Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Bài tập nhóm phát triển bền vững chỉ số tổng sản phẩm quốc nội điều chỉnh theo môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (614.33 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

KHOA KINH TẾ PHÁT TRIỂN

MÔN : PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
BÀI TẬP NHÓM
ĐỀ TÀI: CHỈ SỐ TỔNG SẢN PHẨM QUỐC NỘI
ĐIỀU CHỈNH THEO MÔI TRƯỜNG – EDP

Giảng viên hướng dẫn Ths. Nguyễn Viết Thành
Nhóm sinh viên: NHĨM 9

HÀ NÔI, 4-2014
0

CuuDuongThanCong.com

/>

DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHĨM 9

1. Nguyễn Thị Ngọc Bích
2. Nguyễn Thị Hảo
3. Nguyễn Quang Huy
4. Nguyễn Thị Mai Hương
5. Ngô Thị Tâm
6. Vũ Thanh Sơn

1

CuuDuongThanCong.com



/>

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 3
I. CHỈ SỐ EDP (Environmentally Adjusted Net Domestic Product) ........................... 4
1.1. Khái niệm............................................................................................................... 4
1.2. Ý nghĩa của chỉ số EDP ......................................................................................... 5
1.3.Cơng thức tính chỉ số EDP ..................................................................................... 5
1.4. So sánh chỉ số EDP với GDP xanh ...................................................................... 6
II. THỰC TRẠNG CHỈ SỐ TỔNG SỐ SẢN PHẨM QUỐC NỘI ĐIỀU CHỈNH
THEO MÔI TRƯỜNG (EDP) CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI ....................................................................................................................... 8
2.1. Thực trạng ở Việt Nam ........................................................................................... 8
2.2. Thực trạng ở một số nước trên thế giới ................................................................. 16
2.3. Bài tập ví dụ .......................................................................................................... 21
III. ĐÁNH GIÁ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ KHẲ NĂNG ĐẠT ĐƯỢC
MỤC TIÊU VỀ CHỈ SỐ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI .................... 22
3.1. Khả năng xây dựng chỉ số này tại Việt Nam ........................................................ 22
3.2. Khả năng đạt được mục tiêu chỉ số này tại Việt Nam .......................................... 23
IV. KIẾN NGHỊ .......................................................................................................... 25
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................ 28

2

CuuDuongThanCong.com

/>


MỞ ĐẦU
Theo thông lệ quốc tế, hiện nay, GDP được tính tồn bộ kết quả đã làm ra
khơng loại trừ phần tài nguyên mà con người đã khai thác và khơng loại trừ chi
phí cần thiết để khơi phục lại mơi trường. Ví như khi khai thác dầu khí sẽ làm
tăng GDP nhưng chính nó lại làm mất đi nguồn tài nguyên quý giá mà con người
đã sử dụng (khai thác). Thậm chí nếu như trong q trình khai thác, vận chuyển,
chế biến…bị sự cố làm tràn dầu, làm ô nhiễm mơi trường nước, khơng khí… thì
người ta cịn phải chi phí thêm để khắc phục hậu quả đó. Song những chi phí này
lại làm tăng GDP.
Vì vậy, chúng ta cần có các chỉ tiêu mà có thể tính được tốc độ tăng
trưởng của Quốc gia và phải loại trừ phần thiệt hại tài nguyên, khấu trừ những
chi phí để phục hồi môi trường. Những chỉ tiêu này sẽ cung cấp cho ta cái nhìn
chính xác hơn về lợi nhuận khi sản xuất và tốc độ tăng trưởng.
EDP (Environmentally Adjusted Net Domestic Product) - chỉ số sản phẩm
quốc nội điều chỉnh theo môi trường là một chỉ số tổng hợp trong kế tốn mơi
trường là một trong những chỉ tiêu quan trọng trong việc đánh giá thực sự tốc độ
tăng trưởng của một nền kinh tế.
Dưới đây là phần trình bày của Nhóm về những gì đã tìm hiểu, nghiên cứu
và thu thập các tài liệu về chỉ số EDP. Do điều kiện cũng như khả năng tìm kiếm
tài liệu bị giới hạn, mong nhận được sự góp ý của thầy giáo và các bạn để nhóm
có thể hồn chỉnh bài báo cáo tốt hơn.

3

CuuDuongThanCong.com

/>

I. CHỈ SỐ EDP (Environmentally Adjusted Net Domestic Product)
1.1. Khái niệm

EDP (Environmentally Adjusted Net Domestic Product) được gọi là chỉ số
sản phẩm quốc nội điều chỉnh theo môi trường là một chỉ số tổng hợp trong kế
tốn mơi trường. Chỉ số này được tính tốn bằng cách trừ đi các chi phí do sự cạn
kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy thối mơi trường từ tổng sản phẩm quốc nội
rịng (NDP). Tương ứng với giá trị gia tăng (VA) trong NDP thì ta có giá trị gia
tăng điều chỉnh theo mơi trường (EVA). Có hai loại chỉ số EDP, EDP I, tính tốn
theo giá thị trường chỉ trừ đi chi phí suy kiệt tài ngun, và EDP II, được tính
tốn theo giá trị chi phí duy trì thì bao gồm cả chi phí suy thối mơi trường.
 Chi phí do sự cạn kiệt tài nguyên
- Các nước mà có nền kinh tế phụ thuộc vào nguồn lực tài nguyên thiên
nhiên như gỗ, cá, các sản phẩm nơng nghiệp khống sản và du lịch cần phải thực
hiện tính tốn chi phí sử dụng tài ngun cẩn thận. Chỉ tính tốn những giá trị lợi
ích của việc khai thác tài nguyên mà khơng tính đến những mất mát vĩnh viễn từ
nguồn lợi này là một sai lầm cơ bản trong phân tích tài chính kinh tế, mà hậu quả
của nó có thể ảnh hưởng lớn đến kinh tế của quốc gia sau này. Do đó, nên coi tài
nguyên như một loại vốn để tính tốn chi phí.
 Chi phí suy thối mơi trường
- Việc tính tốn phí tổn của ơ nhiễm hay sự suy thối mơi trường khơng dễ
dàng do chúng khơng thể định lượng giá trị trên thị trường như các hoạt động
kinh tế. Chúng ta chỉ có thể cảm nhận được ảnh hưởng tiêu cực của nó đến sức
khỏe con người và xã hội. Do đó yêu cầu đặt ra với các nhà làm chính sách đó là
làm rõ những ảnh hưởng của các yếu tố này đến các hoạt động kinh tế. Ví dụ như
tính tốn chi phí tài ngun thiên nhiên gắn với sự suy thối mơi trường và đưa
vào các hạng mục kế toán phù hợp.
Việc đánh giá đúng các chi phí trên có thể giúp các nhà quản lý thay đổi
chính sách phát triển kinh tế dựa trên tải trọng môi trường một các hợp lý hơn,
nhằm đảm bảo sự phát triển kinh tế một cách bền vững.
4

