Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Khu di tích lịch sử đền Hùng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (764.09 KB, 34 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Như ông cha thường nói: “sông có nguồn, cây có cội, con người có tổ có
tông”. Từ bao đời nay, trong tâm niệm của người Việt giỗ tổ Hùng Vương là
thiêng liêng, cao cả không thể lãng quên:
“Dù ai đi gần về xa
Nhớ ngày giỗ tổ tháng ba mồng mười
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm”.
Câu ca dao đậm đà tình nghĩa ấy đã đi sâu vào lòng người dân Việt Nam
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong sâu thẳm tâm thức của mỗi người dân đất
Việt từ miền ngược đến miền xuôi, từ miền Nam ra miền Bắc, đều có ý thức tìm
về cội nguồn của dân tộc. Hàng ngàn năm nay, truyền thống Giỗ Tổ Hùng
Vương tưởng nhớ cha Rồng, mẹ Tiên và 18 đời vua Hùng đã trở thành biểu
tượng văn hoá tâm linh, tín ngưỡng, điểm hội tụ tinh thần đại đoàn kết của cộng
đồng dân tộc Việt Nam, là nơi để đồng bào cả nước và Kiều bào ta ở nước ngoài
có điều kiện thắp những nén nhang bày tỏ lòng thành kính của mình trước anh
linh của các vị Vua Hùng.
Trong chuyến đi thực tập xuyên Việt, hành trình từ thành phố Hồ Chí
Minh về Hà Nội và điểm cuối cùng dừng chân là đền Hùng. Chúng tôi thực sự
cảm thấy xúc động về bề dầy lịch sử của dân tộc ta, tự hào khi mang trong mình
dòng máu con cháu Lạc Hồng và dâng lên một niềm xao xuyến bâng khuâng với
những cảm xúc khó tả khi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp kỳ thú của thiên nhiên
nơi đây. Những lớp sương bồng bềnh như dải lụa trắng mềm mại, thanh khiết
1
trải ngang dãy núi, rừng cây làm cho khung cảnh Đền Hùng trở nên kỳ ảo như
giữa cõi Bồng lai.
Chính tại vùng đất Tổ thiêng liêng này Bác đã để lại cho chúng ta và
muôn đời con cháu mai sau một lời dặn dò cô đúc: "Các Vua Hùng đã có công
dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước", lời căn dặn của Bác chứa


đựng một sự hàm ơn sâu sắc đối với người đã có công "khai quốc", làm sáng
ngời truyền thống đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" của dân tộc, đồng thời khẳng
định việc giữ gìn giang sơn gấm vóc của cha ông để lại, giữ gìn nền độc lập, tự
do mà hàng ngàn năm qua dân tộc ta đã không tiếc máu xương để bảo vệ là
trách nhiệm của mọi người Việt Nam.
Khu di tích lịch sử đền Hùng là nơi thờ các vị vua hùng đã có công dựng
nước – tổ tiên của dân tộc Việt Nam, trải qua bao biến thiên của lịch sử, nơi đây
đã hội tụ văn hóa tâm linh, tín ngưỡng phong tục, thể hiện tình cảm ghi nhớ
công ơn của các vua Hùng và tinh thần đại đoàn kết của cộng đồng các dân tộc.
Nhằm góp phần hiểu sâu sắc về quê cha đất tổ - cội nguồn dân tộc, chúng tôi
quyết định chọn khu di tích lịch sử đền Hùng để viết bài báo cáo thực tập.
2
Khu Di tích lịch sử Đền Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, thành
phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ; là nơi thờ các vua Hùng có công dựng nước, Tổ
Tiên của dân tộc Việt Nam. Ngày xa xưa vùng đất này là khu vực trung tâm của
nước Văn Lang, nằm giữa hai dòng sông
giống như hai dãy hào thiên nhiên khổng lồ
bao bọc lấy cố đô xưa của các vua Hùng.
Phía đông với các dãy núi non trùng
điệp. Vùng đất này có nhiều sông ngòi ao hồ,
đồi núi, lại có những cánh đồng màu mỡ phì
nhiêu do phù sa của ba con sông bồi đắp, vừa thuận lợi cho cuộc sống định canh
định cư, vừa thuận lợi cho việc phòng thủ hay rút lui khi xảy ra các cuộc xung
đột bộ lạc.
Hiện nay dấu vết cư trú của dân cư thời đại các vua Hùng còn để lại trong
hàng chục di chỉ khảo cổ học, được phân bố dày đặc từ huyện Lâm Thao tới ngã
ba Bạch Hạc - Việt Trì. Những di chỉ khảo cổ học là minh chứng một thời đại,
với nghề luyện kim đồng thau và trồng lúa nước của một nền văn minh nông
nghiệp, đã từng tồn tại trước công nguyên hàng nghìn năm.
Đền Hùng là trung tâm, là tiêu điểm về thời đại các vua Hùng, các ngôi

