ­ Ủy ban Nhân dân huyện Đan Phượng xuất bản năm 2011.
Trong đó có 17 bài báoc áo khoa học đều tập trung khẳng định thành cổ Ô Diên

được xây dựng trên mảnh đất Hạ Mỗ của huyện Đan Phượng. Các tham luận đều
đưa ra những cứ liệu khoa học có căn cứ xác thực về thành cổ Ơ Diên và mảnh
đất văn hóa, con người Hạ Mỗ nói riêng, Đan Phượng nói chung.
Một số cơng trình nghiên cứu viết về di tích văn hóa huyện Đan


11
Phượng như Luận văn cao học và Khoá luận đại học của học viên và sinh viên
Trường Đại học Văn hoá Hà Nội và các cơ sở đào tạo khác. Các cơng trình
này viết về giá trị của một di tích hoặc một cụm di tích cụ thể, đồng thời nêu
ra các giải pháp về bảo tồn và phát huy các di tích trên địa bàn huyện.
Ngồi ra cịn có sách, bài viết khác về lịch sử, văn hoá, danh nhân, lễ
hội, di sản văn hóa… huyện Đan Phượng đã được xuất bản và đăng tải trên
các báo, tạp chí khoa học chuyên ngành, cụ thể như: Làng văn hoá Hà Tây
[34]; Đặc sản và ẩm thực dân gian Hà Tây [36]... Tuy nhiên, nội dung các
cuốn sách, bài viết chủ yếu chỉ tập trung giới thiệu, nghiên cứu về di tích lịch
sử, lễ hội, danh nhân hoặc một làng cổ cụ thể trên địa bàn huyện nói riêng và
Hà Nội nói chung, khơng đi vào nghiên cứu về cơng tác quản lý di tích và các
giải pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc.
­ Sách Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam [41] do tác giả Trần
Mạnh Thường chủ biên, trong đó có giới thiệu về đình Đại Phùng từ trang
187 đến 188, được xem là một ngơi đình cổ có niên đại vào thế kỷ XVII, ngơi
đình có nhiều nét độc đáo về chạm khắc trên kiến trúc.
Từ tập hợp và phân tích trên đây, có thể khẳng định cho tới nay chưa có
một cơng trình chun biệt nào nghiên cứu về cơng tác quản lý di tích lịch sử
­ văn hóa của huyện Đan Phượng.
Trong q trình triển khai đề tài: “Quản lý di tích lịch sử văn hoá ở
huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội”, tác giả luận văn sẽ tiếp thu, kế
thừa kết quả của các tác giả đi trước, vận dụng vào nội dung của cơng trình
nghiên cứu, đặc biệt là phần đánh giá về giá trị của các di tích lịch sử ­ văn

hóa huyện Đan Phượng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vai trị quan trọng của cơng tác quản lý di


12
tích lịch sử ­ văn hóa trong giai đoạn hiện nay, luận văn đi sâu khảo sát phân
tích, đánh giá những kết quả đạt được cũng như một số hạn chế trong cơng tác
quản lý di tích lịch sử văn hóa huyện Đan Phượng từ năm 2008 đến nay. Đây
là mốc thời gian địa giới hành chính được thay đổi từ khi Hà Tây được sáp
nhập vào thành phố Hà Nội.
Thơng qua, nghiên cứu, phân tích, Luận văn sẽ đề xuất một số giải
pháp cụ thể, góp phần nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý di tích lịch sử ­ văn
hóa huyện Đan Phượng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
­ Tìm hiểu khái quát lịch sử hình thành, phát triển và hệ thống di tích
lịch sử văn hóa huyện Đan Phượng.
­ Trình bày những vấn đề cơ bản về cơ sở khoa học và pháp lý trong
công tác quản lý di sản văn hố nói chung và quản lý di tích lịch sử văn hóa
nói riêng.
­ Khảo sát, phân tích đánh giá thực trạng cơng tác quản lý di tích lịch
sử văn hóa của huyện Đan Phượng từ tháng 8 năm 2008 đến nay (khi tỉnh Hà
Tây sát nhập vào thành phố Hà Nội).
­ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý di
tích lịch sử văn hóa của huyện Đan Phượng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn đi sâu khảo sát, nghiên cứu về cơng tác quản lý di tích lịch

sử­văn hóa huyện Đan Phượng từ năm 2008 đến nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
­ Phạm vi thời gian: từ năm 2008 đến nay (từ khi Hà Tây sát nhập vào
thủ đô Hà Nội).