CuuDuongThanCong.com


/>

1.2. Ý nghĩa của chỉ số EDP
Chỉ số EDP vốn là một chỉ số quan trọng trong việc đánh giá sự tăng
trưởng của một nền kinh tế, tuy nhiên chỉ số này thường bỏ qua các tác động gây
tổn thấy tới môi trường của các hoạt động kinh tế từ đó cho ta thấy một bức tranh
sai lệch về hoạt động sản xuất và tiêu thụ. Tổng thu nhập quốc dân vì thế khơng
thể là một chỉ số thể hiện sự phát triển bền vững của nền kinh tế nếu khơng có sự
điều chỉnh lại. Bên cạnh đó, sự suy thối mơi trường có thể coi là một khoản chi
phí trong tổng thu nhập mà có thể thay đổi đáng kẻ giữa hai quốc gia và khơng
thể có tiêu chuẩn để so sánh theo thời gian hay địa lý. Do đó, cần tính tốn chi
phí suy thối mơi trường như một loại vốn từ nhiên bên cạnh vốn sản xuất và vào
tổng thu nhập quốc dân.
Những điều chỉnh này sẽ cung cấp cho ta cái nhìn chính xác hơn về lợi
nhuận khi sản xuất, và dĩ nhiên, tốc độ tăng của những chi phí này đang tăng
nhanh hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế, và EDP sẽ thấp hơn GDP. Và từ đó,
nếu tại khu vực nào xảy ra tình trạng suy thối mơi trường thì chỉ số này là chỉ số
hợp lý hơn chỉ số GDP cho việc đánh giá các chỉ tiêu bền vững.
Tuy nhiên chỉ số EDP cũng có những nhược điểm
- Chỉ số này chỉ cho thấy về mức độ suy giảm của môi trường hay là sự
thiếu bền vững chứ không thể chứng minh được như là một bằng chứng về sự
phát triển bền vững.
- Thứ hai, chỉ số này được tính tốn theo giá trị quy ra của tài nguyên
thiên nhiên. Giá trị của tài nguyên thiên nhiên thường thay đổi hàng năm dựa
theo tình hình thế giới chứ khơng phụ thuộc vào độ quý hiếm của tài nguyên, do
đó sẽ có khả năng xảy ra là dù khai thác với số lượng lớn nhưng giá lại giảm nên
do đó chi phí tài ngun tính tốn được lại giảm, đưa ra cái nhìn sai lệch. Vì vậy,
cần phải tính tốn dựa trên cả số lượng tài nguyên suy giảm và giá trị thị trường.
1.3.Cơng thức tính chỉ số EDP

EDP = ∑EVAi - ECh
= NDP - EC = C + CF - CC - EC + X – M
5

CuuDuongThanCong.com

/>

Trong đó:
EVAi: giá trị gia tăng của cơng nghiệp điều chỉnh theo mơi trường
ECh: chi phí suy kiệt tài ngun và suy giảm mơi
trường
NDP: Tổng sản phẩm quốc nội rịng
C: tiêu dùng cá nhân
CF: cấu trúc vốn
CC: Tiêu dùng vốn cố định
EC: Chi phí mơi trường
X: giá trị kim ngạch xuất khẩu
M: Giá trị kim ngạch nhập khẩu
Tùy theo cách tính tốn thì chỉ số EDPi chỉ trừ đi chi phí suy kiệt tài
ngun cịn EDP2 bao gồm cả chi phí suy thối mơi trường.
1.4. So sánh chỉ số EDP với GDP xanh
1.4.1. GDP xanh là gì
Để đo lường kết quả tổng hợp của quá trình hoạt động sản xuất của một
địa phương hoặc toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong một khoảng thời gian nào
đó: 1 tháng, một quý hoặc 1 năm người ta thường dùng chỉ tiêu GDP. Hiện nay,
một số nhà kinh tế còn nhắc tới chỉ tiêu GDP xanh (Green GDP). Vậy Green
GDP là gì? Quả thực, đến nay chưa có một khái niệm chính thức về chỉ tiêu này
và các nhà thống kê cũng chưa xây dựng nội dung và phương pháp tính chỉ tiêu
một cách cụ thể.

Xuất phát từ tên gọi của chỉ tiêu, chúng tơi cho rằng, GDP xanh là phần
GDP cịn lại sau khi khấu trừ một phần chi phí cần thiết để phục hồi môi trường
do hậu quả của quá trình tái sản xuất gây ra.