đền thờ vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh (còn gọi là núi Cả theo địa phương
hay các tên khác: núi Hùng, núi Hy Cương), có độ cao 175 mét so với mặt nước
biển. Trước kia khu vực này là cánh rừng già nhiệt đới. Ngày nay núi Hùng vẫn
giữ dáng vẻ của rừng tự nhiên với nhiều thế hệ cây tầng khác nhau, gồm 150
loài thảo mộc, thuộc 35 họ, trong đó còn lại một số cây đại thụ lớn như: đa,
thông, thiên tuế, trò vv...
Người xưa nói: Núi Hùng là chiếc đầu rồng hướng về phía Nam, mình
uốn khúc thành dãy núi Trọc, núi Vặn, núi Pheo ở phía sau.Từ núi Hùng nhìn ra
phía trước ngã ba Việt Trì có hàng chục quả đồi thấp là đàn rùa bò từ ao nước
3
lớn lên. Phía sau mảnh đất làng Hy Sơn (Tiên Kiên) là hình một con phượng cắp
thư. Phía bên phải - quả đồi Khang Phụ (Chu Hóa) là hình một con hổ phục.
Phía bên trái - quả đồi An Thái (Phượng Lâu) hình vị tướng quân bắn nỏ. Làng
Cổ Tích bên chân núi nằm trên lưng một con ngựa ghi cương. Dãy đồi từ Phú
Lộc đến Thậm Thình là 99 con voi chầu về đất Tổ. Đứng trên đỉnh cao Nghĩa
Lĩnh ta có thể bao quát toàn bộ một vùng rộng lớn với cảnh đẹp của sơn thuỷ
hữu tình.
Khu di tích Đền Hùng có tổng diện tích tự nhiên trên 1.000 ha, được xác
định trong tọa độ địa lý: từ 21
0
24ph08 giây đến 21
0
28 ph 76 giây vĩ độ bắc, từ
104
0
77ph 15 giây đến 104
0

81 ph 68 giây kinh độ đông, thuộc phần đất trong
địa giới hành chính của 7 xã: Hy Cương, Chu Hóa, Tiên Kiên, Thanh Đình –

huyện Lâm Thao; Phù Ninh , Kim Đức –huyện Phù Ninh và xã Vân Phú – thành
phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Xa xa phía tây dòng sông Thao nước đỏ, phía đông
dòng sông Lô nước xanh như hai dải lụa màu viền làm ranh giới của cố đô xưa.
Đặc biệt không khí trên núi rất thông thoáng, mát dịu và quanh năm thoang
thoảng hương thơm. Tương truyền Vua Hùng đi khắp trong nước, cuối cùng mới
chọn được vùng sơn thủy hữu tình này làm đất đóng đô.
1.1. Lịch sử các vua hùng
“Các vua hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
nước”. Cũng vì vậy, “dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà ngàn
năm.” Khi nghiên cứu về Đền Hùng chúng ta không thể bỏ qua lịch sử các đời
vua Hùng cũng như phả hệ họ Hùng.
TT Hiệu vua Húy
Tuổi
thọ
Số năm
làm vua
1 Kinh Dương Vương Lộc Tục 260 215
2 Lạc Long Quân
Sùng
Lâm
506 400
3 Hùng Quốc Vương Lân 260 221
4
Lang
4 Hùng Diệp Vương
Bảo
Lang
646 300
5 Hùng Hy Vương
Viên