13
­ Phạm vi không gian: Luận văn tập trung chủ yếu nghiên cứu tình hình
quản lý di tích lịch sử văn hóa của huyện Đan Phượng, có thể mở rộng ra các
vùng phụ cận để so sánh.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng;
chủ nghĩa duy vật lịch sử; các quan điểm của chủ nghĩa Mác ­ Lê nin, các
quan điểm của Đảng và Nhà nước về quản lý di sản văn hóa dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
­ Phương pháp nghiên cứu liên ngành: quản lý văn hoá, lịch sử,
bảo tàng học, xã hội học;
­ Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp;
­ Phương pháp khảo sát điền dã: Phân tích tài liệu do tác giả thực hiện
thông qua việc xuống trực tiếp một số cơ sở di tích lịch sử văn hóa để điều tra
về thực trạng công tác quản lý của cấp xã; Phỏng vấn sâu đối với các chuyên
gia thuộc lĩnh vực di sản văn hóa và quản lý di sản văn hóa.
6. Đóng góp của luận văn
­ Bước đầu đánh giá thực trạng cơng tác quản lý di tích lịch sử văn hóa
trên địa bàn huyện Đan Phượng.
­ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý di
tích lịch sử văn hóa trên địa bàn huyện Đan Phượng trong thời gian tới.
­ Kết quả nghiên cứu về thực trạng cũng như các nhóm giải pháp mà
luận văn đưa ra là một trong những cơ sở khoa học giúp các cấp lãnh đạo của

UBND, Phịng VH&TT huyệncó giải pháp phù hợp trong việc đổi mới công
tác quản lý di tích lịch sử văn hóa tại huyện Đan Phượng.
­ Đồng thời đây cũng có thể là tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các
Huyện lân cận có điều kiện kinh tế ­ xã hội tương đồng xem xét, vận dụng vào


14
q trình đổi mới cơng tác quản lý di tích lịch sử văn hóa của địa phương mình.
7. Bố cục Luận văn
Đề tài nghiên cứu “Quản lý di tích lịch sử văn hoá ở huyện Đan
Phượng, thành phố Hà Nội” ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục, luận văn được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý di tích lịch sử văn hóa, tổng quan
về hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở huyện Đan Phượng
Chương 2: Thực trạng cơng tác quản lý di tích lịch sử văn ở huyện Đan
Phượng
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác quản lý di tích lịch sử
văn hóa ở huyện Đan Phượng


15
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HĨA,
TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA
Ở HUYỆN ĐAN PHƯỢNG

1.1. Cơ sở lý luận về quản lý di tích lịch sử văn hóa
1.1.1. Nghiên cứu một số khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm di sản văn hóa
Theo Luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009

thì DSVH bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản
phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử văn hóa, khoa học, được lưu truyền
từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hịa XHCN Việt Nam. Di sản văn
hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể
và khơng gian văn hóa liên quan; có giá trị lịch sử văn hóa, khoa học, thể hiện
bản sắc của cộng đồng; không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các
hình thức khác. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử
văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia [25, tr.8].
UNESCO chia di sản văn hóa thành hai loại: DSVH vật thể và DSVH
phi vật thể (physical and nonphysicalcuture). DSVH vật thể bao gồm các di
tích, cơng trình lịch sử, đền đài, cung điện, sách cổ, mẫu vật ở bảo tàng, công
cụ sản xuất ở từng giai đoạn lịch sử, các di tích danh thắng. DSVH phi vật thể
bao gồm các loại hình văn học­nghệ thuật (âm nhạc, ca múa, sân khấu, ngôn
ngữ, truyền thuyết, huyền thoại), các sinh hoạt và kinh nghiệm dân gian (lễ
hội, nghi lễ, phong tục tập quán, y học dân tộc, nghệ thuật nấu ăn, bí quyết
trong sản xuất đồ thủ cơng mỹ nghệ).