6

CuuDuongThanCong.com

/>

GDP xanh = GDP - Chi phí để phục hồi lại mơi trường như đầu kì kế tốn
(nói cách khác là tồn bộ các khoản chi phí nhằm tái tạo mơi trường như trước
khi bước vào chu kì sản xuất diễn ra).
Sự xuống cấp của mơi trường do 2 nhóm nguyên nhân:
Một là nhóm các nguyên nhân do kết quả của quá trình phát triển sản xuất:
để tái sản xuất mở rộng người ta cần huy động các nguồn lực vào sản xuất nhiều
hơn; phải thải ra môi trường nhiều chất thải hơn ở tất cả các dạng: Thể rắn, thể
lỏng, thể khí…
Hai là nhóm các ngun nhân do sinh hoạt của dân cư tạo ra: Đó là các
chất thải sinh hoạt hàng ngày. Nó cũng có cả chất thải rắn, khí và nước.
Chỉ tiêu GDP xanh chỉ liên quan đến những chi phí để phục hồi mơi
trường do sản xuất gây ra. Những chi phí để làm sạch mơi trường do sinh hoạt
của dân cư gây ra, theo chúng tơi, nó là phần trong kết quả hoạt động của lĩnh
vực dịch vụ vệ sinh môi trường.
1.4.2. So sánh EDP và GDP xanh
* Giống nhau
Về cơ bản cả EDP và GDP xanh đều là các chỉ số quan trọng trong việc
đánh giá sự tăng trưởng của một nền kinh tế.
* Khác nhau
Như chúng ta đã biết, EDP được tính tốn bằng cách trừ đi các chi phí do

sự cạn kiệt tài ngun thiên nhiên và suy thối mơi trường từ tổng sản phẩm
quốc nội ròng (NDP) còn GDP xanh là phần GDP còn lại sau khi khấu trừ một
phần chi phí cần thiết để phục hồi mơi trường do hậu quả của quá trình tái sản
xuất gây ra. NDP hay sản lượng ròng, là một đo lường quan trọng về lượng sản
lượng có thể được tiêu dùng, khơng đụng đến hay giữ nguyên trữ lượng vốn và
NDP = GDP – khấu hao. Đây chính là điều khác nhau cơ bản giữa EDP và GDP
xanh.
Nếu khấu hao vốn là rất lớn trên bình diện tồn nền kinh tế, thì ngay cả
7

CuuDuongThanCong.com

/>

những mức đầu tư gộp lớn cũng có thể khơng đủ để hỗ trợ tăng trưởng nhanh
trong dài hạn. Đó là lý do mà các sinh viên kinh tế phát triển thường chú ý nhiều
hơn vào sản phẩm quốc nội ròng (net domestic product – NDP).
Trong thực tế, GDP được sử dụng thường xuyên hơn nhiều so NDP. Như
Bộ Thương mại đã giải thích từ năm 1947, sản phẩm rịng là ”sự ưa thích về mặt
lý thuyết... Tuy nhiên, nó gặp một trở ngại nghiêm trọng là khơng có một định
nghĩa vận hành thỏa đáng về tiêu dùng vốn cố định”.1
Quyết định như vậy là vì khó mà đo lường chính xác khấu hao, Bộ
Thương mại đã chọn sản phẩm gộp hơn là sản phẩm ròng, và đã thực hiện điều
này từ đó (cũng như hầu hết các quốc gia khác đã thực hiện).
Tuy nhiên, chỉ số này vẫn là một chỉ số quan trọng để các nước định
hướng chính sách kinh tế một cách hiệu quả, đặc biệt là với các nước đang phát
triển, với nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào việc khai thác tài nguyên khoáng sản,
đất đai và các nguồn tài nguyên khác.
II. THỰC TRẠNG CHỈ SỐ TỔNG SỐ SẢN PHẨM QUỐC NỘI ĐIỀU
CHỈNH THEO MÔI TRƯỜNG (EDP) CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ

NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Thực trạng ở Việt Nam
Từ các tài liệu mà nhóm đã nghiên cứu cho thấy, một số nhà nghiên cứu ở
Việt Nam đã đồng nhất EDP và GDP xanh theo cơng thức:
GDPxanh = GDPtruyền thống – Thất thốt của tài ngun thiên nhiên – Chi phí
ơ nhiễm/Biến đổi khí hậu.
Trong đó:
- Thất thốt tài ngun thiên nhiên: giảm sản phẩm/chất lượng và diện
tích rừng, đất sản xuất, đất dự trữ, hệ động vật và hệ thực vật, nguồn gen, hệ sinh
thái, và tài ngun khống sản…
- Chi phí ơ nhiễm/biến đổi khí hậu: sức khỏe cộng đồng, cung cấp nước,
trồng trọt, thủy sản, hạn hán, thiên tai… do kết quả của suy thối mơi trường.
8

CuuDuongThanCong.com

/>

Việt Nam đã đưa vào tính tốn thử nghiệm GDP xanh và được thực
hiện đối với tài khoản năng lượng và tài khoản ơ nhiễm khơng khí (đối với CO2)
dựa trên cơ sở dữ liệu thống kê Việt Nam đến năm 2010. Do Việt Nam chưa có
số liệu về ma trận hệ số chất thải trực tiếp nên các nhà nghiên cứu đã áp dụng
những số liệu đó cho CO2 từ một dự án của Viện Tài nguyên Thế giới gọi là
Khuynh hướng Thế giới (EarthTrend). Để việc tính tốn được ổn đinh, nền
kinh tế Việt Nam cũng được chia thành 6 ngành như phân tích trong dự án của
WRI. Các ngành bao gồm Điện, năng lượng khác, công nghiệp và xây dựng,
giao thông, quản lý nhà nước và các ngành “khác”.
Từ bảng Input – Output năm 2007, nền kinh tế Việt Nam được tập hợp
thành 6 ngành kể trên và như vậy một bảng Input – Output mới đã được thiết lập.
Các tài nguyên thiên nhiên năng lượng bao gồm than, dầu thơ và khí đốt đã