Lang
599 200
6 Hùng Huy Vương
Pháp Hải
Lang
500 87
7 Hùng Chiêu Vương
Lang
Liêu Lang
692 200
8 Hùng Vi Vương
Thừa
Vân Lang
642 100
9 Hùng Định Vương
Quân
Lang
602 80
10 Hùng Uúy Vương
Hùng
Hải Lang
512 90
11 Hùng Chinh Vương
Hưng
Đức Lang
514 107
12 Hùng Vũ Vương
Đức
Hiền Lang
456 96

13 Hùng Việt Vương
Tuấn
Lang
502 105
14 Hùng Aánh Vương
Chân
Nhân Lang
386 99
15 Hùng Triều Vương
Cảnh
Chiêu Lang
286 94
16 Hùng Tạo Vương
Đức
Quân Lang
273 92
17 Hùng Nghị Vương
Bảo
Quang Lang
217 160
18 Hùng Duệ Vương
Huệ
Lang
221 150
(2) Cộng: 2.796
5
năm
Ngọc phả triều Hùng Vương nước Nam Việt lưu truyền mãi mãi cho miếu
Duệ Tôn Điệt, thờ cúng dài lâu ghi trong từ điển. Truy cùng ở kỉ họ Hồng Bàng
xưa kia Trung Hoa địa quốc, đóng đô Bắc Thành, lăng phần mộ tổ thiên táng tại

núi Ngũ Nhạc thuộc Côn Luân, lấy Ngũ Hồ, Đại Hải, Nam Sơn làm nội Minh
đường triều phục.
Đời
vua thứ
Hịêu vua Số con
trai
Số
con gái
Số
chi
Số
cháu chắt
1
Kinh Dương
vương
24 20 36 596
2 Lạc Long Quân 186 29 141 3599
3 Hùng Quốc Vương 33 10 51 900
4 Hùng Diệp Vương 49 20 59 1591
5 Hùng Hy Vương 52 9 61 1600
6 Hùng Huy Vương 33 19 52 599
7
Hùng Chiêu
Vương
23 36 59 750
8 Hùng Vi Vương 31 16 47 579
9 Hùng Định Vương 29 30 50 559
10 Hùng Uúy Vương 29 30 50 434
11
Hùng Chinh

Vương
46 18 64 409
12 Vùng Vũ Vương 50 6 56 305
13 Hùng Việt Vương 27 30 541
14 Hùng Aánh Vương 18 22 40 309
15 Hùng Triều Vương 40 16 56 399
16 Hùng Tạo Vương 30 7 37 319
17 Hùng Nghị Vương 22 15 37 291
18 Hùng Duệ Vương 20+ 6+ 26 194
6
Theo truyền thuyết mẹ Âu Cơ đẻ bọc trứng nở trăm con con trai đầu
là Lân Lang làm vua
49 người con theo cha Lạc Long Quân là:
Xích Lang, Quynh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yên
Lang, Tiên Lang, Diên Lang, Tích Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu
Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương
Lang, La Lang, Tuần Lang, Tân Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang,
Dũng Lang, Aác Lang, Tảo Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang,
Châm Lang, Tường Lang, Chóc Lang, Sáp Lang, Cốc Lang, Nhật Lang, Sái
Lang, Chiêu Lang, Hoạt Lang, Điển Lang, Thành Lang, Thuận Lang, Tâm Lang,
Thái Lang, Triệu Lang, Iích Lang.
50 người con trai theo mẹ Âu Cơ là:
Hương Lang, Kiểm Lang, Thần Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang,
Hắc Lang, Thịnh Lang, Quân Lang, Kiêm Lang, Tế Lang, Mã Lang, Chiến
Lang, Khang Lang, Chinh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Phiên Lang, Xuyến
Lang, Yến Lang, Thiếp Lang, Bảo Lang, Chừng Lang, Tài Lang, Triệu Lang, Cố
Lang, Lưu Lang, Lô Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhị Lang, Tào
Lang, Ngyuệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Cánh Lang,
Ôốc Lang, Lôi Lang, Châu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang,
Trình Lang, Tòng Lang, Tuấn Lang, Thanh Lang.