16
Như vậy, di sản văn hóa chính là thành quả của quá trình đấu tranh dựng
nước và giữ nước của các thế hệ người Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử;
phản ánh tiến trình phát triển, thành tựu và khả năng của chính dân tộc đó; là
minh chứng sống động cho sự vận động, giao thoa và phát triển về mọi mặt của
đời sống xã hội, đồng thời phản ánh những đặc trưng cơ bản để làm rõ sự khác
nhau giữa dân tộc này với dân tộc khác, giữa quốc gia này với quốc gia khác
trong những môi trường, cảnh quan cụ thể của không gian và thời gian.
1.1.1.2. Khái niệm di tích lịch sử văn hóa
Di tích lịch sử văn hóa là một thành tố quan trọng cấu thành nên

DSVH. Khái niệm DT LSVH được đề cập ở nhiều văn bản khác nhau. Ở văn
bản quốc tế khái niệm về Di tích lịch sử văn hóa đã được nêu ra trong:
Điều 1 Hiến chương Venice-Italia năm 1964 khái niệm di tích lịch sử
khơng chỉ là một cơng trình kiến trúc đơn thuần mà cả khung cảnh đô thị hoặc
nơng thơn có chứng tích của một nền văn minh riêng, một phát triển có ý nghĩa
hoặc một sự kiện lịch sử. Khái niệm này không chỉ áp dụng với những cơng trình
nghệ thuật to lớn mà cả với những cơng trình khiêm tốn hơn vốn đã cùng với
thời gian, thâu nạp được một ý nghĩa văn hóa [11, tr.145]. Theo khái niệm nà, di
tích khơng chủ hiểu đơn thuần/hay đơn chiếc như di tích chùa Thày, chùa Tây
Phương, đình Tây Đằng mà cịn cả những khung cảnh/di tích đơ thị như đô thị
phố Hiến, phố cổ Hội An, phố cổ Hà Nội. Khung cảnh nông thôn bao gồm các
làng, bản cổ như làng cổ Đường Lâm, Sơn Tây, Hà Nội; bản Lác, Mai Châu,
Hịa Bình. Ngồi ra cũng cần chú ý đến các cơng trình khiêm tốn hơn/nhỏ hơn
nhưng thời gian qua đi, các di tích đã trở nên quý hiếm và có giá trị.
Ở văn bản quốc gia, khái niệm về DTLSVH đã được nêu trong Pháp lệnh
số 14 LCT/HĐNN ngày 04 tháng 4 năm 1984 của Hội đồng Nhà nước về
“Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh” thì quy
định: “DT LSVH là những cơng trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và
tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật cũng như có giá trị về văn


17
hóa khác hoặc có liên quan đến những sự kiện lịch sử, q trình phát triển
văn hóa, xã hội”.
Khái niệm DTLSVH được nêu ra trong Luật Di sản văn hóa năm 2001
được sửa đổi, bổ sung năm 2009 DT LSVH là cơng trình xây dựng, địa điểm và
các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc cơng trình, địa điểm đó, có giá trị lịch
sử, văn hố, khoa học [25, tr.9]. Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên
hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc
có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học.

Nghị định số 98/2010/NĐ­CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Di sản văn hóa quy định tại Điều
11 nêu rõ: “Di tích là các di tích lịch sử (di tích lưu niệm sự kiện, di tích lưu
niệm danh nhân), di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ, danh lam thắng
cảnh” [25, tr.75]. Trong nghị định khái niệm được nêu ra bao gồm 4 loại hình
di tích khác nhau. Trong đó bao gồm: loại hình di tích lịch sử, di tích kiến trúc
nghệ thuật, di tích khảo cổ và danh lam thắng cảnh.
Từ các khái niệm trên đây cho thấy, DT LSVH là những nơi lưu giữ một
giá trị văn hóa khảo cổ, những địa điểm ghi dấu tích về lịch sử dân tộc, những
nơi diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng, có ý nghĩa đối với lịch sử dân
tộc, lịch sử địa phương, những địa điểm ghi dấu chiến công chống xâm lược,
chống áp bức, những nơi có giá trị lưu niệm về nhân vật lịch sử, anh hùng dân
tộc, danh nhân văn hóa, khoa học, những cơng trình kiến trúc nghệ thuật có giá
trị. Mỗi một DT LSVH đều mang một giá trị văn hoá, lịch sử nhất định, phản
ánh một chặng đường lịch sử của cộng đồng dân cư, quá trình hình thành và
phát triển xã hội qua mỗi thời đại. Nghị quyết Trung ương V, khoá VIII của
Đảng cũng khẳng định: Văn hoá Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao
động, sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa văn hoá của