được tính tốn trực tiếp từ bảng Input – Output. Đối với các năm khác (2008 2011), các tài khoản đã được tính toán bằng cách điều chỉnh nhu cầu cuối cùng
đã tăng lên tương ứng với tỷ lệ tăng trưởng của các cấu thành nhu cầu cuối
cùng riêng lẻ. Hai ma trận hệ số của tài nguyên năng lượng tự nhiên và ô nhiễm
không khí đã được thiết lập cho việc tính tốn.
2.1.1. Đối với tài ngun năng lượng
Những kết quả tính toán đối với các giá trị tài nguyên năng lượng có thể
thấy trong bảng 1 sau:
Bảng 1: Giá trị sử dụng các tài nguyên năng lượng phát sinh do nhu cầu
cuối cùng, 2007 – 2011 (Đơn vị: tỷ VND, giá năm 2007)
Năng
Điện

lượng
khác

Cơng
nghiệp

Giao

và xây

thơng

dựng

Quản

Các


lý nhà

ngành

nước

khác

Tổng

Tiêu thụ

2.950,0 2.141,6

7.690,8

137,6

0,6

790,0

13.710,5

Tích lũy

1.061,9

7.180,6


62,1

0,0

361,5

8.961,1

2007
295,0

9

CuuDuongThanCong.com

/>

Xuất

1.429,6 2.635,5

9.060,7

83,4

0,0

Tổng

5.441,5 5.072,1


23.932,2

283,1

0,6

Tiêu thụ

3.141,7 2.280,8

8.190,7

146,5

0,6

841,3

14.601,7

Tích lũy

1.072,5

7.252,4

62,7

0,0


365,2

9.050,7

1.523,0 2.807,6

9.652,4

88,9

0,0

522,3

14.594,2

Tổng

5.737,2 5.386,3

25.095,6

298,1

0,6

Tiêu thụ

3.487,3 2.531,7


9.091,7

162,7

0,7

933,8

16.207,9

Tích lũy

1.162,8

7.863,1

68,0

0,0

395,9

9.812,8

1.523,0 2.807,6

9.652,4

88,9


0,0

522,3

14.594,2

Tổng

6.173,1 5.662,3

26.607,2

319,5

0,7

1.852,1 40.614,9

Tiêu thụ

3.931,9 2.854,5

10.250,9

183,4

0,8

1.052,9 18.274,4


Tích lũy

1.225,0

8.283,8

71,6

0,0

417,1

10.337,8

1.732,4 3.193,7

10.979,6

101,1

0,0

594,2

16.600,9

Tổng

6.889,3 6.388,4


29.514,3

356,1

0,8

2.064,2 45.213,1

Tiêu thụ

4.116,7 2.988,6

10.732,7

192,0

0,8

1.102,4 19.133,3

Tích lũy

1.225,0

8.283,8

71,6

0,0


417,1

10.337,8

1.926,4 3.551,4

12.209,3

112,4

0,0

660,7

18.460,2

7.268,2 6.880,3

31.225,8

376,1

0,8

khẩu

2008

Xuất

khẩu

2009

Xuất
khẩu

2010

Xuất
khẩu

2011

Xuất
khẩu
Tổng

297,9

323,0

340,3

340,3

490,3

13.699,6


1.641,8 36.371,2

1.728,8 38.246,6

2.180,2 47.931,3

Nguồn: Vũ Xuân Nguyệt Hồng và nnk, 2012
Các kết quả tính toán cho thấy giá trị to lớn của tài nguyên đã bị giảm đi
10

CuuDuongThanCong.com

/>

do sử dụng than, dầu, khí đốt trong nền kinh tế Việt Nam. Năm 2007 là 36.371 tỷ
đồng trong khi con số tương ứng năm 2010 và 2011 là 45.213 tỷ đồng và 47.931
tỷ đồng. Chỉ trong 4 năm cuối, giá trị tiêu dùng tài nguyên năng lượng đã tăng
32%.

Hình 1. So sánh tăng trưởng GDP và tăng trưởng sử dụng năng
lượng (%)
Từ hình 1 có thể thấy mức tăng sử dụng năng lượng dường như có khuynh
hướng vượt mức tăng GDP tương ứng. Tất nhiên, cần lưu ý rằng những tài
nguyên năng lượng không tái tạo này bao gồm toàn bộ tổng năng lượng đã sử
dụng trong nền kinh tế. Nguyên nhân là do Việt Nam cũng nhập khẩu nhiên liệu
từ các nước khác trên thế giới.
2.1.2. Đối với ô nhiễm CO2
Các kết quả phát thải khí CO2 được ước lượng từ phần phần mềm và
chúng được thể hiện trong bảng 2:
Bảng 2: Phát thải khí CO2 của Việt Nam theo ngành, năm 2007 – 2011

(Đơn vị: triệu tấn)