Thời đại Hùng Vương tồn tại khoảng 2000 năm trước công nguyên tính
tới nay gọi là 4000 năm văn hiến. Chia làm hai thời kỳ:
7
* Thời kỳ bộ lạc khoảng từ thế kỷ 10 trước công nguyên trở về trước, ứng
với văn hóa Đồng Đậu - Phùng Nguyên.
* Thời kỳ dựng nước Văn Lang khoảng từ thế kỷ 10 trước công nguyên
đến giữa thế kỷ 3 trước công nguyên ứng với văn hóa Gò Mun - Đông Sơn.
Nước Văn Lang do 15 bộ lạc hợp thành là: Văn Lang, Giao Chỉ, Việt
Thường, Vũ Ninh, Quân Ninh, Gia Ninh, Ninh Hải, Lục Hải, Thanh Tuyền, Cửu
Đức, Chu Diên, Tân Xương, Bình Văn, Kê Từ, Bắc Đái (theo VSL).
Về Mô hình xã hội:
- Đứng đầu đất nước là vua Hùng thế lập cha truyền con nối.
- Giúp việc bên cạnh vua có các quan Lạc hầu (gọi là Hồn)
- Lạc tướng là chức quan cai quản một bộ (tức bộ lạc cũ).
- Dưới Lạc tướng là chức Bồ chính đứng đầu các làng, bản.
- Dân gọi là Lạc dân - Lạc dân làm kinh tế gia đình nộp tỷ lệ nhỏ sản
phẩm cho Nhà nước. Nghề chính là cấy lúa nước kết hợp với chăn nuôi trâu bò,
lợn gà, đánh cá, săn bắn. Ngoài ra còn có các nghề thủ công như làm gốm, chế
tác đồ đá, đan lát tre nứa, đan lưới, dệt vải, nấu đúc đồng, rèn sắt, đóng thuyền,
sản xuất đồ gỗ, đồ mỹ nghệ v.v... Đã xuất hiện một bộ phận làm nghề buôn bán
đổi chác.
- Có một tỷ lệ nhỏ nô tỳ (gọi là xảo xứng thần bộc nữ lệ) phục vụ gia đình
quí tộc. Ở nước ta không thiết lập chế độ chiếm hữu nô lệ, đại đa số dân trong
nước là dân tự do tức Lạc dân. Quan hệ giữa Vua Hùng và Lạc dân rất gần gũi
"cùng cày ruộng, cùng tắm sông, cùng săn bắn, cùng xem hội" sử cũ gọi là "đời
hồn nhiên" (Lĩnh Nam chích quái thế kỷ 15).
Như vậy, Đền Hùng nằm ở miền trung tâm dân cư đứng đầu vương quốc
Văn Lang vào thời đại Hùng Vương. Và chính những cư dân ở thiên niên kỉ cuối
cùng trước công nguyên, đã từng chọn núi Cả cao nhất vùng để tiến hành những
nghi lễ cổ xưa của mình: thờ trời, thờ đất, thờ lúa… Những dấu ấn văn hóa ban