18
nhiều nền văn minh thế giới để khơng ngừng hồn thiện mình [2].
1.1.1.3. Tiêu chí để trở thành di tích lịch sử văn hóa
Điều 28 Luật Di sản văn hóa quy định
1. Di tích lịch sử văn hóa phải có một trong các tiêu chí sau đây:
a) Cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu trong
q trình dựng nước và giữ nước;
b) Cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với thân thế và sự nghiệp của anh
hùng dân tộc, danh nhân của đất nước;

c) Cơng trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của
các thời kỳ cách mạng, kháng chiến;
d) Địa điểm có giá trị tiêu biểu về khảo cổ;
đ) Quần thể các cơng trình kiến trúc hoặc cơng trình kiến trúc đơn lẻ có
giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử.
2. Danh lam thắng cảnh phải có một trong các tiêu chí sau đây:
a) Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan
thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu;
b) Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý,
đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng
những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất.
1.1.1.4. Các loại hình di tích
Căn cứ Điều 11 Nghị định số 98/2010/NĐ­CP ngày 21/9/2010 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và
Luật sửa dổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, di tích được phân
ra thành 04 loại hình, bao gồm:
Một là, di tích khảo cổ học gồm những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi
bật, đánh dấu các giai đoạn phát triển của các văn hóa khảo cổ. Loại hình di
tích khảo cổ có thể phân chia thành các loại di tích sau đây: 1/Loại di chỉ cư


19
trú; 2/Loại di chỉ mộ táng; 3/Loại di chỉ cư trú ­ mộ táng. Ngồi ra, cịn có thể
phân chia theo thời đại khảo cổ: 1/Loại di tích/di chỉ thời đại đồ Đá; 2/Loại di
tích/di chỉ thời đại đồ Đồng; 3/Loại di tích/di chỉ thời đại đồ Sắt.
Hai là, loại hình di tích lịch sử bao gồm những cơng trình xây dựng, địa
điểm ghi dấu sự kiện, mốc lịch sử quan trọng của dân tộc, của địa phương hoặc
gắn với anh hùng dân tộc, danh nhân, nhà hoạt động chính trị, văn hóa, nghệ
thuật, khoa học nổi tiếng có ảnh hưởng quan trọng đối với tiến trình lịch sử của
dân tộc [25]. Loại hình di tích lịch sử có 03 loại di tích: 1/Loại di tích gắn với

sự kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước, giữ nước; 2/Loại di tích
gắn với thân thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân đất nước;
3/Loại di tích gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng.
Ba là, loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật bao gồm: cơng trình kiến
trúc, nghệ thuật quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và địa điểm cư trú
có giá trị tiêu biểu trong các giai đoạn phát triển kiến trúc, nghệ thuật Việt
Nam [25]. Loại hình di tích kiến trúc nghệ thuật có thể chia ra các loại khác
nhau, cụ thể được chia làm 06 loại: 1/Các đơ thị đã hình thành trong lịch sử và
các thành phần của chúng. Các phế tích của các đô thị cổ, các phối hợp và
tổng thể đô thị lớn thể hiện bộ mặt đô thị và các khu dân cư. 2/Di tích kiến
trúc cư trú, gồm các ngôi nhà ở tại thành thị và nông thôn, các cung thất, dinh
thự. 3/Di tích kiến trúc dân dụng như các cơng sở, các cơng trình văn hóa, các
cơng trình phục vụ đời sống. 4/Di tích kiến trúc tơn giáo (đình, chùa, đền,
miếu, nhà thờ...), lăng tẩm cũng có thể đưa vào loại hình này. 5/Di tích kiến
trúc qn sự như: thành, lũy, hào... 6/Di tích kiến trúc phong cảnh ­ phần
những cảnh quan thiên nhiên có những cơng trình kiến trúc được lồng ghép
vào các cơng viên, vườn hoa, khu sinh thái.
Bốn là, loại hình di tích danh lam, thắng cảnh. Cảnh quan thiên nhiên
đẹp hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình
kiến trúc, nghệ thuật hoặc khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất,


20
địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù [25]. Loại hình di tích
này có thể phân chia thành 02 loại: 1/Khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học
về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu
vực thiên nhiên chứa đựng những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển
của của Việt Nam và thế giới. 2/Cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự
kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với cơng trình kiến trúc có giá trị thẩm mỹ
tiêu biểu [25].