Điện

Năng

Công

lượng

nghiệp

khác

và xây

Giao
thông

Quản

Các

lý nhà

ngành

nước

khác


11

CuuDuongThanCong.com

/>
Tổng


dựng
Tiêu thụ

15,8

0,3

15,3

17,2

0,0

8,0

56,5

Tích lũy

5,7


0,0

14,2

7,7

0,0

3,7

31,2

Xuất khẩu

7,8

0,4

18,0

10,5

0,0

5,0

41,6

Tổng


29,2

0,7

47,4

35,3

0,0

16,7

129,3

Tiêu thụ

17,3

0,3

16,7

18,7

0,0

8,8

61,7


Tích lũy

6,0

0,1

15,0

8,1

0,0

3,9

33,0

Xuất khẩu

10,0

0,5

23,2

13,5

0,0

6,4


53,6

Tổng

33,3

0,8

54,8

40,4

0,0

19,1

148,4

Tiêu thụ

17,9

0,3

17,2

19,4

0,0


9,1

63,9

Tích lũy

6,2

0,1

15,5

8,5

0,0

4,0

34,3

Xuất khẩu

9,1

0,4

21,1

12,3


0,0

5,9

48,9

Tổng

33,2

0,8

53,9

40,2

0,0

18,9

147,0

Tiêu thụ

19,7

0,4

19,0


21,4

0,0

10,0

70,4

Tích lũy

6,8

0,1

17,0

9,3

0,0

4,4

37,5

Xuất khẩu

11,5

0,5


26,7

15,6

0,0

7,4

61,8

Tổng

38,1

1,0

62,7

46,2

0,0

21,8

169,7

Tiêu thụ

19,7


0,4

19,0

21,4

0,0

10,0

70,4

Tích lũy

6,8

0,1

17,0

9,3

0,0

4,4

37,5

Xuất khẩu


11,5

0,5

26,7

15,6

0,0

7,4

61,8

Tổng

38,1

1,0

62,7

46,2

0,0

21,8

169,7


2007

2008

2009

2010

2011

Nguồn: Vũ Xuân Nguyệt Hồng và nnk, 2012
Bảng này cho thấy phát thải khí CO2 năm 2007 được tính tốn ở mức
129,3 tấn. Năm 2011, con số tương ứng tăng lên mức 169,7 triệu tấn, tăng 31,2%
12

CuuDuongThanCong.com

/>

chỉ trong giai đoạn 4 năm. Điều này phản ánh kinh tế Việt Nam ngày càng phụ
thuộc vào năng lượng khai khác trong nước và phát thải năng lượng đã tăng khá
nhanh. Phát thải khí CO2 tăng là do xuất khẩu tài nguyên năng lượng thô như dầu
thô cũng tăng đáng kể, đạt 41,6 triệu tấn trong năm 2007; 48,9 triệu tấn trong
năm 2009; 61,8 triệu tấn năm 2011.
Bảng 3: Cơ cấu phát thải CO2 theo nhu cầu cuối cùng và theo ngành của
kinh tế Việt Nam 2007 – 2011 (%)

Tỷ lệ cấu thành
ngành


Năng
Điện

lượng
khác

Cơng
nghiệp

Giao

và xây

thơng

dựng

Quản

Các

lý nhà

ngành

nước

khác

Tổng


Tiêu thụ

27,97

0,52

26,98

30,35

0,00

14,18

100

Tích lũy

18,12

0,13

45,37

24,68

0,00

11,71


100

Xuất khẩu

18,69

0,86

43,25

25,18

0,00

12,01

100

Tổng

22,61

0,54

36,65

27,32

0,00


12,89

100

Tiêu thụ

27,97

0,52

26,98

30,35

0,00

14,18

100

Tích lũy

18,14

0,15

45,33

24,67


0,00

11,71

100

Xuất khẩu

18,69

0,86

43,25

25,19

0,00

12,01

100

Tổng

22,43

0,56

36,95


27,22

0,00

12,84

100

Tiêu thụ

27,97

0,52

26,98

30,35

0,00

14,18

100

Tích lũy

18,15

0,17


45,3

24,67

0,00

11,7

100

Xuất khẩu

18,69

0,87

43,25

25,18

0,00

12,01

100

Tổng

22,59


0,55

36,66

27,31

0,00

12,88

100

Tiêu thụ

27,97

0,52

26,98

30,35

0,00

14,18

100

Tích lũy


18,18

0,21

45,25

24,67

0,00

11,69

100

2007

2008

2009

2010

13

CuuDuongThanCong.com

/>

Xuất khẩu


18,69

0,86

43,25

25,19

0,00

12,01

100

Tổng

22,43

0,57

36,94

27,21

0,00

12,84

100


Tiêu thụ

27,97

0,52

26,98

30,35

0,00

14,18

100

Tích lũy

18,18

0,21

45,25

24,67

0,00

11,69


100

Xuất khẩu

18,69

0,86

43,25

25,19

0,00

12,01

100

Tổng

22,43

0,57

36,94

27,21

0,00


12,84

100

2011

Tỷ lệ nhu cầu cuối cùng
Tiêu thụ

54,08

42,2

32,18

48,56

0,00

48,09

43,71

Tích lũy

19,36

5,78


29,9

21,82

0,00

21,96

24,16

Xuất khẩu

26,56

51,88

37,92

29,62

0,00

29,95

32,13

Tổng

100


100

100

100

0,00

100

100

Tiêu thụ

51,88

38,25

30,38

46,38

0,00

45,92

41,6

Tích lũy


17,99

6,12

27,29

20,16

0,00

20,27

22,24

Xuất khẩu

30,13

55,64

42,33

33,46

0,00

33,82

36,16


Tổng

100

100

100

100

0,00

100

100

Tiêu thụ

53,78

40,64

31,98

48,29

0,00

47,83


43,45

Tích lũy

18,73

7,27

28,81

21,06

0,00

21,18

23,31

Xuất khẩu

27,49

52,09

39,21

30,65

0,00


30,99

33,24

Tổng

100

100

100

100

0,00

100

100

Tiêu thụ

51,74

37,33

30,3

46,27


0,00

45,81

41,49

Tích lũy

17,93

7,9

27,09

20,05

0,00

20,14

22,12

Xuất khẩu

30,33

54,77

42,61


33,68

0,00

34,05

36,4

Tổng

100

100

100

100

0,00

100

100

2007

2008

2009


2010

14

CuuDuongThanCong.com

/>

Tiêu thụ

51,74

37,33

30,3

46,27

0,00

45,81

41,49

Tích lũy

17,93

7,9


27,09

20,05

0,00

20,14

22,12

Xuất khẩu

30,33

54,77

42,61

33,68

0,00

34,05

36,4

Tổng

100


100

100

100

0,00

100

100

2011

Nguồn: Vũ Xuân Nguyệt Hồng và nnk, 2012
Từ bảng trên ta thấy rằng ngành điện, ngành công nghiệp và xây dựng và
ngành giao thông là ba nguyên nhân chính của phát thải CO2 ở Việt Nam. Năm
2011, tỷ lệ gây ô nhiễm CO2 của những ngành này lần lượt là 22,4%, 34,9% và
27,2%. Tỷ lệ này không khác nhiều so với năm 2007, công nghiệp và xây dựng
luôn là khu vực tạo phát thải CO2 ra môi trường lớn nhất. Theo cơ cấu phát thải
theo nhu cầu sử dụng cuối cùng, có sự khác nhau giữa các ngành kinh tế. Trong
ngành năng lượng hay ngành điện, tiêu dùng cảu hộ gia đình và chính phủ chiếm
tỷ lệ vượt trội, phát thải với khoảng 50% hoặc nhiều hơn (Hình 2).