8
đầu đó đã tạo nên một Đền Hùng lịch sử nhiều giai đoạn khác nhau. Đó là tín
ngưỡng thờ Phật tại ngôi chùa Thiên Quang, thờ thần núi - các vua Hùng là
những người có công với nước tại đền Hạ. Đền trung, đền thượng và thờ hai bà
chúa Tiên Dung- Ngọc Hoa con vua Hùng thứ 18 tại đền giếng. Vì vậy, không
giống với các lễ hội truyền thống của một số quốc gia hay vùng lãnh thổ trên thế
giới, và lại càng khác hẳn với những cuộc hành hương của người Hồi giáo,
người Thiên Chúa Giáo về miền đất Thánh, người Việt Nam cũng có cuộc hành
hương nhưng là hành hương về nơi cội nguồn dân tộc để dâng hương giỗ Tổ
Hùng.
1.2. Kiến trúc Đền Hùng
Nhìn một cách tổng quát khu di tích lịch sử Đền Hùng có 4 đền, 1 chùa và
lăng vua Hùng:
• Cổng đền
Được xây dựng vào năm Khải Định thứ 2 (1917). Cổng xây kiểu vòm
cuốn cao 8,50 m, hai tầng, 8 mái, lợp giả ngói ống. Tầng dưới có một cửa vòm
cuốn, lớn, đầu cột trụ cổng tầng trên có cửa vòm cuốn nhỏ hơn, bốn góc tầng
mái trang trí rồng, đắp nổi hai con nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu
hai võ sĩ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực
trang trí hỗ phù. Giữa tầng một của cổng có đề bức đại tự: “cao sơn cảnh hành”.
(lên núi cao nhìn xa rộng- còn có người dịch khác là: “cao sơn cảnh hạnh” đức
lớn như núi cao). Mặt sau cổng đắp hai con hổ là biểu hiện sức mạnh tầng dưới,
là hiện thân vật canh giữ bảo vệ thần.
• Đền hạ
Tương truyền nơi đây, mẹ Âu Cơ đã sinh ra trăm trứng sau nở thành trăm
người con trai, nguồn gốc cộng đồng người Việt, nghĩa “đồng bào” (cùng bọc)
được bắt nguồn từ đây. Dấu tích giếng “mắt rồng” là nơi mẹ Âu Cơ ấp trứng nay
vẫn còn ở phía sau đền. Đền hạ được xây dựng lại trên nền đất cũ vào thế kỉ
9
XVII-XVIII. Kiến trúc kiểu chữ nhị (=) gồm 2 tòa (tiền bái và hậu cung), mỗi

tòa 3 gian, cách một khoảng lộ thiên 1,5 m.
Kiến trúc đơn sơ kèo cầu suốt, bẩy gối vào đầu kèo làm cho mái sau dài
hơn mái trước. Đốc xây liền tường với đốc hậu cung, hai bên đắp phù điêu 1 bên
voi, 1 bên ngựa. Bờ nóc phẳng, không trang trí mĩ thuật, mái lợp ngói mũi (địa
phương gọi là ngói mũi lợn. Tiền bái: gồm 3 gian, nhỏ thấp, lòng nhà rộng
4,70m dài 8,20m ; mái trước cao 1,70m, mái sau cao 2,40 m. Trên mái kiểu quá
giang đóng trụ, đầu gối vào cột xây, kèo cầu suốt.
Hậu cung: gồm 3 gian, được xây bít đốc, tường hậu, quá giang gối tường,
trên là kèo cầu, cài nóc. Hai bên đầu đốc có đắp hổ phù gắn chữ thọ.
Trong đền đặt 4 cỗ long ngai, 3 cỗ long ngai chính diện có bài vị thờ: ất
Sơn Thánh Vương Vị; Đột Ngột Cao sơn Cổ Việt Hùng Thị Thập Bát Thế
Thánh Vương Vị; Viễn Sơn Thánh Vương Vị.Cỗ long ngài thứ 4 không có bài
vị, trong văn tế thời phong kiến ghi thờ hai bà chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa là con
gái vua hùng thứ 18.
• Nhà bia
Được xây dựng năm 1917, kiến trúc hình lục giác, có 6 mái. Trên đỉnh có
đắp hình nậm rượu, 6 mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi
măng, có 6 cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia trước
đây đặt tâm bia đá, nội dung chi lời căn dặn của chủ tịch Hồ Chí Minh khi người
về thăm Đền Hùng ngày 19 tháng 9 năm 1954:
“Các vua hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
• Chùa Thiên Quang
 Chùa: được xây dựng vào thời Trần (thế kỉ XVII – XIV) có tên là
“viễn sơn cổ tự”. Đến thế kỉ XV, chùa được xây dựng lại đổi tên là
Thiên Quang Thiền Tự”. Đến thời Tự Đức thứ 3 (1850) chùa được xây
10
dựng lại, kiến trúc theo kiểu “nội công ngoại quốc”, gồm các nhà : tiền
đường, thiêu hương, tam bảo ở phía trước; dãy hàng lang, nhà tổ ở
phía sau. Năm 1917, một nhà phương đình (có 2 tầng mái) được xây