Mặc dù trong các văn bản (văn bản luật) phân chia DT LSVH làm 04
loại hình, trong từng loại hình lại phân chia thành các loại di tích thuộc loại
hình cụ thể, nhưng trên thực tế khi căn cứ vào các giá trị tiêu biểu chứa đựng
ở từng trường hợp cụ thể thì q trình phân loại này cũng chỉ mang tính tương
đối. Trong khi tiếp cận phân loại, điều cơ bản chúng ta cần xác định được giá
trị tiêu biểu của di tích để tiến hành phân loại các di tích, dù ở phạm vi của
loại hình nào.
Nếu căn cứ vào giá trị lịch sử văn hóa, khoa học thẩm mỹ và cấp độ
quản lý, di tích được xếp hạng và được chia thành ba loại, gồm:
Một là, di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu
của quốc gia do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định xếp hạng.
Hai là, di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia do Bộ
trưởng Bộ VHTT&DL ra quyết định xếp hạng.
Ba là, di tích cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là di tích có giá
trị tiêu biểu trong phạm vi địa phương do Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương ra quyết định xếp hạng.
Việc hiểu rõ nội hàm khái niệm di tích và các hình thức phân loại di
tích có ý nghĩa quan trọng để xác định sự quan tâm của các cơ quan quản lý di
tích cho từng loại hình di tích. Đây cũng là một trong những cơ sở khoa học
cho việc hoạch định chính sách và xây dựng hệ thống văn bản pháp luật trong


21
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.
1.1.1.5. Khái niệm quản lý
Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công lao động, hợp tác lao
động. C.Mác đã viết: Bất cứ lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến
hành trên quy mơ khá lớn đều u cầu có sự chỉ đạo, điều hoà giữa những
hoạt động cá nhân…Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình nhưng một
dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng [30]. Quản lý là một hoạt động khách

quan nảy sinh khi cần có nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Quản lý
diễn ra ở mọi tổ chức từ phạm vi nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Quản
lý ra đời chính là nhằm đến hiệu quả nhiều hơn, năng suất cao hơn trong công
việc. Với ý nghĩa thông thường, phổ biến thì “quản lý” có thể hiểu là hoạt
động nhằm tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý
vào một đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của
con người nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng theo những
mục tiêu đã định. Mục tiêu quản lý là cái đích cần phải đạt tới tại một thời
điểm nhất định, do chủ thể quản lý định trước. Đây là căn cứ để chủ thể quản
lý thực hiện các động tác quản lý cũng như lựa chọn các phương pháp quản lý
thích hợp. Do đó, quản lý là một q trình tác động giữa chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý, thông qua những biện pháp, phương pháp, phương tiện quản lý
nhằm hoàn thiện hố hoặc làm thay đổi tình trạng hiện hữu. Quản lý bao giờ
cũng có tính mục đích, tính tổ chức và hướng tới tính hiệu quả.
1.1.1.5. Khái niệm về quản lý di tích lịch sử văn hóa
Quản lý văn hoá là một thuật ngữ mới. Trong khoa học, người ta có thể
tiếp cận với văn hóa hoặc riêng rẽ hoặc tổng hợp trên ba bình diện: Văn hóa
với tính cách một nền văn hóa; Văn hóa với tính cách những cái/thuộc tính
văn hóa; Văn hóa với tính cách những hoạt động văn hóa. Ở đây, chúng ta tập
trung chỉ tập trung nghiên cứu về khái niệm quản lý hoạt động văn hóa.


22
Hoạt động văn hóa là những q trình thực hành của cá nhân và các
thiết chế xã hội trong việc sản xuất, bảo quản, phân phối giao lưu và tiêu dùng
những giá trị văn hóa tinh thần, nhằm giao lưu những tư tưởng, ý nghĩa và
những tác phẩm văn hóa của con người sinh ra và cũng chính là để hoàn thiện
chất lượng sống của con người trong xã hội [30]. Quản lý nhà nước về văn
hóa là sự quản lý của Nhà nước đối với toàn bộ hoạt động văn hóa của quốc
gia bằng quyền lực của nhà nước thơng qua Hiến pháp, pháp luật và cơ chế,