Hình 2. Cơ cấu phát thải CO2 theo nhu cầu sử dụng cuối cùng, năm
2007 - 2011
Dựa trên chi phí đã tính tốn của tài ngun thiên nhiên (than, dầu và khí
đốt) và CO2, giá trị GDP xanh được tính tốn một cách tự động bằng phần mềm.
Kết quả của GDP được thể hiện dưới hình 3:


15

CuuDuongThanCong.com

/>

Hình 3: So sánh giữa GDP xanh thử nghiệm và GDP (tỷ đồng)
(Nguồn: Vũ Xuân Nguyệt Hồng và nnk, 2012)
Ta thấy, các giá trị của GDP xanh thấp hơn đáng kể. Các con số này mới
tính đến các yếu tố của hai tài khoản môi trường là tài khoản tài nguyên năng
lượng và tài khoản phát thải khí (CO2), nghĩa là nó khơng bao gồm “mọi thứ”.
Do đó, trong tương lai cần hoàn thiện chúng.
2.2. Thực trạng ở một số nước trên thế giới
2.2.1. Trung Quốc
Khác với Việt Nam, Trung Quốc có cách tính EDP và GDP xanh khác
nhau (Ví dụ năm 1992 – 1995). EDP của Trung Quốc năm 1992 và 1995 lần lượt
là 2180.9888379 nhân dân tệ và 4965.294554 nhân dân tệ, trong khi GDP xanh
lần lượt là 2517.622505 và 5724.869372 nhân dân tệ (Hình 4a,b) (Ming L,
2007).

16

CuuDuongThanCong.com

/>

Hình 4a. Cách tính EDP năm 1992 và 1995

Hình 4b. Cách tính GDP xanh năm 1992 và 1995
2.2.2. Indonesia

Một trong những cơng trình nghiên cứu đầu tiên là ở Indonesia do Viện
Tài nguyên Thế giới (World Resources Institue – WRI) thực hiện (Repetto và
các đồng tác giải khác 1989). Các tác giả sử dụng số liệu tài nguyên thiên nhiên
của Indonesia để ước tính GDP và EDP. Bảng 4 dưới đây cho biết những kết quả
có được bởi các tác giả, ở đó EDP là GDP trừ đi sự cạn kiệt của 3 tài nguyên đã
được xem xét. Tỷ lệ tăng trưởng hằng năm trung bình là 7,1% cho GDP và 4,1%
17

CuuDuongThanCong.com

/>

cho EDP, EDP tăng trưởng chậm hơn GDP. Cột thứ tư thể hiện tỷ lệ giữa EDP
và GDP.
Bảng 4. GDP và ước tính EDP cho Indonesia 1971 – 1984
Năm

GDP

EDP

EDP/GDP

1971

1

1

1


1972

1.09

0.90

0.90

1973

1.22

0.97

0.96

1974

1.32

1.48

1.36

1975

1.38

0.98


0.85

1976

1.47

1.12

0.92

1977

1.60

1.08

0.81

1978

1.73

1.19

0.78

1979

1.83


1.19

0.78

1980

2.01

1.28

0.76

1981

2.17

1.48

0.82

1982

2.22

1.58

0.86

1983


2.32

1.49

0.78

1984

2.44

1.68

0.83

Nguồn: Viện tài nguyên thế giới, 1989
Hình 5 dưới đây thể hiện rõ hơn về tỷ lệ tăng trưởng giữa GDP và EDP
của Indonesia.

18

CuuDuongThanCong.com

/>

Hình 5: Tỷ lệ tăng trưởng GDP và EDP của Indonesia năm 1971-1983
Khấu hao cơ bản chiếm một phần đáng kể của GDP. Theo như kết quả
phân tích, EDP thưởng thấp hơn GDP khoảng 20%.
2.2.3. Austrlia
Bên cạnh đó, Young (1990) đã đưa ra một áp dụng tương tự cho Australia

với những kết quả tương tự được thể hiện ở bảng 2 (Trần Thị Lệ Anh, 2010).
Ông đánh giá tất cả các nguồn tài nguyên khoáng sản theo cách của Repetto đánh
giá với dầu mỏ và xem xét tới sự cạn kiệt của tài nguyên này dựa trên một dự
đoán về sự liên quan chặt chẽ của nó với thiệt hại môi trường sống. Bảng 5 tổng
hợp những kết quả đạt được GDP, EDP1 và EDP2 . Theo đó:
EDP1 = GDP – Sự giảm giá trên việc tính tốn sự nghèo đi của đất – Sự
giảm giá trên việc tính tốn của việc sản xuất gỗ - Những chí phí bảo vệ.
EDP2 = EDP1 – Sự giảm giá trên việc tính toán sự cạn kiệt tài nguyên
khoáng sản.