dựng phía sau tam bảo, làm nơi hội họp của các nhà chức trách hàng
năm bàn về việc tổ chức giỗ tổ. Năm Khải Định thứ 9 (1924) chùa
được trùng tu lại. Năm 1999 -2000 chùa được đại trùng tu lớn như
ngày nay.
Kiến trúc chùa kiểu chữ công (I) gồm 3 tòa là: tiền đường (5 gian) thiêu
hương (2 gian), tam bảo (3 gian). Tiền đường: gồm năm gian, tường mặt phía
đông và tây xây kín, giữa trổ cửa sổ bằng gạch hình chữ thọ. Tam bảo: ba gian
xây kín không có cửa sau.
 Tháp Sư: trước sân chùa có hai tháp sư hình trụ 4 tầng, trên nóc đắp
hình hoa sen, lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ, trong tháp có bát
nhang và tấm bia đá (0,30m X 0,50m) kể về các vị hòa thượng đã tu
hành và viên tịch tại chùa.
 Tam Quan: được xây dựng vào thế kỉ thứ XVIII, gồm ba gian hai tầng
mái, 4 vì kèo cột kiểu chồng gường kết hợp với bẩy kẻ, các bẩy kẻ hầu
như để trơn không chạm trổ gì. Chỉ riêng chiếc bẩy số 1 ở hiên trước
và sau là trạm nổi hình mây lửa, đao mác và các chùm văn xoắn có
dáng dấp mĩ thuật đời Lê. Các đầu dui dưới mái tàu được đóng đinh
đồng hoa. Cách vì kèo hai đốc khoảng 0,50m, có xây tường gạch kiểu
cách phong đồng trụ vươn ra trước 4 cột trụ hình vuông, trên trang trí
quả găng lồng đèn. Gian giữa tam quan có 4 cột cao vút lên tạo thành
gác chuông, 4 mái cong. Chiều cao từ sàn lên nóc gác chuông là
2,90m, hai đốc lịa gỗ trước và sau để trống, có song tròn cao 0,20m, ở
góc ngoài gác chuông có hình mặt nạ gỗ “ba tay vượn”. Mái lợp ngói
11
mũi lợn, giống đền Hạ và Chùa. Hai đầu đốc đắp nổi hổ phù cắn chữ
thọ.
• Đền Trung ( Hùng Vương Tổ Miếu)
Tương truyền là nơi vua Hùng cùng các Lạc Hầu, Lạc Tướng du ngoạn
ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây Vua Hùng thứ 6 đã
nhường ngôi cho Lang Liêu, người con hiếu thảo sáng tạo ra bánh chưng, bánh