chính sách nhằm đảm bảo sự phát triển của nền văn hóa dân tộc.
Quản lý nhà nước về văn hóa mang tính đặc thù vì: Thứ nhất, hoạt
động văn hóa là một hoạt động sáng tạo; các sản phẩm văn hóa mang giá trị
lưu truyền từ đời này sang đời khác, làm phong phú cho cuộc sống con người.
Về phương diện này, hoạt động đó địi hỏi có “một khoảng trời tự do nhất
định”, giúp cho sức tưởng tượng của chủ thể có “đất sống” để sáng tác. Thứ
hai, hoạt động văn hóa là hoạt động tư tưởng, có khả năng gây “hiệu ứng” (tốt
hoặc xấu) trong xã hội. Thứ ba, hoạt động văn hóa là hoạt động kinh tế, một
nguồn lực trực tiếp cho sự phát triển KT­XH.
Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH, xét cho cùng cũng là một phần của
cơng tác quản lý DSVH nói chung và quản lý DT LSVH nói riêng. Theo
nghĩa thơng thường trong tiếng Việt, thuật ngữ “quản lý” được hiểu là trông
nom, sắp đặt cơng việc hoặc gìn giữ, trơng nom, theo dõi. Cụ thể, “quản lý”
có hai nghĩa là: Tổ chức, điều khiển hoạt động của một số đơn vị, một cơ
quan; Trơng coi, giữ gìn và theo dõi những hoạt động cụ thể. Trường hợp
quản lý DTSL­VH có thể hiểu là tổ chức, điều khiển hoạt động của cơ quan
quản lý di tích ở các cấp độ khác nhau, tùy theo quy định về chức năng,
nhiệm vụ cụ thể. Trong lĩnh vực DT LSVH, cơ quan quản lý di tích có trách
nhiệm trơng coi, giữ gìn; tổ chức các hoạt động bảo quản, tu bổ, tơn tạo di
tích; tổ chức bảo vệ di tích với mục tiêu chống xuống cấp cho di tích, để di


23
tích tồn tại lâu dài; tổ chức lập hồ sơ, xếp hạng xác định giá trị và cơ sở pháp
lý bảo vệ di tích…
Phát huy giá trị DT LSVH gồm các hoạt động: Tổ chức tham quan tại
di tích; Quảng bá di tích trên các phương tiện truyền thơng đại chúng; Xuất
bản các ấn phẩm giới thiệu di tích; Đưa di tích đến với ngành cơng nghiệp du
lịch Phát huy giá trị DSVH là một hoạt động nhằm khai thác những giá trị của
di sản để phục vụ và đáp ứng nhu cầu của xã hội, góp phần phát triển KT­XH

của đất nước, đồng thời góp phần nâng cao ý thức trách nhiệm của nhân dân
đối với việc bảo vệ DSVH dân tộc. Phát huy: làm cho cái hay, cái tốt nhân
thêm tác dụng, thúc đẩy tiếp tục nảy nở nhiều hơn [53].
Phát huy cũng có thể hiểu là tập trung sự chú ý của cơng chúng một
cách tích cực tới các mặt giá trị của DSVH [18]. Quản lý DSVH là một quá
trình theo dõi, định hướng và điều tiết quá trình tồn tại và phát triển của các
DSVH trên một địa bàn cụ thể nhằm bảo tồn và phát huy tốt nhất giá trị của
chúng; đem lại lợi ích to lớn, nhiều mặt, lâu dài cho cộng đồng dân cư, chủ
nhân của các DSVH đó [23]. Quản lý DT LSVH là một hoạt động nằm trong
công tác quản lý DSVH. Theo quan điểm khoa học phổ biến hiện nay, quản lý
DSVH không chỉ đơn thuần là quản lý những giá trị vật thể mà quan trọng
hơn là người làm công tác quản lý phải biết cách “đánh thức” những giá trị
văn hóa phi vật thể để có tác động tích cực đến đời sống cộng đồng.
Quản lý DT LSVH cũng chính là sự định hướng, tạo điều kiện tổ chức,
điều hành việc bảo vệ, gìn giữ các DT LSVH, làm cho các giá trị của di tích
được phát huy theo chiều hướng tích cực. Các DT LSVH cần được tơn trọng
và bảo vệ vì đây là tài sản vô giá, là tài nguyên kinh tế du lịch không bao giờ
cạn kiệt nếu chúng ta biết khai thác một cách khoa học. Việc bảo vệ, khai
thác, sử dụng có hiệu quả những di tích có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo
dục truyền thống, phục vụ cho công tác nghiên cứu khoa học, tham quan du
lịch, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ và văn hóa của nhân dân. Đặc biệt trong nền