19

CuuDuongThanCong.com

/>

Bảng 5. GDP và EDP ước tính cho Australia 1980-1988
Năm

GDP

EDP1

EDP2

GDP/Pop

EDP2/Pop

1980


1

1

1

1

1

1981

1.03

1.03

1.16

1.01

1.13

1982

1.07

1.07

1.14


1.03

1.10

1983

1.04

1.03

1.15

0.98

1.09

1984

1.09

1.09

1.04

1.00

0.96

1985


1.17

1.17

1.34

1.06

1.22

1986

1.22

1.25

1.62

1.08

1.44

1987

1.25

1.26

1.09


1.09

0.95

1988

1.31

1.32

1.52

1.12

1.30

3,4%

3,5%

5,4%

1,4%

3,3%

Tỷ lệ tăng
trưởng


Nguồn: Viện tài nguyên thế giới, 1989
Những vị trí “Pop” là đối với dân số, cột 2 đưa ra những chỉ số tổng hợp
cho GDP trên vốn và EDP2 trên vốn. Dưới cùng mỗi cột là tỷ lệ tăng trung bình
hằng năm bao hàm những chỉ số tổng hợp bên trên.
Từ bảng 5 ta có thể thấy GDP và EDP1 tương tự nhau. EDP2 ổn định theo
thời gian, do ảnh hưởng của sự thay đổi giá cả thị trường và những phát hiện
mới. Tiếp theo là tỷ lệ tăng trưởng trung bình của EDP2 trên thực tế lớn hơn so
với GDP, năm 1980 EDP2/GDP là 0.84 năm 1998 là 0.97.
2.2.4 Thụy Điển
Một nỗ lực gần đây để tính EDP của Thụy Điển cho thấy tầm nhìn rộng
lớn hơn của các loại tài ngun thiên nhiên, bao gồm xói mịn đất, khả năng tái
tạo, quặng kim lọại và chất lượng nước. Kết quả cho thấy EDP ở Thụy Điển thấp
hơn 1-2% NDP năm 1993 và 1997 (Skånberg K., 2001). Tác giả của phân tích
20

CuuDuongThanCong.com

/>

này cũng lưu ý rằng trong việc điều chỉnh tổng thể đã không xét đến tất cả rủi ro
môi trường thiệt hại, ví dụ như biến đổi khí hậu và mất đa dạng sinh học. Tại
Thụy Điển, quyền sử dụng đất của con người ảnh hưởng đến chất lượng môi
trường hệ sinh thái không chỉ là câu hỏi cho chủ sở hữu đất mà còn là vấn đề của
cả cộng đồng.
Các dữ liệu được đánh giá trong EDP không bao gồm tất cả các tác động
môi trường gây ra bởi các hoạt động kinh tế. Các vấn đề môi trường mà một đất
nước phải đối mặt, các dữ liệu sẵn có, mục đích hay các cách sử dụng phương
pháp đã được xây dựng sẵn là những yếu tố quan trọng cần xem xét khi thiết kế
môi trường vĩ mô. Các nước đang phát triển có thể sẽ tập trung hơn vào cạn kiệt
tài nguyên và sự mất đất (thay đổi quyền sử dụng đất) hơn là tập trung vào các

tác động của khí thải, vì các tác động kinh tế sẽ có ảnh hưởng lớn hơn.
2.3. Bài tập ví dụ
Đề bài:
Sau đây là một số thông tin kinh tế vĩ mô của một nền kinh tế của một
nước đang phát triển Equatoria (đơn vị: $)
Sản lượng ngành nông nghiệp (giá trị gia tăng nội địa): 1200 triệu $
Sản lượng ngành khai thác mỏ (giá trị gia tăng nội địa): 650 triệu $
Sản lượng ngành công nghiệp (giá trị gia tăng nội địa): 900 triệu $
Khấu hao: 220 triệu $
Equatoria xảy ra một số vấn đề về môi trường. Dưới đây là một số thông
tin về tài nguyên thiên nhiên và mơi trường của Equatoria:
Khu vực nơng nghiệp: 12 triệu ha
Xói mòn đất: 200 tấn/ha/năm
Tổn thất về cây trồng cho 100 tấn/ha đất xói mịn: 10$
Ơ nhiễm do cơng nghiệp (SO2)/năm: 1200 nghìn tấn
Thiệt hại/1 tấn SO2 thải ra: 80$.
21

CuuDuongThanCong.com

/>

a.

Tính GDP và NDP của nền kinh tế nước này?

b.

Tính EDP của Equatoria?


Bài giải
a.
GDP = 1200 + 650 + 900 = 2750 (triệu $)
NDP = GDP – Khấu hao = 2750 – 220 = 2530 (triệu $)
b.
Chi phí suy kiệt tài nguyên và suy giảm môi trường là:
EC = 12.000.000 * 200/100 * 10 = 240.000.000 $ = 240 (triệu $)
EDP = NDP – EC = 2530 – 240 = 2290 (triệu $)
III. ĐÁNH GIÁ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ KHẲ NĂNG ĐẠT ĐƯỢC
MỤC TIÊU VỀ CHỈ SỐ ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG TƯƠNG LAI
3.1. Khả năng xây dựng chỉ số này tại Việt Nam
Việc áp dụng tính tốn các chỉ số kinh tế hay phát triển bền vững có liên
quan đến yếu tố “xanh” thường rất phức tạp và gặp nhiều khó khăn tại nhiều
quốc gia. Cho đến nay, hầu hết các quốc gia đều không liệt kê được hết các tài
khoản xanh trong việc thực hiện đánh giá các chỉ số phát triển bền vững của họ
mà chỉ xem xét đến một vài yếu tố (các yếu tố được xây dựng theo tiêu chuẩn
hoạch tốn của SEEA*), đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của nước này.
Bên cạnh đó, việc xây dựng và đánh giá các chỉ số xanh như EDP, GDP xanh
hiện nay trên thế giới mới chỉ mang tính tự nguyện, tùy thuộc vào nhu cầu của
mỗi nước chứ khơng mang tính chất bắt buộc hay dựa trên bất kì một thể chế
nào. Chính vì vậy mà một số chỉ số chỉ được thực hiện tại một vài quốc gia chứ
không được phổ biến trên thế giới. Trung Quốc, quốc gia láng giềng của Việt
Nam là một trong những quốc gia đã xây dựng và tính tốn thành cơng chỉ số
EDP hay GDP xanh tại nước này. Với nhiều đặc điểm kinh tế, xã hội tương tự
Trung Quốc, Việt Nam cũng có thể học hỏi kinh nghiệm nhằm xây dựng một chỉ
số xanh phù hợp giúp phục vụ hình thành hướng đi chính sách tương lai cho Việt
22