dày tượng trưng cho trời đất. Căn cứ vào các phế tích các tài liệu kiến trúc xây
dựng đã tìm được qua các cuộc khai quật khảo cổ học, cho thấy: vào thời Trần
và có thể trước đó, tại Đền Trung cũng như các khu đền Hạ và đền Thượng, đã
xuất hiện các kiến trúc tín ngưỡng và tôn giáo. Đến thế kỉ XV, Nho giáo phát
triển, các công trình kiến trúc tôn giáo của cư dân địa phương thờ Phật trên núi
Cả (Núi Hùng), được quy tụ xây dựng tại khu vực tương đương với khu đền Hạ,
chính là ngôi chùa Thiên Quang hiện nay. Đền Trung là công kiến trình còn tồn
tại đến ngày nay. Năm 1998 được trùng tu lại.
Đền Trung được xây dựng kiêu chữ nhất. Đền có 3 gian quay về hướng
Nam. Dài 7,20m, rộng 3,70m. Mái hiên cao 1,80m, không có cột, kèo cầu quá
giâng gối vào tường, bít đốc tường hậu, phía trước mở ba cửa. Hai bên hẹp, cửa
rộng có chắn song (13 chiếc) và 4 cánh Ngói lợp giống như ngói ở Đền Hạ và
Chùa trong đợt trùng tu năm 1999. Hai đầu đốc trang trí hai vỉ ruồi.
Đền Trung thờ tự giống như đền Hạ. Ba Gian và đầu đốc, đặt 4 bệ thờ,
trên đặt 4 long ngai, 3 bài vị. Ban chính giữa đồ thờ để thất sự, hai gian hia bên
để ngũ sự, gian đầu đốc để tam sự. Các đồ thờ tự đều được sơn son thiếp bạc
phủ hoàng kim, có niên đại hầu hết vào thời Nguyễn.
Trong đền có 4 bức hoành phi có nội dung:
 Hùng Vương Tổ Miếu : miếu thờ tổ Hùng Vương, (Gian giữa)
 Hùng Vương linh tích: 9 vết tích linh thiêng của Vua Hùng (bên phải)
 Triệu Tổ Nam Bang: Tổ muôn đời của nước nam, (bên trái)
12
Trong đền có 4 cỗ long ngai, 3 Cỗ Long Ngai chính diện có bài vị thờ ghi:
 Ất sơn thánh vương vị
 Đột ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng thị thập bát thế Thánh Vương vị.
 Viễn sơn Thánh Vương vị.
Cỗ Long Ngai thứ 4 không có bài vị, trong văn tế ghi thờ hai bà chúa Tiên
Dung, Ngọc Hoa là con gái Vua Hùng thứ 18.
• Đền Thượng và Lăng Hùng Vương
Nơi đây các vua Hùng lập miếu thờ Trời "Kính thiên lĩnh điện", thờ 3

ngọn núi thiêng là Đột Ngột Cao Sơn (núi Hùng), tháp Sơn (núi Trọc), Viễn Sơn
(núi Vặn), thờ Thần lúa (có mảnh vỏ trấu bằng chiếc thuyền thúng mới mất
trong kháng chiến chống Pháp), thờ Thánh Gióng là tướng Nhà Trời giúp đuổi
giặc Ân.
Giữa thế kỷ 3 trước công nguyên, Thục Phán được Vua Hùng 18 nhường
ngôi, mới lập hai cột đá thề trên đỉnh núi và làm đền thờ 18 vua Hùng. Lại mời
dòng tộc nhà vua đến ở chân núi giao cho việc thờ cúng.
Lăng chính là mộ vua Hùng thứ 6. Tương truyền sau khi đuổi giặc Ân,
ngài cởi áo vắt trên cành kim giao rồi hỏa táng tại đó.
• Đền thượng: “kính thiên Lĩnh Điện” tương truyền rằng thời Hùng
Vương vua hùng thường lên đỉnh núi Nghĩa LĨnh để tiến hành nghi lễ
tín ngưỡng của cư dân Nông Nghiệp thờ trời đất thờ thần lúa cầu mong
mưa thuận gió hòa mùa màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Truyền
thuyết kể rằng Vua Hùng thứ 6
sau cuộc kháng chiến chống giặc
Ân thắng lợi, cảm kích vị anh
hùng đã có công đánh giặc cứu
nước, nên lập miếu thờ Thánh
Gióng trên đỉnh núi. Đền làm
13

×