24
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước như đặc thù của nước ta hiện
nay thì văn hóa cần được quản lý và định hướng để phục vụ cho mục tiêu phát
triển KT­XH của đất nước, đồng thời bảo tồn được các giá trị của của bản sắc
văn hóa dân tộc.
Từ những khái niệm quản lý, quản lý di sản văn hóa, quản lý di tích
lịch sử văn hóa có thể hiểu đó là một hoạt động ln có hướng đích giữa chủ

thể quản lý và đốI tượng quản lý (khách thể quản lý) theo đúng những những
đường hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Đó chính là q trình tác động
giữa chủ thể quản lý (chính là hệ thống các cơ quan quản lý di tích) tới đối
tượng quản lý (là hệ thống DT LSVH). Để cơng tác quản lý có hiệu quả cần
thơng qua những biện pháp, phương pháp, phương tiện quản lý nhằm hồn
thiện hóa hoặc làm thay đổi tình trạng hiện hữu. Trong trường hợp cụ thể với
các đối tượng là DT LSVH thì mục tiêu cần hướng tới là bảo tồn và phát huy
giá trị DT LSVH phục vụ công đồng trong nước và quốc tế.
1.1.2. Cơ sở pháp lý cho cơng tác quản lý di tích lịch sử văn hóa
Trong khi tiến hành nhiệm vụ quản lý di tích cần phải tuân thủ đi đúng
hướng theo những đường hướng mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Những
đường hướng thể hiện rõ trong các văn bản đã được ban hành, đó chính là cơ
sở pháp lý cho cơng tác quản lý DT LSVH.
Dưới các triều đại phong kiến, ý thức giữ gìn, bảo quản, kiểm kê và tu
bổ di tích đã được cả chính quyền trung ương và tồn xã hội chú ý. Trong các
bộ sử ký, các sách địa chí đều có các ghi chép về di tích như: đình, đền, chùa,
quán, miếu, thành quách...và các nhân vật lịch sử. Bộ Luật Hồng Đức ban
hành dưới triều vua Lê Thánh Tơng có điều khoản ghi việc trừng phạt những
người lấy cắp, phá huỷ tượng Phật và chuông đồng cổ. Vào cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX, người Pháp đã tiến hành điều tra, nghiên cứu về các di tích
kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ học trên đất nước ta nhưng việc ban hành các


25
văn bản pháp lý để quản lý và điều hành các hoạt động có tính chất bảo vệ di
tích thì hầu như chưa có.
Từ sau năm 1945 và nhất là sau năm 1954, hoạt động bảo tồn di tích ở
nước ta bắt đầu tiếp cận với khoa học bảo tồn hiện đại của thế giới. Và cũng
bắt đầu từ đây, các văn bản pháp lý từng bước được xây dựng, để làm sơ sở
cho mọi hoạt động có liên quan, đặc biệt là cơng tác quản lý các DT LSVH

nói riêng và di sản văn hóa dân tộc nói chung.
* Sắc lệnh số 65/SL ngày 23/11/1945 về việc thành lập Đơng Phương
Bác Cổ học viện và Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam
Ngay sau Cách mạng Tháng 8 thành cơng, trong lúc phải đối phó với
giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm nhưng Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hồ vẫn khơng qn tới việc bảo vệ các DSVH của dân
tộc. Nhà nước ta chủ trương đặt tồn bộ các di tích dưới sự bảo hộ của pháp
luật. Chủ trương đó được thể hiện rất rõ ràng, cụ thể trong Sắc lệnh số 65/SL
ngày 23 tháng 11 năm 1945 về việc thành lập Đông Phương Bác Cổ học viện
và bảo tồn cổ tích trên tồn cõi Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Nội
dung Sắc lệnh nêu rõ: “Cấm phá huỷ đình, chùa, đền, miếu hoặc những nơi
thờ tự khác như cung điện, thành quách cùng lăng mộ được bảo tồn”. Sắc
lệnh đã khẳng định quan điểm và nhận thức đúng đắn của Chính phủ đối với
vai trị và ý nghĩa quan trọng của các di tích trong cơng cuộc kiến thiết đất
nước. Tuy nhiên, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ đã không cho phép
chúng ta mở rộng hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ di tích của đất nước trong
giai đoạn này.
* Nghị định số 519-TTg ngày 29/10/1957 của Thủ tướng Chính phủ
quy định các luật lệ cơ bản cho hoạt động bảo tồn di tích
Đây là một văn bản pháp lý quan trọng, có giá trị nền tảng cho hoạt
động bảo vệ di tích nói riêng và bảo tồn, bảo tàng nói chung. Nghị định số


×