CuuDuongThanCong.com


/>

Nam.
Trước mắt, việc xây dựng một bộ chỉ số xanh cho Việt Nam như GDP
xanh hay EDP sẽ gặp phải những thách thức tương tự như Trung Quốc hay một
số quốc gia khác.
Thứ nhất, tại nước ta, việc hoạch toán mơi trường là cơng việc cịn khá
mới, do đó, việc đưa chỉ số xanh vào thực tiễn Việt Nam cần có sự chuẩn bị kĩ
lưỡng về khn khổ phương pháp, thơng tin, nhân lực cho lĩnh vực này. Bên
cạnh đó, chúng ta cũng cần dựa trên những thông số và kinh nghiệm của các
nước đi trước. Thứ hai, hầu hết các tài khoản xanh khơng hoạch tốn các chi phí
mơi trường hay đo lường đầy đủ các đóng góp của môi trường. Vào năm 2010,
Việt Nam mới bắt đầu đặt ra các mức ưu tiên cho các tài khoản xanh kết hợp với
các tài khoản kinh tế. Riêng với chỉ số GDP xanh tại Việt Nam nằm trong hạng
mục chỉ tiêu ưu tiên nhóm B trong năm 2010, tức là 3 năm sau đó mới bắt đầu
thực hiện và đánh giá chỉ số. Tuy nhiên tại thời điểm hiện tại, ta mới bắt đầu q
trình tính tốn chỉ số này. Một số chuyên gia đưa ra nhận định, hiện nay, khung
xây dựng chỉ số còn nhiều khoảng trống dữ liệu và những khó khăn trong biên
soạn các tài khoản mơi trường, cụ thể như vẫn tồn tại khoảng trống giữa tính
tốn GDP từ bên cung và bên cầu, chưa có ngành thể hiện chi phí về tái sử dụng
chất thải, thiếu ma trận hệ số chất thải trực tiếp và trữ lượng tài nguyên thiên
nhiên, thiếu hệ số chi phí theo các loại chất thải.
3.2. Khả năng đạt được mục tiêu chỉ số này tại Việt Nam
3.2.1. Thuận lợi
Việt Nam đã bước đầu thực phát triển công nghiệp xanh với việc tham gia
ký kết Tuyên bố Manila về công nghiệp xanh tại châu Á vào ngày 9/9/2009.
Những năm gần đây, Việt Nam đã ban hành và thực hiện khung chính sách theo
hướng xanh hóa các ngành cơng nghiệp hiện hữu, thực hiện các chương trình
như: Chương trình phát triển nhiên liệu sinh học; Chương trình sản xuất sạch hơn
trong cơng nghiệp; Chương trình phát triển ngành cơng nghiệp mơi trường tới

năm 2015... và thực hiện sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường, ban hành
Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả...
23

CuuDuongThanCong.com

/>

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã nghiên cứu và thử nghiệm một số mơ
hình năng lượng xanh, sử dụng nhiên liệu sinh học thay thế một phần xăng dầu,
tiến tới xây dựng ngành xăng dầu sạch... Quá trình xanh hóa nền kinh tế đã được
khởi động, nhưng đây là một quá trình lâu dài, đặt ra nhiều cơ hội cũng như
thách thức.
Các kết quả khảo sát cho thấy, tiềm năng tiết kiệm năng lượng ở Việt
Nam còn rất lớn, chẳng hạn ngành cơng nghiệp xi măng có thể giảm tiêu thụ
năng lượng 50%, công nghiệp gốm giảm 35%, ngành dệt may giảm 30%, công
nghiệp thép 20%, chế biến thực phẩm 20%... Mục tiêu của Việt Nam là cắt giảm
5 - 8% tổng mức tiêu thụ năng lượng của cả nước trong 3 năm tới.
3.2.2. Khó khăn
Quan điểm phát triển bền vững của Việt Nam đã được nêu rõ trong Chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là "Phát triển nhanh, hiệu quả
và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
và bảo vệ môi trường" và "Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ
và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hồ giữa mơi trường nhân tạo với mơi
trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học". Thế nhưng, cho đến nay, khi Việt
Nam đã đi hơn 4/5 chặng đường của chiến lược 10 năm thì vấn đề môi
trường ở Việt Nam đang ngày càng trở nên gay gắt. Bất bình đẳng giữa các
tầng lớp dân cư và giữa các vùng miền vẫn tiếp tục tăng, hiệu quả đầu tư giảm,
tốc độ tăng trưởng kinh tế có xu hướng chững lại và giảm mạnh, tính bất ổn của
nền kinh tế tăng, và các vấn đề xã hội ngày càng trở nên bức thiết.

Trước hết, về nhận thức, hiểu thế nào là một nền “Kinh tế xanh” hiện nay
ở Việt nam vẫn còn hết sức mới mẻ, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổ
biến rộng rãi kiến thức trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách,
các doanh nghiệp và người dân. Nếu khơng nhận thức đầy đủ, tính đồng thuận
trong xã hội sẽ khơng đạt được, do vậy sẽ khó thực hiện.
Thứ hai, về cách thức tiến hành, so với nền kinh tế truyền thống-“Nền
kinh tế nâu”, xây dựng mơ hình mới-“Nền Kinh tế Xanh”, thay đổi mơ hình tăng
trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế có sự khác biệt như thế nào và bắt đầu từ đâu trong
24

CuuDuongThanCong.com

/>

×